Tham Khảo
Thông cáo Báo chí của Toà trọng tài thường trực về Vụ kiện Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông
Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc điều trần về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà nước Cộng hòa Philippines
Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc điều trần
về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà nước Cộng
hòa Philippines đã khởi kiện chống lại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
theo quy định của Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
(“Công ước”).
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
Vụ kiện Trọng tài giữa Cộng hòa Philippines và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
La Hay, 13 tháng 7 năm 2015
Tòa Trọng tài Kết thúc Phiên điều trần về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý
Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc phiên
điều trần về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà
nước Cộng hòa Philippines đã khởi kiện chống lại nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa theo quy định của Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển (“Công ước”).
Phiên điều trần được bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 2015 và diễn ra ở
Cung điện Hòa bình, trụ sở của Tòa Trọng tài Thường trực ở La Hay, Hà
Lan.
Đoàn Philippines gồm khoảng 60 người tham dự, trong đó có Cố vấn Pháp lý
với vai trò là Luật sư tranh tụng của Philippines, Ngoại trưởng, Bộ
trưởng Tư pháp, Bộ trưởng Quốc phòng, thành viên Tòa án Tối cao, thành
viên Hạ viện, các Đại sứ, luật sư của chính phủ, các quan chức, luật sư,
cố vấn, chuyên gia kỹ thuật và trợ lý.
Luật sư tranh tụng của Philippines, Cố vấn Pháp lý Florin T. Hilbay, và
Ngoại trưởng Philippines, ông Albert Ferreros del Rosario đã có các bài
phát biểu giới thiệu. Sau đó, Luật sư của Philippines, ông Paul S.
Reichler, Giáo sư Phillipe Sands QC, ông Lawrence H. Martin, Giáo sư
Bernand H. Oxman, và Giáo sư Alan Boyle đã trình bày các lập luận pháp
lý của Philippines.
Tòa trọng tài đã quyết định không công khai phiên điều trần. Tuy nhiên,
sau khi nhận được các văn bản đề nghị từ các Quốc gia có quan tâm đến vụ
việc và tham khảo ý kiến của các Bên, Tòa trọng tài đã cho phép Chính
phủ Malaysia, Cộng hòa Indonesia, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
Vương quốc Thái Lan và Nhật Bản cử các đoàn nhỏ tham gia phiên điều trần
với tư cách quan sát viên.
Khởi đầu của vụ kiện trọng tài
Quá trình trọng tài bắt đầu vào ngày 22 tháng 1 năm 2013 khi Philippines
gửi tới Trung Quốc Thông báo và Bản yêu sách “liên quan đến tranh chấp
với Trung Quốc đối với quyền tài phán trên biển của Philippines ở vùng
Biển Tây Philippines”. Vào ngày 19 tháng 2 năm 2013, Trung Quốc đã gửi
Philippines công hàm ngoại giao trong đó đưa ra “Quan điểm của Trung
Quốc đối với các vấn đề ở Biển Đông” và từ chối, trả lại Thông báo của
Philippines.
Tòa trọng tài gồm năm thành viên được chủ trì bởi Thẩm phán Thomas A.
Mensah đến từ Ghana. Các Thành viên khác gồm có Thẩm phán Jean-Pierre
Cot người Pháp, Thẩm phán Stanislaw Pawlak người Ba Lan, Giáo sư Alfred
Soons người Hà Lan và Thẩm phán Rudiger Wolfrum người Đức. Tòa Trọng tài
Thường trực (PCA) đóng vai trò là Cơ quan đăng ký của cuộc tố tụng.
Trung Quốc không tham gia
Chính phủ Trung Quốc đã duy trì quan điểm không chấp nhận và cũng như
không tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài này. Trung Quốc đã tái
khẳng định quan điểm này trong các công hàm ngoại giao, các tuyên bố
chính thức, “Tuyên bố Lập trường của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa về Vấn đề Thẩm quyền trong Vụ kiện Trọng tài Biển Đông do Cộng
hòa Philippines đệ trình” ngày 7 tháng 12 năm 2014, và hai lá thư do
Đại sứ Trung Quốc tại Hà Lan gửi hai thành viên của Tòa Trọng tài. Chính
phủ Trung Quốc cũng đã khẳng định rằng những tuyên bố và tài liệu này
“sẽ không được hiểu là Trung Quốc đang tham gia vào quá trình tố tụng
trọng tài dưới bất kỳ hình thức nào”.
Điều 9 của Phụ lục VII Công ước quy định rằng:
Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không
trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục
trình tự tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên
không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng.
Trước khi ra phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng
không những Toà có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc chắn rằng
đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế pháp lý.
Phù hợp với nghĩa vụ theo Điều 5 của Phụ lục VII Công ước về việc “cho
mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình bày căn cứ của
mình”, Tòa Trọng tài đã thường xuyên cập nhật cho Trung Quốc những tiến
triển của mọi giai đoạn trong quá trình tố tụng. Bản ghi chép của các
phiên xét xử đều đã được chuyển tới Trung Quốc và Trung Quốc đã được mời
đưa ra ý kiến đối với tất cả những gì đã được nêu ra ở phiên xét xử.
Quá trình tố tụng về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý
Theo quy định của Công ước, một tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII
có thẩm quyền xem xét một tranh chấp giữa các Quốc gia Thành viên Công
ước trong phạm vi tranh chấp đó liên quan đến việc “giải thích hay áp
dụng” Công ước. Tuy nhiên, Công ước cũng loại trừ một số loại tranh chấp
khỏi thẩm quyền của tòa trọng tài và bao gồm một số điều kiện tiên
quyết cần phải được đáp ứng trước khi tòa trọng tài thực thi thẩm quyền
của mình.
Vì những lý do đã nêu tại Lệnh Thủ tục số 4 ngày 21 tháng 4 năm 2015,
Tòa Trọng tài đã coi những trao đổi của Trung Quốc là cấu thành lập luận
cho rằng vụ kiện của Philippines nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của Tòa
Trọng tài. Vì vậy, Tòa Trọng tài đã quyết định mở phiên sơ thẩm để xem
xét phạm vi thẩm quyền và khả năng thụ lý các yêu sách của Philippines.
Trong trường hợp Tòa Trọng tài quyết định rằng Tòa có thẩm quyền đối với
một số yêu sách của Philippines thì Tòa sẽ tiếp tục mở các phiên xét xử
về nội dung vụ tranh chấp.
