Đoạn Đường Chiến Binh
TÌNH ĐỒNG ĐỘI *
Sau nghi thức phủ Quốc Kỳ cho một đồng đội tại nhà quàn Peek Family anh em chúng tôi ra ngoài sân để “nhớ nhà châm điếu thuốc” đồng thời nghe anh hội trưởng căn dặn ngày giờ cuốn cờ và tiễn chân đồng đội lần cuối thì có một vị khách đến chào tôi và hỏi nhỏ:
– Xin lỗi, tôi thấy ông mang bảng tên CAP, có phải là Tô Văn Cấp không?
– Vâng…tôi là Tô Văn Cấp.
Vị khách nắm tay tôi lắc lắc kéo ra khỏi đám đông và mừng rỡ nói:
– Ê “Cá Rô Cây”, tao* nè, “Đức Cống” ở Ba-Lắc-Ký nè, mày nhớ không?
Tôi sững sờ nhìn vị khách lạ, nhưng những biệt danh “Cá Rô Cây”, “Đức Cống”, “Ba-Lắc-Ký” thì quá quen thuộc, chỉ có trong đám “quỷ ma học trò” chúng tôi mà thôi. Tôi không bao giờ quên chuyện đau khổ ấy, dù đã hơn 60 năm rồi.
Ngày xưa ấy, tôi là chú bé con “Bắc Kỳ Di Cư 54” duy nhất trong lớp Đệ Thất B1 niên khóa 54-55 trường Pétrus Ký, (chúng tôi gọi là “Ba-Lắc-Ký”), tôi bị đám học trò “giá sống” bắt nạt gọi là “BK ăn cá rô cây”, trong đó có tên Đức, ngỗ nghịch nhất tự nhận mình là “Đức Cống”.
Nhất định là hắn, tôi nắm chặt tay khách lạ và như để trả cái hận xưa nên hỏi:
-Mày là “Đức Cống” thật sao? Lớp mình đã hơn phân nửa tử trận rồi, như Nhẩy Dù Nguyễn Đức Cần, Phạm Thượng Chí, Khánh Châm, Bộ Binh Lê Đình Điển, Ngô Văn Nô, TQLC Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng, BĐQ Nguyễn Thái Quan v.v. tao* nghe nói mày cũng chết cháy theo trực thăng rồi mà. Vậy từ ngày đó đến nay mày lưu lạc phương nào, sao nay lại đến đây để viếng TQLC này?
– Tao* tu ở Hamilton, Ontario, Canada lâu rồi, nay bỗng dưng muốn ngao du một chuyến, qua California được hơn tuần, bữa nay đi ngang đây, như có thần lực nào đẩy tao vào thắp nhang cho người quá cố này, không ngờ lại gặp mày, mừng quá…
(*Xin lỗi quý độc giả, nghe mấy lão già “mày tao” thật chướng tai, nhưng đó là những tiếng xưng hô quá thân tình với nhau để được sống lại thời trẻ, sẽ “tôi” từ đây )
Đức nói tiếp:
– Vô tình đi ngang Peek Family, thấy có đám tang và nhiều anh em TQLC, hình như có một thần lực nào đó đẩy tôi vào xin thắp một nén nhang cho người quá cố để nhớ ơn những anh em TQLC đã cứu mạng khi trực thăng tôi bị bắn rơi năm 10/1972 ở Quảng Trị…
Nghe Đức kể vậy tự nhiên tôi rùng mình. Khi còn sống, Trần, TQLC mà chúng tôi vừa làm lễ phủ cờ, thường hãnh diện nhắc lại về chiến công mà anh ta đã cứu sống một phi công trực thăng bị VC bắn rơi… Trần nói đúng, không chỉ riêng Trần mà nguyên một tiểu đội gồm 6 TQLC làm tiền đồn đã cứu mạng một pilot trực thăng bị VC bắn rơi bên kia bờ sông Thạch Hãn vào tháng 10/72. Ai mà ngờ nổi người được Trần cứu lại chính là Đức Cống. Có thể đây là định mệnh đã đưa đẩy Đức đi ngao du đến Nam CA để gặp và tiễn chân ân nhân Trần lần cuối.
Tình đồng đội ngoài chiến trường giữa Không Quân và TQLC cứu nhau khi sống và khi chết cũng tiễn nhau. Tôi hỏi Đức về vụ rớt trực thăng và được cứu sống như thế nào xem có giống như Trần thường nhắc không, Đức miên man đi vào dĩ vãng. Sau đây là câu chuyện anh kể:
*
– Ngày 7/10/1972, Phi Đoàn 233 Thiên Ưng, Không Đoàn 51 Chiến Thuật, biệt phái 6 chiếc trực thăng cho Sư Đoàn TQLC, đóng tại quận Hương Điền với nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực tác chiến, tiếp tế và tản thương.
Khoảng 9 giờ ngày 7/10/1972, tôi được lịnh TQLC bốc giúp một thiếu phụ sinh con khó khăn ở phía Bắc quận Hương Điền để đưa bà mẹ này về bịnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế. Sau phi vụ nhân đạo đó khoảng nửa giờ, tôi nhận được một phi lịnh đặc biệt đi cứu cấp một hoa tiêu A-37 bị phòng không VC bắn, anh ta đã nhảy dù xuống một giờ rồi.
Tôi đã nhiều lần cứu cấp hoa tiêu lâm nạn phải nhảy dù xuống như vậy, nhưng lần này, tôi cảm thấy rất đặc biệt, tại sao A-37 đi oanh tạc lại không báo cho trực thăng ứng trực ngay trên bầu trời? Tại sao một giờ sau mới gọi cứu cấp? Ai trách nhiệm ra lịnh trễ nải như vậy?
Tôi phải cố hành động sao cho thật nhanh, tôi chụp lấy nón bay, nhảy lên ghế lái, chưa xỏ chân vào gìày, và vẫy tay ra lịnh mở dây cột cánh quạt. Tôi ra hiệu 5 chiếc trực thăng còn lại, (có 2 chiếc võ trang) cất cánh sau tôi. Phi hành đoàn của tôi chưa ai mang giày và áo an toàn. Chúng tôi vừa bay vừa trang bị cho đầy đủ. Tôi cũng đã kiểm soát xem tất cả phi hành đoàn đều có áo an toàn chưa vì rằng hoa tiêu A-37 đã lâm nạn hơn một giờ qua, thời gian đủ dài để VC chuẩn bị những cái bẫy và hỏa lực để hạ những phi hành đoàn đến cứu cấp.
Ngay sau khi cất cánh tại Hương Điền, tôi bấm máy ra lịnh 3 trực thăng vận tải theo sau phải giữ khoảng cách là 3 phút bay. Hai chiếc võ trang bay hai bên cách tôi một phút bay, vì tôi phải áp dụng chiến thuật bay cho phi lịnh cực kỳ nguy hiểm này.
Trên bầu trời Quảng Trị, nắng gắt, gió Đông Nam thổi nhẹ. Quan Sát Cơ L-19 mang tên Pigeon 10 đang trách nhiệm bao vùng theo dõi. Tôi bắt đầu liên lạc với anh ta khi còn bay với cao độ 1000 bộ, với tốc độ 110 knotts.
– Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3, Eagle 3. (Eagle 3 là tên của tôi trong phi lịnh này.
– Eagle 3, Eagle 3, Pigeon 10 tôi nghe anh.
– Pigeon 10, chỉ dẫn mục tiêu.
– 12 giờ trước mặt,
– 12 giờ nhận rõ.
Sau đó, tôi đã quyết định đưa trực thăng nhào xuống bay sát mặt đất, tốc độ 120 knotts và bắt đầu bay chiến thuật vào vùng tử địa.
Cứ mỗi giây phút trôi qua là nguy hiểm đến gần hơn, gần hơn. Mặc dù có hai chiếc võ trang bay sau tôi để yểm trợ, tôi cho lịnh xạ thủ Tuấn và cơ phi Xôm khi tôi nghiêng cánh bên nào bên đó bắn không ngừng để đàn áp hỏa lực VC dưới đất.
Tôi đã liên lạc với Pigeon 10 nhiều lần và cũng nhận cùng một câu trả lời như trên. Hỏa lực VC từ đất bắn lên rát lắm, đạn xuyên thủng trực thăng nhiều nơi. Một viên đạn đã nổ tung phía trước bọc kính, một mảnh nhỏ đã ghim trên chân mày tôi, máu lăn xuống mí mắt làm tôi thấy màu đỏ loang loáng. Tôi biết ngay là vùng nguy hiểm vô cùng đã đến. Tôi bảo hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn:
– Tao đã trúng miểng đạn ở trán. Mầy để tay vào cần lái, bay theo tao.
Văn, không nói lời nào, nhanh chóng đưa tay vào cần lái và nhẹ nhàng bay theo tôi. Đây là cách phòng ngừa khi tôi thình lình “ra đi” trên ghế lái.
Từ Phòng Kiểm Soát Hành Quân, sau khi nghe tiếng tôi, Thiếu Tá Nguyễn văn Thanh, giọng nhẹ nhàng ra lịnh:
– Eagle 3, phải hết sức cẩn thận. Rồi Thiếu Tá lập lại: “Phải hết sức cẩn thận, tôi nói anh hiểu không?”
– Vâng, Eagle 3 tôi hiểu, Thiếu Tá!
Liên lạc với Pigeon 10, thì vẫn chỉ có một câu trả lời “12 giờ trước mặt!” Tôi thấy những viên đạn lửa của VC bay lên trực thăng trong lúc tôi nóng lòng tìm hoa tiêu A-37 lâm nạn, thình lình cơ phi Xôm hét to lên mừng rỡ:
– Cánh dù bên trái! Thiếu Úy!
Tôi nhìn về phía trái, thấy cành dù, sẵn sàng đáp xuống. Tôi dùng phương pháp đáp khẩn cấp từ 120 knotts, bay thấp trên mặt đất cùng lúc vội vàng bấm máy ra lịnh:
– Tất cả ba trực thăng bay ra ngoài vùng. Trực thăng võ trang bắn yểm trợ.
Và tôi quyết định đáp xuống khi cả vùng trời ngập trong lửa đạn đủ loại, pháo và khói bụi mịt mù. Kéo cần lái sát vào người, cùng lúc tôi đưa cần cao độ sát xuống thấp, quẹo trái, áp dụng kỹ thuật đáp khẩn cấp. Đạn của ta và đạn của địch thi tài áp đảo nhau! VC còn giúp thêm cho tử thần bằng mưa pháo vào bãi đáp, quang cảnh chẳng khác nào phi hành đoàn vào địa ngục để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn!
Cơ phi Xôm và xạ thủ Tuấn gan dạ và nhanh nhẹn nhảy xuống đất, phóng nhanh về phía hoa tiêu lâm nạn và kẹp hai tay xốc anh này chạy vội vàng về trực thăng. Tôi nhận ra đó là Thiếu Úy Nguyễn Hàn.
