Văn Học & Nghệ Thuật
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH: NGUYỄN DU VIẾT VỀ NHẠC PHI (1103-1142)
Năm 1813 trên đường đi sứ từ 9-8 đến22-8 năm Quý Dậu Nguyễn Du đi qua Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam, ở phía Nam thành Hứa Xương nơi Nhạc Phi đóng quân. Nguyễn Du viết bài Yển Thành Nhạc Vũ M
Năm 1813 trên đường đi sứ từ 9-8 đến22-8 năm Quý Dậu Nguyễn Du đi qua Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam, ở phía Nam thành Hứa Xương nơi Nhạc Phi đóng quân. Nguyễn Du viết bài Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ. Năm 1790 trên bước đường đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc (1787-1790) Nguyễn Du từng dừng chân ở Tây Hồ, Hàng Châu nơi Miếu Nhạc Phi dưới chân núi Thê Hà, Nguyễn Du đã làm 5 bài thơ trong lúc chờ đợi gặp lại Nguyễn Đại Lang, một bài viết về Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị.
*Tiến
sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
http://www.diendantheky.net/2016/10/ts-pham-trong-chanh-nguyen-du-viet-ve.html
Năm 1813 trên đường đi sứ từ 9-8 đến22-8 năm Quý Dậu Nguyễn Du đi qua Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam, ở phía Nam thành Hứa Xương nơi Nhạc Phi đóng quân. Nguyễn Du viết bài Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ. Năm 1790 trên bước đường đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc (1787-1790) Nguyễn Du từng dừng chân ở Tây Hồ, Hàng Châu nơi Miếu Nhạc Phi dưới chân núi Thê Hà, Nguyễn Du đã làm 5 bài thơ trong lúc chờ đợi gặp lại Nguyễn Đại Lang, một bài viết về Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị.
Nhạc Phi là một
anh hùng dân tộc được kính trọng tại Trung Quốc, học sinh từ Tiểu Học học riêng
một chương về anh hùng Nhạc Phi.
Nhạc Phi người
thời Nam Tống, quê huyện Thang Âm, Tương Châu. Nhà nghèo ham học giỏi cả văn lẫn
võ, yêu thích sách binh pháp Tôn Tử và Ngô Khởi. Ông sinh ra vào thời nước Liêu
và Đại Kim xâm lăng nhà Tống.
Liêu
(907/916-1125) còn gọi là Kiết Đan Quốc do thủ lĩnh Kiết Đan là Da Luật A
Bảo
Cơ thành lập kinh đô tại Lâm Hoàng Phủ, nay là Nam Ba La Thành, Nội
Mông. Cai trị trong 331 năm. Thời toàn thịnh lãnh thổ Liêu từ Nội Mông
đến biển Nhật Bản.
Năm 1218 Liêu bị Đại Kim xâm lăng.
Đại Kim
(1115-1234) là một triều đại do bộ tộc Nữ Chân gây dựng. Thủ lĩnh Hoàn Nhan A Cốt
Đà sau khi thống nhất các bộ tộc Nữ
Chân, dựng nước đặt đô tại Hội Ninh Phủ, nay thuộc A Thành, Hắc Long Giang, quốc
hiệu là Đại Kim. Nước Kim tiêu diệt nhà Liêu và đánh Bắc Tống, lãnh thổ
bao trùm Hoa Bắc cùng khu vực Hoa Trung,
toàn vùng phía Bắc núi Tần Lĩnh và sông Hoài. Tây Hạ, Nam Tống và các bộ
tộc khác đều thần phục. Năm 1234 Đại Kim bị Mông Cổ và Nam Tống hợp đánh hai mặt
Bắc, Nam. Kim bị diệt vong.
Năm 1124, Nhạc
Phi 19 tuổi đầu quân được bổ nhiệm Tiểu đội trưởng, tham gia liên quân Tống -
Kim diệt Liêu.
Năm 1125, sau
khi Liêu bị diệt, quân Kim lại tràn qua biên ải xâm lăng Tống.
Năm 1126 Nhạc
Phi lại tòng quân diệt Kim, bà mẹ xâm trên mình 4 chữ Tận Trung Báo Quốc.
Bắc Tống bị diệt,
kinh đô Khai Phong bị phá, hai vua Đại Tống là Huy Tông và Khâm Tông bị triều
Kim bắt đem về Hoàng Long.
Vua Cao Tông lên
ngôi, chạy về phía Nam đóng đô tại Lâm An (Hàng Châu). Nhạc Phi dâng sớ trách mắng
chủ trương phái chủ hoà. Vua không nghe, các quan khép tội, quan nhỏ và vượt chức
dâng sớ đòi bãi chức.
Là một viên tướng
can đảm, hiểu biết chiến thuật. Nhạc Phi dành nhiều thắng lợi trong các trận
chiến chống lại quân Kim. Chiếm ưu thế mà quân đối phương gặp phải trong địa
hình đồi núi phương Nam Trung Quốc. Ông đánh thắng quân Kim 126 trận lớn nhỏ, mặc
dù quân ít hơn. Ông dành lại lãnh thổ phía Nam sông Dương Tử và sông Hoài. Được
phong làm Đại Nguyên Soái. Ông nhắm đến
thu hồi các vùng đất phía Bắc của Nam Tống bị mất. Các quan phái chủ hòa chống
lại cho rằng chiến tranh lâu dài làm hao tổn, tốn kém.
Bản thân vua Cao
Tông cũng sợ đánh Hoàng Long kinh đô Đại Kim, cha là vua Huy Tông, và anh là
vua Khâm Tông bị người Kim bắt trở về vua Cao Tông sẽ bị mất ngôi. Nhà vua chỉ thích được thụ hưởng,
xây cất cung điện, an phận thần phục Đại Kim, hơn là dành chi phí cho chiến
tranh. Chiến công Nhạc Phi và uy danh lấn
áp cả nhà vua và Tể tướng Tần Cối, nên họ quyết định ra tay trừ khử. Tể tướng Tần Cối mạo lệnh trong một ngày hạ mười
hai tấm thẻ bài gọi Nhạc Phi về và hạ ngục giết đi để làm vui lòng người Kim. Nhạc
Phi hưởng dương 39 tuổi. Về sau vua Hiếu Tông (1163-1189) giải nổi oan khuất, cải
táng tại đất Ngạc, ban hiệu là Trung Liệt, ban thụy là Vũ Mục sau đó được phong
làm Ngạc Vương. Ông được tuyên dương là bậc sĩ phu, dũng liệt trung thần, anh
hùng dân tộc. Chuyện Nhạc Phi được viết thành tiểu thuyết lịch sử Nhạc Phi diễn
nghĩa, và là đề tài của nhiều vở tuồng. Đền thờ và mộ của ông ở chân núi Thê Hà
bên Hồ Tây là một thắng cảnh được nhiều người thăm viếng. Đền được xây dựng từ
thế kỷ 12. Miếu Nhạc Phi ngày nay là một thắng cảnh danh tiếng Hàng Châu, các
Tour du lịch đều cho đi thăm. Mộ ông và mộ con trai Nhạc Vân cùng bị giết đơn
sơ dưới cội tùng. Trước mộ có bức tượng
vẽ hình ông ngồi cầm gươm với câu : Hoàn
Ngã Giang Sơn, Trả lại giang sơn cho ta. Trước mộ có 4 câu đối : Thanh Sơn hữu hạnh mai trung cốt. Bạch thiết
vô cơ chú nịnh thần. Núi xanh may mắn làm nơi chôn cất người trung lương. Sắt
trắng uổng thay đúc tượng nịnh thần.
