Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Trận Ban Mê Thuột Từ ngày 10/3 đến 16/3/1975 - Võ Trung Tín & Nguyễn Hữu Viên
Ban Mê Thuột (hay Buôn Ma Thuột) là tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Lắk và là  thành phố lớn nhất ở vùng Tây Nguyên Việt Nam. Buôn Ma Thuột gốc tiếng Ê  Đê, nghĩa là "bản hoặc làng của Ama Thuột", xuất phát từ tên gọi buôn  của A ma Thuột - tên một vị tù trưởng giàu có và quyền uy nhất vùng; để  rồi từ đây hình thành nên các buôn làng xung quanh, phát triển thành  thành phố Buôn Ma Thuột ngày hôm nay.
Thuở  xưa, đây là vùng đất của người Ê Đê Kpă với khoảng 50 nhà  dài Ê Đê nằm dọc theo suối Ea Tam do Tù Trưởng A Ma Thuột cai quản. Với  lợi thế là trung tâm của Đắk Lắk cũng như toàn Tây Nguyên, một vị trí có  tầm chiến lược về quân sự và kinh tế của cả vùng, lại nằm gọn trên một  cao nguyên đất đỏ màu mỡ bằng phẳng. Năm 1904, khi tỉnh Đắk Lắk được  thành lập, Buôn Ma Thuột được chọn làm cơ quan hành chính của tỉnh này  thay cho Bản Đôn.
Ngày 5 tháng 6 năm 1930, khâm sứ Trung Kỳ ra nghị định thành lập  thị xã Buôn Ma Thuột. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa thị xã này có tên là  Ban Mê Thuột.

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Việt Cộng bất ngờ tấn công Buôn Ma  Thuột, mở đầu cho chiến dịch Hồ Chí Minh, dẫn tới việc thôn tính toàn  cỏi VNCH. 
Từ sau ngày ký Hiệp Ðịnh Paris ngừng bắn 27/1/1973 tình hình Việt  Nam tương đối yên tĩnh. Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân  khoản cho tất cả  các hoạt động quân sự tại Ðông Dương Việt Miên Lào.  Ðầu tháng 7-1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8-1973  cấm hoạt động quân sự của Mỹ trên toàn cõi Ðông Dương. Tháng 10-1973  Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền tổng thống về chiến tranh, tổng thống  phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Cộng Sản Bắc Việt nhận thấy thời cơ đã đến, bèn thay đổi đường lối  đấu tranh từ chính trị sang bạo lực. Trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ  tẻ, sửa chửa và tu bổ hệ thống đường mòn HCM. Tại Quân khu 1, lấn chiếm  một số căn cứ của Việt Nam Cộng Hòa, tháng 9, tháng 10 một số đơn vị  thuộc tỉnh Thừa Thiên phải di tản. Năm 1973 Bắc Việt vẫn chưa phục hồi  sau trận Mùa Hè 1972, chưa thể tổ chức được cuộc tấn công quy mô lớn.
Sau khi ký Hiệp  định Paris, Bắc Việt cho khởi công xây tuyến  đường xa lộ hành lang 613, song song với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm  trong địa phận Việt Nam Cộng Hòa từ Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh gọi là  “Xa Lộ Đông Trường Sơn”, đến đầu 1975 thì công trình hoàn thành dài  1,200 km. gồm 5 hệ thống đường dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài  1,020 km. Dọc theo xa lộ Ðông Trường Sơn là hệ thống ống dẫn dầu dài  1445km qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục nghìn  xe cơ giới các loại. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe ủi đất, hàng vạn bộ  đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san  đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. các xe vận tải cỡ  lớn, các chiến xa loại nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn  mùa, đã ngày đêm chuyển hàng trăm nghìn tấn vũ khí đạn dược quân trang  quân dụng cho chiến trường.
Bắc Việt đã xử dụng 16,000 xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ  thuật, đạn dược, lương thực chuẩn bị cho chiến trường miền Nam trong  suốt hai năm 1973 và 1974. Đường dây liên lạc hữu tuyến cũng đã kéo dài  tới Lộc Ninh. Từ Hà Nội đã nói chuyện thẳng được với nhiều chiến trường.
Ngày 22-5-1974 Hạ Viện Mỹ phủ quyết đề nghị  gia tăng quân viện  1.4 tỷ  Mỷ Kim cho Việt Nam Cộng Hòa của Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, tới  23/9/1974 Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ đồng thanh chấp thuận quân viện cho  Việt Nam Cộng Hòa là 700 triệu, như vậy từ 1/7/1974 VNCH chỉ nhận được  một nửa số quân viện cần thiết, trong số 700 triệu này thì 300 triệu đã  được dùng để trả lương cho nhân viên cơ quan DAO ( Phòng Tùy Viên Quân  Sự).
Tướng Nga Kulikov, phụ tá bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Nga tới Hà Nội  xúi giục Bắc Việt tấn công xâm chiếm miền Nam và hứa giúp thêm vũ khí  đạn dược. Cuối tháng 10-1974 Bộ Chính Trị Bắc Việt quyết định kế hoạch  tác chiến năm 1975. Văn Tiến Dũng đã xác nhận trong Đại Thắng Mùa Xuân :
“Quyết tâm chiến lược của Bộ chính trị được thể hiện trong kế  hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: Năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến  công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công  kích, Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam”
Võ  Nguyên Giáp, bí thư Quân Ủy Trung Ương, kết luận xác định khu  vực và mục tiêu chiến trường Tây Nguyên làm chiến trường chủ yếu trong  cuộc tiến công lớn và nhiệm vụ chiến dịch, hướng phát triển, sử dụng lực  lượng, gợi ý về cách đánh, nhấn mạnh đến phương châm mạnh bạo, bí mật,  bất ngờ, phải nghi binh rất nhiều để làm cho địch tập trung sự chú ý vào  bảo vệ phía Bắc Tây Nguyên.
Như  thế Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước  trong khi ta không có  một nhận định hoặc tin tức tình báo nào rõ  rệt.  Ngày 13/12/1974 Bắc Việt đưa ba sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày  7/1/ 1975 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay địch.
Sau khi tỉnh lỵ Phước Long thất thủ CSBV yên chí  thấy phía Mỹ  không phản ứng. Sau đó ngày 8/1/1975 Lê Duẫn nói “tình hình đã sáng tỏ,  chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoặch 2 năm”. Nhân khi cùng Phạm Hùng  ra Bắc hop vào tháng 11-1974, Tướng Trần Văn Trà, tư lệnh Mặt Trận B2 /  CSBV đưa ý kiến nên tấn công Ban Mê Thuột thay vì Kontum hay Pleiku, để  khởi đầu chiến dịch tấn chiếm Nam Việt Nam, được Bộ Tổng Tham Mưu Bắc  Việt chấp thuận với khẩu hiệu “Mạnh bạo, bí mật và nghi binh” Để tấn  công Ban Mê Thuột, Cộng quân chuẩn bị 5 sư đoàn chính quy, một trung  đoàn Thiết Giáp, Pháo Binh, Phòng Không, Truyền Tin và Công Binh với  tổng số bộ đội lên đến 80,000 người.
Sau trận Phước Long, Bộ TTM ta biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại  Cao Nguyên nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì chúng nghi binh tối đa, ta  không đoán được ý định của địch, theo Tướng Hoàng Văn Lạc “trước khi Văn  Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải nghi binh thật nhiều để  đánh lạc hướng ta”.
Tình hình chính trị quân sự Việt Nam Cộng Hòa 1975 rất là bi đát.  Năm 1967 quân phí tại Việt Nam là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm  1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 71 rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Khi Mỹ đã  rút gần hết chỉ còn 24,200 người trong năm 1972 thì Việt Nam phải một  mình gánh vác chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm  1973 viện trợ quân sự là 2,1 tỷ, năm 1974 chỉ còn 1,4 tỷ, năm 1975 tụt  xuống còn 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên Phòng  Tùy Viên Quân Sự (DAO) của Mỹ.
Ðảng Dân chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ chủ trương rút quân bỏ  Việt Nam không cần đếm xỉa gì tới bạn đồng minh cũng như danh dự cho  nước Mỹ. Họ tìm sơ hở  của Cộng Hòa để phá phách kiếm phiếu, Dân Chủ  thường mị dân, o bế dân nghèo, giới bình dân khố rách áo ôm, đám trốn  quân dịch, phản chiến… để lấy lòng; họ thắng lợi đúng lúc người dân  chống đối chiến tranh Việt Nam dữ dội. Ðảng nọ phá đảng kia, miền Nam  Việt Nam chết oan vì bị nằm giữa cái thế trâu bò húc nhau giữa Cộng Hòa  và Dân Chủ.
Hậu quả của của việc cắt giảm quân viện khiến chúng ta lâm vào  tình trạng thiếu hụt, năm 1972 một số  lớn xăng dầu đạn dược đã được dốc  vào mùa hè đỏ lửa. Hậu quả là Không Quân  đã phải cho hơn 200 phi cơ  ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ huấn luyện 50%,  thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm  hoạt động 50%, 600 tầu chiến các loại nằm ụ. Ðạn dược chỉ còn đủ đánh  tới tháng 5, tháng 6 -1975, hỏa lực giảm 60%.
Năm 1972  ta xử dụng 66 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7-1974  đến tháng 3-1975 ta chỉ còn xử dụng 18 ngàn tấn một tháng, thiếu thuốc  men, số tử thương tăng cao, tinh thần binh sĩ xuống thấp. Ngày 9/8/1974  Nixon từ chức mang theo mình những lời hứa hẹn với Tổng Thống Thiệu.
Việt Nam Cộng Hòa nay đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thù trong  giặc ngoài. Ðồng minh thì phản bội, lãnh đạo bất tài, tham ô, sợ chết …  kẻ thù thừa nước đục thả câu xua đại binh tấn công như vũ bão. 

Tin tức tình báo về cuộc điều quân của địch:
Trong phần trình bày về trận chiến tại Cao Nguyên, Đại Tướng Cao  Văn Viên đã phân tích về kế hoạch tấn công của CSBV như sau: “Cộng Sản  chuẩn bị kế hoạch quân sự của họ trong sự tin tưởng và phấn khởi vì thái  độ yên lặng của Hoa Kỳ từ sau biến cố Phước Long. Nhiều biến chuyển và  hoạt động của địch cho thấy Vùng II sẽ là mặt trận mở màn cho các cuộc  tấn công sắp đến của CS”
Vào cuối tháng 1/1975, Sư Đoàn 320 CSBV hoạt động tại  Đức Cơ được  báo cáo là đang di chuyển về  hướng Nam của Cao Nguyên Đắc Lắc. Quân  đoàn 2 liền báo động nhưng không có hành động nào đáng kể ngoài một số  phi vụ oanh kích các đoàn xe tiếp tế của địch. Suốt trong tháng Hai,  nhiều đoàn xe tiếp tế của CQ gồm hàng trăm chiếc vận tải bị phát giác và  bị tấn công bằng Không quân VNCH .
Các bằng chừng khác là các sư đoàn CSBV như 312, 314, 316 cũng  được báo cáo là đã di chuyển xuống miền Nam, nhưng đến đâu thì chưa được  xác nhận. Sư Đoàn 316 CSBV sau đó bị phát giác là tiến về Ban Mê Thuột  bằng đường Nam Lào.
Những cuộc hành quân truy lùng tin tức địch đã được thực hiện liên  tục. Các đơn vị Nghĩa Quân (NQ) và Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) tại Ban Mê  Thuột vào cuối tháng 2 năm 1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của  địch.