Khi cả ba đã bước lên trực thăng, tôi vội vã kéo cần lái, cần cao độ cất cánh trong bụi cát mịt mù dưới cơn bão pháo và súng lớn nhỏ các loại của VC. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, phi vụ cứu cấp thành công! Tôi vội bay hướng Đông Nam về Huế, Phú Bài!
Mọi việc được hoàn tất mau chóng và chuyên nghiệp trong khi Việt Cộng liên tục pháo liên tiếp vào bãi đáp.
Khi đạt tới cao độ vào khoảng 200 bộ, hỏa tiễn hay 12 ly 7 đã bắn gãy cánh quạt đuôi, trực thăng giựt mạnh quẹo sang trái. Tôi phải tắt máy và áp dụng thể thức đáp khẩn cấp. Bây giờ là đáp khẩn cấp thật sự đây! Năm người trên trực thăng, kể cả Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn, phải tìm cách mưu sinh thoát hiểm, bởi vì trong không gian cát bụi mịt mù và mưa pháo của VC, tôi đâu muốn để cho anh em trực thăng khác ở bên ngoài vào cấp cứu.
Ngay khi trực thăng đáp xuống đất, tình thế rất khẩn cấp, tôi gọi xạ thủ Tuấn mở cửa cho hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, và mọi người nhớ theo tôi, vì tôi giữ máy liên lạc.
Nhưng trong cơn mưa pháo của VC, cơ phi Xôm, xạ thủ Tuấn, hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn và hoa tiêu A-37, Thiếu Úy Nguyễn Hàn, tất cả đã rời khỏi trực thăng qua cánh trái, khi tôi lấy dụng cụ và máy liên lạc cứu cấp xong, tôi nhảy xuống đất bên phải của trực thăng. Chỉ vài phút sau là chúng tôi mất liên lạc với nhau, không cách nào trông thấy nhau trong cơn bão pháo và bụi mịt mù! Địa ngục đây rồi?
Dưới bầu trời nắng gay gắt, VC vẫn liên tục mưa pháo vào trực thăng của tôi. Bụi mù và mưa pháo vùng tử địa, không ai nhìn thấy ai nữa! Tôi nhiều lần khẩn khoản 3 hoa tiêu trực thăng đừng vào vì rất nguy hiểm. Tôi biết 3 chiếc trực thăng còn lại nóng lòng muốn cứu chúng tôi, cũng bay vào, rồi thì bị đạn, rồi thì cũng không tài nào thấy được nơi chúng tôi đang nấp nên trong khoảnh khắc giành giựt với tử thần đó, anh em cũng đành phải rời vùng.
Lại có thêm 2 trực thăng Cobra và 1 chiếc trực thăng CH53 chuyên môn cứu cấp của Hoa Kỳ cũng bay đến cấp cứu! Tôi cũng đã dùng máy liên lạc và kêu gọi rời vùng ngay vì súng phòng không VC đầy dẫy chung quanh bãi đáp, đừng bay vào rọ.
Chiếc trực thăng của xấu số của tôi, danh số ở đuôi là 827 màu trắng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ đã từng hiên ngang ngạo nghễ sau những tháng năm dài phục vụ con người, giờ đây, nhằm giờ hóa kiếp, nó đã bị thương mất đuôi rồi bao nhiêu đạn pháo, nó bốc cháy ngùn ngụt.
Tôi chạy khỏi phi cơ độ hơn 100 thước, lại bị thương vào đùi, tôi đã ngã xuống một hố bom cũ phủ đầy có dại, tôi bất tỉnh, mê đi!
Tiếng đạn pháo liên tục gầm vang, gió cuốn bụi cát xát mạnh vào mặt làm tôi choàng tỉnh và mở mắt ra! Bầu trời mà xám xịt, mây đen thấp xuống, bao phủ cả vòm trời! Màn đêm xuống mau lẹ với cơn mưa to, nhiều sấm sét. Đến nửa đêm khi đạn pháo bớt, tôi nghe tiếng người lục soát, tìm kiếm chúng tôi. Tôi cố giữ hoàn toàn yên lặng, tôi nghĩ rằng họ là VC.
Nằm núp dưới đất bùn dơ bẩn, trong cơn mưa sấm sét, tôi cảm thấy lạnh vô cùng, khi tiếng bọn VC đã đi xa, tôi phải lách mình, bò đi một cách êm thắm, trầm mình xuống lạch nước mưa mà trườn tới! Bấy giờ tôi liên tưởng đến những người khác, đầu óc tôi lẩn quẩn nghĩ miên man tới phi hành đoàn của tôi và hoa tiêu A-37 Nguyễn Hàn. Hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, nhà ở Quảng Tín, mới ở Mỹ về, tôi bay với Văn và đã đề nghị cho Văn là hoa tiêu phụ đi hành quân với tôi. Văn khoe còn giữ 300 Mỹ Kim và cất ở túi bay dưới chưn nhằm để dành cưới vợ. Còn Xôm và Tuấn rồi Hàn bây giờ ra sao rồi? Cả bốn người có bị VC gian ác bắt không?
Tuấn và Hàn là người gốc Huế, mà Huế và Quảng Trị đâu xa gì! Chắc là cả bốn người biết luồn lách mà tránh được VC để về đến Huế. Tôi bị mặc cảm dằn vặt mãi, bởi vì tôi, vì tôi quyết tâm bay vào lửa đạn để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn, nếu lúc Thiếu Tá Thanh nhắc chừng mà tôi đã nhận thấy quá nguy hiểm mà bay trở lại thì đã an toàn cho tất cả phi hành đoàn. Nhưng rồi Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn thì sao?
Dù sao, tôi vẫn cứ tự an ủi nếu ai cũng thiếu gan dạ, không chấp nhận hiểm nguy thì tình chiến hữu đồng đội có ra chi. Bị thương, ừ thì bị thương, chết ừ thì chết, bổn phận không thể không hoàn tất. Mạng sống con người quý giá lắm. Nhưng cái quý giá đó không so sánh được nếu vì lý tưởng, bổn phận phải hy sinh. Tôi đã từng bảo hoa tiêu Lê Công Quởn, đã hy sinh tại căn cứ Hoàng Đế phía Tây của Huế, rằng:
– “Là người làm tròn nhiệm vụ, hy sinh cho người khác, khi chết sẽ được vinh hạnh thành Thánh, nếu không cũng được thành Thần”.
Tôi đã cầu nguyện luôn luôn cho bốn người này. Tôi cũng cầu nguyện Đức Chí Tôn: “Xin che chở cho tôi nếu Ngài nghĩ rằng tôi còn hữu ích cho đổng đội, cho đời. Nhược bằng trái lại, xin cho tôi nhận một quả pháo trọn vẹn từ quân VC vô thần, gian ác! Tôi xin đoàn tụ cùng những bậc tiền nhân, ông cha anh hùng của tôi.”
Tôi nghĩ đến vinh dự cao cả của bao nhiêu người lính gan dạ đã đem thân bảo vệ sự độc lập, hòa bình của tổ quốc mình thì đâu sá gì có bị thương hay bị hy sinh bởi súng đạn quân VC xâm lăng. Mải mê suy nghĩ đến bổn phận, mơ màng trong trách nhiệm thế rồi tôi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay!
Tiếng chân người rầm rập trên mặt đất mỗi lúc một gần hơn, gần hơn, thế rồi một nhóm VC hung ác đứng sững trước chỗ tôi trốn. Tôi đã vùi thân mình dưới tầng bùn đen. Tôi chẳng còn gì trên tay, chiếc nón bay, áo chống đạn đã để lại trên trực thăng đã cháy rụi rồi. Trống ngực đập thình thịch, tôi sợ hãi vô cùng, rồi chúng bỏ đi và nhờ đó, trên đường mưu sinh thoát hiểm về lại căn cứ tôi đã hết sức đề phòng từng ly, từng tí mọi bất trắc!
Mò ra khỏi vũng bùn, chiếc áo bay của tôi quá nhiều túi, bây giờ chứa đầy bùn trở thành một gánh nặng nên tôi đã cởi bỏ, tôi chỉ còn mặc một chiếc quần lót mà thôi. Để ngụy trang, tôi đã dùng bùn trét đầy lên khắp người, và hết sức cẩn thận trườn đi bằng ngực, hoặc bằng lưng của tôi, bởi vì làm sao tôi có thể đi được khi mà khớp nối của đầu xương đùi bị thương quá nặng.
Tôi trườn được một đỗi vừa để ý ép tai mình xuống mặt đất để nghe có tiếng chân ai đó hay không. Tai tôi cũng mở rộng, hết sức chăm chú. Lúc này trời cũng sắp tối đến rồi. Theo hướng gió từ xa đưa lại, tôi nghe tiếng nói eo éo của đám VC. Tôi vội vàng lẩn trốn ngay. Tôi thấy đói cồn cào và khát nước! Đạn pháo hôm nay ít hơn hôm qua.
Rồi thì mưa đổ xuống như thác, tôi nhờ vào đó mà di chuyển an toàn hơn. Tôi dùng hai bàn tay nắm cỏ cao kéo tới, chân trái phụ vào bằng cách đạp vào mặt đất cho toàn thân di chuyển về phía trước được hai hay ba chục phân tây. Thật may mắn làm sao! Mưa càng to thì tôi càng di chuyển được dễ dàng và an toàn hơn, bởi lũ VC lười biếng đi kiểm soát trong cơn mưa.
Tôi đã kiệt sức rồi, dù vậy tôi vẫn phải cố hết sức bò đến một hố nước, trầm mình dưới vũng nước để được ấm hơn trên mặt đất gió thổi. Hai bàn tay khuấy nước cho sạch bớt bùn đất, rồi hai tay chụm lại hứng từng giọt nước mưa để thấm giọng cho đỡ cơn khát! Tôi tiếp tục làm như vậy cho đến khi tôi thấy bớt khát nước.
Tôi tự bảo rằng dừng lại việc di chuyển về hướng Nam là tự sát, mỗi tấc tôi trườn tới có nghĩa là tôi về gần chỗ an toàn hơn, bởi vậy, tôi phải cố gắng di chuyển, tai lắng nghe xem có sự động tĩnh gì của lũ VC hay không. May mắn quá tôi không thấy cái gì cả, nhưng những dây điện thoại của VC liên lạc thì giăng đầy như lưới nhện trong vùng tử địa chiến tranh tàn khốc này.
Ngày thứ ba trên bãi chiến trường, tôi thức giấc khi tiếng phi cơ phản lực vọng lại từ xa xôi lắm. Tôi hy vọng chúng đến gần tôi hơn, để tôi có thể đánh hiệu lên cho chúng biết rằng tôi vẫn còn sống!