Tòa Trọng tài tiếp tục có nghĩa vụ theo Điều 9 Phụ lục VII của Công ước
về việc thỏa mãn được yêu cầu rằng Tòa có thẩm quyền đối với vụ tranh
chấp. Theo đó, trước và trong phiên xét xử Tòa Trọng tài đã làm rõ rằng
Tòa sẽ xem xét các vấn đề về thẩm quyền và khả năng thụ lý cho dù nó có
được nêu lên trong Tuyên bố Quan điểm của Trung Quốc hay không.
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2015, Tòa Trọng tài đã gửi thư tới các Bên với
hướng dẫn về những vấn đề cần giải quyết liên quan đến phiên xét xử. Tòa
Trọng tài cũng đặt thêm câu hỏi trong quá trình xét xử.
Tóm tắt Tuyên bố Lập trường của Trung Quốc về Vấn đề Thẩm quyền
Tuyên bố Lập trường của Trung Quốc được đưa ra vào ngày 7 tháng 12 năm
2014 “nhằm chứng minh rằng [Tòa Trọng tài] không có thẩm quyền đối với
vụ việc này”. Tuyên bố Lập trường này “không thể hiện bất kỳ quan điểm
nào đối với các vấn đề thực chất liên quan đến nội dung vụ kiện trọng
tài mà Philippines đệ trình lên” và “sẽ không được coi là Trung Quốc
chấp nhận hay tham gia vào quá trình tố tụng này”.
Tuyên bố Lập trường, có thể được truy cập tại http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1217147.shtml, nêu ra bốn quan điểm sau, theo Trung Quốc:
• Nội dung trọng tâm của vụ kiện trọng tài là chủ quyền lãnh thổ đối với
một số cấu trúc trên biển ở Biển Đông, nó nằm ngoài phạm vi của Công
ước và không liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước;
• Trung Quốc và Philippines đã thỏa thuận, thông qua các văn bản song
phương và Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông, rằng hai bên sẽ
giải quyết các tranh chấp có liên quan qua con đường đàm phán. Bằng việc
đơn phương khởi động vụ kiện trọng tài này, Philippines đã vi phạm
nghĩa vụ của mình theo luật quốc tế;
• Ngay cả khi giả định, vì mục đích tranh luận, rằng nội dung vụ kiện
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, thì nội dung đó là
một phần không thể tách rời của công tác phân định trên biển giữa hai
nước, vì vậy nó sẽ rơi vào phạm vi của tuyên bố của Trung Quốc năm 2006
phù hợp với Công ước, trong đó loại trừ những tranh chấp liên quan đến
phân định biển khỏi thẩm quyền bắt buộc của trọng tài và các thủ tục
giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
• Hệ quả là, Tòa Trọng tài rõ ràng không có thẩm quyền đối với vụ việc
này. Dựa trên những quan điểm nêu trên và quyền tự do của Quốc gia được
phép chọn phương thức giải quyết tranh chấp, việc Trung Quốc bác bỏ và
không tham gia vào vụ việc trọng tài hiện tại là hoàn toàn phù hợp với
luật pháp quốc tế.
Tóm tắt lập luận của Philippin
Trong bài phát biểu giới thiệu lúc khai mạc phiên xét xử về thẩm quyền
và khả năng thụ lý, Bộ trưởng del Rosario đã tóm tắt đệ trình của
Philippines về nội dung tranh chấp của hai Bên như sau:
• Đầu tiên, Trung Quốc không có quyền thực hiện cái mà nước này gọi là
‘quyền lịch sử’ đối với các vùng biển, đáy biển và vùng đất dưới đáy
biển ngoài giới hạn mà nước này được hưởng theo Công ước;
• Thứ hai, cái gọi là ‘đường chín đoạn’ không hề có bất kỳ căn cứ nào
theo luật quốc tế khi ý nghĩa của nó là nhằm vạch ra giới hạn yêu sách
‘quyền lịch sử’ của Trung Quốc;
• Thứ ba, những cấu trúc trên biển mà Trung Quốc dựa vào để làm căn cứ
nhằm khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông không phải là các đảo có
khả năng tạo ra quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Thay vào đó, một số cấu trúc đó là ‘đảo đá’, theo định nghịa của Điều
121(3); một số khác là các cấu trúc lúc chìm lúc nổi; còn số khác là đảo
chìm. Do đó, không một cấu trúc nào có khả năng tạo ra quyền ngoài phạm
vi 12 hải lý, thậm chí một số cấu trúc còn không tạo ra bất kỳ một
quyền nào. Những hoạt động cải tạo với quy mô lớn gần đây của Trung Quốc
không thể thay đổi một cách hợp pháp bản chất và đặc điểm nguyên thuỷ
của những cấu trúc này;
• Thứ tứ, Trung Quốc đã vi phạm Công ước bằng việc can thiệp vào quyền
thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của Philippin; và
• Thứ năm, Trung Quốc đã vi phạm [Công ước] bằng việc gây ra thiệt hại
không thể phục hồi đối với môi trường biển trong khu vực, thông qua việc
phá hủy các bãi san hô ở Biển Đông, bao gồm các khu vực thuộc [vùng đặc
quyền kinh tế] của Philippines, thông qua thực tiễn đánh cá mang tính
phá hủy và nguy hại của mình, và qua việc đánh bắt những loài vật có
nguy cơ tuyệt chủng.
Bộ trưởng del Rosario cũng nhấn mạnh rằng “qua việc đệ trình vụ việc
này, Philippines không yêu cầu Tòa Trọng tài xét xử về khía cạnh chủ
quyền lãnh thổ của các tranh chấp với Trung Quốc. Chúng tôi có mặt ở đây
vì muốn làm rõ những quyền trên biển của mình ở Biển Đông, một câu hỏi
mà Tòa có thẩm quyền xem xét”.