Các  đơn vị Nghĩa Quân và Cảnh Sát Quốc Gia Bản Đôn cũng đã cung  cấp tin tức về sự di chuyển của quân Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Bản  Đôn.
Các tin tình báo của những tình báo viên trong những tháng 2 và  3/1975, khi đi khai thác lâm sản ở khu vực phía Tây thị xã (Bản Đôn) và  Tây Nam thị xã 62 km cũng đả báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Quân  Đoàn, Bộ Chỉ  Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường dây điện thoại, ống dẫn dầu và  dấu xích chiến xa T-54 của Cộng quân.
Ngày 14 tháng 2/1975, 7 chiếc xe be khai thác lâm sản, trong lúc  làm cây ở khu vực Nam Tây-Nam thị xã Ban Mê Thuột 82 km đã bị Cộng quân  cưỡng chiếm, các nạn nhân cũng đã khai trình Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc  Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu những tin tức về lực lượng Cộng quân.
Tháng 2/1975, một nữ cán binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương của  Cộng quân ra hồi chánh với một đơn vị  thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp  tin tức về sư đoàn F10 của Cộng quân đang di chuyển về khu vực Nam thị  xã Ban Mê Thuột, đồng thời cho biết Trung Đoàn 25 Địa Phương sẽ mở chiến  dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc Lộ 21, ranh giới gữa Khánh  Dương và Phước An - Ban Mê Thuột.
Ngày 5 tháng 3, 1975 một cuộc phục kích tại phía đông Buôn Dak  Gang cách bắc Đức Lập 10 cây số. Lực lượng chi khu đã bắt được một tù  binh thuộc Sư  đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt, và tài liệu tiết lộ  Bắc quân  sẽ đại tấn công Quảng Đức và Ban Mê Thuột để mở đầu chiến dịch Tây  Nguyên 1975.
Đặc biệt là cuộc hành quân ngày 7 tháng 3/1975 (ba ngày trước khi  Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột), của một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac,  đã bắt được một tù binh Cộng Sản, cấp bậc thiếu úy, trong toán tiền thám  của Sư Đoàn 320 Điện Biên trong lúc y đang giăng dây điện thoại ở khu  vực Buôn La Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Ban Mê Thuột.
Qua sự thu thập từ những tin tức này cho thấy  là Cộng Quân đang  chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn và kế hoạch tấn công Ban Mê  Thuột  dần dần thấy rõ hơn.
Nhưng nguồn tin này, cũng như nguồn tin tình báo tương tự  của  tiểu khu Ban Mê Thuột, đã không được Bộ  Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và  Quân  Đoàn II "xếp hạng" là những nguồn tin quan trọng và đã không có  những phản ứng thích nghi.
Giai đoạn tiên khởi, CQ muốn cắt đứt Quốc Lộ 14, 19 và 21 để tách  vùng Cao Nguyên ra khỏi vùng đồng bằng của Quân Khu 2 và đồng thời ngăn  chận lực lượng VNCH đến tăng cường. Sư Đoàn 320 CSBV chuyển lên đóng tại  các vị trí nằm về hướng Bắc của Ban Mê Thuột để vô hiệu hóa tất cả các  đồn đóng dọc theo Quốc Lộ 14. Tất cả những sự chuẩn bị này CQ cho tiến  hành bí mật để hòng tạo yếu tố bất ngờ.
Đại Tướng Cao Văn Viên phân tích tiếp: “Phòng 2 của Tình Báo Quân  Đoàn 2 đã có đầy đủ ước lượng về hoạt động và mục tiêu  của địch quân   vào giữa tháng 2/1975, nhưng những báo động này không được vị tư lệnh  Quân đoàn cứu xét một cách cẩn thận. Tướng Phú cho rằng việc địch di  chuyển đến Ban Mê Thuột chỉ là nghi binh, trong khi thật sự Pleiku mới  là mục tiêu của CSBV. Do đó cách bố phòng của Quân Đoàn 2 đã nói lên lối  suy nghĩ của vị tư lệnh quân đoàn”.
Lực Lượng Ðịch: Dưới quyền điều động của Bộ Tư Lệnh mặt trận Ban  Mê Thuộc A75 do Tướng VC Văn Tiến Dũng, Ðinh Ðức Thiện và Lê Ngọc Hiền  chỉ huy gồm khoảng 30,000 người.:
-   SÐ F10 dưới sự chỉ huy của Sư Đoàn Trưởng Thượng Tá Hồ Đệ và Chính Ủy Thượng Tá Lã Ngọc Châu chủ lực tấn công BMT.
-   SÐ320 dưới sự chỉ huy của Đại Tá Kim Tuấn, sư đoàn trưởng, và Thượng  Tá Bùi Huy chỉ có danh vì đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với Nhảy Dù ở  Thượng Ðức.
-   SÐ316 do Đại tá Đàm Văn Nguỵ, sư đoàn trưởng, Thượng Tá Hà Quốc  Toản, chính ủy và Thượng Tá Hải Bằng CSBV từ Nam Lào tiến sang
-   SÐ968 do Thanh Sơn làm sư đoàn trưởng,
-   SÐ3CSBV Sao Vàng do Trần Bá Khuê làm tư  lệnh, Mai Tần tư lệnh phó làm nghi binh.
-   4 Trung Đoàn Bộ Binh 95A, 95B, 25 và 271.
-   5 trung đoàn Pháo Binh gồm 48 khẩu pháo đủ loại và phòng không.
-   1 trung đoàn Chiến Xa, một trung đoàn Ðặc Công.
-   2 trung đoàn Công Binh, một trung đoàn Thông Tin.
-   Các đơn vị hậu cần, quân xa...
Lực Lượng Bạn: Tổng cộng khoảng 4,000 người
-   Trung Đoàn 53 Bộ Binh (chỉ còn 2 tiểu đoàn).
-   Liên Đoàn 21 BĐQ.
-   Các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân.
-   Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia.
-   Biệt Đoàn 219 Trực Thăng tại Ban Mê Thuột. 
Lực  lượng phòng thủ Ban Mê Thuột:
Vì  không tin những nguồn tin tình báo của tiểu khu Ban Mê Thuột,  Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Quân Đoàn II đã không "xếp hạng" là  những nguồn tin quan trọng, toàn bộ Sư Đoàn 23 Bộ Binh được đưa về hoạt  động phòng ngự quanh Pleiku, việc phòng thủ Ban Mê Thuột ủy nhiệm cho  Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, Nghĩa quân tỉnh và Cảnh  Sát. Vào đầu tháng 3/1975 khi có báo động về Sư Đoàn 320 CSBV chuyển đến  Ban Mê Thuột, Quân Đoàn 2 chỉ đưa một phần Trung Đoàn 53 (chỉ có 2 tiểu  đoàn) trở lại Ban Mê Thuột. Trung đoàn này lúc bấy giờ được giao nhiệm  vụ hành quân quanh khu vực phía Nam phi trường Phụng Dực, còn lực lượng  Biệt Động Quân thì trấn giữ tại khu vực Buôn Hô chừng 32 km về hướng  Đông Bắc. Các toán thám sát của Sư đoàn 23 BB và Nha Kỹ Thuật QL.VNCH  được tung ra chung quanh trại Bản Đôn để theo dõi các hoạt động của sư  đoàn 320 CSBV nhưng chỉ phát giác được một số đơn vị nhỏ cấp đại đội CQ  địa phương.

Như  vậy, lực lương quốc gia phòng thủ Ban Mê Thuộc tổng cộng  khoảng gồm những quân nhân hậu cứ của Bộ Tư Lệnh (BTL) Sư Đoàn 23 Bộ  Binh, hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực của các đơn vị này  đã được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết ).
Ban Mê Thuột thực sự là một thành phố  bỏ ngỏ không lực lượng bảo  vệ. Do vậy, vấn đề phân nhiệm phòng thủ tuy có kế hoạch nhưng chẳng  thắm vào đâu so với lực lượng tấn công thiện chiến và đông đảo gấp 20  lần của đối phương.
-  Lực lượng phòng thủ phía Nam là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh gồm các phòng các ban các sở trực thuộc.
-  Lực lượng phòng thủ phía Tây, khu vực trọng yếu và  nguy hiểm nhất,  gồm các đơn vị hậu cứ  của Thiết đoàn 8 kỵ binh và kho đạn (trại Mai hắc  Đế) cùng với Trung Tâm Yểm Trợ tiếp vận (đại đội hành-chánh tài-chánh  ).
-  Lực lượng phòng thủ phía Đông do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ  Binh đảm trách. Xa hơn là Chi Khu Ban Mê Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát  Quốc Gia quận Ban Mê Thuột phối hợp với nhau để chịu trách nhiệm vấn đề  phòng thủ mặt nầy.
-  Lực lượng phòng thủ mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một đơn vị 206 Cảnh Sát Dã Chiến.
-   Nội vi thị xã và các chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách, và được bố trí như sau:
*  Hai chốt cảnh sát đặt tại Trường Trung Học và cuối đường Phan Chu Trinh là các chốt ở cửa Bắc.
*  Cuối đường Tự Do được giao cho Cục Cảnh Sát Cư Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến.
*  Cửa ngỏ phía Nam có Cục Cảnh Sát  Cư Ê Bư và một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến chịu trách nhiệm.
*  Cửa Tây thị xã giao cho Cục Cảnh Sát thị xã Cục Lạc chịu trách  nhiệm. Các cao ốc trong toàn thị xã và các khách sạn đều được Cảnh Sát  Quốc Gia đóng chốt.
*  Các đơn vị trừ bị gồm có một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh  đóng tại phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km, có một  pháo đội 105 ly, trong khi pháo binh của Cộng quân lại là loại 130 ly,  và hỏa tiển 122 ly, tầm xa và sức công phá hoàn toàn cách biệt.
*  Ngoài ra, doanh trại các tiểu đoàn Pháo binh, Công binh, Truyền  tin, Tiếp vận thống thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đóng gần thị xã đều tận  dụng quân số tại hàng để tổ chức phòng ngự trong phạm vi trách nhiệm.
Riêng về trách nhiệm của tiểu khu Darlac, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật  đã cho điều động tiểu đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về  thị xã.   
Cô  lập Ban Mê Thuột:
Bắc Việt đưa kế hoạch tấn công bất ngờ và  đông đảo, nghi binh tối  đa, chúng vờ đánh Pleiku để nhử ta lên giải tỏa rồi cắt các đường dẫn  đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công.  
Bắc Việt dùng các trung đoàn, sư đoàn cắt các đường giao thông 19,  14, 21 nghi binh thu hút quân đội VNCH về  phía Bắc để bất thần tấn  công Ban Mê Thuột. Chúng không để sẵn quân ở vị trí xuất phát tấn công  mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào  thị xã phối hợp với lực lượng đặc công đã len lỏi sẵn trong thị xã, rồi   từ đó đánh ra ngoài.
Ngày 1-3-1975 Sư Đoàn 968 Bắc Việt tấn chiếm các đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường Cù Hanh, Pleiku.
Ngày 4/3/1975 Trung Đoàn 95B Việt Cộng và Sư Đoàn 3 Sao Vàng tấn  công ngăn chận quốc lộ 19 tại An Khê  như muốn tấn công Pleiku, cắt  đường giao thông Pleiku và Nha Trang.
Ngày 5/3/1975 Trung Đoàn 25 Việt Cộng cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An  và Khánh Dương, cắt đường Nha Trang -  Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng  cường Trung Đoàn 45 tại Thanh An và cho 2 tiểu đoàn Biệt Động Quân và  Thiết Giáp giải tỏa Quốc Lộ 19 nhưng không thành công.