Tôi nhớ Thiếu Úy Hồng, cùng Phi Đoàn 233 của tôi, đã dùng chính hộp nước ngọt để gửi dấu hiệu cho trực thăng tìm kiếm của Đại Úy Nguyễn Văn Banh. Đại Úy Banh nhận được tín hiệu tức khắc anh tắt máy cho được an toàn và đáp xuống một khoảng trống cạnh một con rạch nhỏ của dãy núi cao. Đại Úy Banh đã cứu được Thiếu Úy Hồng một cách ngoạn mục! Tôi cũng đã thết đãi Thiếu Úy Hồng một chầu mừng thoát chết. Tôi cũng đã học hỏi cách nào Thiếu Úy Hồng mưu sinh thoát hiểm để có ngày nào đó đến lượt tôi, và lúc này tôi đã có chút kinh nghiệm. Tôi đã quan sát cẩn thận chung quanh cho an toàn rồi tiếp tục mò về hướng Nam. Lúc đó một chiếc Quan Sát OV-10 trên bầu trời bỗng bay thẳng vút lên trời xanh tránh hỏa tiển SA7 của VC, để lại một vệt khói trắng màu tang. Tôi hú hồn cho chàng hoa tiêu trên chiếc OV-10 đó!
Trong giây lát, tôi bỗng miên man nhớ lại hình ảnh của Đại Tá Khánh, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 Không Quân, Trung Tá Phước, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật, còn gọi là Phước răng vàng. Tôi nhớ Thiếu Tá Bùi Quang Chính, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 233. Ông này làm anh cả thì tốt hơn là Phi Đoàn Trưởng. Ông đã chăm sóc mọi thứ cho thuộc hạ dưới quyền, từ sĩ quan cho đến binh sĩ! Gia đình ra sao, anh chị em thế nào. Ông biết rõ từng người trong gia đình của Phi Đoàn. Tôi nợ ông nhiều lắm. Tôi phải trả cho ông và vợ ông, bà giáo Diệp, bà đối xử với tôi như là chị ruột. Cơn đói và rét kéo tôi vào giấc ngủ nữa rồi.
Cơn mưa chiều nhiều sấm sét cùng tiếng nổ đạn pháo của hai bên Quốc Gia và Cộng Sản làm cho bầu không khí trở nên ồn ào ghê rợn khiến tôi tỉnh giấc, tôi không thể nào nghe rõ sự vật quanh tôi! Tôi sắp bước qua đêm thứ ba không quần, không áo! Chính bùn, đất và bèo cỏ đã thay cho quần áo và là phương tiện ngụy trang rất hữu hiệu cho tôi. Tôi thầm nhủ rằng lợi dụng đêm tối, mưa giông để mò đi sẽ làm ngắn lại con đường an toàn về căn cứ. Mưa to quá, mưa xối xả như trút nước, sấm chớp vang trời như thiên lôi rượt đuổi, diệt trừ quỷ ma đang hành hạ con người! Tôi nhờ mưa đêm che chở tránh được sự dò tìm của bộ đội độc ác VC.
Tôi vừa trườn qua một chiếc đầu lâu và bộ xương người trắng hếu. Bàn tay tôi nhẹ nhàng vuốt cái xương sọ cùng lúc van vái rằng:
– “Tôi biết tại sao người bị giết, hãy giúp che chở tôi đến nơi bình an tôi sẽ cúng..”
Một lúc sau tôi thấy một con mèo trắng, đi quanh quẩn bên tôi và rồi đi về hướng Nam. Tôi tự hỏi tại sao có con mèo hoang ở vùng lửa đạn này? Tôi không sợ ma mà muốn` sống nên cố trườn theo con mèo, nhanh và nhanh hơn nữa, vì vết thương đã có mùi thối như xác chết! Đây là bãi chiến trường, vùng oanh kích tự do, chẳng có hàng tre hay bờ tường nào cao hơn 3 tấc! Tất cả là điêu tàn, là sắt máu hận thù!
Ngày thứ tư trên bãi chiến bắt đầu bằng đạn pháo ầm ĩ, súng nổ bốn bề, nhằm giết đi hết mọi sinh vật của Thượng Đế trên đời! Nghĩ cho cùng, nếu Hà Nội không ngu xuẩn nghe lời xúi dại của Liên Xô và Trung Cộng, xua quân xâm lấn miền Nam, thì làm gì có cảnh gió tanh mưa máu hôm nay. Cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Ngàn đời nguyền rủa sự ngu xuẩn tham lam của lũ Cộng Sản bạo tàn!
Có lẽ là hai hay ba giờ chiều. Đây là ngày thứ tư tôi nằm trên vùng tử địa. Mây đen kéo tới, bầu trời đen kịt. Gió thổi càng lúc càng mạnh, gió mạnh làm ngả rạp đám cỏ cao quá đầu gối. Tôi vẫn luôn cảnh giác nghe ngóng về giọng nói của người và những động tĩnh bất thường trên đường thoát hiểm hướng về Nam.
Tôi đã không có một chút gì ăn trong ba ngày qua, tôi thấy đói và đói. Tôi thấy mình dần dần yếu đi, đến nỗi tôi muốn dừng lại một chỗ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, dừng lại chẳng khác nào tự tử. Đâu ai biết tôi nơi nào mà cứu cấp! Do vậy mà tôi phải cố gắng trườn đi từng tấc, từng tấc đất để về Nam. Nhờ vận chuyển tôi thấy có thêm sức mạnh và ấm người hơn.
Bèo cám trên mặt nước dân miền Nam dùng để cho heo ăn, nhưng rồi không có cái gì bỏ vào miệng cho bao tử làm việc sinh ra nhiệt, nên tôi buộc lòng nhặt một ít bỏ vào miệng nhai, nhai và nuốt trọng vào, tôi cảm thấy có cát đất đi vào bao tử với nhúm bèo cám. Tôi nghĩ bao tử tôi reo vui khi làm vai trò sinh nhiệt cho thân tôi.
Trời lại sắp mưa, gió giật, gió quyện vào nhau cuốn từng cộng rác to nhỏ xoáy tròn bay cao lên khoảng trời đen sẫm. Tôi trườn qua một mái tranh sụp xuống gần ngang mặt đất. Tôi nghe ai đó nói chuyện bên trong. Tôi chắc chắn chúng là lũ ác ôn VC đây rồi! Tôi lặng yên trườn đi nhanh xa chỗ đó. Tôi lại may mắn vô cùng bởi trời đã đổ cơn mưa, VC chúng núp trong mái tranh nên đã không phát giác ra tôi! Thật quá căng thẳng đến nỗi tôi nghe được cả nhịp tim tôi đập liên hồi trong lồng ngực.
Tôi lại may gặp con rạch nhỏ, tôi trườn mình đi nhẹ nhàng đến nỗi không một gợn sóng lan ra trên mặt nước. Tôi tạm nghỉ ngơi, hít thở những hơi dài, coi như rất sảng khoái. Tôi đã cách xa chòi lá giết người lúc nãy rồi.
Hai bàn tay tôi chừng như rã rời, những chỗ bị thương máu đã khô đặc lại, khi gặp nước làm tôi cảm giác xót buốt vô cùng! Thực ra tôi không còn sức di chuyển nữa rồi. Lúc bấy giờ tôi đang bên bờ sông Thạch Hãn. Tôi cẩn thận mò xuống dòng sông ngước nhìn tìm ra chỗ trú an toàn. Tôi biết tôi có thể ngủ ngay tức khắc! Do vậy tôi phải tìm cách nào kín đáo nhứt để ẩn thân đi vào giấc ngủ vùi hẹn hò nhiều mộng mị!
Tiếng pháo nổ gần làm tình ngủ, tôi thấy mình đang còn nằm vắt trên hai rễ cây, chìm dưới làn nước của bờ sông Thạch Hãn. Lúc đó mặt trời lên giữa đỉnh đầu, nắng gay gắt, không thấy có chút gió nào. Toàn khoảng không gian như bị tan tác, xé ra từng mảnh bởi những phi cơ phản lực oanh tạc thay nhau thả bom liên hồi xuống rặng núi phía Tây là dãy Trường Sơn.
Tôi bước vào ngày thứ năm trên bãi chiến chết người. Tôi luôn luôn nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Trời đất cho tôi nhiều ân huệ, ngày nắng gắt cung cấp cho tôi nhiều năng lực ấm áp để rồi đêm đến trong cơn mưa lạnh tôi có đủ sức trườn đi, mò về miền an toàn nhanh hơn
Tôi trông thấy nhiều thùng đạn pháo in chữ Tàu Cộng trên bờ Bắc sông Thạch Hãn đựng trong những bao plastic nói lên một thực tế là quân VC đang kiểm soát, hay đang di chuyển trên phần đất phía Bắc dòng sông định mạng Thạch Hãn! Biết vậy tôi tự bảo tôi phải nhanh chóng lánh khỏi nơi tử địa này càng sớm càng tốt.
Lợi dụng trời tối, tôi nhẹ nhàng hết sức, cố bơi sang bờ Nam của dòng sông mà không để lại bất cứ một lượn sóng nào, bởi tôi biết rất rõ là do làn sóng lan ra đó, VC sẽ phát giác ra tôi và rồi tôi sẽ lãnh ngay một tràng AK kết liễu đời mình.
Khối nước to lớn và đám bèo trên mặt nước của dòng sông làm rớt đi những mảng đất sét ngụy trang trên cái thân ốm đói của tôi. Vết thương trên đùi phải cũng bớt đau dai dẳng mấy ngày qua. Rồi cũng đến lúc tôi mò tới được bờ Nam rồi!
Tôi tìm xem nơi nào có lỗ trống để tôi lết thân lên bờ. Tôi dùng hai tay bám vào mặt đất mà trườn lên bờ Nam rồi chui vào trong đám cỏ. Tôi trườn đi giữa những đám cỏ cao ngang ngực, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt trời còn khuất sau dãy Trường Sơn, ánh sáng cuối ngày còn vất vưởng trên cánh đồng mênh mông đầy mùi tử khí.
Mưa đêm qua lớn quá nên qua một ngày nắng gắt rồi mà vẫn còn nước đọng lại trên đường đi giúp tôi trườn tới dễ dàng như đang bơi lội trên đám cỏ sũng nước. Cứ lập đi lập lại mãi động tác hai tay giang ra phía trước nắm cỏ kéo lê thân đi, chưn trái đạp vào đất! Cố gắng và tiếp tục cố gắng nữa. Muốn sống phải vươn lên!
Chắc cũng được vài trăm thước rồi thì phải, tôi cảm thấy đuối sức, hết hơi trườn tới nữa rồi! Bãi cỏ voi cao quá, cao quá không ai có thể nhìn thấy tôi nằm trên láng cỏ ướt đó. Tôi thấy khát nước vô cùng, muốn uống bất cứ nước gì để thỏa mãn cơn khát.
Bất ngờ, may mắn làm sao, tôi thấy loáng thoáng vài anh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa khum khum chạy qua gần bên tôi. Tôi đã vận dụng hết sức mạnh còn lại để gọi:
– Thủy Quân … Lục Chiến…
Tiếng tôi đứt khoảng vì không đủ hơi. Sau khi nói lên chữ “Lục Chiến”, tôi hoàn toàn hết hơi. Tôi đã hiểu tôi có cuộc gặp gỡ ly kỳ này là trời cho.
– Đứng lên! Đứng lên!
Một anh lính TQLC chĩa súng chăm chăm vào tôi và hét to lên.
Tôi nghe được cái lịnh “đứng lên” của anh ta mà tức giận:
– ĐM! …hoa tiêu … trực thăng … gẫy chân…
Sau câu nói hết sức lực đó, tôi như đi vào hôn mê.