Trong miếu còn có tượng Tần Cối và vợ là Vương
Thị, tên Giám ngục Vạn Sĩ Tiết, tướng Trương Tuấn, được đúc bằng sắt cho người
qua lại đánh đập sỉ vả, khạc nhổ.
Nguyễn Du viết :
Thời bấy giờ quân của Nhạc tướng công đóng ở đây. Vùng đất này từ cổ đến nay đã
từng trải qua bao cát bụi chiến trận. Đại tướng luống mang nỗi sỉ nhục của đất
nước. Nhưng nhà vua đã dứt bỏ tình thân của cha anh (vì sợ mất ngôi). Mười hai
tấm thẻ bài để lại nỗi hận. Ba ngàn quân thiết kỵ chỉ còn lại đám mây chiều. Mười
năm huyết chiến để làm nên cái việc bị giết ở Phong Ba Đình để triều đình tạ tội
với người Kim. Phong Ba Đình là một đình trong ngục Đại Lý Tự nơi Nhạc Phi và
con trai bị giết ngày 25 tháng 12 ÂL năm
Thiệu Hưng thứ 11 (1141) nay còn di tích ở Hàng Châu.
YỂN THẢNH
NƠI
NHẠC VŨ MỤC
RÚT QUÂN
Nơi
xưa Nhạc Vũ đóng quân doanh,
Cát
bụi xưa nay đất chiến tranh.
Đại
tướng luống mang hờn quốc nhục,
Quân
vương dứt nghĩa hận cha anh.
Kim
bài chục tấm còn lưu hận,
Thiết
kỵ ba ngàn mây tối buông.
Huyết
chiến mười năm đành bỏ cuộc,
Phong Ba Đình chết tạ Kim nhân.
Nhất Uyên dịch
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
YỂN THÀNH NHẠC VŨ MỤC BAN
SƯ XỨ
Đương thời tằng trú Nhạc gia quân,
Thử địa kinh kim hữu chiến trần.
Đại tướng không hoài bang quốc sỉ,
Quân vương dĩ tuyệt phụ huynh thân.
Kim bài thập nhị hữu di hận,
Thiết kỵ tam thiên không mộ vân,
Huyết chiến thập niên thành để sự,
Phong Ba Đình hạ tạ Kim Nhân.
Nhạc Phi có bài thơ Mãn
Giang Hồng, danh tiếng nói lên khí khái, mối hận của mình, trước sỉ nhục, Bắc Tống bị diệt, vua bị bắt.
MÃN GIANG HỒNG
Tóc giận mũ tung,
Tựa hiên đứng,
Hắt hiu mưa ngừng,
Mắt trừng trừng,
Hét vọng trời xanh,
Lòng trai kích động.
Ba mươi tuổi công danh liền chiến trận.
Tám ngàn dậm đường mây với trăng.
Chẳng muốn nghỉ nhàn,
Bạc mái tóc thanh xuân,
Buồn bi thiết.
Mối nhục Tĩnh Khang,
Còn chưa rửa,
Thần dân hận,
Khi nào tan.
Cỡi binh xa quyết san bằng núi,
Đói : Chí lớn ăn
thịt Hồ tặc,
Khát : nói cười uống máu giặc Hung Nô.
Rồi đây khôi phục lại giang sơn.
Dâng lên cung khuyết.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
MÃN GIANG HỒNG
Nộ phát xung quan,
Bằng lan xứ,
Tiêu tiêu vũ yết,
Đài vọng nhãn,
Ngưỡng thiên trường khiếu,
Tráng hoài kích liệt.
Tam thập công danh dữ trần thố,
Bát thiên ký lộ vân hoà nguyệt.
Mạc đẵng nhàn, bạc liễu thiếu niên đầu.
Không bi thiết.
Tỉnh Khan sỉ,
Do vị truyết,
Thần tử hận,
Hà thời diệt.
Giá trường xa đạp
phá hạ sơn khuyết,
Tráng chí cơ san Hồ lỗ nhục.
Tiếu đàn khác ẩm Hung Nô huyết,
Đãi tòng đầu, thu thập cựu sơn hà,
Triều thiên khuyết.
Năm
1790, Nguyễn Du đã viết 5 bài thơ tại Nhạc Vũ Mục mộ tại Hàng Châu. Nơi này
Nguyễn Du làm thơ nhiều nhất so với các danh thắng đã đi qua.
Bài
Nhạc Vũ Mục Mộ, Nguyễn Du viết: Ông là vị
anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên, với chiếc thương dài
trượng tám, và chiếc cung giương nặng sáu thạch. Ở tướng phủ người ta ghép tội
ông bằng cái án ba chữ: “tam tự ngục”. Khi Tần Cối khép Nhạc Phi vào tội tử
hình; Đại tướng Hàn Thế Trung hỏi: Có tội
gì ? Cối trả lời: Mạc tư hữu (Chẳng
cần có). Về sau người ta gọi đó là : tam
tự ngục. Trong quân còn tiếc công ông mười năm trời. Sông hồ còn đó, nhưng
anh hùng mất rồi nước Nam Tống rỗng không. Cây tùng cây bách vẫn ngạo nghễ trước
gió bấc lao xao. Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An thấy núi Thê Hà chìm trong
khói chiều.
MỘ NHẠC VŨ MỤC
Trung nguyên trăm trận xuất anh hùng,
Trượng tám thương thần, sáu thạch cung.
Tướng phủ tội hình ba chữ án,
Trung quân thương tiếc mười năm công.
Sông hồ đâu kẻ hùng Nam Tống,
Tùng bách kiên cường trước Bắc Phong.
Hoài vọng Lâm An lăng miếu cũ,
Thê Hà chìm đắm khói sương dâng.
Bản dịch thơ Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
NHẠC
VŨ MỤC MỘ
Trung nguyên bách chiến xuất anh hùng,
Trượng bát thần thương, lục thạch cung.
Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục.
Quân môn do tích thập niên công.
Giang hồ xứ xứ không Nam Quốc,
Tùng bách tranh tranh ngạo Bắc phong.
Trường vọng Lâm An cựu lăng miếu.
Thê Hà sơn tại mộ yên trung.
Chú
thích:
Thạch: 120 cân Trung Quốc.
Lâm
An: kinh đô Nam Tống nay là Hàng Châu,
trên sông Tiền Đường.