Tiếp sau Bộ trưởng del Rosario là Luật sư của Philippines, ông đã bắt
đầu bằng việc trả lời câu hỏi rằng vụ kiện của Philippines liên quan đến
việc có tồn tại một tranh chấp pháp lý giữa Philippines và Trung Quốc
đối với một số vấn đề hay không và liệu những tranh chấp đó có đòi hỏi
việc giải thích hay áp dụng Công ước hay không. Theo Philippines, tranh
chấp giữa các Bên, ở mức rộng nhất, liên quan đến các quan điểm trái
chiều của các Bên về nguồn gốc các quyền trên biển của mình. Theo quan
điểm của Philippines, “các quyền và nghĩa vụ của Philippines và Trung
Quốc chính là các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Công ước 1982,
không hơn không kém” và Công ước quy định đầy đủ về các vùng biển của
các Quốc gia Thành viên. Vì vậy, đối với Philippines, câu hỏi về việc
“liệu ‘quyền lịch sử’ của Trung Quốc theo luật quốc tế có trái với các
điều khoản của Công ước 1982 , hay được bảo vệ bởi những điều khoản đó,
là một vấn cần phải giải thích và áp dụng Công ước”. Tương tự,
Philippines lập luận rằng những đệ trình của mình liên quan đến quy chế
của một số cấu trúc trên biển và các hoạt động của Trung Quốc ở Biển
Đông, đòi hỏi Tòa Trọng tài phải áp dụng các điều khoản có liên quan của
Công ước, vì vậy chúng là những vấn đề thuộc thẩm quyền của Tòa Trọng
tài.
Tiếp theo, Luật sư của Philippines nói tới mối quan hệ giữa các đệ trình
của Philippines trong vụ trọng tài này và các yêu sách của Philippines
về chủ quyền đối với các cấu trúc trên biển ở Biển Đông, cụ thể là phản
đáp lại các lập luận trong Tuyên bố Quan điểm của Trung Quốc. Theo
Philippines, quy chế của một cấu trúc theo quy định của Công ước và các
vùng biển mà nó có thể tạo ra không đòi hỏi phải xác định trước rằng
Quốc gia nào có chủ quyền đối với cấu trúc đó. Vì vậy, Tòa Trọng tài
không cần phải xem xét đến vấn đề chủ quyền khi xét xử các đệ trình của
Philippines, do quy chế của các cấu trúc sẽ không thay đổi, cho dù Quốc
gia nào có chủ quyền với chúng đi chăng nữa. Hơn nữa, Philippines cho
rằng theo luật quốc tế tòa và tòa trọng tài có quyền thực thi thẩm quyền
đối với một phần của một tranh chấp đa chiều, ngay cả khi tòa đó không
có thẩm quyền xem xét tất cả các vấn đề liên quan đến tranh chấp.
Tiếp đó, Luật sư của Philippines quay sang câu hỏi về các điều kiện tiên
quyết đối với thẩm quyền của Tòa Trọng tài và liệu Tuyên bố về Ứng xử
của các Bên ở Biển Đông năm 2002 hay Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở
Đông Nam Á năm 1976 có cấu thành một thỏa thuận giữa các Bên về việc
loại trừ quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên bằng hình thức trọng
tài theo quy định của Công ước hay không. Theo Philippines, Tuyên bố năm
2002 không phải là một thỏa thuận có tính ràng buộc về pháp lý, một
thực tiễn mà Trung Quốc đã nhiều lần khẳng định. Hơn nữa, Philippines
lập luận rằng, Tuyên bố 2002 không chứa bất kỳ nội dung nào có thể được
hiểu là loại trừ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, và bản thân Tuyên
bố cũng dẫn chiếu đến việc giải quyết tranh chấp theo quy định của Công
ước. Tương tự như vậy, theo Philippines, mặc dù Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác là một thỏa thuận có tính ràng buộc giữa các Bên, bản thân Hiệp
ước cũng đã khẳng định về khả năng sử dụng các biện pháp giải quyết
tranh chấp khác. Theo quan điểm của Philippines, điều khoản này chỉ áp
đặt một “trách nhiệm khiêm tốn” với các Quốc gia tranh chấp và trách
nhiệm đó đã được thỏa mãn thông qua trao đổi ngoại giao giữa Philippines
và Trung Quốc.
Sau đó, Luật sư của Philippines nói tới các ngoại lệ đối với thẩm quyền
được quy định trong Công ước và lập luận trong Tuyên bố Quan điểm của
Trung Quốc rằng các đệ trình của Philippines là một phần không thể tách
rời của một tranh chấp đối với phân định ranh giới trên biển và do đó bị
loại trừ khỏi thẩm quyền của Tòa Trọng tài theo quy định của Điều 298
của Công ước. Theo Philippines, “các vấn đề về phân định trên biển chỉ
phát sinh trong bối cảnh chồng chéo quyền của các quốc gia ven biển” và
Trung Quốc, với sự phản đối của mình, đã gộp vấn đề về quyền đối với các
vùng trên biển với câu hỏi về việc phân chia các vùng đó trong trường
hợp có sự chồng chéo. Theo quan điểm của Philippines, một trong những
thành tựu nổi bật của Công ước là đã xác định được quyền trên biển của
các Quốc gia ven biển và xây dựng được cơ chế giải quyết tranh chấp đối
với bản chất và giới hạn của các quyền đó. Vì vậy, Philippines cho rằng,
cho dù Tòa Trọng tài không thể phân định các quyền chồng chéo, nhưng
Tòa không bị cản trở trong việc xác định sự tồn tại của các quyền đó,
như Philippines đã yêu cầu.
Liên quan đến việc loại trừ theo Điều 298 đối với các tranh chấp liên
quan đến “vịnh hoặc danh nghĩa lịch sử”, Luật sư của Philippines lập
luận rằng các yêu sách của Trung Quốc về “quyền lịch sử” là hoàn toàn
khác biệt với “danh nghĩa lịch sử” được quy định trong Công ước. Khi rà
soát bản tiếng Trung của Công ước, cũng như của năm thứ tiếng chính thức
khác (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập, và tiếng
Nga), Philippines cho rằng một “vịnh hay danh nghĩa lịch sử” bị giới hạn
ở các yêu sách ở vùng biển nội thủy liền kề với đường bờ biển của một
Quốc gia. Hơn nữa, theo Philippines, các tuyên bố và trao đổi ngoại giao
của Trung Quốc cũng chưa hề sử dụng những thuật ngữ đó để mô tả các
“quyền lịch sử” mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông.