Bầu trời sụp tối, gió chiều đã thổi mơn man qua mặt tôi như bàn tay bà mẹ hiền vuốt má đứa con thân yêu. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng, trút mọi lo âu cho quá khứ. Khi tỉnh lại, tôi thấy một anh TQLC nằm sát bên cạnh, nói thì thầm vào tai tôi:
– Thiếu Úy, Thiếu Úy, bám vào lưng tôi để tôi đưa Thiếu Úy vào vùng an toàn!
Chưa bao giờ tôi được nghe hai tiếng “thiếu úy” yêu thương như lúc này, trong khi trên người tôi chỉ còn cái quần đùi! Hai tiếng “thiều úy” tức anh em TQLC đã nhận ra tôi là đồng đội, là phi công lái trực thăng. Trước sự sống, toàn thân tôi như liệt đi, tôi nói nhỏ:
– Lấy dây lưng TAB nối vào nhau, cột hai tay tôi và kéo, tôi không bám nổi.
Anh TQLC bò vào chỗ trú quân của anh. Mặt trời lặn hẳn rồi, nhưng đứng gần cũng còn nhìn rõ mặt nhau. Gió Đông Nam nhẹ nhàng đưa hơi nước mát lòng, mát dạ đến vùng chiến địa cài răng lược, quân ta và quân VC đóng xen kẽ nhau.
Quả là phước đức vô cùng, đêm nay trời không mưa. Thật mầu nhiệm của Ơn Trên ban thưởng cho tôi. Tôi yên lặng thể không nói lời nào nữa, nhưng trong thâm tâm tôi vui mừng khôn xiết, tôi biết rằng tôi đã được cứu, tôi được sống từ giờ này.
Vài phút sau, hai anh lính TQLC lại bò đến bên tôi, một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ, rồi cả ba trườn vào nơi ẩn núp, nơi tuyến đầu xen kẻ cài răng lược giữa quân ta với địch. Nơi đây tôi gặp Thiếu Úy Thanh, một khóa sinh cùng tiểu đội với tôi khi cả hai cùng được huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Cả hai ôm nhau, nước mắt ràn rụa, nhắc lại thời khóa sinh cùng nhau trình diện bị phạt dã chiến 4 đêm, làm chúng tôi luyến tiếc thời khóa sinh. Thanh trao cho tôi một điếu Rubi quân tiếp vụ. Điếu thuốc thấm nước phân nửa, ngả màu vàng, cong vòng, nhưng khi hít một hơi thông suốt thì thấy lòng sảng khoái nhẹ nhàng.
Bấy giờ chắc khoảng 9 hay 10 giờ đêm, khác với những đêm mưa tầm tã vừa qua, đêm nay mưa chỉ lấm tấm đủ làm ướt áo khách qua đường. Tôi được chuyển sang vùng an toàn hơn. Rời chỗ Thiếu Úy Thanh chia tay lưu luyến, tôi bắt tay cám ơn từng anh em và Thanh. Tôi dặn dò các anh nên hết sức cẩn thận, vì sau mỗi lùm cỏ cao có VC núp.
Tôi được đưa đến bộ Chỉ Huy Đại Đội, bởi tuyến đầu của Thanh, hai bên cọ sát đối đầu nhau trong gang tấc. Tôi được một anh lính TQLC cõng, ba anh khác đi theo phụ giúp, hai anh hai bên, và anh thứ ba phía sau. Con đường chuyển tôi đi qua nhiều dốc đất sét, đất sét gặp nước mưa làm con đường càng trơn trợt nguy hiểm, dễ dàng té ngã.
Chúng tôi tới Bộ Chỉ Huy Đại Đội, nơi đây có bao cát chung quanh. Tôi hoàn toàn kiệt sức, bởi vì tôi phải dùng hết sức mình ôm chặt anh TQLC khòm lưng cõng tôi. Do vậy, với ân tình huynh đệ chi binh xứng đáng ngàn vàng đó tôi đã lấy hết sức tàn để siết tay và nói lời cám ơn 4 anh TQLC vừa gan dạ vừa tình nguyện hy sinh cõng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần. Tôi nhờ TQLC gọi máy liên lạc về Huế, và Đà Nẵng cho họ biết là tôi đã được cứu về đến nơi an toàn. Lúc đó, một anh TQLC đến bên tôi hỏi:
– Thiếu Úy đói lắm hả, uống sữa nhé, chúng tôi cũng có mì Quân Tiếp Vụ.
– Không, cám ơn anh quá đi, tôi chỉ buồn ngủ thôi.
Tôi đáp nhanh và rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay.
Đến sáng, khoảng 7 hay 8 giờ, một chiếc xe thiết gíáp M113 đến trước Ban Chỉ Huy Đại Đội để chở tôi đi. Tôi vui mừng khôn xiết, nhắm mắt lại mơ màng. Trước khi chiếc M113 di chuyển, anh Đại Đội Phó bắt tay tôi siết mạnh và chúc mau lành để trở lại chiến trường với anh em. Anh cười, và cho biết thêm rằng lúc hơn 2 giờ khuya, một phi hành đoàn của Trung Úy Lưu, Phi Đoàn 233 có liên lạc để bốc tôi về bịnh viện, nhưng anh từ chối vì an ninh cho cả Đại Đội ban đêm. Đạn và súng cối VC sẵn sàng tấn công vào Đại Đội khi trực thăng đáp xuống rước tôi. Anh đã khước từ nhiều lần mặc dù Trung Úy Lưu khẩn khoản và nói rằng Trung Úy Lưu sẽ tắt hết đèn và tắt máy để đáp xuống bất ngờ. Tôi nghe chuyện mà thương cho người đứng đầu chiến tuyến, thương và cảm phục tình chiến hữu trong quân đội, thương Trung Úy Lưu.
Hơn nửa giờ sau thì chiếc M113 dừng lại, tôi được khiêng ra khỏi xe, tôi cám ơn các anh kỵ mã can trường. Xe đã lui mà tôi còn nghe lời chúc mau bình phục của họ! Tôi nhìn quanh quan sát, đây là trạm cứu thương giữa chiến trường, Bác Sĩ Quân Y TQLC nhìn tôi e ngại, thương tình. Lúc đó, trên người tôi chỉ có một chiếc quần lót lẫn sình đất. Xót xa quá, nên bác sĩ lấy bộ đồ rằn ri TQLC có đính huy hiệu Quân Y, và bảo mấy anh y tá mặc vào cho tôi.
Thú thật, trong bộ đồ của binh chủng anh hùng đó, trông tôi mạnh mẽ hơn lên. Tôi cám ơn nhiều lần, và ghi nhận bác sĩ và binh sĩ TQLC can trường còn trẻ quá.
Mặc xong bộ quân phục TQLC, một xe tải thương đã sẵn sàng để chuyển tôi về nơi an toàn hơn nữa để trực thăng đến bốc về bịnh viện. Xe chạy trên đường đất đỏ có một hàng cây bên trái. Gió buổi sáng len vào thùng xe làm tôi cảm thấy dễ chịu. Có lẽ sau đêm ngủ ngon lành nhiều mơ mộng vui tươi, tôi như có thêm nhiều sức lực. Sức lực có thêm là nhờ tình người, tình đồng đội, tình chiến hữu trong đấu tranh sinh tử có nhau!
Xe cứu thương dừng lại chỗ có tên Ngã Tư Quốc Tế, Lữ Đoàn 147TQLC. Tôi được khiêng xuống, và xe trở lại trạm Y Tế Tiền Phương, nơi có bác sĩ cứu tôi mà tôi trong lúc xúc động vui mừng đã không hỏi han danh tánh.
Nằm trên băng ca nơi yên ổn, có người chăm sóc thân mến, lòng tôi rộn ràng nghĩ đến anh em ở Phi Đoàn 233 chắc đang chờ gặp tôi! Mắt tôi lơ đãng nhìn bầu trời xanh, mây trắng mà thầm cám ơn Thượng Đế, các đấng Thần Linh đã che chở cho tôi. Cám ơn những đêm mưa đầy sấm sét. Cám ơn người chết nằm giữa đường, xương sọ, xương người trắng hếu. Cám ơn Quân Đội đã sản sanh ra những người chiến hữu sống chết có nhau.
Tôi về nơi yên lành mà sau lưng còn bao nhiêu lính trận phải mở mắt to lên, ngày đêm cho dù buồn ngủ đến cay xé! Làm sao đủ từ ngữ để nói lên tinh thần hy sinh cao cả của những người lính trên tuyến đầu lửa đạn.
Bây giờ, ngồi ghi lại những dòng chữ nầy, lòng tôi vẫn còn bồi hồi, cảm động. Tôi thắc mắc tại sao ngày đó người lính miền Nam gan dạ đến như vậy? Lý tưởng bảo quốc, an dân? Lao vào mục tiêu, biết mình sẽ hy sinh, nhưng vẫn có biết bao nhiêu người trẻ tình nguyện! Riêng chuyện của chính tôi, tinh thần nào làm động cơ để 4 người lính TQLC không ngại bị ngã gục khi cõng tôi ra ngoài vùng binh lửa, cài răng lược.
Tôi đã trườn đi năm đêm rồi, quãng đường dài chắc hơn 5 cây số, dẫy đầy mìn bẫy và dây điện thoại của Cộng Sản! Tôi mang ơn những người lính Mũ Xanh nầy biết bao nhiêu! Ôi tình người, tình chiến hữu.
Một phi vụ cứu cấp không thành. Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn gan lỳ của chúng ta đã hy sinh sau hai ngày lần mò về miền an toàn! Phi công phụ Trịnh Hữu Văn bị VC bắt sau 4 ngày thoát hiểm, sau này Văn được thả ra từ nhà tù miền Bắc, hiện nay, Văn cư trú tại Houston. Xạ thủ Tuấn, người trai xứ Huế không biết bây giờ ra sao?
Còn cơ phi Võ Văn Xôm? Lúc tôi còn nằm trị thương tại Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt, thì chiếc quan tài của cơ phi Xôm được chuyển đến và hôm sau, trực thăng đưa về quê của Xôm ở Cai Lậy! Xôm tìm về gần đến vị trí của TQLC thì bị lộ và VC đã giết, tiểu đội Trinh Sát TQLC đã tìm được xác Xôm với tấm thẻ bài!
Ngày 7/10/1972 tôi bị bắn rơi, 5 ngày sau, ngày 12/10/1972 được anh em TQLCVN cứu về, tôi được đưa vào bịnh viện của Không Đoàn 366 của Không Quân Hoa Kỳ Đà Nẵng, được trị thương săn sóc tốt lành như chính những người lính Mỹ.
Tất cả họ là đồng đội của tôi, tôi nợ mạng sống với các anh, làm sao tôi trả nổi? Và phép lạ nào kéo tôi từ Canada đến đây, Little Saigòn này, đúng lúc đến nhà quàn để tiễn biệt một ân nhân. Tôi không bao giờ quên những người anh em Mũ Xanh Anh Hùng!