Thê
Hà: tên quả núi ở Hàng Châu cạnh Tây Hồ, dưới chân núi có mộ Nhạc Phi.
Nguyễn
Du viết hai bài Tượng Tần Cối. Bài I.
Cây cối
cạnh điện nhà vua năm nào nay đã bửa làm củi rồi. Mà tên Cối lại đến dựa dẫm
bên mộ Nhạc Vương. Nguyễn Du chơi chữ Cối trong điện cối, cây cối bên cung điện
và tên Tần Cối. Đúng sai là chuyện để ngàn năm định luận. Cái tượng Tần Cối
thân giả ấy, dù có đánh chửi có biết đau đớn gì đâu ? Cứng cát như thế rõ là
con người sắt. Cớ sao lại khúm núm thờ quân Kim. Ai bảo kẻ này không có công gì
ở đời ? Muôn năm sau còn có thể làm cho bọn gian thần phải sợ.
TƯỢNG
TẦN CỐI I
Cây cối điện xưa thành củi rồi,
Nhạc Vương mộ đây Cối nương thời.
Đúng sai chuyện cũ ngàn năm luận,
Đánh mắng giả thân, mất công thôi.
Mặt sắt trơ trơ hình tượng đó.
Quân Kim luồn cúi nhục thân đời,
Kẻ này chớ bảo công không có,
Vạn cổ gian thần gương sáng soi.
bản
dịch Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
TẦN
CỐI TƯỢNG I
Điện cối hà niên chùy tác tân.
Khước lai y bạng Nhạc Vương phần.
Thị phi tẫn thuộc thiên niên sự,
Đả mạ hà thương nhất giả thân.
Như thử tranh tranh chân thiết hán,
Nại hà mĩ mĩ sự Kim nhân ?
Thùy vân ư thế vô công liệt ?
Vạn cổ do năng cụ loạn thần.
Chú
thích:
Nhạc
Vương: Tước phong Nhạc Phi sau khi chết chôn ở đất Ngạc, nên phong là Ngạc
Vương. Nhưng người đời quen gọi là Nhạc Vương.
Bài
Tượng Tần Cối II. Gác Cách Thiên lầu ngọc đều đổ nát. Nhưng đứa
gian phi vẫn còn đây. Suốt đời trái tim đen tối của nó vẫn đầy nọc đọc. Nghìn
năm cục sắt sống kia phải chịu nỗi oan lạ lùng. Trong ngục người trung thần khi
sống đã phải đổ máu. Dưới thềm kẻ gian chết rồi vẫn hành tội. Nó cũng bất hủ
như bậc công thần. Cái phúc lạ lùng tày trời của nó thật là vô lý.
TẦN
CỐI TƯỢNG II
Cách Thiên gác đổ ngọc lầu tàn,
Nhưng vẫn còn đây một kẻ gian.
Một kiếp tim đen đầy nọc độc,
Nghìn năm thỏi sắt chịu hàm oan.
Trung thần trong ngục sống tuôn máu,
Gian tặc dưới thềm chết vẫn hành.
Gian xảo, trung thần cùng bất tử,
Lạ lùng cái phúc thật vô công.
bản
dịch thơ Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
TẦN
CỐI TƯỢNG II
Cách Thiên gác hủy, ngọc lâu tàn,
Do hữu ngoan bì tại thử gian.
Nhất thể tử tâm hoài đại độc,
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan.
Ngục trung dĩ tiễn sinh tiền huyết,
Giai hạ đồ tru tử hậu gian.
Đắc dữ trung thần đồng bất hủ,
Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan.
Chú
Thích:
Các
Thiên Các: nhà của Tần Cối ở, có treo tấm
biển đề bốn chữ Nhất Đức Cách Thiên, nên gọi là Cách Thiên các. Bốn chữ ấy tự
tay vua Huy Tông nhà Tống viết tặng Tần Cối: Nghĩa là vua tôi cùng có một đức
thuần nhất có thể cảm thông được lòng trời. Nhưng khi vua Huy Tông bị bắt làm
tù binh nước Kim, Tể tướng Tần Cối cùng bị bắt nhưng được tha và chủ trương chủ
hòa, chịu thần phục Kim, nhường đất phía Bắc sông Hoài cho Kim, trở thành công
cụ cho Đại Kim, bỏ rơi nhà vua trong ngục và bắt giết Nhạc Phi để làm vui lòng
nhà Kim.
Bài
Vương Thị Tượng I. Vương Thị là vợ tên
gian thần Tần Cối. Lưỡi dài ba tấc của thị để làm gì ? Khéo kẻ quyền gian kết
làm vợ chồng. Ngày bắt được hổ là trừ được mối lo về sau; thì còn ai hỏi đến
cái công sau này uống rượu mừng ở Hoàng Long. Tống bị Kim xâm lăng, Tần Cối chủ
hòa. Nhạc Phi chủ trương đánh. Tần Cối giả lệnh vua bắt Nhạc Phi hạ ngục và giết
đi, coi như bắt được hổ, nếu để thoát, e có mối lo về sau. Nhạc Phi khi cầm
quân đánh Kim, có hẹn với tướng sĩ rằng: Thẳng đến Hoàng Long cùng các ngươi uống
chén rượu mừng. Hoàng Long là thủ đô nhà Kim nay ở tỉnh Liêu Đông. Một đời bụng
dạ Vương Thị giống hệt như chồng. Nghìn năm hình hài thị làm nhục nữ giới. Việc
đó nghĩ đến ba chữ: Mạc tư hữu (Chẳng cần có) biết đâu là lời nói riêng của thị
trong khuê phòng không ai biết được.
TƯỢNG
VƯƠNG THỊ I
Lưỡi dài ba tấc làm chi chăng ?
Cùng kẻ quyên gian kết vợ chồng.
Định chuyện lo sau giam Hổ lại,
Còn chi công trước rượu Long mừng.
Một đời bụng dạ như chồng hệt,
Nghìn thuở dung nhan nhục má hồng.
Nghĩ đến một câu: Chả cần có ?
Biết đâu lời thị chốn khuê phòng.
Bản
dịch Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
VƯƠNG
THỊ TƯỢNG I
Thiệt trường ba xích cánh hà vi ?
Hảo dữ quyền gian bị xướng tùy.
Hậu hoạn chính ân cầm hổ nhật,
Tiền công an vấn ẩm long kỳ.
Nhất sinh tâm tích
đồng phu tế,
Thiên cổ hình hài nhục nữ nhi.
Để sự tưởng lai “mạc tư hữu “
Khuê trung tư ngữ cánh thùy tri.
Chú
thích:
Ba
xích: Văn bản chép ba xích là ba thước, có lẽ lầm lẫn do người chép văn bản,
nên chữa lại là ba tấc.
