Thân Hữu Tiếp Tay...
TRIẾT LÝ SỐNG TỪ ….TÔ HỦ TIẾU - Trần Nhật Phong
TRIẾT LÝ SỐNG TỪ ….TÔ HỦ TIẾU - Trần
Nhật Phong
(HNPD) Tôi nhớ năm 1990, lúc còn theo học ở New
York, thời điểm đó tôi vừa học vừa làm, ban ngày đi học, ban tối thì làm trong
một nhà hàng tàu (ông chủ là người Hongkong), tôi biết nói tiếng Quảng Đông,
nhưng chỉ biết nói không biết viết, nên không lấy order được, và ông chủ thì
không muốn cho sinh viên như tôi làm busboy, nên đẩy tôi xuống bếp.
Người Hongkong thường gọi mấy ông Chief cook là sư
phụ, đầu bếp chính ở nhà hàng mà tôi làm cũng là người Hongkong, gia đình của
ông từ Phật Sơn di cư đến Hongkong và cuối cùng di dân qua Mỹ.
Tôi nhớ có một lần, khi ông chủ nhà hàng xuống tận bếp,
nói với sư phụ rằng, có vài người khách Mỹ ngồi bàn VIP, muốn sư phụ đích tay
làm vài món ngon lên cho họ, nhưng lại không nói rõ là họ order những món ăn
gì.
Vị đầu bếp gọi tôi tới, ông pha một ấm trà ngon và
biểu tôi bưng lên bàn VIP, rồi căn dặn tôi quan sát thái độ của những người
khách nói cho ông biết.
Tôi ngạc nhiên, nhưng vẫn theo lời dặn của ông, bưng
ấm trà và 4 chiếc tách lên bàn VIP, sau đó xuống kể cho ông nghe về thái độ của
từng người trong bàn.
Vị sư phụ không nói gì cả, ông nấu thật nhanh và để
tất cả thức ăn trong một chiếc mâm, rồi kêu tôi bưng mâm theo ông lên bàn VIP.
Tại bàn ông đưa từng món cho từng người, mà không hề nói một lời nào.
Kết quả 4 người khách ăn rất ngon miệng và thưởng
cho tôi và sư phụ $40 tiền tip (số tiền này thời 90 rất lớn), tôi khá thắc mắc
là tại sao vị sư phụ lại biết rõ khẩu vị của 4 người khách kia, vì họ cũng
không phải là khách quen đến ăn mổi ngày, sau đó tôi hỏi sư phụ làm sao biết
người nào ăn cái gì, và ông trả lời:
- Cái
người chưa ngồi xuống đã nói liên tục, người này mổi ngày tiêu hao năng lượng rất
nhiều, nên tao mới làm món thịt bò cho ông ta, vì ông ta cần ăn nhiều thịt đẩy
lấy lại năng lượng, còn cái người chưa ngồi xuống mà lấy khăn giấy lau ghế, lau
mặt bàn rồi xin thêm khăn giấy, người này vốn kỷ lưởng về sức khỏe, nên thích
ăn rau nhiều hơn, tao làm món chay cho ông ta, 2 người còn lại trẻ tuổi lại xin mày cây nĩa chứ
không dùng đủa, là những người chưa quen thuộc với đồ ăn Á Đông, nên tao làm
món hủ tiếu xào dể ăn nhất cho họ.
Giải thích xong ông nói thêm rằng, nghề nấu ăn ngoài
trừ tay nghề ra, phải hiểu rõ tâm lý của khách hàng và phải biết quan sát để
đoán biết cá tánh của con người, thế là tôi học được bài học quí giá từ vị sư
phụ người Hongkong, cách quan sát con người qua sự ăn uống.
Bài học này tôi đã áp dụng trong đời sống hơn 20 năm
qua, dù có đôi lúc hơi bị “trật búa rìu” nhưng tựu chung đa phần lại rất trúng,
nhờ đó mà tôi tránh được nhiều xung khắc trong xã hội.