Ngày 7/3/1975 Sư Đoàn 320 Việt Cộng chiếm quận lỵ Thuần Mẫn trên Quốc Lộ 14 nằm giữa đường Pleiku đi Ban Mê Thuột.
Ngày 9-3 hôm nay Sư Đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt nhất  định san bằng  quận Đức Lập để tiến quân về Ban Mê Thuột. Chi khu bị tấn công từ  6  giờ sáng, VC đã dùng pháo binh 130 ly và SKZ 82 ly bắn vào chi khu và  chi đoàn chiến xa, địch đã làm tê liệt các chiến xa của ta ngay từ phút  đầu và sau đó quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt mở "trận địa chiến" đánh  ban ngày, các công sự phòng thủ trên mặt đất sập hết. Tình hình Đức Lập  vô cùng nguy ngập. Các đồn phụ đã bị "bứt". Tiểu đoàn Địa Phương Quân  đóng tại Núi Lửa cách Đức Lập 9 cây số bị địch tràn ngập sau một trận  đánh đẫm máu. Thiếu tá tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ huy khác bị  Việt cộng sát hại.
Trung Đoàn 53BB do Trung Tá Võ Ân làm Trung Đoàn Trưởng đã điều  động một Tiểu Đoàn đến giải vây quận Đức Lập. Tiểu đoàn nầy liền bị địch  quân bao vây và đã giao chiến ác liệt với Sư Đoàn F10 của CSBV. Trung  Tá Võ Ân đã bay C&C trên vòm trời Đức Lập để hướng dẩn cho đơn vị  dưới đất thoát khỏi vòng vây của Cộng quân và gọi các phi tuần A37 ném  bom chính xác vào vị trí quân VC. Phòng không 37 ly của CSBV bắn lên như  đan lưới. Phi Hành Đoàn của Biệt Đoàn 219 Trực thăng thật gan lì hạ  thấp cao độ để tránh đạn.
Tương Phú liên lạc thẳng với Trung Tá Nguyễn Cao Vực, quận trưởng  quận Đức Lập. Ông được báo cáo trung tá Quận trưởng đã bị thương, hiện ở  ngoài chỉ huy và điều khiển những khẩu đại bác 105 ly bắn trực xạ vào  Cộng quân. Chi khu cầm cự cho đến sáng, khi mặt trời bắt đầu lên. Đúng  10 giờ 30 phút ngày 9/3 quận Đức Lập biến thành biển lửa.
Như  thế Việt Cộng đã cô lập Ban Mê Thuột cả  Bắc và Nam mà Tướng  Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại nghĩ chúng nghi binh vờ   đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn ông  đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn Biệt Đông Quân thuộc Liên Đoàn 21 từ  Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột.
Sự  sai lầm của Tướng Phú đã được Việt Cộng khai thác triệt để:  “Từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3 năm 1975, trước khi tiến công vào  Buôn Ma Thuột, ta triển khai thế chiến dịch, thu hút sự chú ý của địch  về hướng Công tum, Plây cu, cắt các đường, cô lập mục tiêu chủ yếu. Cho  nên đến lúc ta sắp nổ súng đánh vào Buôn Ma Thuột, địch mới biết. Chúng  báo động và muốn tăng cường lực lượng nhưng không kịp nữa rồi, lực lượng  đã bị căng giữ ở các nơi khác” (ÐTMX trang 90)
Mặt Trận Ban Mê Thuột.
Ngày 9/3/1975 Thiếu Tướng Phú bay lên BMT thị sát kế  hoạch phòng  thủ, ứng chiến của thành phố ra lệnh cấp phát hỏa tiển chống chiến xa  M72 và hỏa tiển TOW cho các đơn vị. Từ 12 giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày  9/3/1975, Tướng Phú họp với Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, các tiểu khu  trưởng Ban Mê Thuột và Quảng Đức để duyệt xét tình hình các mặt trận.
Sau khi chấp nhận những đề nghị của các giới chức liên hệ và cho  những chỉ thị cần thiết, ông ra lệnh cho Đại Tá Nghìn, tỉnh trưởng Quảng  Đức bay về trước. Tại Ban Mê Thuột, để cho có sự thống nhất chỉ huy,  Tướng Phú bổ nhiệm Đại Tá Quang, tư lệnh phó Sư Đoàn 23 làm tư lệnh  chiến trường Ban Mê Thuột.
Các tư lệnh mặt trận phải ra lệnh đôn đốc các đơn vị chuẩn bị và  sẵn sàng chiến đấu trong 2, 3 tháng liên tiếp; tổ chức những cuộc hành  quân xa ngoài thị xã và vị trí phòng thủ.
Kho xăng, kho đạn phải được phân tán, đề phòng đặc công Cộng Sản  Bắc Việt đánh phá. Lệnh thiết quân luật mỗi nơi được ủy nhiệm cho các tư  lệnh mặt trận toàn quyền định đoạt.
Đến 10.00 giờ đêm ngày 9/3, thành phố Ban Mê Thuộc được lệnh báo động đỏ, tập họp tất cả binh sỉ chuẩn bị tác chiến.
Sang ngày 10/3/1975, từ 1giờ 20 đến 2 giờ 15 sáng, các chốt điểm  Cảnh Sát Dã Chiến ở cửa Bắc và cửa Tây thị xã đã phát giác các tổ trinh  sát tiền phong của Cộng quân và liên tiếp báo về Trung Tâm Hành Quân  Cảnh Lực, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac.
2 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt  đầu thực hiện  trận mưa pháo theo chiến thuật tiền pháo hậu xung bằng đại bác 130 ly,  hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự như Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư  Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và phi trường L19.
Những tiếng nổ của hỏa tiển 122 ly và đại pháo 130 ly khủng khiếp  làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng  động đất. Các nhà cao tầng bị rung chuyển cực mạnh. Thành phố đã như  con tàu chao nghiêng trong bão tố. Một số các nhà xây thô sơ quanh các  khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên tiếp không ngừng đổ  xuống các cứ điểm quân sự cho đến 6 giờ sáng.  
Bốn giờ sáng, đặc công CS đã đột nhập tấn công vào vị trí của Biệt  Đoàn 219 Trực Thăng, và bắn sập đài kiểm báo Pyramid của phi trường  L19. Sau đó chiến xa T-54 và bộ đội Cộng Sản chia làm nhiều mũi tấn công  vào phi trường L19, kho đạn Mai Hắc Đế , Tiểu Khu Darlac, Tòa Hành  Chánh Tỉnh, BTL Sư Đoàn 23 BB, hậu cứ Trung Đoàn 53 BB sát phi trường  Phụng Dực với chiến thuật biển người.
Trận đánh quyết định giữa Nam-Bắc đã diển ra. Nhưng lực lượng giữa  hai bên quá ư chênh lệch, như trứng chọi với đá nếu so sánh cả về quân  số, vũ khí, chiến cụ. Địch đã ở thế thượng phong ngay từ lúc đầu !
6 giờ 15 sáng, xe phóng thanh của Ty Thông Tin đậu tại Ngã 6 thị  xã phát lời kêu gọi của đại tá tỉnh trưởng yêu cầu đồng bào bình tỉnh,  ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại thị xã vẩn còn yên tỉnh.
6 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một góc phía Bắc của phi  trường L19 bị Cộng quân tràn ngập.7 giờ 15 các chốt cảnh sát xin lệnh  rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp lực địch quá mạnh, dân chúng từ khu vực  Buôn A-Lê B, Tân Mai, cửa Nam thị xã lũ lượt chạy vào trung tâm thành  phố.
Lúc 8 giờ 30 sáng, kho đạn Mai Hắc Đế thất thủ. Vị đại úy chỉ huy trưởng kho đạn bị tử thương.
9 giờ 20, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng quân chia làm nhiều mũi tấn  công vào thị xã. Một mũi từ cuối đường Phan Chu Trinh (cửa Bắc) tràn  chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa, ngã Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ Huy Tiểu  Khu 800 mét. Mũi phía Nam, từ khu vực Buôn A-Lê B, đồi La San, theo đại  lộ Thống Nhất tiến đánh khu vực tư Dinh Tỉnh Trưởng, Ty Ngân Khố. Một  mũi khác, từ hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri Phương  Phan Bội Châu, và mặt Tây thị xã cũng đã bị Cộng quân tấn chiếm.
Ngoài mặt trận chính Ban Mê Thuột, Cộng quân tấn công khắp nơi.  Các trận bắc Kontum, nam Pleiku, bắc Bình Định, Quảng Đức và trên 2 quốc  lộ 19, 21 đều bị áp lực nặng nề. 
MẶT TRẬN TIỂU KHU DARLAC
Từ  9 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 3/1975, các mũi tiến quân của Cộng  quân từ hướng Bắc và hướng Tây Bắc  đã tràn vào trung tâm thành phố và  tập trung nổ lực tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống  Nhất. Bộ đội và chiến xa T-54 của Cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính  tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ quan, nằm  trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi.
Lực lượng phòng vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt. Một  chiếc T-54 của Cộng quân bị  bắn cháy. Dù với chiến thuật biển người và   đại bác 100 ly trang bị cho T-54 bắn trực xạ không ngừng nhưng Cộng  quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự phòng thủ này. Tinh  thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những chiến sĩ thuộc Tiểu Khu quả  thật không thể tưởng tượng. Cứ mỗi đợt tiến công của Cộng quân là những  tràng đại liên, M-79 (súng phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ  xối xả phản kích làm cho bước tiến quân của Cộng quân đã phải ngừng lại.
Cộng quân lui về cố thủ khu vực cư xá  sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên  Thùy, đồng thời chia quân tràn qua đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa Án,  bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ, và tiếp tục thực hiện trận mưa  pháo bằng đại bác 100 ly từ các chiến xa T-54 và đại bác130 ly cùng hỏa  tiễn 122 ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon) đổ vào Bộ Chỉ Huy Tiểu  Khu.
11giờ  20, một chiếc T-54 của Cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ  Huy Tiểu Khu trên đường Thống Nhất đã bị bắn hạ. Tinh thần chiến đấu  của các chiến sĩ Tiểu Khu càng lên cao.
11 giờ 45, hai chiếc Commando Car (thiết giáp với bốn bánh cao su,  không xích sắt) của Thiết Đoàn 8 từ hướng chùa Khải Đoan theo đường  Quang Trung qua Tôn Thất  Thuyết để tiến về đánh bọc hậu lực lượng của  Cộng quân đang công hãm Tiểu Khu. Nhưng khi đến ngã ba Ama Trang Long  Tôn Thất Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của Cộng quân từ  ngã Sáu tràn xuống chận đánh. Hai chiếc Commando Car bị Cộng quân bắn  cháy trước Bar Quốc Tế. Nhưng các chiến sĩ của Thiết Đoàn 8 đã len theo  khu phố Ama Trang Long để tiến về hướng Tiểu Khu.
Khu chợ Ban Mê Thuột, từ đường Quang Trung chạy dọc theo đường Y  Jút đến Ama Trang Long bị trúng đạn pháo và bốc cháy dữ dội. Nhà hàng  Thanh Thế mới khai trương, cũng tân kỳ không thua gì nhà hàng Thanh Thế ở  đại lộ Lê Lợi Saigon, giờ đây đang là một biển lửa. Dãy phố bên kia  đường Ama Trang Long, đối diện với nhà hàng Thanh Thế như tiệm Rồng  Vàng, nằm mặt sau của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vụn. Khu phố nằm  trên đường Y Jút, đối diện với chợ Ban Mê Thuột như nhà của  Ông Tôn  Thất Hối đã bị sập.