Bài
Vương Thị Tượng II. Mưu mô sâu sắc hơn cả chồng, thị là hạng gà mai gáy sớm bậc
nhất. Thị có cái lưỡi ba tấc bất hủ, thân hình nay lại được đúc bằng gan thép
lưu truyền lại muôn thuở. Trọn đạo xướng tùy chắc không có gì hối hận. Thủ đoạn
bằng nhau nên càng ăn ý với nhau. Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh. Chính thị đã
phá vỡ quân đội của Nhạc Phi.
TƯỢNG
VƯƠNG THỊ II
Mưu mô sâu sắc cả hơn chồng,
“Gà mái gáy sớm” nhất tiếng danh.
Ba tấc lưỡi mềm trời phú thế,
Nghìn năm thân rắn thép gang thành.
Xướng tùy trọn đạo lòng cùng sướng.
Xảo quyệt tương thân dạ kết đồng.
Chớ bảo nữ nhi không sức mạnh,
Phá quân Nhạc Vũ đến tan tành.
bản
dịch thơ Nhất Uyên.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
VƯƠNG
THỊ TƯỢNG II.
Thâm đồ mật toán thắng phu quân.
Ưng thị “thần kê” đệ nhất danh.
Bất lạn sĩ sinh tam thốn thiệt.
Thuần cương hoàn đắc vạn niên thân.
Xướng tùy tận đạo ưng vô hối.
Kỹ lưỡng đồng niên cánh khả thân.
Mạc đạo nữ nhi vô lực lượng,
Dã tằng hám phá Nhạc gia quân. !
Chú
thích:
Thần
Kê: do câu Tẫn kê tự thần, gà mái gáy
sớm, chỉ người đàn bà lộng quyền.
Nhạc
Gia quân: quân họ Nhạc. Quân Kim rất sợ Nhạc Phi, thường bảo nhau: Chuyển núi
thì dễ, phá quân đội của Nhạc Phi thì khó.
Khi
đi sứ năm 1813 Nguyễn Du đi qua Yển Thành nơi Nhạc Phi đóng quân, mà không đi
qua Miếu Nhạc Phi ở Hàng Châu.
Nguyễn
Du đã đến thăm mộ Nhạc Phi, bên Tây Hồ Hàng Châu năm 1790, năm 24 tuổi trong thời
gian ba năm đi giang hồ: đi khắp các con sông “Giang Bắc, Giang Nam cái túi
không” và thăm các thắng cảnh các đại hồ Trung Quốc. Chia tay Nguyễn Đại Lang ,
tức Nguyễn Đăng Tiến, tức Cai Già, tước Quản Vũ Hầu, quyền trấn thủ Thái Nguyên
thay Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Khản, người anh kết nghĩa đồng sinh tử với Nguyễn
Du, đồng cùng khổ khi bị bắt làm tù binh tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm và cùng được
tha chết cho đi đâu thì đi. Họ đi Vân Nam sau đó đến Liễu Châu, Nguyễn Đại Lang
về thăm quê cũ Việt Đông và hẹn gặp lại tại Trung Châu hai năm sau. Điểm hẹn là
Miếu Nhạc Phi, nơi đây Nguyễn Du rãnh rỗi chờ đợi đã viết 5 bài thơ. Theo tôi
thì Nguyễn Du nhà sư Chí Hiên, ở cách đó
không xa chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải tức Minh Sơn hoà thượng từng tu hành, phía
Tây Tây Hồ, có con đê Tô, do nhà thơ Tô Đông Pha lúc làm Thứ sử Hàng Châu đã
xây dựng vào Thế kỷ XI. Con đê dài 2,8 km có sáu cây cầu băng ngang Tây Hồ, (vị
trí gần giống như con đường Cổ Ngư nối liền chùa Trấn Quốc và đền Trấn Võ, Hà Nội.)
Ban ngày Nguyễn Du đi thăm chờ đợi Nguyễn Đại Lang tại Miếu Nhạc Phi, ban đêm
trở về chùa Hổ Pháo tụng kinh Kim Cương làm công quả và ăn ngủ nơi đây. Chung
quanh Tây Hồ bên bờ liễu rũ quanh hồ và con đê Bạch ở phía Bắc nối liền với một
đảo nhỏ, do Bạch Cư Dị (772-846) khi làm thứ sử. Tại Tây Hồ Hàng Châu ta thấy
Nguyễn Du không say mê với chuyện Bạch Xà trên đê Bạch, không say mê với Bến Tầm
Dương thơ Bạch Cư Dị như Phan Huy Thực, mà chỉ xót thương với chuyện nàng Tiểu
Thanh của Từ Sĩ Tuấn, nàng Vương Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.
Cũng
chính nơi này Nguyễn Du đã có quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
đọc say mê và khởi sự diễn ca thơ lục bát. Hai bài thơ của Đoàn Nguyễn Tuấn
trong Hải Ông thi tập, trên đường đi sứ Tây Sơn năm 1790 gặp được nhà văn họ
Nguyễn, tại Hoàng Châu, tìm thấy đề tài trong sách để nói chuyện: Hồng Nhan đa
truân, cho ta đoán biết chi tiết này.
Trung
Quốc có những anh hùng áí quốc dũng liệt đáng trân trọng. Trung Quốc có những
thời đại bị mất nước, vua hèn, quan nịnh bợ cúi luồn trước giặc. Những thời đại
đau buồn ấy của Trung Quốc, đất nước Việt Nam luôn luôn mở rộng để chào đón những
người tị nạn. Thời nhà Trần ba lần chống Nguyên, có những tàn quân nhà Tống
chung lưng góp sức, thời cuối nhà Minh, bao nhiêu người Minh Hương chống nhà
Thanh xâm lược đã chọn Việt Nam làm nơi dung thân và trở thành người Việt Nam.
Thời cận đại bị Nhật Bản chiếm đóng hàng triệu người đã sang lập nên Chợ Lớn. Bà
Hoàng Hậu cuối cùng nhà Tống bị đắm tàu xác trôi đến Việt Nam, người Việt Nam
chôn cất lập đền Đền Cờn ở Nghệ An, Nguyễn Du có viết bài thơ nơi này. Người Việt
Nam trân trọng thờ Quan Công anh hùng Trung Quốc, thời Tam Quốc.
Viết
về Nhạc Phi, Nguyễn Du đã trân trọng tấm lòng trung quân ái quốc của Nhạc Phi.
Nguyễn Du không đánh đập, khạc nhổ trên tượng Tần Cối, Vương Thị như bao người;
nhưng bốn bài thơ viết về kẻ gian thần để lại tiếng danh cho ngàn năm kẻ gian
thần phải run sợ. Nguyễn Du đầy lòng nhân ái với phụ nữ nhưng với Vương Thị,
Nguyễn Du kết án là hạng gà mái gáy sớm, cái án tam tự ngục là lời thị trong chốn
khuê phòng, chính thị tâm đầu ý hợp hiệp đồng với gian thần Tần Cối, hình hài
thị làm nhục nữ giới, cái lưỡi xảo quyệt của thị đã phá tan quân bách chiến
bách thắng của Nhạc Phi. Làm nhà chính trị nên cẩn thận, muốn lưu tiếng thơm
hay tiếng xấu ? để một nhà thơ như Nguyễn
Du viết một bài thơ thì lưu tiếng lại muôn đời.