Philato
Lam chuyen
Bàn ra tán vào (0)
TÌNH ĐỒNG ĐỘI *
Sau nghi thức phủ Quốc Kỳ cho một đồng đội tại nhà quàn Peek Family anh em chúng tôi ra ngoài sân để “nhớ nhà châm điếu thuốc” đồng thời nghe anh hội trưởng căn dặn ngày giờ cuốn cờ và tiễn chân đồng đội lần cuối thì có một vị khách đến chào tôi và hỏi nhỏ:
– Xin lỗi, tôi thấy ông mang bảng tên CAP, có phải là Tô Văn Cấp không?
– Vâng…tôi là Tô Văn Cấp.
Vị khách nắm tay tôi lắc lắc kéo ra khỏi đám đông và mừng rỡ nói:
– Ê “Cá Rô Cây”, tao* nè, “Đức Cống” ở Ba-Lắc-Ký nè, mày nhớ không?
Tôi sững sờ nhìn vị khách lạ, nhưng những biệt danh “Cá Rô Cây”, “Đức Cống”, “Ba-Lắc-Ký” thì quá quen thuộc, chỉ có trong đám “quỷ ma học trò” chúng tôi mà thôi. Tôi không bao giờ quên chuyện đau khổ ấy, dù đã hơn 60 năm rồi.
Ngày xưa ấy, tôi là chú bé con “Bắc Kỳ Di Cư 54” duy nhất trong lớp Đệ Thất B1 niên khóa 54-55 trường Pétrus Ký, (chúng tôi gọi là “Ba-Lắc-Ký”), tôi bị đám học trò “giá sống” bắt nạt gọi là “BK ăn cá rô cây”, trong đó có tên Đức, ngỗ nghịch nhất tự nhận mình là “Đức Cống”.
Nhất định là hắn, tôi nắm chặt tay khách lạ và như để trả cái hận xưa nên hỏi:
-Mày là “Đức Cống” thật sao? Lớp mình đã hơn phân nửa tử trận rồi, như Nhẩy Dù Nguyễn Đức Cần, Phạm Thượng Chí, Khánh Châm, Bộ Binh Lê Đình Điển, Ngô Văn Nô, TQLC Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng, BĐQ Nguyễn Thái Quan v.v. tao* nghe nói mày cũng chết cháy theo trực thăng rồi mà. Vậy từ ngày đó đến nay mày lưu lạc phương nào, sao nay lại đến đây để viếng TQLC này?
– Tao* tu ở Hamilton, Ontario, Canada lâu rồi, nay bỗng dưng muốn ngao du một chuyến, qua California được hơn tuần, bữa nay đi ngang đây, như có thần lực nào đẩy tao vào thắp nhang cho người quá cố này, không ngờ lại gặp mày, mừng quá…
(*Xin lỗi quý độc giả, nghe mấy lão già “mày tao” thật chướng tai, nhưng đó là những tiếng xưng hô quá thân tình với nhau để được sống lại thời trẻ, sẽ “tôi” từ đây )
Đức nói tiếp:
– Vô tình đi ngang Peek Family, thấy có đám tang và nhiều anh em TQLC, hình như có một thần lực nào đó đẩy tôi vào xin thắp một nén nhang cho người quá cố để nhớ ơn những anh em TQLC đã cứu mạng khi trực thăng tôi bị bắn rơi năm 10/1972 ở Quảng Trị…
Nghe Đức kể vậy tự nhiên tôi rùng mình. Khi còn sống, Trần, TQLC mà chúng tôi vừa làm lễ phủ cờ, thường hãnh diện nhắc lại về chiến công mà anh ta đã cứu sống một phi công trực thăng bị VC bắn rơi… Trần nói đúng, không chỉ riêng Trần mà nguyên một tiểu đội gồm 6 TQLC làm tiền đồn đã cứu mạng một pilot trực thăng bị VC bắn rơi bên kia bờ sông Thạch Hãn vào tháng 10/72. Ai mà ngờ nổi người được Trần cứu lại chính là Đức Cống. Có thể đây là định mệnh đã đưa đẩy Đức đi ngao du đến Nam CA để gặp và tiễn chân ân nhân Trần lần cuối.
Tình đồng đội ngoài chiến trường giữa Không Quân và TQLC cứu nhau khi sống và khi chết cũng tiễn nhau. Tôi hỏi Đức về vụ rớt trực thăng và được cứu sống như thế nào xem có giống như Trần thường nhắc không, Đức miên man đi vào dĩ vãng. Sau đây là câu chuyện anh kể:
*
– Ngày 7/10/1972, Phi Đoàn 233 Thiên Ưng, Không Đoàn 51 Chiến Thuật, biệt phái 6 chiếc trực thăng cho Sư Đoàn TQLC, đóng tại quận Hương Điền với nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực tác chiến, tiếp tế và tản thương.
Khoảng 9 giờ ngày 7/10/1972, tôi được lịnh TQLC bốc giúp một thiếu phụ sinh con khó khăn ở phía Bắc quận Hương Điền để đưa bà mẹ này về bịnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế. Sau phi vụ nhân đạo đó khoảng nửa giờ, tôi nhận được một phi lịnh đặc biệt đi cứu cấp một hoa tiêu A-37 bị phòng không VC bắn, anh ta đã nhảy dù xuống một giờ rồi.
Tôi đã nhiều lần cứu cấp hoa tiêu lâm nạn phải nhảy dù xuống như vậy, nhưng lần này, tôi cảm thấy rất đặc biệt, tại sao A-37 đi oanh tạc lại không báo cho trực thăng ứng trực ngay trên bầu trời? Tại sao một giờ sau mới gọi cứu cấp? Ai trách nhiệm ra lịnh trễ nải như vậy?
Tôi phải cố hành động sao cho thật nhanh, tôi chụp lấy nón bay, nhảy lên ghế lái, chưa xỏ chân vào gìày, và vẫy tay ra lịnh mở dây cột cánh quạt. Tôi ra hiệu 5 chiếc trực thăng còn lại, (có 2 chiếc võ trang) cất cánh sau tôi. Phi hành đoàn của tôi chưa ai mang giày và áo an toàn. Chúng tôi vừa bay vừa trang bị cho đầy đủ. Tôi cũng đã kiểm soát xem tất cả phi hành đoàn đều có áo an toàn chưa vì rằng hoa tiêu A-37 đã lâm nạn hơn một giờ qua, thời gian đủ dài để VC chuẩn bị những cái bẫy và hỏa lực để hạ những phi hành đoàn đến cứu cấp.
Ngay sau khi cất cánh tại Hương Điền, tôi bấm máy ra lịnh 3 trực thăng vận tải theo sau phải giữ khoảng cách là 3 phút bay. Hai chiếc võ trang bay hai bên cách tôi một phút bay, vì tôi phải áp dụng chiến thuật bay cho phi lịnh cực kỳ nguy hiểm này.
Trên bầu trời Quảng Trị, nắng gắt, gió Đông Nam thổi nhẹ. Quan Sát Cơ L-19 mang tên Pigeon 10 đang trách nhiệm bao vùng theo dõi. Tôi bắt đầu liên lạc với anh ta khi còn bay với cao độ 1000 bộ, với tốc độ 110 knotts.
– Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3, Eagle 3. (Eagle 3 là tên của tôi trong phi lịnh này.
– Eagle 3, Eagle 3, Pigeon 10 tôi nghe anh.
– Pigeon 10, chỉ dẫn mục tiêu.
– 12 giờ trước mặt,
– 12 giờ nhận rõ.
Sau đó, tôi đã quyết định đưa trực thăng nhào xuống bay sát mặt đất, tốc độ 120 knotts và bắt đầu bay chiến thuật vào vùng tử địa.
Cứ mỗi giây phút trôi qua là nguy hiểm đến gần hơn, gần hơn. Mặc dù có hai chiếc võ trang bay sau tôi để yểm trợ, tôi cho lịnh xạ thủ Tuấn và cơ phi Xôm khi tôi nghiêng cánh bên nào bên đó bắn không ngừng để đàn áp hỏa lực VC dưới đất.
Tôi đã liên lạc với Pigeon 10 nhiều lần và cũng nhận cùng một câu trả lời như trên. Hỏa lực VC từ đất bắn lên rát lắm, đạn xuyên thủng trực thăng nhiều nơi. Một viên đạn đã nổ tung phía trước bọc kính, một mảnh nhỏ đã ghim trên chân mày tôi, máu lăn xuống mí mắt làm tôi thấy màu đỏ loang loáng. Tôi biết ngay là vùng nguy hiểm vô cùng đã đến. Tôi bảo hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn:
– Tao đã trúng miểng đạn ở trán. Mầy để tay vào cần lái, bay theo tao.
Văn, không nói lời nào, nhanh chóng đưa tay vào cần lái và nhẹ nhàng bay theo tôi. Đây là cách phòng ngừa khi tôi thình lình “ra đi” trên ghế lái.
Từ Phòng Kiểm Soát Hành Quân, sau khi nghe tiếng tôi, Thiếu Tá Nguyễn văn Thanh, giọng nhẹ nhàng ra lịnh:
– Eagle 3, phải hết sức cẩn thận. Rồi Thiếu Tá lập lại: “Phải hết sức cẩn thận, tôi nói anh hiểu không?”
– Vâng, Eagle 3 tôi hiểu, Thiếu Tá!
Liên lạc với Pigeon 10, thì vẫn chỉ có một câu trả lời “12 giờ trước mặt!” Tôi thấy những viên đạn lửa của VC bay lên trực thăng trong lúc tôi nóng lòng tìm hoa tiêu A-37 lâm nạn, thình lình cơ phi Xôm hét to lên mừng rỡ:
– Cánh dù bên trái! Thiếu Úy!
Tôi nhìn về phía trái, thấy cành dù, sẵn sàng đáp xuống. Tôi dùng phương pháp đáp khẩn cấp từ 120 knotts, bay thấp trên mặt đất cùng lúc vội vàng bấm máy ra lịnh:
– Tất cả ba trực thăng bay ra ngoài vùng. Trực thăng võ trang bắn yểm trợ.
Và tôi quyết định đáp xuống khi cả vùng trời ngập trong lửa đạn đủ loại, pháo và khói bụi mịt mù. Kéo cần lái sát vào người, cùng lúc tôi đưa cần cao độ sát xuống thấp, quẹo trái, áp dụng kỹ thuật đáp khẩn cấp. Đạn của ta và đạn của địch thi tài áp đảo nhau! VC còn giúp thêm cho tử thần bằng mưa pháo vào bãi đáp, quang cảnh chẳng khác nào phi hành đoàn vào địa ngục để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn!
Cơ phi Xôm và xạ thủ Tuấn gan dạ và nhanh nhẹn nhảy xuống đất, phóng nhanh về phía hoa tiêu lâm nạn và kẹp hai tay xốc anh này chạy vội vàng về trực thăng. Tôi nhận ra đó là Thiếu Úy Nguyễn Hàn.