Hơn 20 năm qua theo nghề truyền thông, từ báo nói
(radio), báo hình (TV) cho đến báo viết, tôi tiếp xúc đủ loại người, từ những
thương gia chỉ biết làm ăn, từ những “ông anh lớn” của nghề truyền thông, cho đến
những người bạn trong giới văn nghệ sĩ, hay thực dụng như những người làm nghề
nail, kể cả những đứa em “giang hồ”, tôi lại học được nhiều bài học khác về
nhân sinh, cách ứng xử, lối ăn nói, tóm lại đều là những bài học quí để áp dụng
trong cuộc sống hàng ngày.
Tuy nhiên, sau hơn một tháng theo Phượng Mai, bà xã
tôi vào nghề bán Hủ Tiếu, có lẽ đây là bài học lớn nhất mà tôi học được, đó là
cách ứng xử bằng ….Trái tim, bằng cảm xúc của chính bản thân.
Khi mở tiệm Hủ Tiếu, như bao người khác, tôi phải
tính toán chi ly từng chi tiết, để cân, đo,đong, đếm làm thế nào để không bị lỗ
lã và có chút tiền lời trang trãi mọi thứ.
Ngược lại với tôi, bà xã tôi lại khác, lối hành xữ của
Phượng Mai luôn theo cảm tính của một người nghệ sĩ, khi mua vật dụng nấu cho
khách, cô luôn quan niệm chọn cái ngon, tươi trước, trong khi tôi luôn nhìn vào
….giá cả.
Khi nấu cho khách, có những việc vụn vặt không cần
thiết, tôi muốn bỏ qua nhưng Phượng Mai lại để tâm rất kỷ, từ lúc pha chế nước
sốt, cách cắt thịt, “trụng tôm” cho đến việc trụng bánh Hủ Tiếu, tất cả đều phải
đúng ‘qui trình” không được sai sót, rớt một chiếc muổng trong bếp, cô bắt nhân
viên phải lập tức rửa ngay, dù đang lúc bận rộn nhất. Tôi cằn nhằng thì Phượng
Mai trả lời tỉnh queo “tô hủ tiếu anh cũng có phần ăn, không thể sai sót”.
Khi tiếp xúc với khách hàng bên ngoài, có những người
khách vô cùng khó tính, trong khi tôi cố gắng nở nụ cười để tiếp đãi thì Phượng
Mai tự nhiên hơn, cô tâm tình với khách, lắng nghe và giải thích, đôi khi có những
điều “không nên nói” trong nghề, cô cũng tự nhiên nói “huỵch tẹt” ra luôn.
Vậy mà thực khách trở lại nhiều lần, và nói thẳng với
tôi “thích con người của Phượng Mai”, mộc mạc, bình dân, trong khi tôi thì họ
cười “còn láu cá” lắm.
Thì ra triết lý cuộc sống vốn kỳ lạ, khi con người
nghĩ rằng, lối hành xử đúng mực thước, đúng lối chuyên nghiệp mà xã hội Mỹ đòi
hỏi, thì chưa chắc đã chiếm được cảm tình của người khác, còn lối ứng xử tự nhiên,
mộc mạc xuất phát từ trái tim, đôi lúc có vẽ như không “hợp lúc, hợp thời” thì
lại được nhiều người có cảm tình hơn.
Bà xã tôi vốn là con nhà nòi của ngành sân khấu,
không ăn học nhiều, tất cả những cách ứng xử, đều từ sân khấu, từ khán giả của
Phượng Mai chứ không phải từ học đường, và những thói quen đó đã theo bà xã tôi
nhiều năm, nó ăn sâu vào trái tim của bà xã và trở thành tự nhiên.
Trong khi tôi tự cho là mình “thông minh”, hiểu nhiều,
thì ít được cảm tình của mọi người hơn và rất “khó gần gủi”, hay nói một cách
khác là những người tiếp xúc với tôi lần đầu tiên, đều có thành kiến là tôi
“láu cá”.
