Tổng
thống Joe Biden và những người đồng cấp NATO sẽ gặp nhau tại Washington
trong tuần này để kỷ niệm 75 năm thành lập tổ chức an ninh lớn nhất thế
giới đúng lúc Nga đang tăng cường lợi thế lên chiến trường ở Ukraine.
Hội
nghị thượng đỉnh kéo dài ba ngày, bắt đầu từ ngày 9/7, sẽ tập trung vào
các cách để trấn an Ukraine về sự hỗ trợ lâu dài của NATO và mang lại
một số hy vọng cho những người dân đã mệt mỏi vì chiến tranh rằng đất
nước của họ có thể sống sót sau cuộc xung đột trên bộ lớn nhất ở châu Âu
trong nhiều thập niên.
Phần lớn những gì NATO có thể làm cho
Ukraine, và thực sự là cho an ninh toàn cầu, đều bị hiểu lầm. Thông
thường, liên minh được coi là tổng thể của tất cả các mối quan hệ của Mỹ
với các đối tác châu Âu, từ việc áp đặt các chế tài và các thiệt hại
khác đối với Nga cho đến việc gửi vũ khí và đạn dược.
Nhưng với tư
cách là một tổ chức, nội dung của nó chỉ giới hạn ở việc bảo vệ bằng
các phương tiện quân sự của 32 quốc gia thành viên - lời thề thiêng
liêng giống như Ba người lính ngự lâm - Tất cả vì một, một vì tất cả -
và cam kết gìn giữ hòa bình ở Châu Âu và Bắc Mỹ.
Điều đó cũng có
nghĩa là không bị lôi kéo vào một cuộc chiến rộng lớn hơn với nước Nga
có vũ khí hạt nhân. Dưới đây là cái nhìn về NATO và cách tổ chức này hỗ
trợ Ukraine.
NATO là gì?
Được thành lập vào
năm 1949, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được thành lập bởi 12 quốc
gia nhằm chống lại mối đe dọa đối với an ninh châu Âu do Liên Xô gây ra
trong Chiến tranh Lạnh. Đối phó với Moscow nằm trong DNA của họ.
Hàng
ngũ của NATO đã tăng lên kể từ khi Hiệp ước Washington được ký kết cách
đây 75 năm - lên tới 32 quốc gia sau khi Thụy Điển gia nhập năm nay, do
lo ngại trước một nước Nga ngày càng hung hãn.
Bảo đảm an ninh
tập thể của NATO - Điều 5 của hiệp ước - củng cố uy tín của tổ chức. Đó
là cam kết chính trị của tất cả các nước thành viên nhằm hỗ trợ bất kỳ
thành viên nào có chủ quyền hoặc lãnh thổ có thể bị tấn công. Ukraine sẽ
đáp ứng những tiêu chí đó, nhưng nước này chỉ là đối tác chứ chưa phải
thành viên.
Cánh cửa của NATO luôn mở cho bất kỳ quốc gia châu Âu
nào muốn tham gia và có thể đáp ứng các yêu cầu và nghĩa vụ. Điều quan
trọng là NATO đưa ra quyết định theo nguyên tắc đồng thuận nên mọi thành
viên đều có quyền phủ quyết.
Ai chịu trách nhiệm?
Hoa
Kỳ là thành viên quyền lực nhất. Nước này chi tiêu nhiều hơn cho quốc
phòng so với bất kỳ đồng minh nào khác và vượt xa các đối tác của mình
về sức mạnh quân sự. Vì vậy, Washington thúc đẩy chương trình nghị sự.
Công
việc hàng ngày của NATO được lãnh đạo bởi tổng thư ký - cựu Thủ tướng
Na Uy - Jens Stoltenberg, cho đến khi ông được thay thế vào ngày 1 tháng
10 bởi Thủ tướng Hà Lan sắp mãn nhiệm, Mark Rutte.
Quan chức dân
sự hàng đầu của NATO hầu như chủ trì các cuộc họp hàng tuần của các đại
sứ trong Hội đồng Bắc Đại Tây Dương NAC tại trụ sở Brussels. Ông chủ trì
các “NAC” khác ở cấp bộ trưởng và các hội nghị thượng đỉnh của nguyên
thủ quốc gia và chính phủ. Ông Stoltenberg điều hành trụ sở NATO. Ông
không ra lệnh cho các đồng minh xung quanh. Công việc của ông là khuyến
khích sự đồng thuận và phát biểu thay mặt cho tất cả 32 thành viên.