Luật sư của Philippines sau đó nói về các ngoại lệ về thẩm quyền đối với
các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự hoặc chấp pháp. Theo
Philippines, ngoại lệ đối với các hoạt động chấp pháp là hẹp và chỉ áp
dụng với các hoạt động chấp pháp có liên quan đến nghiên cứu khoa học
trên biển hay quản lý tài nguyên sinh vật (cả hai lĩnh vực này đã bị
loại trừ khỏi giải quyết tranh chấp bắt buộc). Do đó, Philippines không
coi ngoại lệ về chấp pháp là có liên quan đến các đệ trình của mình. Còn
với ngoại lệ về hoạt động quân sự, Philippines cho rằng việc coi các
hoạt động là có tính quân sự phụ thuộc vào mục đích của chúng và lập
luận rằng Trung Quốc, chứ không phải Philippines, mới có khả năng cung
cấp thông tin về bản chất và mục đích các hoạt động của mình ở Biển
Đông. Tuy nhiên, Philippines cũng lưu ý rằng Trung Quốc đã không coi các
hoạt động của mình là có tính quân sự và cũng không viện dẫn đến ngoại
lệ này trong Tuyên bố Lập trường. Thêm vào đó, Philippines nhận định
rằng “nhiều Quốc gia đã sử dụng tàu hải quân của mình cho mục đích chấp
pháp ít nhất là vài lần” và lập luận rằng “việc các cán bộ quân sự tham
gia vào các hoạt động xây dựng hay cải tạo đất không đồng nghĩa với việc
mục đích của các hoạt động đó là quân sự”.
Cuối cùng, Luật sư của Philippines nói tới các ngoại lệ về thẩm quyền
đối với các tranh chấp liên quan đến tài nguyên sinh vật trong vùng đặc
quyền kinh tế trong phạm vi các đệ trình của Philippines về tổn hại đối
với môi trường và các loài sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng. Theo
Philippines, ngoại lệ này không thể được áp dụng, do các vi phạm của
Trung Quốc không xảy ra ở vùng lãnh hải bao quanh Bãi cạn Scarborough
hay trong các vùng gần Bãi Second Thomas Shoal và Đá Vành khăn, những
vùng mà chỉ có Philippines được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Theo
Philippines, trong trường hợp này Tòa Trọng tài không bị hạn chế về thẩm
quyền. Philippines cũng làm rõ rằng các đệ trình của mình liên quan đến
các nội dung của Công ước về môi trường biển và ở đây Philippines không
khiếu kiện về một vi phạm riêng đối với Công ước về Đa dạng sinh học.
Vào ngày cuối cùng của phiên xét xử, để trả lời các câu hỏi của Tòa
Trọng tài, Philippines đã đưa thêm những lập luận về (a) sự tồn tại của
một tranh chấp pháp lý liên quan đến từng đệ trình của Philippines; (b)
phạm vi thẩm quyền lệ thuộc của một tòa trọng tài đối với các vấn đề nhỏ
liên quan đến chủ quyền lãnh thổ có thể được nêu trong đệ trình của
Philippines; (c) việc áp dụng nguyên tắc estoppel (cấm phản cung) đối
với Tuyên bố về Ứng xử các Bên ở Biển Đông năm 2002; (d) về việc
Philippines có nghĩa vụ cố gắng giải quyết tranh chấp giữa các Bên theo
quy định của Tuyên bố năm 2002 hay Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông
Nam Á năm 1976 hay không; (e) phạm vi và ý nghĩa của các ngoại lệ theo
Công ước đối với các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự; và (f)
liệu câu hỏi về thẩm quyền đối với bất kỳ một đệ trình nào của
Philippines không mang “tính sơ thẩm một cách thuần túy” và đòi hỏi Tòa
Trọng tài phải xác định trước một hay nhiều vấn đề liên quan đến nội
dung yêu sách của Philippines hay không. Philippines cũng trả lời các
câu hỏi của các thành viên trong Tòa Trọng tài.
Bước tiếp theo của Tòa Trọng tài
Các Bên sẽ có thời hạn đến thứ 2 ngày 20 tháng 7 năm 2015 để rà soát và
đệ trình những thay đổi đối với bản ghi chép của phiên xét xử về thẩm
quyền và khả năng thụ lý. Đến thứ 5 ngày 23 tháng 7 năm 2015 Philippines
sẽ đệ trình các văn bản phản hồi các câu hỏi của Tòa Trọng tài trong
phiên xét xử. Tòa Trọng tài kỳ vọng rằng các bản ghi chép sửa đổi sẽ có
thể được truy cập tại trang mạng của PCA.
Phù hợp với nghĩa vụ của Tòa Trọng tài theo Điều 5 Phụ lục VII của Công
ước về việc “cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình
bày căn cứ của mình”, Tòa Trọng tài đã quyết định cho Trung Quốc cơ hội
được bình luận bằng văn bản, với thời hạn là ngày 17 tháng 8 năm 2015,
đối với tất cả những gì được nói tại Phiên xét xử về Thẩm quyền và Khả
năng thụ lý này.
Tòa Trọng tài hiện đang bước vào quá trình phân xử và ý thức được nghĩa
vụ của mình theo Quy tắc Thủ tục về việc “tránh sự trì hoãn và chi phí
không cần thiết và cung cấp một tiến trình công bằng và hiệu quả”. Tòa
Trọng tài sẽ cố gắng đưa ra quyết định về các vấn đề về Thẩm quyền và
Khả năng thụ lí mà Tòa coi là hợp lý một cách nhanh nhất có thể và hy
vọng sẽ làm được trước thời điểm cuối năm.
Nếu Tòa Trọng tài xác định rằng có những phản đối đối với thẩm quyền hay
các vấn đề về khả năng thụ lí không mang tính sơ thẩm một cách thuần
túy thì, theo quy định của Điều 20(3) của Quy tắc thủ tục, những vấn đề
đó sẽ được xem xét và quyết định tại các phiên sau của quá trình tố
tụng.
***
Các thông tin thêm về vụ kiện, bao gồm Quy định Thủ tục và các Thông cáo Báo chí trước đây và hình ảnh của buổi điều trần có thể xem tại http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1529.
Thông tin về Toà Trọng tài Thường trực (PCA): Toà Trọng tài
Thường trực là một cơ quan liên chính phủ được thành lập năm 1899 bởi
Công ước Hague về việc xét xử hoà bình các tranh chấp quốc tế. Có trụ sở
tại Cung điện Hoà Bình ở La Hay, Hà Lan, Toà Trọng tài Thường trực thực
hiện việc phân xử bằng hình thức trọng tài, hoà giải, tìm hiểu tình
hình thực tế một cách trung lập và các thủ tục giải quyết tranh chấp
khác giữa các quốc gia, các thực thể nhà nước, các tổ chức phi chính phủ
và các chủ thể tư nhân.