Paris
18-10-2016
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
http://www.diendantheky.net/2016/10/ts-pham-trong-chanh-nguyen-du-viet-ve.html
Bàn ra tán vào (0)
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH: NGUYỄN DU VIẾT VỀ NHẠC PHI (1103-1142)
Năm 1813 trên đường đi sứ từ 9-8 đến22-8 năm Quý Dậu Nguyễn Du đi qua Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam, ở phía Nam thành Hứa Xương nơi Nhạc Phi đóng quân. Nguyễn Du viết bài Yển Thành Nhạc Vũ M
Năm 1813 trên đường đi sứ từ 9-8 đến22-8 năm Quý Dậu Nguyễn Du đi qua Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam, ở phía Nam thành Hứa Xương nơi Nhạc Phi đóng quân. Nguyễn Du viết bài Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ. Năm 1790 trên bước đường đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc (1787-1790) Nguyễn Du từng dừng chân ở Tây Hồ, Hàng Châu nơi Miếu Nhạc Phi dưới chân núi Thê Hà, Nguyễn Du đã làm 5 bài thơ trong lúc chờ đợi gặp lại Nguyễn Đại Lang, một bài viết về Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị.
Nhạc Phi là một
anh hùng dân tộc được kính trọng tại Trung Quốc, học sinh từ Tiểu Học học riêng
một chương về anh hùng Nhạc Phi.
Nhạc Phi người
thời Nam Tống, quê huyện Thang Âm, Tương Châu. Nhà nghèo ham học giỏi cả văn lẫn
võ, yêu thích sách binh pháp Tôn Tử và Ngô Khởi. Ông sinh ra vào thời nước Liêu
và Đại Kim xâm lăng nhà Tống.
Liêu
(907/916-1125) còn gọi là Kiết Đan Quốc do thủ lĩnh Kiết Đan là Da Luật A
Bảo
Cơ thành lập kinh đô tại Lâm Hoàng Phủ, nay là Nam Ba La Thành, Nội
Mông. Cai trị trong 331 năm. Thời toàn thịnh lãnh thổ Liêu từ Nội Mông
đến biển Nhật Bản.
Năm 1218 Liêu bị Đại Kim xâm lăng.
Đại Kim
(1115-1234) là một triều đại do bộ tộc Nữ Chân gây dựng. Thủ lĩnh Hoàn Nhan A Cốt
Đà sau khi thống nhất các bộ tộc Nữ
Chân, dựng nước đặt đô tại Hội Ninh Phủ, nay thuộc A Thành, Hắc Long Giang, quốc
hiệu là Đại Kim. Nước Kim tiêu diệt nhà Liêu và đánh Bắc Tống, lãnh thổ
bao trùm Hoa Bắc cùng khu vực Hoa Trung,
toàn vùng phía Bắc núi Tần Lĩnh và sông Hoài. Tây Hạ, Nam Tống và các bộ
tộc khác đều thần phục. Năm 1234 Đại Kim bị Mông Cổ và Nam Tống hợp đánh hai mặt
Bắc, Nam. Kim bị diệt vong.
Năm 1124, Nhạc
Phi 19 tuổi đầu quân được bổ nhiệm Tiểu đội trưởng, tham gia liên quân Tống -
Kim diệt Liêu.
Năm 1125, sau
khi Liêu bị diệt, quân Kim lại tràn qua biên ải xâm lăng Tống.
Năm 1126 Nhạc
Phi lại tòng quân diệt Kim, bà mẹ xâm trên mình 4 chữ Tận Trung Báo Quốc.
Bắc Tống bị diệt,
kinh đô Khai Phong bị phá, hai vua Đại Tống là Huy Tông và Khâm Tông bị triều
Kim bắt đem về Hoàng Long.
Vua Cao Tông lên
ngôi, chạy về phía Nam đóng đô tại Lâm An (Hàng Châu). Nhạc Phi dâng sớ trách mắng
chủ trương phái chủ hoà. Vua không nghe, các quan khép tội, quan nhỏ và vượt chức
dâng sớ đòi bãi chức.
Là một viên tướng
can đảm, hiểu biết chiến thuật. Nhạc Phi dành nhiều thắng lợi trong các trận
chiến chống lại quân Kim. Chiếm ưu thế mà quân đối phương gặp phải trong địa
hình đồi núi phương Nam Trung Quốc. Ông đánh thắng quân Kim 126 trận lớn nhỏ, mặc
dù quân ít hơn. Ông dành lại lãnh thổ phía Nam sông Dương Tử và sông Hoài. Được
phong làm Đại Nguyên Soái. Ông nhắm đến
thu hồi các vùng đất phía Bắc của Nam Tống bị mất. Các quan phái chủ hòa chống
lại cho rằng chiến tranh lâu dài làm hao tổn, tốn kém.
Bản thân vua Cao
Tông cũng sợ đánh Hoàng Long kinh đô Đại Kim, cha là vua Huy Tông, và anh là
vua Khâm Tông bị người Kim bắt trở về vua Cao Tông sẽ bị mất ngôi. Nhà vua chỉ thích được thụ hưởng,
xây cất cung điện, an phận thần phục Đại Kim, hơn là dành chi phí cho chiến
tranh. Chiến công Nhạc Phi và uy danh lấn
áp cả nhà vua và Tể tướng Tần Cối, nên họ quyết định ra tay trừ khử. Tể tướng Tần Cối mạo lệnh trong một ngày hạ mười
hai tấm thẻ bài gọi Nhạc Phi về và hạ ngục giết đi để làm vui lòng người Kim. Nhạc
Phi hưởng dương 39 tuổi. Về sau vua Hiếu Tông (1163-1189) giải nổi oan khuất, cải
táng tại đất Ngạc, ban hiệu là Trung Liệt, ban thụy là Vũ Mục sau đó được phong
làm Ngạc Vương. Ông được tuyên dương là bậc sĩ phu, dũng liệt trung thần, anh
hùng dân tộc. Chuyện Nhạc Phi được viết thành tiểu thuyết lịch sử Nhạc Phi diễn
nghĩa, và là đề tài của nhiều vở tuồng. Đền thờ và mộ của ông ở chân núi Thê Hà
bên Hồ Tây là một thắng cảnh được nhiều người thăm viếng. Đền được xây dựng từ
thế kỷ 12. Miếu Nhạc Phi ngày nay là một thắng cảnh danh tiếng Hàng Châu, các
Tour du lịch đều cho đi thăm. Mộ ông và mộ con trai Nhạc Vân cùng bị giết đơn
sơ dưới cội tùng. Trước mộ có bức tượng
vẽ hình ông ngồi cầm gươm với câu : Hoàn
Ngã Giang Sơn, Trả lại giang sơn cho ta. Trước mộ có 4 câu đối : Thanh Sơn hữu hạnh mai trung cốt. Bạch thiết
vô cơ chú nịnh thần. Núi xanh may mắn làm nơi chôn cất người trung lương. Sắt
trắng uổng thay đúc tượng nịnh thần.