Có lẽ trong xã hội, khi con người tự cho là mình
thông minh quá, tự tin quá sẽ biến thành một thứ gì đó giả tạo, không thật và
luôn làm cho người đối diện phải đề phòng, không tin tưởng.
Còn cách ứng xử tự nhiên, xuất phát từ trái tim, có
một điều gì đó huyền diệu, luôn chinh phục được cảm tình của nhiều người, học mộc
mạc, bình dân và nói “thẳng như ruột ngựa” thì đều được trân quí.
Nhờ nghề hủ tiếu, tôi lại học được thêm một bài học
mới, những ngôn từ hoa mỹ, đẹp đẽ chỉ có thể chinh phục người khác trong ngắn hạn,
đôi khi lại khiến họ sợ hãi, trong khi những từ ngữ nói ra từ trái tim, không
qua chạy qua khối óc, thì chính là “bề
sâu” của triết lý cuộc sống, quả thật rất “đơn giản”.
Nhưng chữ “đơn giản’ này tôi phải học cả một đời, bước
vào tuổi trung niên mới thẩm thấu được cách ứng xử bằng trái tim, nó lâu bên
hơn tất cả những “bao bì” khác, được bọc bằng ngôn từ hoa mỹ.
Và tự nhiên tôi lại yêu tô hủ tiếu đến như vậy, cả
tháng này tôi ăn hủ tiếu hơn bao giờ hết trong cuộc đời của mình, vì nhờ tô hủ
tiếu, tôi lại được hiểu thêm “công lực” của trái tim con người đến mức độ nào,
và như Duyên Anh đã từng nói trong tác phẩm “Nhà Tôi” của anh “ không cần cao
xa như tôn giáo, không cần hoa mỹ như nhà thơ, nhà văn, mà chỉ cần tình người”.
Tô hủ tiếu của Phượng Mai có lẽ sẽ còn nhiều bài học
cho tôi ở những năm tháng cuối đời, hãy sống bằng trái tim hơn là khối óc, nó sẽ
tạo ra niềm tin giữa con người và con người.
TRẦN NHẬT PHONG (HNPD)
TRIẾT LÝ SỐNG TỪ ….TÔ HỦ TIẾU - Trần Nhật Phong
TRIẾT LÝ SỐNG TỪ ….TÔ HỦ TIẾU - Trần
Nhật Phong
(HNPD) Tôi nhớ năm 1990, lúc còn theo học ở New
York, thời điểm đó tôi vừa học vừa làm, ban ngày đi học, ban tối thì làm trong
một nhà hàng tàu (ông chủ là người Hongkong), tôi biết nói tiếng Quảng Đông,
nhưng chỉ biết nói không biết viết, nên không lấy order được, và ông chủ thì
không muốn cho sinh viên như tôi làm busboy, nên đẩy tôi xuống bếp.
Người Hongkong thường gọi mấy ông Chief cook là sư
phụ, đầu bếp chính ở nhà hàng mà tôi làm cũng là người Hongkong, gia đình của
ông từ Phật Sơn di cư đến Hongkong và cuối cùng di dân qua Mỹ.
Tôi nhớ có một lần, khi ông chủ nhà hàng xuống tận bếp,
nói với sư phụ rằng, có vài người khách Mỹ ngồi bàn VIP, muốn sư phụ đích tay
làm vài món ngon lên cho họ, nhưng lại không nói rõ là họ order những món ăn
gì.
Vị đầu bếp gọi tôi tới, ông pha một ấm trà ngon và
biểu tôi bưng lên bàn VIP, rồi căn dặn tôi quan sát thái độ của những người
khách nói cho ông biết.
Tôi ngạc nhiên, nhưng vẫn theo lời dặn của ông, bưng
ấm trà và 4 chiếc tách lên bàn VIP, sau đó xuống kể cho ông nghe về thái độ của
từng người trong bàn.
Vị sư phụ không nói gì cả, ông nấu thật nhanh và để
tất cả thức ăn trong một chiếc mâm, rồi kêu tôi bưng mâm theo ông lên bàn VIP.