Lực lượng Biệt Ðộng Quân tại Buôn Hô được  điều động về tiếp cứu  Ban Mê Thuộc nhưng gập hỏa lực mạnh mẻ của các chốt kháng cự  trên đường  đi. Một lực lượng Thiết Giáp và ÐPQ đang hành quân tại Budrang cũng  được lệnh trở lại nhưng bị cầm chân ở một cây cầu phía Nam tỉnh lỵ  khoảng 10 km.
Đến 11 giờ 45 các chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ. Lực  lượng của cộng quân từ 2 mặt, phía Bắc và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu  đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ của Tiểu Khu. Những trận đánh xáp  lá cà  đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống công sự phòng thủ nầy.
13 giờ 15 trưa ,Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ  Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền tin bị phá hủy.
14 giờ 20 Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn 7  tiếng đồng hồ giao tranh với lực lượng biển người của Cộng quân có chiến  xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ, mà không có được một đơn vị bạn  nào tiếp cứu. BCH Tiểu Khu phải di tản và sát nhập với BTL tiền phương  của SĐ23BB. 
Sáu mươi ngàn dân thị xã Ban Mê Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công,  lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac.  Trong những giờ phút lâm nguy đã cố gắng và hy sinh để làm tròn bổn phận  cho đến hết sức mình với những trận tấn công và đánh xáp lá cà cùng lực  lượng biển người của quân thù, đến giờ phút cuối đành di tản Bộ Chỉ Huy  Tiểu Khu để bảo toàn lực lượng.   
MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ XÃ 
Những Trận Đánh Oanh Liệt của Các Chiến Sĩ  Cảnh Sát Quốc Gia Thuộc Bộ  Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac
Trong kế hoạch phòng thủ thị xã Ban Mê  Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát  Quốc Gia Tỉnh Darlac là một trong những đơn vị chịu trách nhiệm về một  khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội vi thị xã đến cả một mặt Bắc, bao  gồm phi trường trực thăng và phi trường L19. Phòng thủ phi trường L19  là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Tỉnh.
Với những tin tức nhận được của mạng lưới tình báo cơ hữu và của  các đơn vị bạn, vị  chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, Trung Tá   Trần Quang Vĩnh đã sẵn sàng kế hoạch phòng thủ  và phản công cho đơn vị  hằng tháng trước. Ông đã bổ nhiệm Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn, Đại Đội  Trưởng đại đội Cảnh sát Dã Chiến 206 làm phụ tá đặc trách hành quân.
2 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt  đầu tấn công  phi trường L19, (khu vực phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia  Tỉnh, do Đại Đội Thám Sát chịu trách nhiệm), bằng đại bác 130 ly và hỏa  tiễn 122 ly.
Đến 4 giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu dùng lực  lượng bộ binh với chiến thuật biển người và xe tăng T-54 tấn công phi  trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống trả quyết liệt và báo cáo về Bộ  Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia. Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn liền liên lạc với  Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224 tiếp viện. Nhưng Đại Đội 1/224 đã không thể  chọc thủng vòng vây của Cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19.
6 giờ 20, một đoạn vòng đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc  thủng. Lực lượng Cộng quân tràn ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát  Tỉnh đã phải lui về phòng tuyến phòng thủ phía sau với những tổn thất  nặng nề về nhân sự .
Sau khi tràn ngập các vị trí phòng thủ, 9 giờ  20, lực lượng Cộng  quân từ mặt Bắc thị xã, tức là khu vực phía Bắc phi truờng L19 bắt đầu  tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac, nằm trên đường Tự Do  để xâm nhập trung tâm thành phố.
Lợi dụng hệ thống công sự phòng thủ và  các dãy hàng rào kẽm gai  bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia đườngTự Do, lực lượng Cảnh Sát Quốc  Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của Cộng quân. Các chiến sĩ Cảnh Sát  dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn nhưng đã anh dũng phản công  quyết liệt trước những đợt tấn công của Cộng quân, không cho địch tiến  sát vào hệ thống công sự phòng thủ.
Chính nhờ lòng dũng cảm chiến đấu, kỷ thuật tác chiến, và hệ thống  chỉ huy chặt chẽ  , mà một mặt phía Đông thị xã Ban Mê  Thuột, từ khu  đường Tự Do, chạy dài xuống Bà  Triệu, Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng  Hợp Ban Mê  Thuột, chưa có bóng dáng của Cộng quân. Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát  Quốc Gia Tỉnh Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn mà có lẽ họ không  thể nào ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho các đơn vị  phải rút lui vào phút cuối.
15 giờ 40 với áp lực của địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn  Văn Thành, chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra  lệnh mở đường máu đem đơn vị ra khỏi thị xã về Cây Số 5, phối hợp với  các đơn vị trực thuộc và Chi Khu Ban Mê Thuột để tiếp tục phản công quân  thù.
16 giờ  Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị  xã Ban Mê  Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ  Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn còn kháng  cự.
Trong thành phố, tiếng súng nhỏ đã im, nhưng cảnh tan hoang của  thị xã thật không cách nào tả xiết.  Rải rác trên các khu phố, những  vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai săn sóc. Thành  phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Bóng dáng của Cộng quân  như tử thần đến chiêu hồn những kẻ còn sống và đe dọa mọi người.

Trong gần suốt 14 giờ đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát,  Nghĩa Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Tỉnh và Nhân Dân Tự Vệ toàn  thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với lực lượng biển người, chiến  xa và đại bác của Cộng quân mà không có được một đơn vị bạn nào tiép  cứu.
Và  giữa những giờ phút quyết liệt này, người ta nhận được tin vào  lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một đơn vị Biệt Động quân từ  cửa Bắc thị xã (bến xe Cây Số 3) đã xâm nhập trung tâm thành phố. Tin  tức này được loan truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp  các cửa ngõ thị xã, và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy cho đến binh sĩ  đều vui mừng hy vọng chiến trường sẽ xoay hướng.
Nhưng cho đến một giờ chiều, tin tức về Liên  Đoàn 21 Biệt Động  Quân vẫn im hơi lặng tiếng, mà  chiến trường mỗi lúc càng quyết liệt  hơn, cho đến khi người ta biết rằng đơn vị Biệt Động Quân tiến vào thị  xã sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình vợ con của Chuẩn Tướng Lê Trung  Tường, vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã.
Tin này quả thật là một tác động tâm lý, không những làm cho các  đơn vị tham chiến mà cả toàn thị xã có cảm nghĩ Ban Mê Thuột đã bị bỏ  rơi. Tuy nhiên với tinh thần và trách nhiệm của một người lính, các đơn  vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu với niềm tin lực lượng tổng  trừ bị, và đặc biệt là hai Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ được  gởi đến.
ĐÊM KINH HOÀNG
Từ  6 giờ chiều ngày 10 tháng 3/1975, bộ đội Cộng quân bắt đầu  chia thành từng toán nhỏ lục soát khắp cùng các khu phố và những điểm  tập trung của người chạy loạn như chùa Khải Đoan, trường Bồ Đề, trường  Tàu ở đường Y Jút. Họ thanh lọc dân chúng, bắt đi những thanh niên nam  nữ, và truy lùng các viên chức chánh phủ, sĩ quan và binh lính.
Khắp cùng các ngõ phố, bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công,  đập phá các cửa tiệm, dinh thự, tư gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù  ẩn trốn, là Việt gian, phản động, làm việc cho Mỹ Ngụy, hoặc có nợ máu  với nhân dân. Chúng thi nhau lục soát các trường học, nhà thờ, bức tượng  ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị chúng đập nát, đồng  thời lùng bắt những người có thù hằn với chúng, và lôi đốt hết các loại  sách báo, giáo khoa, tự điển, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc biệt  là những ấn phẩm viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp văn.
Một lần nữa, ngọn lửa tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên  khắp cùng thị xã. Cảnh hôi của, hôi người, trả thù cá nhân lan tràn khắp  nơi. Thành phố bây giờ là một xã hội không tổ chức, không luật pháp, và  tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các ngõ phố. Những hình phạt dã  man thời tiền sử đã được đem ra thực hiện. Hình ảnh của chết chóc và  khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và đè nặng xuống tâm hồn  mỗi dân đinh của toàn thành phố. 
Sự  ngu dốt của kẻ chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ  của cấp lãnh đạo chính là  tai họa và thảm trạng tàn khốc cho một xã  hội. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng Hòa miền Nam đã có một  trình độ văn hóa và kỷ thuật cách xa gấp bội so với miền Bắc, nên bộ đội  Cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập tức đi dò tìm những  'đài địch,' và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc đại bác 100 ly trang bị  trên chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ  cho rằng đó là vị trí đặt các máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng  Hòa, mà các trụ ăng ten TV là những 'đài địch ' ấy đã có khắp trong  toàn thị xã. Thảm thương thay cho thành phố Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân  của thị xã này.
Trong đêm này, không biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao  nhiều người bị chết oan, đánh đập, hoặc bị  đấu tố mang thương tích hay  tàn khuyết, mà vợ  con, thân nhân, bạn bè chỉ đứng nhìn mà không dám kêu  van. Máu và lệ đã đổ, nhưng không chảy ra từ khoé mắt, mà lại tuôn  ngược vào lòng. Trời ở quá cao mà Phật cũng rất xa, nên con người đã là  chủ của con người trong đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung dữ. Đêm  kinh hoàng, đêm của địa ngục và Sa Tăng.
Nhưng cái quan trọng của những kẻ chiến thắng không phải là những  thứ đó, Cái quan trọng đối với kẻ  chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1  này là vơ  vét tất cả những gì họ có thể  vơ vét: Kho dự trữ lương thực  trung ương, nằm trên đường Tự Do, Kho Quân Nhu, Quân Cụ, dụng cụ y khoa  và dược phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân Y Viện, Dân Y Viện,  Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo, cửa hàng  bách hóa của tư nhân trong toàn thành phố ….
Suốt  đêm, người ta nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng hóa  vật dụng của thành phố đi về hướng Bandon, phía Tây thị xã.  
BỘ  TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ  BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG
Bây giờ là 4 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, khu suối Đốc Học  với những vườn rau tàn tạ đầy dấu dép râu và dấu xích chiến xa, khu vực  Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Dân Y Viện Ban Mê Thuột, chỉ còn thấy  được ngọn đèn Signal chơ vơ trên trụ truyền tin. Những đóm màu đỏ của  hỏa châu càng nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang trong rừng đêm.
Cái lặng lẽ của đêm trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng  làm cho người ta liên tưởng tới một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu  lâu một tràng đại liên hoặc những loạt súng nhỏ không phân biệt được  AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24 giờ đồng hồ, từ lúc 1 giờ  20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, lực lượng phòng thủ hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư  Đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng trong suốt 24 giờ, và không  hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.
Qua hệ thống truyền tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi Khu  Ban Mê Thuột, và Đại Tá Dậu, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân  còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc, mà chưa chọc thủng được phòng  tuyến của Cộng quân để tiến vào thị xã. Hy vọng duy nhất trong lúc này,  là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu Bộ Tư Lệnh, dầu rằng màng lưới phòng  không với đại liên 37 ly của Cộng quân vẫn không ngừng tấn công.
5 giờ 55 sáng ngày 11 tháng 3/1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh,  Ở cửa Nam thị xã, lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng, nằm trên đại  lộ Thống Nhất vẫn còn cầm cự. 