Trong miếu còn có tượng Tần Cối và vợ là Vương
Thị, tên Giám ngục Vạn Sĩ Tiết, tướng Trương Tuấn, được đúc bằng sắt cho người
qua lại đánh đập sỉ vả, khạc nhổ.
Nguyễn Du viết :
Thời bấy giờ quân của Nhạc tướng công đóng ở đây. Vùng đất này từ cổ đến nay đã
từng trải qua bao cát bụi chiến trận. Đại tướng luống mang nỗi sỉ nhục của đất
nước. Nhưng nhà vua đã dứt bỏ tình thân của cha anh (vì sợ mất ngôi). Mười hai
tấm thẻ bài để lại nỗi hận. Ba ngàn quân thiết kỵ chỉ còn lại đám mây chiều. Mười
năm huyết chiến để làm nên cái việc bị giết ở Phong Ba Đình để triều đình tạ tội
với người Kim. Phong Ba Đình là một đình trong ngục Đại Lý Tự nơi Nhạc Phi và
con trai bị giết ngày 25 tháng 12 ÂL năm
Thiệu Hưng thứ 11 (1141) nay còn di tích ở Hàng Châu.
YỂN THẢNH
NƠI
NHẠC VŨ MỤC
RÚT QUÂN
Nơi
xưa Nhạc Vũ đóng quân doanh,
Cát
bụi xưa nay đất chiến tranh.
Đại
tướng luống mang hờn quốc nhục,
Quân
vương dứt nghĩa hận cha anh.
Kim
bài chục tấm còn lưu hận,
Thiết
kỵ ba ngàn mây tối buông.
Huyết
chiến mười năm đành bỏ cuộc,
Phong Ba Đình chết tạ Kim nhân.
Nhất Uyên dịch
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
YỂN THÀNH NHẠC VŨ MỤC BAN
SƯ XỨ
Đương thời tằng trú Nhạc gia quân,
Thử địa kinh kim hữu chiến trần.
Đại tướng không hoài bang quốc sỉ,
Quân vương dĩ tuyệt phụ huynh thân.
Kim bài thập nhị hữu di hận,
Thiết kỵ tam thiên không mộ vân,
Huyết chiến thập niên thành để sự,
Phong Ba Đình hạ tạ Kim Nhân.
Nhạc Phi có bài thơ Mãn
Giang Hồng, danh tiếng nói lên khí khái, mối hận của mình, trước sỉ nhục, Bắc Tống bị diệt, vua bị bắt.
MÃN GIANG HỒNG
Tóc giận mũ tung,
Tựa hiên đứng,
Hắt hiu mưa ngừng,
Mắt trừng trừng,
Hét vọng trời xanh,
Lòng trai kích động.
Ba mươi tuổi công danh liền chiến trận.
Tám ngàn dậm đường mây với trăng.
Chẳng muốn nghỉ nhàn,
Bạc mái tóc thanh xuân,
Buồn bi thiết.
Mối nhục Tĩnh Khang,
Còn chưa rửa,
Thần dân hận,
Khi nào tan.
Cỡi binh xa quyết san bằng núi,
Đói : Chí lớn ăn
thịt Hồ tặc,
Khát : nói cười uống máu giặc Hung Nô.
Rồi đây khôi phục lại giang sơn.
Dâng lên cung khuyết.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
MÃN GIANG HỒNG
Nộ phát xung quan,
Bằng lan xứ,
Tiêu tiêu vũ yết,
Đài vọng nhãn,
Ngưỡng thiên trường khiếu,
Tráng hoài kích liệt.
Tam thập công danh dữ trần thố,
Bát thiên ký lộ vân hoà nguyệt.
Mạc đẵng nhàn, bạc liễu thiếu niên đầu.
Không bi thiết.
Tỉnh Khan sỉ,
Do vị truyết,
Thần tử hận,
Hà thời diệt.
Giá trường xa đạp
phá hạ sơn khuyết,
Tráng chí cơ san Hồ lỗ nhục.
Tiếu đàn khác ẩm Hung Nô huyết,
Đãi tòng đầu, thu thập cựu sơn hà,
Triều thiên khuyết.
Năm
1790, Nguyễn Du đã viết 5 bài thơ tại Nhạc Vũ Mục mộ tại Hàng Châu. Nơi này
Nguyễn Du làm thơ nhiều nhất so với các danh thắng đã đi qua.
Bài
Nhạc Vũ Mục Mộ, Nguyễn Du viết: Ông là vị
anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên, với chiếc thương dài
trượng tám, và chiếc cung giương nặng sáu thạch. Ở tướng phủ người ta ghép tội
ông bằng cái án ba chữ: “tam tự ngục”. Khi Tần Cối khép Nhạc Phi vào tội tử
hình; Đại tướng Hàn Thế Trung hỏi: Có tội
gì ? Cối trả lời: Mạc tư hữu (Chẳng
cần có). Về sau người ta gọi đó là : tam
tự ngục. Trong quân còn tiếc công ông mười năm trời. Sông hồ còn đó, nhưng
anh hùng mất rồi nước Nam Tống rỗng không. Cây tùng cây bách vẫn ngạo nghễ trước
gió bấc lao xao. Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An thấy núi Thê Hà chìm trong
khói chiều.
MỘ NHẠC VŨ MỤC
Trung nguyên trăm trận xuất anh hùng,
Trượng tám thương thần, sáu thạch cung.
Tướng phủ tội hình ba chữ án,
Trung quân thương tiếc mười năm công.
Sông hồ đâu kẻ hùng Nam Tống,
Tùng bách kiên cường trước Bắc Phong.
Hoài vọng Lâm An lăng miếu cũ,
Thê Hà chìm đắm khói sương dâng.
Bản dịch thơ Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
NHẠC
VŨ MỤC MỘ
Trung nguyên bách chiến xuất anh hùng,
Trượng bát thần thương, lục thạch cung.
Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục.
Quân môn do tích thập niên công.
Giang hồ xứ xứ không Nam Quốc,
Tùng bách tranh tranh ngạo Bắc phong.
Trường vọng Lâm An cựu lăng miếu.
Thê Hà sơn tại mộ yên trung.
Chú
thích:
Thạch: 120 cân Trung Quốc.
Lâm
An: kinh đô Nam Tống nay là Hàng Châu,
trên sông Tiền Đường.
Thê
Hà: tên quả núi ở Hàng Châu cạnh Tây Hồ, dưới chân núi có mộ Nhạc Phi.
Nguyễn
Du viết hai bài Tượng Tần Cối. Bài I.