Dịch: Việt Phạm
Hiệu đính: Kim Minh
(Nghiên Cứu Biển Đông)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Thông cáo Báo chí của Toà trọng tài thường trực về Vụ kiện Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông
Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc điều trần về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà nước Cộng hòa Philippines
Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc điều trần
về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà nước Cộng
hòa Philippines đã khởi kiện chống lại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
theo quy định của Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
(“Công ước”).
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
Vụ kiện Trọng tài giữa Cộng hòa Philippines và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
La Hay, 13 tháng 7 năm 2015
Tòa Trọng tài Kết thúc Phiên điều trần về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý
Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc phiên
điều trần về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà
nước Cộng hòa Philippines đã khởi kiện chống lại nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa theo quy định của Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển (“Công ước”).
Phiên điều trần được bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 2015 và diễn ra ở
Cung điện Hòa bình, trụ sở của Tòa Trọng tài Thường trực ở La Hay, Hà
Lan.
Đoàn Philippines gồm khoảng 60 người tham dự, trong đó có Cố vấn Pháp lý
với vai trò là Luật sư tranh tụng của Philippines, Ngoại trưởng, Bộ
trưởng Tư pháp, Bộ trưởng Quốc phòng, thành viên Tòa án Tối cao, thành
viên Hạ viện, các Đại sứ, luật sư của chính phủ, các quan chức, luật sư,
cố vấn, chuyên gia kỹ thuật và trợ lý.
Luật sư tranh tụng của Philippines, Cố vấn Pháp lý Florin T. Hilbay, và
Ngoại trưởng Philippines, ông Albert Ferreros del Rosario đã có các bài
phát biểu giới thiệu. Sau đó, Luật sư của Philippines, ông Paul S.
Reichler, Giáo sư Phillipe Sands QC, ông Lawrence H. Martin, Giáo sư
Bernand H. Oxman, và Giáo sư Alan Boyle đã trình bày các lập luận pháp
lý của Philippines.
Tòa trọng tài đã quyết định không công khai phiên điều trần. Tuy nhiên,
sau khi nhận được các văn bản đề nghị từ các Quốc gia có quan tâm đến vụ
việc và tham khảo ý kiến của các Bên, Tòa trọng tài đã cho phép Chính
phủ Malaysia, Cộng hòa Indonesia, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
Vương quốc Thái Lan và Nhật Bản cử các đoàn nhỏ tham gia phiên điều trần
với tư cách quan sát viên.
Khởi đầu của vụ kiện trọng tài
Quá trình trọng tài bắt đầu vào ngày 22 tháng 1 năm 2013 khi Philippines
gửi tới Trung Quốc Thông báo và Bản yêu sách “liên quan đến tranh chấp
với Trung Quốc đối với quyền tài phán trên biển của Philippines ở vùng
Biển Tây Philippines”. Vào ngày 19 tháng 2 năm 2013, Trung Quốc đã gửi
Philippines công hàm ngoại giao trong đó đưa ra “Quan điểm của Trung
Quốc đối với các vấn đề ở Biển Đông” và từ chối, trả lại Thông báo của
Philippines.
Tòa trọng tài gồm năm thành viên được chủ trì bởi Thẩm phán Thomas A.
Mensah đến từ Ghana. Các Thành viên khác gồm có Thẩm phán Jean-Pierre
Cot người Pháp, Thẩm phán Stanislaw Pawlak người Ba Lan, Giáo sư Alfred
Soons người Hà Lan và Thẩm phán Rudiger Wolfrum người Đức. Tòa Trọng tài
Thường trực (PCA) đóng vai trò là Cơ quan đăng ký của cuộc tố tụng.
Trung Quốc không tham gia
Chính phủ Trung Quốc đã duy trì quan điểm không chấp nhận và cũng như
không tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài này. Trung Quốc đã tái
khẳng định quan điểm này trong các công hàm ngoại giao, các tuyên bố
chính thức, “Tuyên bố Lập trường của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa về Vấn đề Thẩm quyền trong Vụ kiện Trọng tài Biển Đông do Cộng
hòa Philippines đệ trình” ngày 7 tháng 12 năm 2014, và hai lá thư do
Đại sứ Trung Quốc tại Hà Lan gửi hai thành viên của Tòa Trọng tài. Chính
phủ Trung Quốc cũng đã khẳng định rằng những tuyên bố và tài liệu này
“sẽ không được hiểu là Trung Quốc đang tham gia vào quá trình tố tụng
trọng tài dưới bất kỳ hình thức nào”.
Điều 9 của Phụ lục VII Công ước quy định rằng:
Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không
trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục
trình tự tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên
không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng.
Trước khi ra phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng
không những Toà có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc chắn rằng
đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế pháp lý.
Phù hợp với nghĩa vụ theo Điều 5 của Phụ lục VII Công ước về việc “cho
mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình bày căn cứ của
mình”, Tòa Trọng tài đã thường xuyên cập nhật cho Trung Quốc những tiến
triển của mọi giai đoạn trong quá trình tố tụng. Bản ghi chép của các
phiên xét xử đều đã được chuyển tới Trung Quốc và Trung Quốc đã được mời
đưa ra ý kiến đối với tất cả những gì đã được nêu ra ở phiên xét xử.
Quá trình tố tụng về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý
Theo quy định của Công ước, một tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII
có thẩm quyền xem xét một tranh chấp giữa các Quốc gia Thành viên Công
ước trong phạm vi tranh chấp đó liên quan đến việc “giải thích hay áp
dụng” Công ước. Tuy nhiên, Công ước cũng loại trừ một số loại tranh chấp
khỏi thẩm quyền của tòa trọng tài và bao gồm một số điều kiện tiên
quyết cần phải được đáp ứng trước khi tòa trọng tài thực thi thẩm quyền
của mình.
Vì những lý do đã nêu tại Lệnh Thủ tục số 4 ngày 21 tháng 4 năm 2015,
Tòa Trọng tài đã coi những trao đổi của Trung Quốc là cấu thành lập luận
cho rằng vụ kiện của Philippines nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của Tòa
Trọng tài. Vì vậy, Tòa Trọng tài đã quyết định mở phiên sơ thẩm để xem
xét phạm vi thẩm quyền và khả năng thụ lý các yêu sách của Philippines.
Trong trường hợp Tòa Trọng tài quyết định rằng Tòa có thẩm quyền đối với
một số yêu sách của Philippines thì Tòa sẽ tiếp tục mở các phiên xét xử
về nội dung vụ tranh chấp.