6 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, từ khuôn viên trường tiểu học  Nguyễn Du, sau lưng Sở Học Chánh Ban Mê  Thuột, những chiếc T-54 của  Cộng quân, và lực lượng bộ binh tùng thiết đang thực hiện một cuộc  chuyển quân bao vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Vòng vây này  đang được thắt chặt, như một màng lưới dày đặc chung quanh vòng đai  phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng Tây-Nam, đang  dàn hàng ngang tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Với  kinh nghiệm của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư Lệnh khó lòng cầm  cự được trong vòng vài ba giờ đồng hồ tới.
Trong khi đó, những tiếng súng nhỏ, và đại bác 100 ly, cùng lúc  gầm lên như những giây pháo nổ không ngừng, làm rung chuyển cả một vùng  trời. Cộng quân bắt đầu nổ lực tấn công hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ  Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và chiến xa T-54 cũng ráo riết tấn  công lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng.
8 giờ 15 sáng ngày 11 tháng 3/1975, tư dinh tỉnh trưởng bị T-54 ủi  sập các bức tường vòng đai, và pháo sập các tầng lầu. Trung úy Trung  đội trưởng bị trọng thương. Tư dinh tỉnh trưởng đã thất thủ, chốt điểm  cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị Cộng quân tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn  23 Bộ Binh bây giờ như người hùng cô đơn vẫy vùng dưới trời mưa đạn của  quân thù.  
NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG CỦA BỘ  TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ  BINH
Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các phòng  ban chuyên môn, trong đó có đại đội tổng hành dinh, chuyên trách về   hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt là các Trung Đoàn 44 và 45  đang hành quân vùng Pleiku. Trung Đoàn 53 chỉ có hai tiểu đoàn ở Ban Mê  Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105 ly, nhưng một tiểu đoàn lại đã  điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập, một quận vừa bị Cộng quân tràn ngập  vào sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3/1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ Phi  trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7 km.
Cho đến 8 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, đơn vị  quân lực còn  có mặt tại thị xã Ban Mê  Thuột chỉ là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ  Binh, Cộng quân biết rõ điều này, và càng hiểu rằng Trung Đoàn 44 và 45  Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang sơn của họ. Và đặc biệt là  Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt ngoài vòng đai thị xã ở cửa Bắc,
Liên  Đoàn 21 Biệt Động Quân được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách  thị xã Ban Mê Thuột 35 km về hướng Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng  3/1975. Đến 9 giờ tối cùng ngày đã tiến sát vào vòng đai thị xã, nhưng  chưa chọc thủng được vòng vây của Cộng quân. Tiểu Khu Darlac lúc bấy giờ  đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 cố thủ trong khuôn  viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu cầu cho Liên  Đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.
Điểm đáng tiếc là 10 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đơn vị tiền  sát của liên đoàn đã đột nhập thị xã, di tản gia đình vị tư lệnh Sư  Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã, nhưng lại không được lệnh ở lại làm điểm  tựa cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu thị xã sau này. 
Từ  6 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 3/1975, Cộng quân đã bố trí xong  lực lượng thắt chặt vòng văy hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và  thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54,  bắn trực xạ, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly từ hướng Bandon dồn dập đổ  xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời, chiến xa và bộ đội Cộng quân dàn  hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh. Lực lượng phòng thủ Bộ  Tư Lệnh đã chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận  chiến với quân thù.
10 giờ 10 phút, một phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào  Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư  Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị phá hủy.
10 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, một đoạn hệ  thống công sự ở  mặt Tây và phía Nam Bộ  Tư Lệnh đã bị chọc thủng. Bộ đội và chiến xa của  Cộng quân tràn vào hậu cứ Sư Đoàn 23 Bộ Binh như nước vỡ bờ. Đại Tá Vũ  Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng  kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị thoát khỏi  hậu cứ, bỏ lại Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình huống vô  cùng bi thảm. Ban Mê Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn dân như một đàn gà  con mất mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này cùng với nổi hải hùng và  tuyệt vọng mênh mong.  
MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN 53 BỘ BINH
Thị  xã Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân từ chiều  hôm qua, ngày 10 tháng 3/1975, và đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cuối  cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã này lúc 10  giờ 38 phút  ngày 11 tháng 3/1975. Nhưng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, phòng  thủ Phi Trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km về hướng Đông  Bắc vẫn cố thủ và cương quyết chống lại lực lượng biển người và chiến xa  T-54 của Cộng quân.
Cùng lúc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột 1 giờ 20 sáng ngày 10  tháng 3/1975, Cộng quân đã không bỏ sót Trung Đoàn 53. Chiến xa và bộ  đội của Cộng quân, với đại bác 130 ly, và hỏa tiển 122 ly yểm trợ đã  không ngừng luân phiên tấn công Trung Đoàn 53. Và sau khi đơn vị quân  lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ Ban Mê Thuột, Cộng quân càng tập  trung lực lượng tấn công Trung Đoàn 53 ác liệt hơn.
Trận  đánh thư hùng giữa Trung đoàn 53 Bộ binh và  một lực lương  quân chính qui CS Bắc Việt đã  được tăng cường thêm  đông hơn gấp 10 lần  xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng là lần xuất trận đầu tiên của Sư đoàn  316, sư đoàn tổng trừ bị của Bắc Việt tại mặt trận phi trường Phụng Dực  trên chiến trường Cao nguyên.

Phi Trường Phụng Dực
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh là Trung Tá  Võ Ân. Biết  rõ ý đồ của Cộng quân, nhưng ông cũng hiểu rằng Phi Trường Phụng Dực là  điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho lực lượng tổng trừ bị là sư đoàn  Nhảy Dù sẽ đến giải cứu Ban Mê Thuột sau này, đồng thời đơn vị của ông  là lực lượng đầu cầu và liên lạc duy nhất cho các đơn vị bạn về sau. Do  vậy, ông đã ra lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm đạn dược  và mọi phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của địch  để chống lại kẻ địch, và phải nhất định bắn trúng mục tiêu.
Trong suốt thời gian 6 ngày đêm, Trung Đoàn 53 Bộ Binh không những  đã đánh tan nhiều đợt tấn công biển người của Cộng quân, mà còn tịch  thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như súng cộng đồng để tiêu diệt T-54  và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến trường. Sự tổn thất nặng nề nhất  của Cộng quân trong mặt trận Ban Mê Thuột, hơn 200 nhân mạng, không biết  được con số bị thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng chính B-40,  B-41 của Cộng quân do Trung Đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường  Phụng Dực.
Góp phần đáng kể vào việc kéo dài trận chiến là  một đại đội chừng  70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được huấn luyện đặc biệt và quyết tâm  chiến đấu đến cùng. Tham gia trận chiến Ban Mê Thuột ngay từ ngày đầu,  và là đơn vị sau chót rút khỏi đấy là Đại Đội Thám Báo mà Thiếu Uý  Nguyển Công Phúc là một trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến đấu trong hoàn cảnh cô đơn, cam go, căng thẳng và  thiếu thốn súng đạn, lương thực. Họ đã gây tổn thương nặng cho một tiểu  đoàn địch, giúp Trung Đoàn 53 của bạn chống trả lại những đợt tấn công  mãnh liệt của đối phương, đồng thời chấm tọa độ hướng dẫn pháo binh bạn  bắn vào những vị trí địch.
Một trong những yếu tố để đại đội đạt được thành tích trên và tồn  tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở Ban Mê Thuột là Cộng quân không biết vị  trí đóng quân kín đáo và bất ngờ của đại đội. Cộng quân khi tấn công  Trung Đoàn 53 đã bị thúc mạnh vào cạnh sườn vì không biết có đại đội  thám báo nằm quanh những ụ đất dùng để che chở cho máy bay ở phi trường  và gần rừng cao su phía ngoài căn cứ của trung đoàn. Đại đội mới nhận vị  trí đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là  doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến quân dễ  bị phát hiện.
Trong những giờ đầu của cuộc tấn công, Phúc theo dõi tình hình mặt  trận qua máy truyền tin. Được trang bị  hệ thống truyền tin tối tân hơn  những đơn vị bộ binh thông thường khác, đại đội thám báo có thể liên  lạc với những đợn vị bạn theo hàng dọc, mà cả với mấy đơn vị theo hàng  ngang như quân đoàn, sư đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Nhờ vậy Phúc  biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến. 
Từ  sáng sớm ngày 10 tháng 3/1975 cho đến hết ngày 15 tháng  3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh, và pháo đội  105 ly đã anh dũng chiến đấu với một lực lượng Cộng quân nhiều gấp bội,  có chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần biết đến Ban Mê Thuột đã  thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14 tháng 3/1975, đã  loan tin Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử Quân Lực Việt Nam  Cộng Hòa.
Ngày 15 tháng 3/1975, một phi vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho  Trung Đoàn 53 đã không rơi đúng điểm ấn định mà lại rơi xuống khu vực  Vườn Ương ở Hồ thực nghiệm.
Ngày 16 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn mất liên lạc  với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Hết  đạn dược và thuốc men, Trung Tá Trung  Đoàn Trưởng Võ Ân đành phải ra lệnh rút khỏi phi trường Phụng Dực. Điểm  liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân.  Nhưng Trung Tá Ân, đúng là người hùng của quân lực, và Trung Đoàn 53 Bộ  Binh anh dũng là những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm khiếp đảm quân  thù, và đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng Hòa  miền Nam.
Với lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế của mặt trận Ban Mê  Thuột, nếu thị  xã Ban Mê Thuột được Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh  phòng thủ, thì cho dầu Cộng Sản Bắc Việt có quân số nhiều hơn vài ngàn  người trong cuộc tấn công này, Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đã không rơi  vào biển đêm của lịch sử dân tộc. Và Sư Đoàn 23 Bộ Binh vĩnh viễn sẽ là  một đơn vị kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.  
Quân Đoàn 2 tiếp cứu BMT:
Ban Mê Thuộc lọt vào tay CS, khởi đầu cho việc sụp đổ của miền Nam  Tự Do. Buổi sáng khi 2 trái bom 500 cân Anh của Không Quân đánh sập một  đầu hầm Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, một số  sĩ quan trong bộ tham mưu đã thoát lên được. Đại Tá Quang ra lịnh rút  quân vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là “Suối Bà Hoàng” -  cách BTL sư đoàn 250m.
Cũng may mùa này là mùa khô nên suối cạn. Lòng suối lại thấp hơn  mặt đất tới 15m nên rất dễ cho việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất  đông, khoảng 100 người. Xa xa tiếng phát thanh tuyên truyền của  địch  quân gần Chùa của Tỉnh hội Phật Giáo Ban Mê Thuột kêu gọi các binh sĩ ta  đầu hàng. Cộng quân lúc này đầy khắp các ngả đường trong thành phố cùng  với những đoàn xe tăng của chúng
Sau cùng Đại Tá Quang quyết định mọi người phải phân tán mỏng để  tránh sư phát giác của địch quân. Đại Tá Quang, vị tư lịnh chiến trường  Ban Mê Thuột sẽ đi về hướng Nam, đến gần cầu khoảng cách 14km và tìm  đường về Nha Trang. Còn Đại tá Nguyễn Trọng Luật cùng với Phó Tỉnh  Trưởng Hành Chánh Nguyễn Ngọc Vỵ đi về hướng Tây, nhằm về khu vườn cà  phê của Trung Tướng Thái Quang Hoàng và chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc  Ban Mê Thuột và từ đó tìm về Nha Trang. Riêng các binh sỉ thì phân tán  mỏng và tìm cách trở về Nha Trang. Hy vọng lúc đó sẽ tập họp lại để tiếp  tục chiến đấu..