Tại bàn ông đưa từng món cho từng người, mà không hề nói một lời nào.
Kết quả 4 người khách ăn rất ngon miệng và thưởng
cho tôi và sư phụ $40 tiền tip (số tiền này thời 90 rất lớn), tôi khá thắc mắc
là tại sao vị sư phụ lại biết rõ khẩu vị của 4 người khách kia, vì họ cũng
không phải là khách quen đến ăn mổi ngày, sau đó tôi hỏi sư phụ làm sao biết
người nào ăn cái gì, và ông trả lời:
- Cái
người chưa ngồi xuống đã nói liên tục, người này mổi ngày tiêu hao năng lượng rất
nhiều, nên tao mới làm món thịt bò cho ông ta, vì ông ta cần ăn nhiều thịt đẩy
lấy lại năng lượng, còn cái người chưa ngồi xuống mà lấy khăn giấy lau ghế, lau
mặt bàn rồi xin thêm khăn giấy, người này vốn kỷ lưởng về sức khỏe, nên thích
ăn rau nhiều hơn, tao làm món chay cho ông ta, 2 người còn lại trẻ tuổi lại xin mày cây nĩa chứ
không dùng đủa, là những người chưa quen thuộc với đồ ăn Á Đông, nên tao làm
món hủ tiếu xào dể ăn nhất cho họ.
Giải thích xong ông nói thêm rằng, nghề nấu ăn ngoài
trừ tay nghề ra, phải hiểu rõ tâm lý của khách hàng và phải biết quan sát để
đoán biết cá tánh của con người, thế là tôi học được bài học quí giá từ vị sư
phụ người Hongkong, cách quan sát con người qua sự ăn uống.
Bài học này tôi đã áp dụng trong đời sống hơn 20 năm
qua, dù có đôi lúc hơi bị “trật búa rìu” nhưng tựu chung đa phần lại rất trúng,
nhờ đó mà tôi tránh được nhiều xung khắc trong xã hội.
Hơn 20 năm qua theo nghề truyền thông, từ báo nói
(radio), báo hình (TV) cho đến báo viết, tôi tiếp xúc đủ loại người, từ những
thương gia chỉ biết làm ăn, từ những “ông anh lớn” của nghề truyền thông, cho đến
những người bạn trong giới văn nghệ sĩ, hay thực dụng như những người làm nghề
nail, kể cả những đứa em “giang hồ”, tôi lại học được nhiều bài học khác về
nhân sinh, cách ứng xử, lối ăn nói, tóm lại đều là những bài học quí để áp dụng
trong cuộc sống hàng ngày.
Tuy nhiên, sau hơn một tháng theo Phượng Mai, bà xã
tôi vào nghề bán Hủ Tiếu, có lẽ đây là bài học lớn nhất mà tôi học được, đó là
cách ứng xử bằng ….Trái tim, bằng cảm xúc của chính bản thân.
Khi mở tiệm Hủ Tiếu, như bao người khác, tôi phải
tính toán chi ly từng chi tiết, để cân, đo,đong, đếm làm thế nào để không bị lỗ
lã và có chút tiền lời trang trãi mọi thứ.
Ngược lại với tôi, bà xã tôi lại khác, lối hành xữ của
Phượng Mai luôn theo cảm tính của một người nghệ sĩ, khi mua vật dụng nấu cho
khách, cô luôn quan niệm chọn cái ngon, tươi trước, trong khi tôi luôn nhìn vào
….giá cả.
Khi nấu cho khách, có những việc vụn vặt không cần
thiết, tôi muốn bỏ qua nhưng Phượng Mai lại để tâm rất kỷ, từ lúc pha chế nước
sốt, cách cắt thịt, “trụng tôm” cho đến việc trụng bánh Hủ Tiếu, tất cả đều phải
đúng ‘qui trình” không được sai sót, rớt một chiếc muổng trong bếp, cô bắt nhân
viên phải lập tức rửa ngay, dù đang lúc bận rộn nhất. Tôi cằn nhằng thì Phượng
Mai trả lời tỉnh queo “tô hủ tiếu anh cũng có phần ăn, không thể sai sót”.