Cây cối
cạnh điện nhà vua năm nào nay đã bửa làm củi rồi. Mà tên Cối lại đến dựa dẫm
bên mộ Nhạc Vương. Nguyễn Du chơi chữ Cối trong điện cối, cây cối bên cung điện
và tên Tần Cối. Đúng sai là chuyện để ngàn năm định luận. Cái tượng Tần Cối
thân giả ấy, dù có đánh chửi có biết đau đớn gì đâu ? Cứng cát như thế rõ là
con người sắt. Cớ sao lại khúm núm thờ quân Kim. Ai bảo kẻ này không có công gì
ở đời ? Muôn năm sau còn có thể làm cho bọn gian thần phải sợ.
TƯỢNG
TẦN CỐI I
Cây cối điện xưa thành củi rồi,
Nhạc Vương mộ đây Cối nương thời.
Đúng sai chuyện cũ ngàn năm luận,
Đánh mắng giả thân, mất công thôi.
Mặt sắt trơ trơ hình tượng đó.
Quân Kim luồn cúi nhục thân đời,
Kẻ này chớ bảo công không có,
Vạn cổ gian thần gương sáng soi.
bản
dịch Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
TẦN
CỐI TƯỢNG I
Điện cối hà niên chùy tác tân.
Khước lai y bạng Nhạc Vương phần.
Thị phi tẫn thuộc thiên niên sự,
Đả mạ hà thương nhất giả thân.
Như thử tranh tranh chân thiết hán,
Nại hà mĩ mĩ sự Kim nhân ?
Thùy vân ư thế vô công liệt ?
Vạn cổ do năng cụ loạn thần.
Chú
thích:
Nhạc
Vương: Tước phong Nhạc Phi sau khi chết chôn ở đất Ngạc, nên phong là Ngạc
Vương. Nhưng người đời quen gọi là Nhạc Vương.
Bài
Tượng Tần Cối II. Gác Cách Thiên lầu ngọc đều đổ nát. Nhưng đứa
gian phi vẫn còn đây. Suốt đời trái tim đen tối của nó vẫn đầy nọc đọc. Nghìn
năm cục sắt sống kia phải chịu nỗi oan lạ lùng. Trong ngục người trung thần khi
sống đã phải đổ máu. Dưới thềm kẻ gian chết rồi vẫn hành tội. Nó cũng bất hủ
như bậc công thần. Cái phúc lạ lùng tày trời của nó thật là vô lý.
TẦN
CỐI TƯỢNG II
Cách Thiên gác đổ ngọc lầu tàn,
Nhưng vẫn còn đây một kẻ gian.
Một kiếp tim đen đầy nọc độc,
Nghìn năm thỏi sắt chịu hàm oan.
Trung thần trong ngục sống tuôn máu,
Gian tặc dưới thềm chết vẫn hành.
Gian xảo, trung thần cùng bất tử,
Lạ lùng cái phúc thật vô công.
bản
dịch thơ Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
TẦN
CỐI TƯỢNG II
Cách Thiên gác hủy, ngọc lâu tàn,
Do hữu ngoan bì tại thử gian.
Nhất thể tử tâm hoài đại độc,
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan.
Ngục trung dĩ tiễn sinh tiền huyết,
Giai hạ đồ tru tử hậu gian.
Đắc dữ trung thần đồng bất hủ,
Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan.
Chú
Thích:
Các
Thiên Các: nhà của Tần Cối ở, có treo tấm
biển đề bốn chữ Nhất Đức Cách Thiên, nên gọi là Cách Thiên các. Bốn chữ ấy tự
tay vua Huy Tông nhà Tống viết tặng Tần Cối: Nghĩa là vua tôi cùng có một đức
thuần nhất có thể cảm thông được lòng trời. Nhưng khi vua Huy Tông bị bắt làm
tù binh nước Kim, Tể tướng Tần Cối cùng bị bắt nhưng được tha và chủ trương chủ
hòa, chịu thần phục Kim, nhường đất phía Bắc sông Hoài cho Kim, trở thành công
cụ cho Đại Kim, bỏ rơi nhà vua trong ngục và bắt giết Nhạc Phi để làm vui lòng
nhà Kim.
Bài
Vương Thị Tượng I. Vương Thị là vợ tên
gian thần Tần Cối. Lưỡi dài ba tấc của thị để làm gì ? Khéo kẻ quyền gian kết
làm vợ chồng. Ngày bắt được hổ là trừ được mối lo về sau; thì còn ai hỏi đến
cái công sau này uống rượu mừng ở Hoàng Long. Tống bị Kim xâm lăng, Tần Cối chủ
hòa. Nhạc Phi chủ trương đánh. Tần Cối giả lệnh vua bắt Nhạc Phi hạ ngục và giết
đi, coi như bắt được hổ, nếu để thoát, e có mối lo về sau. Nhạc Phi khi cầm
quân đánh Kim, có hẹn với tướng sĩ rằng: Thẳng đến Hoàng Long cùng các ngươi uống
chén rượu mừng. Hoàng Long là thủ đô nhà Kim nay ở tỉnh Liêu Đông. Một đời bụng
dạ Vương Thị giống hệt như chồng. Nghìn năm hình hài thị làm nhục nữ giới. Việc
đó nghĩ đến ba chữ: Mạc tư hữu (Chẳng cần có) biết đâu là lời nói riêng của thị
trong khuê phòng không ai biết được.
TƯỢNG
VƯƠNG THỊ I
Lưỡi dài ba tấc làm chi chăng ?
Cùng kẻ quyên gian kết vợ chồng.
Định chuyện lo sau giam Hổ lại,
Còn chi công trước rượu Long mừng.
Một đời bụng dạ như chồng hệt,
Nghìn thuở dung nhan nhục má hồng.
Nghĩ đến một câu: Chả cần có ?
Biết đâu lời thị chốn khuê phòng.
Bản
dịch Nhất Uyên
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
VƯƠNG
THỊ TƯỢNG I
Thiệt trường ba xích cánh hà vi ?
Hảo dữ quyền gian bị xướng tùy.
Hậu hoạn chính ân cầm hổ nhật,
Tiền công an vấn ẩm long kỳ.
Nhất sinh tâm tích
đồng phu tế,
Thiên cổ hình hài nhục nữ nhi.
Để sự tưởng lai “mạc tư hữu “
Khuê trung tư ngữ cánh thùy tri.
Chú
thích:
Ba
xích: Văn bản chép ba xích là ba thước, có lẽ lầm lẫn do người chép văn bản,
nên chữa lại là ba tấc.
Bài
Vương Thị Tượng II. Mưu mô sâu sắc hơn cả chồng, thị là hạng gà mai gáy sớm bậc
nhất. Thị có cái lưỡi ba tấc bất hủ, thân hình nay lại được đúc bằng gan thép
lưu truyền lại muôn thuở. Trọn đạo xướng tùy chắc không có gì hối hận. Thủ đoạn
bằng nhau nên càng ăn ý với nhau. Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh. Chính thị đã
phá vỡ quân đội của Nhạc Phi.