Cũng thời gian này trên Quốc Lộ 14, từ Đức Lập về Ban Mê Thuột, Bộ  Chỉ Huy Hành Quân Nhẹ của Trung Đoàn 53 Bộ binh cùng với một tiểu đoàn,  được lệnh rút từ vùng hành quân phía đông bắc quận Đức Lập về tiếp cứu  Ban Mê Thuột, cũng bị Việt cộng phục kích chận đánh. Trung tá trung đoàn  phó Trung Đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều bị tử trận hoặc bị địch  bắt. Cánh quân này coi như bị tan rã trước khi tới được trận địa Ban Mê  Thuột.
Đến xế trưa ngày 11 tháng 3, bên cạnh Đại Tá Quang chỉ còn có  người thiếu úy, sĩ quan tùy viên và một người lính. Không thể đi tới  được phi trường Phụng Dực và cũng không còn phương tiện truyền tin để  liên lạc, ba người đã lẩn tránh trong một vườn cà phê mấy tiếng đồng hồ,  đợi đêm tối nhắm hướng nam đi về phía Quảng Đức.
Khoảng 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, Đại Tá Quang và  tùy tùng trốn  khỏi Trung Tâm Hành Quân, đi được khoảng 6 cây số đường rừng, ngay khi  vừa tới sát một làng Thượng, thì bị Việt Cộng nổ súng, xông ra vây bắt.  Đại Tá Quang vẫn còn mang cấp bậc trên cổ áo và xưng danh là tư lệnh phó  Sư Đoàn 23 Bộ Binh, chúng đã trói lại, lột giầy và liệng xuống hố.  Chừng một giờ sau, chúng được lệnh dẫn Đại Tá Quang đi suốt đêm. Tới  chiều hôm sau, ngày 13 tháng 3, được cởi trói, cho đi giầy vào và chở đi  bằng xe Molotova sang Cam Bốt để khai thác.
Riêng cánh Đại Tá Nguyễn Trọng Luật  khi chạy  đến vườn cà phê của  Trung Tướng Thái Quang Hoàng, tất cả cũng bị Cộng quân dàn quân chận  bắt hết. Riêng Đại Tá Luật bị chúng bắt lên một xe thiết giáp chở đi  mất.
Những cơ sở đầu não ở Ban Mê Thuột bị  VC đánh chiếm trong hai  ngày đầu. Mấy ngày sau Sài Gòn chưa nhìn nhận Ban Mê Thuột thất thủ vì  chiến trận còn tiếp diễn ở Trung Đoàn 53 khu vực gần phi trường nằm phía  ngoài thị xã.
Ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2  tổ chức cuộc đổ quân tăng viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Lực lượng  chính của cuộc phản công là Trung Đoàn 45 Bộ Binh (BB) và 1 tiểu đoàn  của Trung Đoàn 44 thuộc Sư Đoàn 23 BB đang phòng ngự tại Pleiku. Về phía  Không Quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn của Sư đoàn 6  Không quân, BTL đặt tại Pleiku, còn có các phi đoàn trực thăng của Sư  Đoàn 1 Không Quân (Đà Nẵng) và Sư Đoàn 4 Không Quân (Cần Thơ), với hơn  100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.
-Theo lịch trình đổ quân, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 45 BB và  đại đội Trinh Sát Sư Đoàn 23 BB được trực thăng vận trước tiên. Tiếp  đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác 105 thả xuống khu vực đổ quân  của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.
-1 giờ 10 trưa ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu Tướng Phú  từ Bộ Tư  Lệnh Quân Đoàn 2 bay đến Ban Mê Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực  tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đã  liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến đấu ở quanh Ban Mê  Thuột như Trung Đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực, Liên Đoàn 21 Biệt  Động Quân, các tiểu đoàn Địa Phương Quân Darlac. Cùng đi theo cánh quân  cứu viện còn có Đại Tá Trịnh Tiếu, trưởng Phòng 2 Quân Đoàn 2, được  Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Darlac  thay thế Đại Tá Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi  theo Đại Tá Tiếu, còn có bộ chỉ huy lưu động của Tiểu Khu Darlac vừa  thành lập.

Tuy nhiên, sự phản công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không  hữu hiệu, các Trung Đoàn 44 và  45 được đổ xuống Phước An dùng làm bàn  đạp để tiến về thành phố Bàn Mê Thuột. Nhưng Phước An vào lúc đó trở  thành một trung tâm tản cư của những người dân chạy thoát ra từ Ban Mê  Thuộc. Ở đây nhiều binh sỉ gặp lại gia đình tự động lẫn vào đám đông bỏ  ngũ. Một số các binh sỉ khác tự động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân mất  tích. Một đạo quân giải vây trong tình trạng như thế chắc chắn không thể  hoạt động được. Bốn ngày sau, SĐF10 của CSBV tiến chiếm Phước An. Hy  vọng giải vây BMT bị tan vở.
Chiều ngày 12 tháng 3/1975, cùng lúc tấn chiếm tại chiến trường  Ban Mê Thuột, thì tại Pleiku, Cộng quân cũng đã pháo kích bằng hỏa tiễn  vào phi trường quân sự Cù Hanh và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. 
Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, trong khi Sư Đoàn 23 BB đang khai  triển các cánh quân để tiến về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh,  Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao  Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An Ninh Quân Sự của tổng  thống, đã họp mật với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2/Quân  Khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra  lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân  Đoàn 2/Quân Khu 2 khỏi Cao Nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền  Trung thuộc lãnh thổ Quân Khu 2. 
Thay lời kết:
Cộng Sản Bắc Việt tung vào trận địa tấn công Ban Mê Thuột 3 sư  đoàn chủ lực và các đơn vị biệt lập địa phương, toàn bộ lực lượng vào  khoảng 30 ngàn người, gấp 7 lần lực lượng trú phòng (khoảng 4000). Chủ  lực quân ta chỉ có hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 53 còn lại là Địa  Phương Quân, Cảnh Sát… Lực lượng đã quá chênh lệch, địch lại đánh lén,  đánh trộm thì  chúng phải dành chắc phần thắng trong tay. Sự thất thủ  của Ban Mê Thuột là chuyện đương nhiên; dù biết trước phòng thủ cũng vẫn  thua. Nhưng nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây tổn thất nặng  nề cho địch thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy  vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp  đổ tan tành mau chóng.
Tuy nhiên sự sai lầm của Tướng Phú chỉ là  phương diện chiến  thuật, Ban Mê Thuột mất vì  tại Quân Khu 2 ta không đủ lực lượng để  đương đầu lại áp lực của địch quân gồm 5 sư đoàn chủ lực cộng với 15  trung đoàn biệt lập và cơ giới, lại thêm những lệnh lạc bất thường thiếu  nghiên cứu vì cấp lãnh đạo của ta đã sai lầm về lãnh đạo và chiến lược…  
Tài liệu tham khảo:
-   Những Ngày Cuối Của VNCH, của Đại Tướng Cao Văn Viên. Bản dịch Việt  Ngữ của Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản Vietnambliography 2003.
-   Ban Mê Thuột, Ngày Đầu Cuộc Chiến của Nguyễn  Định trên trang Web History of the Viet NamWar.
-   Mặt Trận Ban Mê Thuột ngày 10/3/1975 của Vương Hồng Anh đăng trên Việt Báo từ 3/2000.
-   Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chién^ Tranh VN 1963-1975 của Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương, Đại Nam xuất bản 1993.
-   Mặt Trận Ban Mê Thuột của Phạm Huấn trên trang nhà http://doanket.orgfree.com
-   Nhìn Lại Trận Đánh Ban Me Thuột 1975 của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật trên http://doanket.orgfree.com
-   Email suavantran@hotmail.com của Trần Văn Sua Biệt Đoàn 219 Trực Thăng tại Ban Mê Thuột.
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Ngày 30 Tháng 4 thứ 50" - by Bùi Xuân Cảnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Lịch Sử Tên Nước Việt Nam" - by Từ Thiện / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Lối Xưa Xe Ngựa Hồn Thu Thảo" - by Nguyễn Thị Chân Quỳnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
Trận Ban Mê Thuột Từ ngày 10/3 đến 16/3/1975 - Võ Trung Tín & Nguyễn Hữu Viên
Ban Mê Thuột (hay Buôn Ma Thuột) là tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Lắk và là  thành phố lớn nhất ở vùng Tây Nguyên Việt Nam. Buôn Ma Thuột gốc tiếng Ê  Đê, nghĩa là "bản hoặc làng của Ama Thuột", xuất phát từ tên gọi buôn  của A ma Thuột - tên một vị tù trưởng giàu có và quyền uy nhất vùng; để  rồi từ đây hình thành nên các buôn làng xung quanh, phát triển thành  thành phố Buôn Ma Thuột ngày hôm nay.
Thuở  xưa, đây là vùng đất của người Ê Đê Kpă với khoảng 50 nhà  dài Ê Đê nằm dọc theo suối Ea Tam do Tù Trưởng A Ma Thuột cai quản. Với  lợi thế là trung tâm của Đắk Lắk cũng như toàn Tây Nguyên, một vị trí có  tầm chiến lược về quân sự và kinh tế của cả vùng, lại nằm gọn trên một  cao nguyên đất đỏ màu mỡ bằng phẳng. Năm 1904, khi tỉnh Đắk Lắk được  thành lập, Buôn Ma Thuột được chọn làm cơ quan hành chính của tỉnh này  thay cho Bản Đôn.
Ngày 5 tháng 6 năm 1930, khâm sứ Trung Kỳ ra nghị định thành lập  thị xã Buôn Ma Thuột. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa thị xã này có tên là  Ban Mê Thuột.

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Việt Cộng bất ngờ tấn công Buôn Ma  Thuột, mở đầu cho chiến dịch Hồ Chí Minh, dẫn tới việc thôn tính toàn  cỏi VNCH. 
Từ sau ngày ký Hiệp Ðịnh Paris ngừng bắn 27/1/1973 tình hình Việt  Nam tương đối yên tĩnh. Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân  khoản cho tất cả  các hoạt động quân sự tại Ðông Dương Việt Miên Lào.  Ðầu tháng 7-1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8-1973  cấm hoạt động quân sự của Mỹ trên toàn cõi Ðông Dương. Tháng 10-1973  Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền tổng thống về chiến tranh, tổng thống  phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Cộng Sản Bắc Việt nhận thấy thời cơ đã đến, bèn thay đổi đường lối  đấu tranh từ chính trị sang bạo lực. Trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ  tẻ, sửa chửa và tu bổ hệ thống đường mòn HCM. Tại Quân khu 1, lấn chiếm  một số căn cứ của Việt Nam Cộng Hòa, tháng 9, tháng 10 một số đơn vị  thuộc tỉnh Thừa Thiên phải di tản. Năm 1973 Bắc Việt vẫn chưa phục hồi  sau trận Mùa Hè 1972, chưa thể tổ chức được cuộc tấn công quy mô lớn.
Sau khi ký Hiệp  định Paris, Bắc Việt cho khởi công xây tuyến  đường xa lộ hành lang 613, song song với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm  trong địa phận Việt Nam Cộng Hòa từ Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh gọi là  “Xa Lộ Đông Trường Sơn”, đến đầu 1975 thì công trình hoàn thành dài  1,200 km. gồm 5 hệ thống đường dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài  1,020 km. Dọc theo xa lộ Ðông Trường Sơn là hệ thống ống dẫn dầu dài  1445km qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục nghìn  xe cơ giới các loại. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe ủi đất, hàng vạn bộ  đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san  đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. các xe vận tải cỡ  lớn, các chiến xa loại nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn  mùa, đã ngày đêm chuyển hàng trăm nghìn tấn vũ khí đạn dược quân trang  quân dụng cho chiến trường.