Khi cả ba đã bước lên trực thăng, tôi vội vã kéo cần lái, cần cao độ cất cánh trong bụi cát mịt mù dưới cơn bão pháo và súng lớn nhỏ các loại của VC. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, phi vụ cứu cấp thành công! Tôi vội bay hướng Đông Nam về Huế, Phú Bài!
Mọi việc được hoàn tất mau chóng và chuyên nghiệp trong khi Việt Cộng liên tục pháo liên tiếp vào bãi đáp.
Khi đạt tới cao độ vào khoảng 200 bộ, hỏa tiễn hay 12 ly 7 đã bắn gãy cánh quạt đuôi, trực thăng giựt mạnh quẹo sang trái. Tôi phải tắt máy và áp dụng thể thức đáp khẩn cấp. Bây giờ là đáp khẩn cấp thật sự đây! Năm người trên trực thăng, kể cả Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn, phải tìm cách mưu sinh thoát hiểm, bởi vì trong không gian cát bụi mịt mù và mưa pháo của VC, tôi đâu muốn để cho anh em trực thăng khác ở bên ngoài vào cấp cứu.
Ngay khi trực thăng đáp xuống đất, tình thế rất khẩn cấp, tôi gọi xạ thủ Tuấn mở cửa cho hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, và mọi người nhớ theo tôi, vì tôi giữ máy liên lạc.
Nhưng trong cơn mưa pháo của VC, cơ phi Xôm, xạ thủ Tuấn, hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn và hoa tiêu A-37, Thiếu Úy Nguyễn Hàn, tất cả đã rời khỏi trực thăng qua cánh trái, khi tôi lấy dụng cụ và máy liên lạc cứu cấp xong, tôi nhảy xuống đất bên phải của trực thăng. Chỉ vài phút sau là chúng tôi mất liên lạc với nhau, không cách nào trông thấy nhau trong cơn bão pháo và bụi mịt mù! Địa ngục đây rồi?
Dưới bầu trời nắng gay gắt, VC vẫn liên tục mưa pháo vào trực thăng của tôi. Bụi mù và mưa pháo vùng tử địa, không ai nhìn thấy ai nữa! Tôi nhiều lần khẩn khoản 3 hoa tiêu trực thăng đừng vào vì rất nguy hiểm. Tôi biết 3 chiếc trực thăng còn lại nóng lòng muốn cứu chúng tôi, cũng bay vào, rồi thì bị đạn, rồi thì cũng không tài nào thấy được nơi chúng tôi đang nấp nên trong khoảnh khắc giành giựt với tử thần đó, anh em cũng đành phải rời vùng.
Lại có thêm 2 trực thăng Cobra và 1 chiếc trực thăng CH53 chuyên môn cứu cấp của Hoa Kỳ cũng bay đến cấp cứu! Tôi cũng đã dùng máy liên lạc và kêu gọi rời vùng ngay vì súng phòng không VC đầy dẫy chung quanh bãi đáp, đừng bay vào rọ.
Chiếc trực thăng của xấu số của tôi, danh số ở đuôi là 827 màu trắng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ đã từng hiên ngang ngạo nghễ sau những tháng năm dài phục vụ con người, giờ đây, nhằm giờ hóa kiếp, nó đã bị thương mất đuôi rồi bao nhiêu đạn pháo, nó bốc cháy ngùn ngụt.
Tôi chạy khỏi phi cơ độ hơn 100 thước, lại bị thương vào đùi, tôi đã ngã xuống một hố bom cũ phủ đầy có dại, tôi bất tỉnh, mê đi!
Tiếng đạn pháo liên tục gầm vang, gió cuốn bụi cát xát mạnh vào mặt làm tôi choàng tỉnh và mở mắt ra! Bầu trời mà xám xịt, mây đen thấp xuống, bao phủ cả vòm trời! Màn đêm xuống mau lẹ với cơn mưa to, nhiều sấm sét. Đến nửa đêm khi đạn pháo bớt, tôi nghe tiếng người lục soát, tìm kiếm chúng tôi. Tôi cố giữ hoàn toàn yên lặng, tôi nghĩ rằng họ là VC.
Nằm núp dưới đất bùn dơ bẩn, trong cơn mưa sấm sét, tôi cảm thấy lạnh vô cùng, khi tiếng bọn VC đã đi xa, tôi phải lách mình, bò đi một cách êm thắm, trầm mình xuống lạch nước mưa mà trườn tới! Bấy giờ tôi liên tưởng đến những người khác, đầu óc tôi lẩn quẩn nghĩ miên man tới phi hành đoàn của tôi và hoa tiêu A-37 Nguyễn Hàn. Hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, nhà ở Quảng Tín, mới ở Mỹ về, tôi bay với Văn và đã đề nghị cho Văn là hoa tiêu phụ đi hành quân với tôi. Văn khoe còn giữ 300 Mỹ Kim và cất ở túi bay dưới chưn nhằm để dành cưới vợ. Còn Xôm và Tuấn rồi Hàn bây giờ ra sao rồi? Cả bốn người có bị VC gian ác bắt không?
Tuấn và Hàn là người gốc Huế, mà Huế và Quảng Trị đâu xa gì! Chắc là cả bốn người biết luồn lách mà tránh được VC để về đến Huế. Tôi bị mặc cảm dằn vặt mãi, bởi vì tôi, vì tôi quyết tâm bay vào lửa đạn để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn, nếu lúc Thiếu Tá Thanh nhắc chừng mà tôi đã nhận thấy quá nguy hiểm mà bay trở lại thì đã an toàn cho tất cả phi hành đoàn. Nhưng rồi Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn thì sao?
Dù sao, tôi vẫn cứ tự an ủi nếu ai cũng thiếu gan dạ, không chấp nhận hiểm nguy thì tình chiến hữu đồng đội có ra chi. Bị thương, ừ thì bị thương, chết ừ thì chết, bổn phận không thể không hoàn tất. Mạng sống con người quý giá lắm. Nhưng cái quý giá đó không so sánh được nếu vì lý tưởng, bổn phận phải hy sinh. Tôi đã từng bảo hoa tiêu Lê Công Quởn, đã hy sinh tại căn cứ Hoàng Đế phía Tây của Huế, rằng:
– “Là người làm tròn nhiệm vụ, hy sinh cho người khác, khi chết sẽ được vinh hạnh thành Thánh, nếu không cũng được thành Thần”.
Tôi đã cầu nguyện luôn luôn cho bốn người này. Tôi cũng cầu nguyện Đức Chí Tôn: “Xin che chở cho tôi nếu Ngài nghĩ rằng tôi còn hữu ích cho đổng đội, cho đời. Nhược bằng trái lại, xin cho tôi nhận một quả pháo trọn vẹn từ quân VC vô thần, gian ác! Tôi xin đoàn tụ cùng những bậc tiền nhân, ông cha anh hùng của tôi.”
Tôi nghĩ đến vinh dự cao cả của bao nhiêu người lính gan dạ đã đem thân bảo vệ sự độc lập, hòa bình của tổ quốc mình thì đâu sá gì có bị thương hay bị hy sinh bởi súng đạn quân VC xâm lăng. Mải mê suy nghĩ đến bổn phận, mơ màng trong trách nhiệm thế rồi tôi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay!
Tiếng chân người rầm rập trên mặt đất mỗi lúc một gần hơn, gần hơn, thế rồi một nhóm VC hung ác đứng sững trước chỗ tôi trốn. Tôi đã vùi thân mình dưới tầng bùn đen. Tôi chẳng còn gì trên tay, chiếc nón bay, áo chống đạn đã để lại trên trực thăng đã cháy rụi rồi. Trống ngực đập thình thịch, tôi sợ hãi vô cùng, rồi chúng bỏ đi và nhờ đó, trên đường mưu sinh thoát hiểm về lại căn cứ tôi đã hết sức đề phòng từng ly, từng tí mọi bất trắc!
Mò ra khỏi vũng bùn, chiếc áo bay của tôi quá nhiều túi, bây giờ chứa đầy bùn trở thành một gánh nặng nên tôi đã cởi bỏ, tôi chỉ còn mặc một chiếc quần lót mà thôi. Để ngụy trang, tôi đã dùng bùn trét đầy lên khắp người, và hết sức cẩn thận trườn đi bằng ngực, hoặc bằng lưng của tôi, bởi vì làm sao tôi có thể đi được khi mà khớp nối của đầu xương đùi bị thương quá nặng.
Tôi trườn được một đỗi vừa để ý ép tai mình xuống mặt đất để nghe có tiếng chân ai đó hay không. Tai tôi cũng mở rộng, hết sức chăm chú. Lúc này trời cũng sắp tối đến rồi. Theo hướng gió từ xa đưa lại, tôi nghe tiếng nói eo éo của đám VC. Tôi vội vàng lẩn trốn ngay. Tôi thấy đói cồn cào và khát nước! Đạn pháo hôm nay ít hơn hôm qua.
Rồi thì mưa đổ xuống như thác, tôi nhờ vào đó mà di chuyển an toàn hơn. Tôi dùng hai bàn tay nắm cỏ cao kéo tới, chân trái phụ vào bằng cách đạp vào mặt đất cho toàn thân di chuyển về phía trước được hai hay ba chục phân tây. Thật may mắn làm sao! Mưa càng to thì tôi càng di chuyển được dễ dàng và an toàn hơn, bởi lũ VC lười biếng đi kiểm soát trong cơn mưa.
Tôi đã kiệt sức rồi, dù vậy tôi vẫn phải cố hết sức bò đến một hố nước, trầm mình dưới vũng nước để được ấm hơn trên mặt đất gió thổi. Hai bàn tay khuấy nước cho sạch bớt bùn đất, rồi hai tay chụm lại hứng từng giọt nước mưa để thấm giọng cho đỡ cơn khát! Tôi tiếp tục làm như vậy cho đến khi tôi thấy bớt khát nước.
Tôi tự bảo rằng dừng lại việc di chuyển về hướng Nam là tự sát, mỗi tấc tôi trườn tới có nghĩa là tôi về gần chỗ an toàn hơn, bởi vậy, tôi phải cố gắng di chuyển, tai lắng nghe xem có sự động tĩnh gì của lũ VC hay không. May mắn quá tôi không thấy cái gì cả, nhưng những dây điện thoại của VC liên lạc thì giăng đầy như lưới nhện trong vùng tử địa chiến tranh tàn khốc này.
Ngày thứ ba trên bãi chiến trường, tôi thức giấc khi tiếng phi cơ phản lực vọng lại từ xa xôi lắm. Tôi hy vọng chúng đến gần tôi hơn, để tôi có thể đánh hiệu lên cho chúng biết rằng tôi vẫn còn sống!