Tòa Trọng tài tiếp tục có nghĩa vụ theo Điều 9 Phụ lục VII của Công ước
về việc thỏa mãn được yêu cầu rằng Tòa có thẩm quyền đối với vụ tranh
chấp. Theo đó, trước và trong phiên xét xử Tòa Trọng tài đã làm rõ rằng
Tòa sẽ xem xét các vấn đề về thẩm quyền và khả năng thụ lý cho dù nó có
được nêu lên trong Tuyên bố Quan điểm của Trung Quốc hay không.
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2015, Tòa Trọng tài đã gửi thư tới các Bên với
hướng dẫn về những vấn đề cần giải quyết liên quan đến phiên xét xử. Tòa
Trọng tài cũng đặt thêm câu hỏi trong quá trình xét xử.
Tóm tắt Tuyên bố Lập trường của Trung Quốc về Vấn đề Thẩm quyền
Tuyên bố Lập trường của Trung Quốc được đưa ra vào ngày 7 tháng 12 năm
2014 “nhằm chứng minh rằng [Tòa Trọng tài] không có thẩm quyền đối với
vụ việc này”. Tuyên bố Lập trường này “không thể hiện bất kỳ quan điểm
nào đối với các vấn đề thực chất liên quan đến nội dung vụ kiện trọng
tài mà Philippines đệ trình lên” và “sẽ không được coi là Trung Quốc
chấp nhận hay tham gia vào quá trình tố tụng này”.
Tuyên bố Lập trường, có thể được truy cập tại http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1217147.shtml, nêu ra bốn quan điểm sau, theo Trung Quốc:
• Nội dung trọng tâm của vụ kiện trọng tài là chủ quyền lãnh thổ đối với
một số cấu trúc trên biển ở Biển Đông, nó nằm ngoài phạm vi của Công
ước và không liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước;
• Trung Quốc và Philippines đã thỏa thuận, thông qua các văn bản song
phương và Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông, rằng hai bên sẽ
giải quyết các tranh chấp có liên quan qua con đường đàm phán. Bằng việc
đơn phương khởi động vụ kiện trọng tài này, Philippines đã vi phạm
nghĩa vụ của mình theo luật quốc tế;
• Ngay cả khi giả định, vì mục đích tranh luận, rằng nội dung vụ kiện
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, thì nội dung đó là
một phần không thể tách rời của công tác phân định trên biển giữa hai
nước, vì vậy nó sẽ rơi vào phạm vi của tuyên bố của Trung Quốc năm 2006
phù hợp với Công ước, trong đó loại trừ những tranh chấp liên quan đến
phân định biển khỏi thẩm quyền bắt buộc của trọng tài và các thủ tục
giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
• Hệ quả là, Tòa Trọng tài rõ ràng không có thẩm quyền đối với vụ việc
này. Dựa trên những quan điểm nêu trên và quyền tự do của Quốc gia được
phép chọn phương thức giải quyết tranh chấp, việc Trung Quốc bác bỏ và
không tham gia vào vụ việc trọng tài hiện tại là hoàn toàn phù hợp với
luật pháp quốc tế.
Tóm tắt lập luận của Philippin
Trong bài phát biểu giới thiệu lúc khai mạc phiên xét xử về thẩm quyền
và khả năng thụ lý, Bộ trưởng del Rosario đã tóm tắt đệ trình của
Philippines về nội dung tranh chấp của hai Bên như sau:
• Đầu tiên, Trung Quốc không có quyền thực hiện cái mà nước này gọi là
‘quyền lịch sử’ đối với các vùng biển, đáy biển và vùng đất dưới đáy
biển ngoài giới hạn mà nước này được hưởng theo Công ước;
• Thứ hai, cái gọi là ‘đường chín đoạn’ không hề có bất kỳ căn cứ nào
theo luật quốc tế khi ý nghĩa của nó là nhằm vạch ra giới hạn yêu sách
‘quyền lịch sử’ của Trung Quốc;
• Thứ ba, những cấu trúc trên biển mà Trung Quốc dựa vào để làm căn cứ
nhằm khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông không phải là các đảo có
khả năng tạo ra quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Thay vào đó, một số cấu trúc đó là ‘đảo đá’, theo định nghịa của Điều
121(3); một số khác là các cấu trúc lúc chìm lúc nổi; còn số khác là đảo
chìm. Do đó, không một cấu trúc nào có khả năng tạo ra quyền ngoài phạm
vi 12 hải lý, thậm chí một số cấu trúc còn không tạo ra bất kỳ một
quyền nào. Những hoạt động cải tạo với quy mô lớn gần đây của Trung Quốc
không thể thay đổi một cách hợp pháp bản chất và đặc điểm nguyên thuỷ
của những cấu trúc này;
• Thứ tứ, Trung Quốc đã vi phạm Công ước bằng việc can thiệp vào quyền
thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của Philippin; và
• Thứ năm, Trung Quốc đã vi phạm [Công ước] bằng việc gây ra thiệt hại
không thể phục hồi đối với môi trường biển trong khu vực, thông qua việc
phá hủy các bãi san hô ở Biển Đông, bao gồm các khu vực thuộc [vùng đặc
quyền kinh tế] của Philippines, thông qua thực tiễn đánh cá mang tính
phá hủy và nguy hại của mình, và qua việc đánh bắt những loài vật có
nguy cơ tuyệt chủng.
Bộ trưởng del Rosario cũng nhấn mạnh rằng “qua việc đệ trình vụ việc
này, Philippines không yêu cầu Tòa Trọng tài xét xử về khía cạnh chủ
quyền lãnh thổ của các tranh chấp với Trung Quốc. Chúng tôi có mặt ở đây
vì muốn làm rõ những quyền trên biển của mình ở Biển Đông, một câu hỏi
mà Tòa có thẩm quyền xem xét”.