Trụ
sở quân sự của NATO ở gần đó tại Mons, Bỉ. Nơi này luôn được điều hành
bởi một sĩ quan hàng đầu của Hoa Kỳ. Chỉ huy tối cao của đồng minh châu
Âu hiện nay là Đại tướng Christopher Cavoli.
NATO đang làm gì để giúp Ukraine?
Mặc
dù hầu hết các đồng minh tin rằng Nga có thể gây ra mối đe dọa hiện hữu
đối với châu Âu, nhưng bản thân NATO không trang bị vũ khí cho Ukraine.
Là một tổ chức, NATO không sở hữu bất kỳ loại vũ khí nào. Nói chung,
liên minh chỉ cung cấp hỗ trợ không gây chết người - nhiên liệu, khẩu
phần chiến đấu, vật tư y tế và áo giáp, cũng như thiết bị để chống lại
máy bay không người lái hoặc mìn.
Nhưng các thành viên tự mình gửi vũ khí hoặc theo nhóm.
NATO
đang giúp các lực lượng vũ trang Ukraine chuyển đổi từ học thuyết quân
sự thời Liên Xô sang tư duy hiện đại. NATO cũng giúp củng cố các định
chế quốc phòng và an ninh của Ukraine.
Tại Washington, các nhà
lãnh đạo NATO sẽ thông qua một kế hoạch mới nhằm phối hợp cung cấp thiết
bị cho Ukraine và huấn luyện cho lực lượng vũ trang của nước này. Các
nhà lãnh đạo sẽ nhắc lại quyết tâm rằng một ngày nào đó Ukraine sẽ gia
nhập liên minh, nhưng không phải khi nước này đang có chiến tranh.
Tại sao NATO đóng quân nhiều hơn ở biên giới châu Âu?
Trong khi một số đồng minh bỏ ngỏ khả năng gửi quân tới Ukraine thì bản thân NATO không có kế hoạch thực hiện điều này.
Nhưng
một phần quan trọng trong cam kết bảo vệ lẫn nhau của các đồng minh là
ngăn chặn Tổng thống Nga Vladimir Putin, hoặc bất kỳ đối thủ nào khác,
phát động một cuộc tấn công ngay từ đầu. Phần Lan và Thụy Điển gần đây
đã gia nhập NATO vì lo ngại về vấn đề này.
Với cuộc chiến đã bước
sang năm thứ ba, NATO hiện có 500.000 quân nhân sẵn sàng chống lại bất
kỳ cuộc tấn công nào, dù trên bộ, trên biển, trên không hay trên không
gian mạng.
Liên minh đã tăng gấp đôi số lượng lực lượng chiến đấu
dọc theo sườn phía đông, giáp biên giới với Nga và Ukraine. Đồng minh
gần như liên tục tiến hành các cuộc tập trận. Một trong số đó năm nay
là, Steadfast Defender, có sự tham gia của khoảng 90.000 quân hoạt động
trên khắp châu Âu.
Có phải Hoa Kỳ đang thực hiện công việc nặng nhọc nhất không?
Do
chi tiêu quốc phòng cao của Hoa Kỳ trong nhiều năm, các lực lượng vũ
trang của Mỹ không chỉ được hưởng lợi từ số lượng quân lớn hơn và vũ khí
vượt trội mà còn từ các phương tiện vận tải và hậu cần quan trọng.
Tuy
nhiên, các đồng minh khác đang bắt đầu chi tiêu nhiều hơn. Sau nhiều
năm cắt giảm, các thành viên NATO cam kết tăng ngân sách quốc phòng vào
năm 2014 khi Nga sáp nhập Bán đảo Crimea của Ukraine.
Mục đích là
mỗi đồng minh sẽ chi 2% tổng sản phẩm quốc nội cho quốc phòng trong vòng
một thập niên. Một năm trước, khi chiến tranh chưa có hồi kết, họ đã
đồng ý đặt 2% làm mức chi tiêu thấp nhất, thay vì mức cao nhất.
Con
số kỷ lục là 23 quốc gia dự kiến sẽ gần đạt được mục tiêu chi tiêu
trong năm nay, tăng so với chỉ 3 quốc gia hồi một thập niên trước.