Tôi nhớ Thiếu Úy Hồng, cùng Phi Đoàn 233 của tôi, đã dùng chính hộp nước ngọt để gửi dấu hiệu cho trực thăng tìm kiếm của Đại Úy Nguyễn Văn Banh. Đại Úy Banh nhận được tín hiệu tức khắc anh tắt máy cho được an toàn và đáp xuống một khoảng trống cạnh một con rạch nhỏ của dãy núi cao. Đại Úy Banh đã cứu được Thiếu Úy Hồng một cách ngoạn mục! Tôi cũng đã thết đãi Thiếu Úy Hồng một chầu mừng thoát chết. Tôi cũng đã học hỏi cách nào Thiếu Úy Hồng mưu sinh thoát hiểm để có ngày nào đó đến lượt tôi, và lúc này tôi đã có chút kinh nghiệm. Tôi đã quan sát cẩn thận chung quanh cho an toàn rồi tiếp tục mò về hướng Nam. Lúc đó một chiếc Quan Sát OV-10 trên bầu trời bỗng bay thẳng vút lên trời xanh tránh hỏa tiển SA7 của VC, để lại một vệt khói trắng màu tang. Tôi hú hồn cho chàng hoa tiêu trên chiếc OV-10 đó!
Trong giây lát, tôi bỗng miên man nhớ lại hình ảnh của Đại Tá Khánh, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 Không Quân, Trung Tá Phước, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật, còn gọi là Phước răng vàng. Tôi nhớ Thiếu Tá Bùi Quang Chính, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 233. Ông này làm anh cả thì tốt hơn là Phi Đoàn Trưởng. Ông đã chăm sóc mọi thứ cho thuộc hạ dưới quyền, từ sĩ quan cho đến binh sĩ! Gia đình ra sao, anh chị em thế nào. Ông biết rõ từng người trong gia đình của Phi Đoàn. Tôi nợ ông nhiều lắm. Tôi phải trả cho ông và vợ ông, bà giáo Diệp, bà đối xử với tôi như là chị ruột. Cơn đói và rét kéo tôi vào giấc ngủ nữa rồi.
Cơn mưa chiều nhiều sấm sét cùng tiếng nổ đạn pháo của hai bên Quốc Gia và Cộng Sản làm cho bầu không khí trở nên ồn ào ghê rợn khiến tôi tỉnh giấc, tôi không thể nào nghe rõ sự vật quanh tôi! Tôi sắp bước qua đêm thứ ba không quần, không áo! Chính bùn, đất và bèo cỏ đã thay cho quần áo và là phương tiện ngụy trang rất hữu hiệu cho tôi. Tôi thầm nhủ rằng lợi dụng đêm tối, mưa giông để mò đi sẽ làm ngắn lại con đường an toàn về căn cứ. Mưa to quá, mưa xối xả như trút nước, sấm chớp vang trời như thiên lôi rượt đuổi, diệt trừ quỷ ma đang hành hạ con người! Tôi nhờ mưa đêm che chở tránh được sự dò tìm của bộ đội độc ác VC.
Tôi vừa trườn qua một chiếc đầu lâu và bộ xương người trắng hếu. Bàn tay tôi nhẹ nhàng vuốt cái xương sọ cùng lúc van vái rằng:
– “Tôi biết tại sao người bị giết, hãy giúp che chở tôi đến nơi bình an tôi sẽ cúng..”
Một lúc sau tôi thấy một con mèo trắng, đi quanh quẩn bên tôi và rồi đi về hướng Nam. Tôi tự hỏi tại sao có con mèo hoang ở vùng lửa đạn này? Tôi không sợ ma mà muốn` sống nên cố trườn theo con mèo, nhanh và nhanh hơn nữa, vì vết thương đã có mùi thối như xác chết! Đây là bãi chiến trường, vùng oanh kích tự do, chẳng có hàng tre hay bờ tường nào cao hơn 3 tấc! Tất cả là điêu tàn, là sắt máu hận thù!
Ngày thứ tư trên bãi chiến bắt đầu bằng đạn pháo ầm ĩ, súng nổ bốn bề, nhằm giết đi hết mọi sinh vật của Thượng Đế trên đời! Nghĩ cho cùng, nếu Hà Nội không ngu xuẩn nghe lời xúi dại của Liên Xô và Trung Cộng, xua quân xâm lấn miền Nam, thì làm gì có cảnh gió tanh mưa máu hôm nay. Cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Ngàn đời nguyền rủa sự ngu xuẩn tham lam của lũ Cộng Sản bạo tàn!
Có lẽ là hai hay ba giờ chiều. Đây là ngày thứ tư tôi nằm trên vùng tử địa. Mây đen kéo tới, bầu trời đen kịt. Gió thổi càng lúc càng mạnh, gió mạnh làm ngả rạp đám cỏ cao quá đầu gối. Tôi vẫn luôn cảnh giác nghe ngóng về giọng nói của người và những động tĩnh bất thường trên đường thoát hiểm hướng về Nam.
Tôi đã không có một chút gì ăn trong ba ngày qua, tôi thấy đói và đói. Tôi thấy mình dần dần yếu đi, đến nỗi tôi muốn dừng lại một chỗ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, dừng lại chẳng khác nào tự tử. Đâu ai biết tôi nơi nào mà cứu cấp! Do vậy mà tôi phải cố gắng trườn đi từng tấc, từng tấc đất để về Nam. Nhờ vận chuyển tôi thấy có thêm sức mạnh và ấm người hơn.
Bèo cám trên mặt nước dân miền Nam dùng để cho heo ăn, nhưng rồi không có cái gì bỏ vào miệng cho bao tử làm việc sinh ra nhiệt, nên tôi buộc lòng nhặt một ít bỏ vào miệng nhai, nhai và nuốt trọng vào, tôi cảm thấy có cát đất đi vào bao tử với nhúm bèo cám. Tôi nghĩ bao tử tôi reo vui khi làm vai trò sinh nhiệt cho thân tôi.
Trời lại sắp mưa, gió giật, gió quyện vào nhau cuốn từng cộng rác to nhỏ xoáy tròn bay cao lên khoảng trời đen sẫm. Tôi trườn qua một mái tranh sụp xuống gần ngang mặt đất. Tôi nghe ai đó nói chuyện bên trong. Tôi chắc chắn chúng là lũ ác ôn VC đây rồi! Tôi lặng yên trườn đi nhanh xa chỗ đó. Tôi lại may mắn vô cùng bởi trời đã đổ cơn mưa, VC chúng núp trong mái tranh nên đã không phát giác ra tôi! Thật quá căng thẳng đến nỗi tôi nghe được cả nhịp tim tôi đập liên hồi trong lồng ngực.
Tôi lại may gặp con rạch nhỏ, tôi trườn mình đi nhẹ nhàng đến nỗi không một gợn sóng lan ra trên mặt nước. Tôi tạm nghỉ ngơi, hít thở những hơi dài, coi như rất sảng khoái. Tôi đã cách xa chòi lá giết người lúc nãy rồi.
Hai bàn tay tôi chừng như rã rời, những chỗ bị thương máu đã khô đặc lại, khi gặp nước làm tôi cảm giác xót buốt vô cùng! Thực ra tôi không còn sức di chuyển nữa rồi. Lúc bấy giờ tôi đang bên bờ sông Thạch Hãn. Tôi cẩn thận mò xuống dòng sông ngước nhìn tìm ra chỗ trú an toàn. Tôi biết tôi có thể ngủ ngay tức khắc! Do vậy tôi phải tìm cách nào kín đáo nhứt để ẩn thân đi vào giấc ngủ vùi hẹn hò nhiều mộng mị!
Tiếng pháo nổ gần làm tình ngủ, tôi thấy mình đang còn nằm vắt trên hai rễ cây, chìm dưới làn nước của bờ sông Thạch Hãn. Lúc đó mặt trời lên giữa đỉnh đầu, nắng gay gắt, không thấy có chút gió nào. Toàn khoảng không gian như bị tan tác, xé ra từng mảnh bởi những phi cơ phản lực oanh tạc thay nhau thả bom liên hồi xuống rặng núi phía Tây là dãy Trường Sơn.
Tôi bước vào ngày thứ năm trên bãi chiến chết người. Tôi luôn luôn nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Trời đất cho tôi nhiều ân huệ, ngày nắng gắt cung cấp cho tôi nhiều năng lực ấm áp để rồi đêm đến trong cơn mưa lạnh tôi có đủ sức trườn đi, mò về miền an toàn nhanh hơn
Tôi trông thấy nhiều thùng đạn pháo in chữ Tàu Cộng trên bờ Bắc sông Thạch Hãn đựng trong những bao plastic nói lên một thực tế là quân VC đang kiểm soát, hay đang di chuyển trên phần đất phía Bắc dòng sông định mạng Thạch Hãn! Biết vậy tôi tự bảo tôi phải nhanh chóng lánh khỏi nơi tử địa này càng sớm càng tốt.
Lợi dụng trời tối, tôi nhẹ nhàng hết sức, cố bơi sang bờ Nam của dòng sông mà không để lại bất cứ một lượn sóng nào, bởi tôi biết rất rõ là do làn sóng lan ra đó, VC sẽ phát giác ra tôi và rồi tôi sẽ lãnh ngay một tràng AK kết liễu đời mình.
Khối nước to lớn và đám bèo trên mặt nước của dòng sông làm rớt đi những mảng đất sét ngụy trang trên cái thân ốm đói của tôi. Vết thương trên đùi phải cũng bớt đau dai dẳng mấy ngày qua. Rồi cũng đến lúc tôi mò tới được bờ Nam rồi!
Tôi tìm xem nơi nào có lỗ trống để tôi lết thân lên bờ. Tôi dùng hai tay bám vào mặt đất mà trườn lên bờ Nam rồi chui vào trong đám cỏ. Tôi trườn đi giữa những đám cỏ cao ngang ngực, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt trời còn khuất sau dãy Trường Sơn, ánh sáng cuối ngày còn vất vưởng trên cánh đồng mênh mông đầy mùi tử khí.
Mưa đêm qua lớn quá nên qua một ngày nắng gắt rồi mà vẫn còn nước đọng lại trên đường đi giúp tôi trườn tới dễ dàng như đang bơi lội trên đám cỏ sũng nước. Cứ lập đi lập lại mãi động tác hai tay giang ra phía trước nắm cỏ kéo lê thân đi, chưn trái đạp vào đất! Cố gắng và tiếp tục cố gắng nữa. Muốn sống phải vươn lên!
Chắc cũng được vài trăm thước rồi thì phải, tôi cảm thấy đuối sức, hết hơi trườn tới nữa rồi! Bãi cỏ voi cao quá, cao quá không ai có thể nhìn thấy tôi nằm trên láng cỏ ướt đó. Tôi thấy khát nước vô cùng, muốn uống bất cứ nước gì để thỏa mãn cơn khát.
Bất ngờ, may mắn làm sao, tôi thấy loáng thoáng vài anh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa khum khum chạy qua gần bên tôi. Tôi đã vận dụng hết sức mạnh còn lại để gọi:
– Thủy Quân … Lục Chiến…
Tiếng tôi đứt khoảng vì không đủ hơi. Sau khi nói lên chữ “Lục Chiến”, tôi hoàn toàn hết hơi. Tôi đã hiểu tôi có cuộc gặp gỡ ly kỳ này là trời cho.
– Đứng lên! Đứng lên!
Một anh lính TQLC chĩa súng chăm chăm vào tôi và hét to lên.
Tôi nghe được cái lịnh “đứng lên” của anh ta mà tức giận:
– ĐM! …hoa tiêu … trực thăng … gẫy chân…
Sau câu nói hết sức lực đó, tôi như đi vào hôn mê.