Bắc Việt đã xử dụng 16,000 xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ  thuật, đạn dược, lương thực chuẩn bị cho chiến trường miền Nam trong  suốt hai năm 1973 và 1974. Đường dây liên lạc hữu tuyến cũng đã kéo dài  tới Lộc Ninh. Từ Hà Nội đã nói chuyện thẳng được với nhiều chiến trường.
Ngày 22-5-1974 Hạ Viện Mỹ phủ quyết đề nghị  gia tăng quân viện  1.4 tỷ  Mỷ Kim cho Việt Nam Cộng Hòa của Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, tới  23/9/1974 Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ đồng thanh chấp thuận quân viện cho  Việt Nam Cộng Hòa là 700 triệu, như vậy từ 1/7/1974 VNCH chỉ nhận được  một nửa số quân viện cần thiết, trong số 700 triệu này thì 300 triệu đã  được dùng để trả lương cho nhân viên cơ quan DAO ( Phòng Tùy Viên Quân  Sự).
Tướng Nga Kulikov, phụ tá bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Nga tới Hà Nội  xúi giục Bắc Việt tấn công xâm chiếm miền Nam và hứa giúp thêm vũ khí  đạn dược. Cuối tháng 10-1974 Bộ Chính Trị Bắc Việt quyết định kế hoạch  tác chiến năm 1975. Văn Tiến Dũng đã xác nhận trong Đại Thắng Mùa Xuân :
“Quyết tâm chiến lược của Bộ chính trị được thể hiện trong kế  hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: Năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến  công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công  kích, Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam”
Võ  Nguyên Giáp, bí thư Quân Ủy Trung Ương, kết luận xác định khu  vực và mục tiêu chiến trường Tây Nguyên làm chiến trường chủ yếu trong  cuộc tiến công lớn và nhiệm vụ chiến dịch, hướng phát triển, sử dụng lực  lượng, gợi ý về cách đánh, nhấn mạnh đến phương châm mạnh bạo, bí mật,  bất ngờ, phải nghi binh rất nhiều để làm cho địch tập trung sự chú ý vào  bảo vệ phía Bắc Tây Nguyên.
Như  thế Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước  trong khi ta không có  một nhận định hoặc tin tức tình báo nào rõ  rệt.  Ngày 13/12/1974 Bắc Việt đưa ba sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày  7/1/ 1975 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay địch.
Sau khi tỉnh lỵ Phước Long thất thủ CSBV yên chí  thấy phía Mỹ  không phản ứng. Sau đó ngày 8/1/1975 Lê Duẫn nói “tình hình đã sáng tỏ,  chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoặch 2 năm”. Nhân khi cùng Phạm Hùng  ra Bắc hop vào tháng 11-1974, Tướng Trần Văn Trà, tư lệnh Mặt Trận B2 /  CSBV đưa ý kiến nên tấn công Ban Mê Thuột thay vì Kontum hay Pleiku, để  khởi đầu chiến dịch tấn chiếm Nam Việt Nam, được Bộ Tổng Tham Mưu Bắc  Việt chấp thuận với khẩu hiệu “Mạnh bạo, bí mật và nghi binh” Để tấn  công Ban Mê Thuột, Cộng quân chuẩn bị 5 sư đoàn chính quy, một trung  đoàn Thiết Giáp, Pháo Binh, Phòng Không, Truyền Tin và Công Binh với  tổng số bộ đội lên đến 80,000 người.
Sau trận Phước Long, Bộ TTM ta biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại  Cao Nguyên nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì chúng nghi binh tối đa, ta  không đoán được ý định của địch, theo Tướng Hoàng Văn Lạc “trước khi Văn  Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải nghi binh thật nhiều để  đánh lạc hướng ta”.
Tình hình chính trị quân sự Việt Nam Cộng Hòa 1975 rất là bi đát.  Năm 1967 quân phí tại Việt Nam là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm  1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 71 rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Khi Mỹ đã  rút gần hết chỉ còn 24,200 người trong năm 1972 thì Việt Nam phải một  mình gánh vác chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm  1973 viện trợ quân sự là 2,1 tỷ, năm 1974 chỉ còn 1,4 tỷ, năm 1975 tụt  xuống còn 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên Phòng  Tùy Viên Quân Sự (DAO) của Mỹ.
Ðảng Dân chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ chủ trương rút quân bỏ  Việt Nam không cần đếm xỉa gì tới bạn đồng minh cũng như danh dự cho  nước Mỹ. Họ tìm sơ hở  của Cộng Hòa để phá phách kiếm phiếu, Dân Chủ  thường mị dân, o bế dân nghèo, giới bình dân khố rách áo ôm, đám trốn  quân dịch, phản chiến… để lấy lòng; họ thắng lợi đúng lúc người dân  chống đối chiến tranh Việt Nam dữ dội. Ðảng nọ phá đảng kia, miền Nam  Việt Nam chết oan vì bị nằm giữa cái thế trâu bò húc nhau giữa Cộng Hòa  và Dân Chủ.
Hậu quả của của việc cắt giảm quân viện khiến chúng ta lâm vào  tình trạng thiếu hụt, năm 1972 một số  lớn xăng dầu đạn dược đã được dốc  vào mùa hè đỏ lửa. Hậu quả là Không Quân  đã phải cho hơn 200 phi cơ  ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ huấn luyện 50%,  thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm  hoạt động 50%, 600 tầu chiến các loại nằm ụ. Ðạn dược chỉ còn đủ đánh  tới tháng 5, tháng 6 -1975, hỏa lực giảm 60%.
Năm 1972  ta xử dụng 66 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7-1974  đến tháng 3-1975 ta chỉ còn xử dụng 18 ngàn tấn một tháng, thiếu thuốc  men, số tử thương tăng cao, tinh thần binh sĩ xuống thấp. Ngày 9/8/1974  Nixon từ chức mang theo mình những lời hứa hẹn với Tổng Thống Thiệu.
Việt Nam Cộng Hòa nay đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thù trong  giặc ngoài. Ðồng minh thì phản bội, lãnh đạo bất tài, tham ô, sợ chết …  kẻ thù thừa nước đục thả câu xua đại binh tấn công như vũ bão. 

Tin tức tình báo về cuộc điều quân của địch:
Trong phần trình bày về trận chiến tại Cao Nguyên, Đại Tướng Cao  Văn Viên đã phân tích về kế hoạch tấn công của CSBV như sau: “Cộng Sản  chuẩn bị kế hoạch quân sự của họ trong sự tin tưởng và phấn khởi vì thái  độ yên lặng của Hoa Kỳ từ sau biến cố Phước Long. Nhiều biến chuyển và  hoạt động của địch cho thấy Vùng II sẽ là mặt trận mở màn cho các cuộc  tấn công sắp đến của CS”
Vào cuối tháng 1/1975, Sư Đoàn 320 CSBV hoạt động tại  Đức Cơ được  báo cáo là đang di chuyển về  hướng Nam của Cao Nguyên Đắc Lắc. Quân  đoàn 2 liền báo động nhưng không có hành động nào đáng kể ngoài một số  phi vụ oanh kích các đoàn xe tiếp tế của địch. Suốt trong tháng Hai,  nhiều đoàn xe tiếp tế của CQ gồm hàng trăm chiếc vận tải bị phát giác và  bị tấn công bằng Không quân VNCH .
Các bằng chừng khác là các sư đoàn CSBV như 312, 314, 316 cũng  được báo cáo là đã di chuyển xuống miền Nam, nhưng đến đâu thì chưa được  xác nhận. Sư Đoàn 316 CSBV sau đó bị phát giác là tiến về Ban Mê Thuột  bằng đường Nam Lào.
Những cuộc hành quân truy lùng tin tức địch đã được thực hiện liên  tục. Các đơn vị Nghĩa Quân (NQ) và Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) tại Ban Mê  Thuột vào cuối tháng 2 năm 1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của  địch.
Các  đơn vị Nghĩa Quân và Cảnh Sát Quốc Gia Bản Đôn cũng đã cung  cấp tin tức về sự di chuyển của quân Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Bản  Đôn.
Các tin tình báo của những tình báo viên trong những tháng 2 và  3/1975, khi đi khai thác lâm sản ở khu vực phía Tây thị xã (Bản Đôn) và  Tây Nam thị xã 62 km cũng đả báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Quân  Đoàn, Bộ Chỉ  Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường dây điện thoại, ống dẫn dầu và  dấu xích chiến xa T-54 của Cộng quân.
Ngày 14 tháng 2/1975, 7 chiếc xe be khai thác lâm sản, trong lúc  làm cây ở khu vực Nam Tây-Nam thị xã Ban Mê Thuột 82 km đã bị Cộng quân  cưỡng chiếm, các nạn nhân cũng đã khai trình Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc  Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu những tin tức về lực lượng Cộng quân.
Tháng 2/1975, một nữ cán binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương của  Cộng quân ra hồi chánh với một đơn vị  thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp  tin tức về sư đoàn F10 của Cộng quân đang di chuyển về khu vực Nam thị  xã Ban Mê Thuột, đồng thời cho biết Trung Đoàn 25 Địa Phương sẽ mở chiến  dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc Lộ 21, ranh giới gữa Khánh  Dương và Phước An - Ban Mê Thuột.
Ngày 5 tháng 3, 1975 một cuộc phục kích tại phía đông Buôn Dak  Gang cách bắc Đức Lập 10 cây số. Lực lượng chi khu đã bắt được một tù  binh thuộc Sư  đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt, và tài liệu tiết lộ  Bắc quân  sẽ đại tấn công Quảng Đức và Ban Mê Thuột để mở đầu chiến dịch Tây  Nguyên 1975.
Đặc biệt là cuộc hành quân ngày 7 tháng 3/1975 (ba ngày trước khi  Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột), của một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac,  đã bắt được một tù binh Cộng Sản, cấp bậc thiếu úy, trong toán tiền thám  của Sư Đoàn 320 Điện Biên trong lúc y đang giăng dây điện thoại ở khu  vực Buôn La Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Ban Mê Thuột.
Qua sự thu thập từ những tin tức này cho thấy  là Cộng Quân đang  chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn và kế hoạch tấn công Ban Mê  Thuột  dần dần thấy rõ hơn.
Nhưng nguồn tin này, cũng như nguồn tin tình báo tương tự  của  tiểu khu Ban Mê Thuột, đã không được Bộ  Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và  Quân  Đoàn II "xếp hạng" là những nguồn tin quan trọng và đã không có  những phản ứng thích nghi.
Giai đoạn tiên khởi, CQ muốn cắt đứt Quốc Lộ 14, 19 và 21 để tách  vùng Cao Nguyên ra khỏi vùng đồng bằng của Quân Khu 2 và đồng thời ngăn  chận lực lượng VNCH đến tăng cường. Sư Đoàn 320 CSBV chuyển lên đóng tại  các vị trí nằm về hướng Bắc của Ban Mê Thuột để vô hiệu hóa tất cả các  đồn đóng dọc theo Quốc Lộ 14. Tất cả những sự chuẩn bị này CQ cho tiến  hành bí mật để hòng tạo yếu tố bất ngờ.
Đại Tướng Cao Văn Viên phân tích tiếp: “Phòng 2 của Tình Báo Quân  Đoàn 2 đã có đầy đủ ước lượng về hoạt động và mục tiêu  của địch quân   vào giữa tháng 2/1975, nhưng những báo động này không được vị tư lệnh  Quân đoàn cứu xét một cách cẩn thận. Tướng Phú cho rằng việc địch di  chuyển đến Ban Mê Thuột chỉ là nghi binh, trong khi thật sự Pleiku mới  là mục tiêu của CSBV. Do đó cách bố phòng của Quân Đoàn 2 đã nói lên lối  suy nghĩ của vị tư lệnh quân đoàn”.