Tiếp sau Bộ trưởng del Rosario là Luật sư của Philippines, ông đã bắt
đầu bằng việc trả lời câu hỏi rằng vụ kiện của Philippines liên quan đến
việc có tồn tại một tranh chấp pháp lý giữa Philippines và Trung Quốc
đối với một số vấn đề hay không và liệu những tranh chấp đó có đòi hỏi
việc giải thích hay áp dụng Công ước hay không. Theo Philippines, tranh
chấp giữa các Bên, ở mức rộng nhất, liên quan đến các quan điểm trái
chiều của các Bên về nguồn gốc các quyền trên biển của mình. Theo quan
điểm của Philippines, “các quyền và nghĩa vụ của Philippines và Trung
Quốc chính là các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Công ước 1982,
không hơn không kém” và Công ước quy định đầy đủ về các vùng biển của
các Quốc gia Thành viên. Vì vậy, đối với Philippines, câu hỏi về việc
“liệu ‘quyền lịch sử’ của Trung Quốc theo luật quốc tế có trái với các
điều khoản của Công ước 1982 , hay được bảo vệ bởi những điều khoản đó,
là một vấn cần phải giải thích và áp dụng Công ước”. Tương tự,
Philippines lập luận rằng những đệ trình của mình liên quan đến quy chế
của một số cấu trúc trên biển và các hoạt động của Trung Quốc ở Biển
Đông, đòi hỏi Tòa Trọng tài phải áp dụng các điều khoản có liên quan của
Công ước, vì vậy chúng là những vấn đề thuộc thẩm quyền của Tòa Trọng
tài.
Tiếp theo, Luật sư của Philippines nói tới mối quan hệ giữa các đệ trình
của Philippines trong vụ trọng tài này và các yêu sách của Philippines
về chủ quyền đối với các cấu trúc trên biển ở Biển Đông, cụ thể là phản
đáp lại các lập luận trong Tuyên bố Quan điểm của Trung Quốc. Theo
Philippines, quy chế của một cấu trúc theo quy định của Công ước và các
vùng biển mà nó có thể tạo ra không đòi hỏi phải xác định trước rằng
Quốc gia nào có chủ quyền đối với cấu trúc đó. Vì vậy, Tòa Trọng tài
không cần phải xem xét đến vấn đề chủ quyền khi xét xử các đệ trình của
Philippines, do quy chế của các cấu trúc sẽ không thay đổi, cho dù Quốc
gia nào có chủ quyền với chúng đi chăng nữa. Hơn nữa, Philippines cho
rằng theo luật quốc tế tòa và tòa trọng tài có quyền thực thi thẩm quyền
đối với một phần của một tranh chấp đa chiều, ngay cả khi tòa đó không
có thẩm quyền xem xét tất cả các vấn đề liên quan đến tranh chấp.
Tiếp đó, Luật sư của Philippines quay sang câu hỏi về các điều kiện tiên
quyết đối với thẩm quyền của Tòa Trọng tài và liệu Tuyên bố về Ứng xử
của các Bên ở Biển Đông năm 2002 hay Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở
Đông Nam Á năm 1976 có cấu thành một thỏa thuận giữa các Bên về việc
loại trừ quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên bằng hình thức trọng
tài theo quy định của Công ước hay không. Theo Philippines, Tuyên bố năm
2002 không phải là một thỏa thuận có tính ràng buộc về pháp lý, một
thực tiễn mà Trung Quốc đã nhiều lần khẳng định. Hơn nữa, Philippines
lập luận rằng, Tuyên bố 2002 không chứa bất kỳ nội dung nào có thể được
hiểu là loại trừ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, và bản thân Tuyên
bố cũng dẫn chiếu đến việc giải quyết tranh chấp theo quy định của Công
ước. Tương tự như vậy, theo Philippines, mặc dù Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác là một thỏa thuận có tính ràng buộc giữa các Bên, bản thân Hiệp
ước cũng đã khẳng định về khả năng sử dụng các biện pháp giải quyết
tranh chấp khác. Theo quan điểm của Philippines, điều khoản này chỉ áp
đặt một “trách nhiệm khiêm tốn” với các Quốc gia tranh chấp và trách
nhiệm đó đã được thỏa mãn thông qua trao đổi ngoại giao giữa Philippines
và Trung Quốc.
Sau đó, Luật sư của Philippines nói tới các ngoại lệ đối với thẩm quyền
được quy định trong Công ước và lập luận trong Tuyên bố Quan điểm của
Trung Quốc rằng các đệ trình của Philippines là một phần không thể tách
rời của một tranh chấp đối với phân định ranh giới trên biển và do đó bị
loại trừ khỏi thẩm quyền của Tòa Trọng tài theo quy định của Điều 298
của Công ước. Theo Philippines, “các vấn đề về phân định trên biển chỉ
phát sinh trong bối cảnh chồng chéo quyền của các quốc gia ven biển” và
Trung Quốc, với sự phản đối của mình, đã gộp vấn đề về quyền đối với các
vùng trên biển với câu hỏi về việc phân chia các vùng đó trong trường
hợp có sự chồng chéo. Theo quan điểm của Philippines, một trong những
thành tựu nổi bật của Công ước là đã xác định được quyền trên biển của
các Quốc gia ven biển và xây dựng được cơ chế giải quyết tranh chấp đối
với bản chất và giới hạn của các quyền đó. Vì vậy, Philippines cho rằng,
cho dù Tòa Trọng tài không thể phân định các quyền chồng chéo, nhưng
Tòa không bị cản trở trong việc xác định sự tồn tại của các quyền đó,
như Philippines đã yêu cầu.
Liên quan đến việc loại trừ theo Điều 298 đối với các tranh chấp liên
quan đến “vịnh hoặc danh nghĩa lịch sử”, Luật sư của Philippines lập
luận rằng các yêu sách của Trung Quốc về “quyền lịch sử” là hoàn toàn
khác biệt với “danh nghĩa lịch sử” được quy định trong Công ước. Khi rà
soát bản tiếng Trung của Công ước, cũng như của năm thứ tiếng chính thức
khác (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập, và tiếng
Nga), Philippines cho rằng một “vịnh hay danh nghĩa lịch sử” bị giới hạn
ở các yêu sách ở vùng biển nội thủy liền kề với đường bờ biển của một
Quốc gia. Hơn nữa, theo Philippines, các tuyên bố và trao đổi ngoại giao
của Trung Quốc cũng chưa hề sử dụng những thuật ngữ đó để mô tả các
“quyền lịch sử” mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông.