Bầu trời sụp tối, gió chiều đã thổi mơn man qua mặt tôi như bàn tay bà mẹ hiền vuốt má đứa con thân yêu. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng, trút mọi lo âu cho quá khứ. Khi tỉnh lại, tôi thấy một anh TQLC nằm sát bên cạnh, nói thì thầm vào tai tôi:
– Thiếu Úy, Thiếu Úy, bám vào lưng tôi để tôi đưa Thiếu Úy vào vùng an toàn!
Chưa bao giờ tôi được nghe hai tiếng “thiếu úy” yêu thương như lúc này, trong khi trên người tôi chỉ còn cái quần đùi! Hai tiếng “thiều úy” tức anh em TQLC đã nhận ra tôi là đồng đội, là phi công lái trực thăng. Trước sự sống, toàn thân tôi như liệt đi, tôi nói nhỏ:
– Lấy dây lưng TAB nối vào nhau, cột hai tay tôi và kéo, tôi không bám nổi.
Anh TQLC bò vào chỗ trú quân của anh. Mặt trời lặn hẳn rồi, nhưng đứng gần cũng còn nhìn rõ mặt nhau. Gió Đông Nam nhẹ nhàng đưa hơi nước mát lòng, mát dạ đến vùng chiến địa cài răng lược, quân ta và quân VC đóng xen kẽ nhau.
Quả là phước đức vô cùng, đêm nay trời không mưa. Thật mầu nhiệm của Ơn Trên ban thưởng cho tôi. Tôi yên lặng thể không nói lời nào nữa, nhưng trong thâm tâm tôi vui mừng khôn xiết, tôi biết rằng tôi đã được cứu, tôi được sống từ giờ này.
Vài phút sau, hai anh lính TQLC lại bò đến bên tôi, một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ, rồi cả ba trườn vào nơi ẩn núp, nơi tuyến đầu xen kẻ cài răng lược giữa quân ta với địch. Nơi đây tôi gặp Thiếu Úy Thanh, một khóa sinh cùng tiểu đội với tôi khi cả hai cùng được huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Cả hai ôm nhau, nước mắt ràn rụa, nhắc lại thời khóa sinh cùng nhau trình diện bị phạt dã chiến 4 đêm, làm chúng tôi luyến tiếc thời khóa sinh. Thanh trao cho tôi một điếu Rubi quân tiếp vụ. Điếu thuốc thấm nước phân nửa, ngả màu vàng, cong vòng, nhưng khi hít một hơi thông suốt thì thấy lòng sảng khoái nhẹ nhàng.
Bấy giờ chắc khoảng 9 hay 10 giờ đêm, khác với những đêm mưa tầm tã vừa qua, đêm nay mưa chỉ lấm tấm đủ làm ướt áo khách qua đường. Tôi được chuyển sang vùng an toàn hơn. Rời chỗ Thiếu Úy Thanh chia tay lưu luyến, tôi bắt tay cám ơn từng anh em và Thanh. Tôi dặn dò các anh nên hết sức cẩn thận, vì sau mỗi lùm cỏ cao có VC núp.
Tôi được đưa đến bộ Chỉ Huy Đại Đội, bởi tuyến đầu của Thanh, hai bên cọ sát đối đầu nhau trong gang tấc. Tôi được một anh lính TQLC cõng, ba anh khác đi theo phụ giúp, hai anh hai bên, và anh thứ ba phía sau. Con đường chuyển tôi đi qua nhiều dốc đất sét, đất sét gặp nước mưa làm con đường càng trơn trợt nguy hiểm, dễ dàng té ngã.
Chúng tôi tới Bộ Chỉ Huy Đại Đội, nơi đây có bao cát chung quanh. Tôi hoàn toàn kiệt sức, bởi vì tôi phải dùng hết sức mình ôm chặt anh TQLC khòm lưng cõng tôi. Do vậy, với ân tình huynh đệ chi binh xứng đáng ngàn vàng đó tôi đã lấy hết sức tàn để siết tay và nói lời cám ơn 4 anh TQLC vừa gan dạ vừa tình nguyện hy sinh cõng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần. Tôi nhờ TQLC gọi máy liên lạc về Huế, và Đà Nẵng cho họ biết là tôi đã được cứu về đến nơi an toàn. Lúc đó, một anh TQLC đến bên tôi hỏi:
– Thiếu Úy đói lắm hả, uống sữa nhé, chúng tôi cũng có mì Quân Tiếp Vụ.
– Không, cám ơn anh quá đi, tôi chỉ buồn ngủ thôi.
Tôi đáp nhanh và rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay.
Đến sáng, khoảng 7 hay 8 giờ, một chiếc xe thiết gíáp M113 đến trước Ban Chỉ Huy Đại Đội để chở tôi đi. Tôi vui mừng khôn xiết, nhắm mắt lại mơ màng. Trước khi chiếc M113 di chuyển, anh Đại Đội Phó bắt tay tôi siết mạnh và chúc mau lành để trở lại chiến trường với anh em. Anh cười, và cho biết thêm rằng lúc hơn 2 giờ khuya, một phi hành đoàn của Trung Úy Lưu, Phi Đoàn 233 có liên lạc để bốc tôi về bịnh viện, nhưng anh từ chối vì an ninh cho cả Đại Đội ban đêm. Đạn và súng cối VC sẵn sàng tấn công vào Đại Đội khi trực thăng đáp xuống rước tôi. Anh đã khước từ nhiều lần mặc dù Trung Úy Lưu khẩn khoản và nói rằng Trung Úy Lưu sẽ tắt hết đèn và tắt máy để đáp xuống bất ngờ. Tôi nghe chuyện mà thương cho người đứng đầu chiến tuyến, thương và cảm phục tình chiến hữu trong quân đội, thương Trung Úy Lưu.
Hơn nửa giờ sau thì chiếc M113 dừng lại, tôi được khiêng ra khỏi xe, tôi cám ơn các anh kỵ mã can trường. Xe đã lui mà tôi còn nghe lời chúc mau bình phục của họ! Tôi nhìn quanh quan sát, đây là trạm cứu thương giữa chiến trường, Bác Sĩ Quân Y TQLC nhìn tôi e ngại, thương tình. Lúc đó, trên người tôi chỉ có một chiếc quần lót lẫn sình đất. Xót xa quá, nên bác sĩ lấy bộ đồ rằn ri TQLC có đính huy hiệu Quân Y, và bảo mấy anh y tá mặc vào cho tôi.
Thú thật, trong bộ đồ của binh chủng anh hùng đó, trông tôi mạnh mẽ hơn lên. Tôi cám ơn nhiều lần, và ghi nhận bác sĩ và binh sĩ TQLC can trường còn trẻ quá.
Mặc xong bộ quân phục TQLC, một xe tải thương đã sẵn sàng để chuyển tôi về nơi an toàn hơn nữa để trực thăng đến bốc về bịnh viện. Xe chạy trên đường đất đỏ có một hàng cây bên trái. Gió buổi sáng len vào thùng xe làm tôi cảm thấy dễ chịu. Có lẽ sau đêm ngủ ngon lành nhiều mơ mộng vui tươi, tôi như có thêm nhiều sức lực. Sức lực có thêm là nhờ tình người, tình đồng đội, tình chiến hữu trong đấu tranh sinh tử có nhau!
Xe cứu thương dừng lại chỗ có tên Ngã Tư Quốc Tế, Lữ Đoàn 147TQLC. Tôi được khiêng xuống, và xe trở lại trạm Y Tế Tiền Phương, nơi có bác sĩ cứu tôi mà tôi trong lúc xúc động vui mừng đã không hỏi han danh tánh.
Nằm trên băng ca nơi yên ổn, có người chăm sóc thân mến, lòng tôi rộn ràng nghĩ đến anh em ở Phi Đoàn 233 chắc đang chờ gặp tôi! Mắt tôi lơ đãng nhìn bầu trời xanh, mây trắng mà thầm cám ơn Thượng Đế, các đấng Thần Linh đã che chở cho tôi. Cám ơn những đêm mưa đầy sấm sét. Cám ơn người chết nằm giữa đường, xương sọ, xương người trắng hếu. Cám ơn Quân Đội đã sản sanh ra những người chiến hữu sống chết có nhau.
Tôi về nơi yên lành mà sau lưng còn bao nhiêu lính trận phải mở mắt to lên, ngày đêm cho dù buồn ngủ đến cay xé! Làm sao đủ từ ngữ để nói lên tinh thần hy sinh cao cả của những người lính trên tuyến đầu lửa đạn.
Bây giờ, ngồi ghi lại những dòng chữ nầy, lòng tôi vẫn còn bồi hồi, cảm động. Tôi thắc mắc tại sao ngày đó người lính miền Nam gan dạ đến như vậy? Lý tưởng bảo quốc, an dân? Lao vào mục tiêu, biết mình sẽ hy sinh, nhưng vẫn có biết bao nhiêu người trẻ tình nguyện! Riêng chuyện của chính tôi, tinh thần nào làm động cơ để 4 người lính TQLC không ngại bị ngã gục khi cõng tôi ra ngoài vùng binh lửa, cài răng lược.
Tôi đã trườn đi năm đêm rồi, quãng đường dài chắc hơn 5 cây số, dẫy đầy mìn bẫy và dây điện thoại của Cộng Sản! Tôi mang ơn những người lính Mũ Xanh nầy biết bao nhiêu! Ôi tình người, tình chiến hữu.
Một phi vụ cứu cấp không thành. Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn gan lỳ của chúng ta đã hy sinh sau hai ngày lần mò về miền an toàn! Phi công phụ Trịnh Hữu Văn bị VC bắt sau 4 ngày thoát hiểm, sau này Văn được thả ra từ nhà tù miền Bắc, hiện nay, Văn cư trú tại Houston. Xạ thủ Tuấn, người trai xứ Huế không biết bây giờ ra sao?
Còn cơ phi Võ Văn Xôm? Lúc tôi còn nằm trị thương tại Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt, thì chiếc quan tài của cơ phi Xôm được chuyển đến và hôm sau, trực thăng đưa về quê của Xôm ở Cai Lậy! Xôm tìm về gần đến vị trí của TQLC thì bị lộ và VC đã giết, tiểu đội Trinh Sát TQLC đã tìm được xác Xôm với tấm thẻ bài!
Ngày 7/10/1972 tôi bị bắn rơi, 5 ngày sau, ngày 12/10/1972 được anh em TQLCVN cứu về, tôi được đưa vào bịnh viện của Không Đoàn 366 của Không Quân Hoa Kỳ Đà Nẵng, được trị thương săn sóc tốt lành như chính những người lính Mỹ.
Tất cả họ là đồng đội của tôi, tôi nợ mạng sống với các anh, làm sao tôi trả nổi? Và phép lạ nào kéo tôi từ Canada đến đây, Little Saigòn này, đúng lúc đến nhà quàn để tiễn biệt một ân nhân. Tôi không bao giờ quên những người anh em Mũ Xanh Anh Hùng!
Philato
Lam chuyen