Khi tiếp xúc với khách hàng bên ngoài, có những người
khách vô cùng khó tính, trong khi tôi cố gắng nở nụ cười để tiếp đãi thì Phượng
Mai tự nhiên hơn, cô tâm tình với khách, lắng nghe và giải thích, đôi khi có những
điều “không nên nói” trong nghề, cô cũng tự nhiên nói “huỵch tẹt” ra luôn.
Vậy mà thực khách trở lại nhiều lần, và nói thẳng với
tôi “thích con người của Phượng Mai”, mộc mạc, bình dân, trong khi tôi thì họ
cười “còn láu cá” lắm.
Thì ra triết lý cuộc sống vốn kỳ lạ, khi con người
nghĩ rằng, lối hành xử đúng mực thước, đúng lối chuyên nghiệp mà xã hội Mỹ đòi
hỏi, thì chưa chắc đã chiếm được cảm tình của người khác, còn lối ứng xử tự nhiên,
mộc mạc xuất phát từ trái tim, đôi lúc có vẽ như không “hợp lúc, hợp thời” thì
lại được nhiều người có cảm tình hơn.
Bà xã tôi vốn là con nhà nòi của ngành sân khấu,
không ăn học nhiều, tất cả những cách ứng xử, đều từ sân khấu, từ khán giả của
Phượng Mai chứ không phải từ học đường, và những thói quen đó đã theo bà xã tôi
nhiều năm, nó ăn sâu vào trái tim của bà xã và trở thành tự nhiên.
Trong khi tôi tự cho là mình “thông minh”, hiểu nhiều,
thì ít được cảm tình của mọi người hơn và rất “khó gần gủi”, hay nói một cách
khác là những người tiếp xúc với tôi lần đầu tiên, đều có thành kiến là tôi
“láu cá”.
Có lẽ trong xã hội, khi con người tự cho là mình
thông minh quá, tự tin quá sẽ biến thành một thứ gì đó giả tạo, không thật và
luôn làm cho người đối diện phải đề phòng, không tin tưởng.
Còn cách ứng xử tự nhiên, xuất phát từ trái tim, có
một điều gì đó huyền diệu, luôn chinh phục được cảm tình của nhiều người, học mộc
mạc, bình dân và nói “thẳng như ruột ngựa” thì đều được trân quí.
Nhờ nghề hủ tiếu, tôi lại học được thêm một bài học
mới, những ngôn từ hoa mỹ, đẹp đẽ chỉ có thể chinh phục người khác trong ngắn hạn,
đôi khi lại khiến họ sợ hãi, trong khi những từ ngữ nói ra từ trái tim, không
qua chạy qua khối óc, thì chính là “bề
sâu” của triết lý cuộc sống, quả thật rất “đơn giản”.
Nhưng chữ “đơn giản’ này tôi phải học cả một đời, bước
vào tuổi trung niên mới thẩm thấu được cách ứng xử bằng trái tim, nó lâu bên
hơn tất cả những “bao bì” khác, được bọc bằng ngôn từ hoa mỹ.
Và tự nhiên tôi lại yêu tô hủ tiếu đến như vậy, cả
tháng này tôi ăn hủ tiếu hơn bao giờ hết trong cuộc đời của mình, vì nhờ tô hủ
tiếu, tôi lại được hiểu thêm “công lực” của trái tim con người đến mức độ nào,
và như Duyên Anh đã từng nói trong tác phẩm “Nhà Tôi” của anh “ không cần cao
xa như tôn giáo, không cần hoa mỹ như nhà thơ, nhà văn, mà chỉ cần tình người”.
Tô hủ tiếu của Phượng Mai có lẽ sẽ còn nhiều bài học
cho tôi ở những năm tháng cuối đời, hãy sống bằng trái tim hơn là khối óc, nó sẽ
tạo ra niềm tin giữa con người và con người.
TRẦN NHẬT PHONG (HNPD)