Luật sư của Philippines sau đó nói về các ngoại lệ về thẩm quyền đối với
các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự hoặc chấp pháp. Theo
Philippines, ngoại lệ đối với các hoạt động chấp pháp là hẹp và chỉ áp
dụng với các hoạt động chấp pháp có liên quan đến nghiên cứu khoa học
trên biển hay quản lý tài nguyên sinh vật (cả hai lĩnh vực này đã bị
loại trừ khỏi giải quyết tranh chấp bắt buộc). Do đó, Philippines không
coi ngoại lệ về chấp pháp là có liên quan đến các đệ trình của mình. Còn
với ngoại lệ về hoạt động quân sự, Philippines cho rằng việc coi các
hoạt động là có tính quân sự phụ thuộc vào mục đích của chúng và lập
luận rằng Trung Quốc, chứ không phải Philippines, mới có khả năng cung
cấp thông tin về bản chất và mục đích các hoạt động của mình ở Biển
Đông. Tuy nhiên, Philippines cũng lưu ý rằng Trung Quốc đã không coi các
hoạt động của mình là có tính quân sự và cũng không viện dẫn đến ngoại
lệ này trong Tuyên bố Lập trường. Thêm vào đó, Philippines nhận định
rằng “nhiều Quốc gia đã sử dụng tàu hải quân của mình cho mục đích chấp
pháp ít nhất là vài lần” và lập luận rằng “việc các cán bộ quân sự tham
gia vào các hoạt động xây dựng hay cải tạo đất không đồng nghĩa với việc
mục đích của các hoạt động đó là quân sự”.
Cuối cùng, Luật sư của Philippines nói tới các ngoại lệ về thẩm quyền
đối với các tranh chấp liên quan đến tài nguyên sinh vật trong vùng đặc
quyền kinh tế trong phạm vi các đệ trình của Philippines về tổn hại đối
với môi trường và các loài sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng. Theo
Philippines, ngoại lệ này không thể được áp dụng, do các vi phạm của
Trung Quốc không xảy ra ở vùng lãnh hải bao quanh Bãi cạn Scarborough
hay trong các vùng gần Bãi Second Thomas Shoal và Đá Vành khăn, những
vùng mà chỉ có Philippines được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Theo
Philippines, trong trường hợp này Tòa Trọng tài không bị hạn chế về thẩm
quyền. Philippines cũng làm rõ rằng các đệ trình của mình liên quan đến
các nội dung của Công ước về môi trường biển và ở đây Philippines không
khiếu kiện về một vi phạm riêng đối với Công ước về Đa dạng sinh học.
Vào ngày cuối cùng của phiên xét xử, để trả lời các câu hỏi của Tòa
Trọng tài, Philippines đã đưa thêm những lập luận về (a) sự tồn tại của
một tranh chấp pháp lý liên quan đến từng đệ trình của Philippines; (b)
phạm vi thẩm quyền lệ thuộc của một tòa trọng tài đối với các vấn đề nhỏ
liên quan đến chủ quyền lãnh thổ có thể được nêu trong đệ trình của
Philippines; (c) việc áp dụng nguyên tắc estoppel (cấm phản cung) đối
với Tuyên bố về Ứng xử các Bên ở Biển Đông năm 2002; (d) về việc
Philippines có nghĩa vụ cố gắng giải quyết tranh chấp giữa các Bên theo
quy định của Tuyên bố năm 2002 hay Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông
Nam Á năm 1976 hay không; (e) phạm vi và ý nghĩa của các ngoại lệ theo
Công ước đối với các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự; và (f)
liệu câu hỏi về thẩm quyền đối với bất kỳ một đệ trình nào của
Philippines không mang “tính sơ thẩm một cách thuần túy” và đòi hỏi Tòa
Trọng tài phải xác định trước một hay nhiều vấn đề liên quan đến nội
dung yêu sách của Philippines hay không. Philippines cũng trả lời các
câu hỏi của các thành viên trong Tòa Trọng tài.
Bước tiếp theo của Tòa Trọng tài
Các Bên sẽ có thời hạn đến thứ 2 ngày 20 tháng 7 năm 2015 để rà soát và
đệ trình những thay đổi đối với bản ghi chép của phiên xét xử về thẩm
quyền và khả năng thụ lý. Đến thứ 5 ngày 23 tháng 7 năm 2015 Philippines
sẽ đệ trình các văn bản phản hồi các câu hỏi của Tòa Trọng tài trong
phiên xét xử. Tòa Trọng tài kỳ vọng rằng các bản ghi chép sửa đổi sẽ có
thể được truy cập tại trang mạng của PCA.
Phù hợp với nghĩa vụ của Tòa Trọng tài theo Điều 5 Phụ lục VII của Công
ước về việc “cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình
bày căn cứ của mình”, Tòa Trọng tài đã quyết định cho Trung Quốc cơ hội
được bình luận bằng văn bản, với thời hạn là ngày 17 tháng 8 năm 2015,
đối với tất cả những gì được nói tại Phiên xét xử về Thẩm quyền và Khả
năng thụ lý này.
Tòa Trọng tài hiện đang bước vào quá trình phân xử và ý thức được nghĩa
vụ của mình theo Quy tắc Thủ tục về việc “tránh sự trì hoãn và chi phí
không cần thiết và cung cấp một tiến trình công bằng và hiệu quả”. Tòa
Trọng tài sẽ cố gắng đưa ra quyết định về các vấn đề về Thẩm quyền và
Khả năng thụ lí mà Tòa coi là hợp lý một cách nhanh nhất có thể và hy
vọng sẽ làm được trước thời điểm cuối năm.
Nếu Tòa Trọng tài xác định rằng có những phản đối đối với thẩm quyền hay
các vấn đề về khả năng thụ lí không mang tính sơ thẩm một cách thuần
túy thì, theo quy định của Điều 20(3) của Quy tắc thủ tục, những vấn đề
đó sẽ được xem xét và quyết định tại các phiên sau của quá trình tố
tụng.
***
Các thông tin thêm về vụ kiện, bao gồm Quy định Thủ tục và các Thông cáo Báo chí trước đây và hình ảnh của buổi điều trần có thể xem tại http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1529.
Thông tin về Toà Trọng tài Thường trực (PCA): Toà Trọng tài
Thường trực là một cơ quan liên chính phủ được thành lập năm 1899 bởi
Công ước Hague về việc xét xử hoà bình các tranh chấp quốc tế. Có trụ sở
tại Cung điện Hoà Bình ở La Hay, Hà Lan, Toà Trọng tài Thường trực thực
hiện việc phân xử bằng hình thức trọng tài, hoà giải, tìm hiểu tình
hình thực tế một cách trung lập và các thủ tục giải quyết tranh chấp
khác giữa các quốc gia, các thực thể nhà nước, các tổ chức phi chính phủ
và các chủ thể tư nhân.
Dịch: Việt Phạm
Hiệu đính: Kim Minh
(Nghiên Cứu Biển Đông)