TƯỢNG
VƯƠNG THỊ II
Mưu mô sâu sắc cả hơn chồng,
“Gà mái gáy sớm” nhất tiếng danh.
Ba tấc lưỡi mềm trời phú thế,
Nghìn năm thân rắn thép gang thành.
Xướng tùy trọn đạo lòng cùng sướng.
Xảo quyệt tương thân dạ kết đồng.
Chớ bảo nữ nhi không sức mạnh,
Phá quân Nhạc Vũ đến tan tành.
bản
dịch thơ Nhất Uyên.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
VƯƠNG
THỊ TƯỢNG II.
Thâm đồ mật toán thắng phu quân.
Ưng thị “thần kê” đệ nhất danh.
Bất lạn sĩ sinh tam thốn thiệt.
Thuần cương hoàn đắc vạn niên thân.
Xướng tùy tận đạo ưng vô hối.
Kỹ lưỡng đồng niên cánh khả thân.
Mạc đạo nữ nhi vô lực lượng,
Dã tằng hám phá Nhạc gia quân. !
Chú
thích:
Thần
Kê: do câu Tẫn kê tự thần, gà mái gáy
sớm, chỉ người đàn bà lộng quyền.
Nhạc
Gia quân: quân họ Nhạc. Quân Kim rất sợ Nhạc Phi, thường bảo nhau: Chuyển núi
thì dễ, phá quân đội của Nhạc Phi thì khó.
Khi
đi sứ năm 1813 Nguyễn Du đi qua Yển Thành nơi Nhạc Phi đóng quân, mà không đi
qua Miếu Nhạc Phi ở Hàng Châu.
Nguyễn
Du đã đến thăm mộ Nhạc Phi, bên Tây Hồ Hàng Châu năm 1790, năm 24 tuổi trong thời
gian ba năm đi giang hồ: đi khắp các con sông “Giang Bắc, Giang Nam cái túi
không” và thăm các thắng cảnh các đại hồ Trung Quốc. Chia tay Nguyễn Đại Lang ,
tức Nguyễn Đăng Tiến, tức Cai Già, tước Quản Vũ Hầu, quyền trấn thủ Thái Nguyên
thay Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Khản, người anh kết nghĩa đồng sinh tử với Nguyễn
Du, đồng cùng khổ khi bị bắt làm tù binh tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm và cùng được
tha chết cho đi đâu thì đi. Họ đi Vân Nam sau đó đến Liễu Châu, Nguyễn Đại Lang
về thăm quê cũ Việt Đông và hẹn gặp lại tại Trung Châu hai năm sau. Điểm hẹn là
Miếu Nhạc Phi, nơi đây Nguyễn Du rãnh rỗi chờ đợi đã viết 5 bài thơ. Theo tôi
thì Nguyễn Du nhà sư Chí Hiên, ở cách đó
không xa chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải tức Minh Sơn hoà thượng từng tu hành, phía
Tây Tây Hồ, có con đê Tô, do nhà thơ Tô Đông Pha lúc làm Thứ sử Hàng Châu đã
xây dựng vào Thế kỷ XI. Con đê dài 2,8 km có sáu cây cầu băng ngang Tây Hồ, (vị
trí gần giống như con đường Cổ Ngư nối liền chùa Trấn Quốc và đền Trấn Võ, Hà Nội.)
Ban ngày Nguyễn Du đi thăm chờ đợi Nguyễn Đại Lang tại Miếu Nhạc Phi, ban đêm
trở về chùa Hổ Pháo tụng kinh Kim Cương làm công quả và ăn ngủ nơi đây. Chung
quanh Tây Hồ bên bờ liễu rũ quanh hồ và con đê Bạch ở phía Bắc nối liền với một
đảo nhỏ, do Bạch Cư Dị (772-846) khi làm thứ sử. Tại Tây Hồ Hàng Châu ta thấy
Nguyễn Du không say mê với chuyện Bạch Xà trên đê Bạch, không say mê với Bến Tầm
Dương thơ Bạch Cư Dị như Phan Huy Thực, mà chỉ xót thương với chuyện nàng Tiểu
Thanh của Từ Sĩ Tuấn, nàng Vương Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.
Cũng
chính nơi này Nguyễn Du đã có quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
đọc say mê và khởi sự diễn ca thơ lục bát. Hai bài thơ của Đoàn Nguyễn Tuấn
trong Hải Ông thi tập, trên đường đi sứ Tây Sơn năm 1790 gặp được nhà văn họ
Nguyễn, tại Hoàng Châu, tìm thấy đề tài trong sách để nói chuyện: Hồng Nhan đa
truân, cho ta đoán biết chi tiết này.
Trung
Quốc có những anh hùng áí quốc dũng liệt đáng trân trọng. Trung Quốc có những
thời đại bị mất nước, vua hèn, quan nịnh bợ cúi luồn trước giặc. Những thời đại
đau buồn ấy của Trung Quốc, đất nước Việt Nam luôn luôn mở rộng để chào đón những
người tị nạn. Thời nhà Trần ba lần chống Nguyên, có những tàn quân nhà Tống
chung lưng góp sức, thời cuối nhà Minh, bao nhiêu người Minh Hương chống nhà
Thanh xâm lược đã chọn Việt Nam làm nơi dung thân và trở thành người Việt Nam.
Thời cận đại bị Nhật Bản chiếm đóng hàng triệu người đã sang lập nên Chợ Lớn. Bà
Hoàng Hậu cuối cùng nhà Tống bị đắm tàu xác trôi đến Việt Nam, người Việt Nam
chôn cất lập đền Đền Cờn ở Nghệ An, Nguyễn Du có viết bài thơ nơi này. Người Việt
Nam trân trọng thờ Quan Công anh hùng Trung Quốc, thời Tam Quốc.
Viết
về Nhạc Phi, Nguyễn Du đã trân trọng tấm lòng trung quân ái quốc của Nhạc Phi.
Nguyễn Du không đánh đập, khạc nhổ trên tượng Tần Cối, Vương Thị như bao người;
nhưng bốn bài thơ viết về kẻ gian thần để lại tiếng danh cho ngàn năm kẻ gian
thần phải run sợ. Nguyễn Du đầy lòng nhân ái với phụ nữ nhưng với Vương Thị,
Nguyễn Du kết án là hạng gà mái gáy sớm, cái án tam tự ngục là lời thị trong chốn
khuê phòng, chính thị tâm đầu ý hợp hiệp đồng với gian thần Tần Cối, hình hài
thị làm nhục nữ giới, cái lưỡi xảo quyệt của thị đã phá tan quân bách chiến
bách thắng của Nhạc Phi. Làm nhà chính trị nên cẩn thận, muốn lưu tiếng thơm
hay tiếng xấu ? để một nhà thơ như Nguyễn
Du viết một bài thơ thì lưu tiếng lại muôn đời.
Paris
18-10-2016
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
http://www.diendantheky.net/2016/10/ts-pham-trong-chanh-nguyen-du-viet-ve.html