Lực Lượng Ðịch: Dưới quyền điều động của Bộ Tư Lệnh mặt trận Ban  Mê Thuộc A75 do Tướng VC Văn Tiến Dũng, Ðinh Ðức Thiện và Lê Ngọc Hiền  chỉ huy gồm khoảng 30,000 người.:
-   SÐ F10 dưới sự chỉ huy của Sư Đoàn Trưởng Thượng Tá Hồ Đệ và Chính Ủy Thượng Tá Lã Ngọc Châu chủ lực tấn công BMT.
-   SÐ320 dưới sự chỉ huy của Đại Tá Kim Tuấn, sư đoàn trưởng, và Thượng  Tá Bùi Huy chỉ có danh vì đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với Nhảy Dù ở  Thượng Ðức.
-   SÐ316 do Đại tá Đàm Văn Nguỵ, sư đoàn trưởng, Thượng Tá Hà Quốc  Toản, chính ủy và Thượng Tá Hải Bằng CSBV từ Nam Lào tiến sang
-   SÐ968 do Thanh Sơn làm sư đoàn trưởng,
-   SÐ3CSBV Sao Vàng do Trần Bá Khuê làm tư  lệnh, Mai Tần tư lệnh phó làm nghi binh.
-   4 Trung Đoàn Bộ Binh 95A, 95B, 25 và 271.
-   5 trung đoàn Pháo Binh gồm 48 khẩu pháo đủ loại và phòng không.
-   1 trung đoàn Chiến Xa, một trung đoàn Ðặc Công.
-   2 trung đoàn Công Binh, một trung đoàn Thông Tin.
-   Các đơn vị hậu cần, quân xa...
Lực Lượng Bạn: Tổng cộng khoảng 4,000 người
-   Trung Đoàn 53 Bộ Binh (chỉ còn 2 tiểu đoàn).
-   Liên Đoàn 21 BĐQ.
-   Các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân.
-   Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia.
-   Biệt Đoàn 219 Trực Thăng tại Ban Mê Thuột. 
Lực  lượng phòng thủ Ban Mê Thuột:
Vì  không tin những nguồn tin tình báo của tiểu khu Ban Mê Thuột,  Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Quân Đoàn II đã không "xếp hạng" là  những nguồn tin quan trọng, toàn bộ Sư Đoàn 23 Bộ Binh được đưa về hoạt  động phòng ngự quanh Pleiku, việc phòng thủ Ban Mê Thuột ủy nhiệm cho  Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, Nghĩa quân tỉnh và Cảnh  Sát. Vào đầu tháng 3/1975 khi có báo động về Sư Đoàn 320 CSBV chuyển đến  Ban Mê Thuột, Quân Đoàn 2 chỉ đưa một phần Trung Đoàn 53 (chỉ có 2 tiểu  đoàn) trở lại Ban Mê Thuột. Trung đoàn này lúc bấy giờ được giao nhiệm  vụ hành quân quanh khu vực phía Nam phi trường Phụng Dực, còn lực lượng  Biệt Động Quân thì trấn giữ tại khu vực Buôn Hô chừng 32 km về hướng  Đông Bắc. Các toán thám sát của Sư đoàn 23 BB và Nha Kỹ Thuật QL.VNCH  được tung ra chung quanh trại Bản Đôn để theo dõi các hoạt động của sư  đoàn 320 CSBV nhưng chỉ phát giác được một số đơn vị nhỏ cấp đại đội CQ  địa phương.

Như  vậy, lực lương quốc gia phòng thủ Ban Mê Thuộc tổng cộng  khoảng gồm những quân nhân hậu cứ của Bộ Tư Lệnh (BTL) Sư Đoàn 23 Bộ  Binh, hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực của các đơn vị này  đã được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết ).
Ban Mê Thuột thực sự là một thành phố  bỏ ngỏ không lực lượng bảo  vệ. Do vậy, vấn đề phân nhiệm phòng thủ tuy có kế hoạch nhưng chẳng  thắm vào đâu so với lực lượng tấn công thiện chiến và đông đảo gấp 20  lần của đối phương.
-  Lực lượng phòng thủ phía Nam là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh gồm các phòng các ban các sở trực thuộc.
-  Lực lượng phòng thủ phía Tây, khu vực trọng yếu và  nguy hiểm nhất,  gồm các đơn vị hậu cứ  của Thiết đoàn 8 kỵ binh và kho đạn (trại Mai hắc  Đế) cùng với Trung Tâm Yểm Trợ tiếp vận (đại đội hành-chánh tài-chánh  ).
-  Lực lượng phòng thủ phía Đông do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ  Binh đảm trách. Xa hơn là Chi Khu Ban Mê Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát  Quốc Gia quận Ban Mê Thuột phối hợp với nhau để chịu trách nhiệm vấn đề  phòng thủ mặt nầy.
-  Lực lượng phòng thủ mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một đơn vị 206 Cảnh Sát Dã Chiến.
-   Nội vi thị xã và các chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách, và được bố trí như sau:
*  Hai chốt cảnh sát đặt tại Trường Trung Học và cuối đường Phan Chu Trinh là các chốt ở cửa Bắc.
*  Cuối đường Tự Do được giao cho Cục Cảnh Sát Cư Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến.
*  Cửa ngỏ phía Nam có Cục Cảnh Sát  Cư Ê Bư và một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến chịu trách nhiệm.
*  Cửa Tây thị xã giao cho Cục Cảnh Sát thị xã Cục Lạc chịu trách  nhiệm. Các cao ốc trong toàn thị xã và các khách sạn đều được Cảnh Sát  Quốc Gia đóng chốt.
*  Các đơn vị trừ bị gồm có một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh  đóng tại phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km, có một  pháo đội 105 ly, trong khi pháo binh của Cộng quân lại là loại 130 ly,  và hỏa tiển 122 ly, tầm xa và sức công phá hoàn toàn cách biệt.
*  Ngoài ra, doanh trại các tiểu đoàn Pháo binh, Công binh, Truyền  tin, Tiếp vận thống thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đóng gần thị xã đều tận  dụng quân số tại hàng để tổ chức phòng ngự trong phạm vi trách nhiệm.
Riêng về trách nhiệm của tiểu khu Darlac, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật  đã cho điều động tiểu đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về  thị xã.   
Cô  lập Ban Mê Thuột:
Bắc Việt đưa kế hoạch tấn công bất ngờ và  đông đảo, nghi binh tối  đa, chúng vờ đánh Pleiku để nhử ta lên giải tỏa rồi cắt các đường dẫn  đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công.  
Bắc Việt dùng các trung đoàn, sư đoàn cắt các đường giao thông 19,  14, 21 nghi binh thu hút quân đội VNCH về  phía Bắc để bất thần tấn  công Ban Mê Thuột. Chúng không để sẵn quân ở vị trí xuất phát tấn công  mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào  thị xã phối hợp với lực lượng đặc công đã len lỏi sẵn trong thị xã, rồi   từ đó đánh ra ngoài.
Ngày 1-3-1975 Sư Đoàn 968 Bắc Việt tấn chiếm các đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường Cù Hanh, Pleiku.
Ngày 4/3/1975 Trung Đoàn 95B Việt Cộng và Sư Đoàn 3 Sao Vàng tấn  công ngăn chận quốc lộ 19 tại An Khê  như muốn tấn công Pleiku, cắt  đường giao thông Pleiku và Nha Trang.
Ngày 5/3/1975 Trung Đoàn 25 Việt Cộng cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An  và Khánh Dương, cắt đường Nha Trang -  Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng  cường Trung Đoàn 45 tại Thanh An và cho 2 tiểu đoàn Biệt Động Quân và  Thiết Giáp giải tỏa Quốc Lộ 19 nhưng không thành công.
Ngày 7/3/1975 Sư Đoàn 320 Việt Cộng chiếm quận lỵ Thuần Mẫn trên Quốc Lộ 14 nằm giữa đường Pleiku đi Ban Mê Thuột.
Ngày 9-3 hôm nay Sư Đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt nhất  định san bằng  quận Đức Lập để tiến quân về Ban Mê Thuột. Chi khu bị tấn công từ  6  giờ sáng, VC đã dùng pháo binh 130 ly và SKZ 82 ly bắn vào chi khu và  chi đoàn chiến xa, địch đã làm tê liệt các chiến xa của ta ngay từ phút  đầu và sau đó quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt mở "trận địa chiến" đánh  ban ngày, các công sự phòng thủ trên mặt đất sập hết. Tình hình Đức Lập  vô cùng nguy ngập. Các đồn phụ đã bị "bứt". Tiểu đoàn Địa Phương Quân  đóng tại Núi Lửa cách Đức Lập 9 cây số bị địch tràn ngập sau một trận  đánh đẫm máu. Thiếu tá tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ huy khác bị  Việt cộng sát hại.
Trung Đoàn 53BB do Trung Tá Võ Ân làm Trung Đoàn Trưởng đã điều  động một Tiểu Đoàn đến giải vây quận Đức Lập. Tiểu đoàn nầy liền bị địch  quân bao vây và đã giao chiến ác liệt với Sư Đoàn F10 của CSBV. Trung  Tá Võ Ân đã bay C&C trên vòm trời Đức Lập để hướng dẩn cho đơn vị  dưới đất thoát khỏi vòng vây của Cộng quân và gọi các phi tuần A37 ném  bom chính xác vào vị trí quân VC. Phòng không 37 ly của CSBV bắn lên như  đan lưới. Phi Hành Đoàn của Biệt Đoàn 219 Trực thăng thật gan lì hạ  thấp cao độ để tránh đạn.
Tương Phú liên lạc thẳng với Trung Tá Nguyễn Cao Vực, quận trưởng  quận Đức Lập. Ông được báo cáo trung tá Quận trưởng đã bị thương, hiện ở  ngoài chỉ huy và điều khiển những khẩu đại bác 105 ly bắn trực xạ vào  Cộng quân. Chi khu cầm cự cho đến sáng, khi mặt trời bắt đầu lên. Đúng  10 giờ 30 phút ngày 9/3 quận Đức Lập biến thành biển lửa.
Như  thế Việt Cộng đã cô lập Ban Mê Thuột cả  Bắc và Nam mà Tướng  Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại nghĩ chúng nghi binh vờ   đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn ông  đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn Biệt Đông Quân thuộc Liên Đoàn 21 từ  Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột.
Sự  sai lầm của Tướng Phú đã được Việt Cộng khai thác triệt để:  “Từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3 năm 1975, trước khi tiến công vào  Buôn Ma Thuột, ta triển khai thế chiến dịch, thu hút sự chú ý của địch  về hướng Công tum, Plây cu, cắt các đường, cô lập mục tiêu chủ yếu. Cho  nên đến lúc ta sắp nổ súng đánh vào Buôn Ma Thuột, địch mới biết. Chúng  báo động và muốn tăng cường lực lượng nhưng không kịp nữa rồi, lực lượng  đã bị căng giữ ở các nơi khác” (ÐTMX trang 90)
Mặt Trận Ban Mê Thuột.
Ngày 9/3/1975 Thiếu Tướng Phú bay lên BMT thị sát kế  hoạch phòng  thủ, ứng chiến của thành phố ra lệnh cấp phát hỏa tiển chống chiến xa  M72 và hỏa tiển TOW cho các đơn vị. Từ 12 giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày  9/3/1975, Tướng Phú họp với Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, các tiểu khu  trưởng Ban Mê Thuột và Quảng Đức để duyệt xét tình hình các mặt trận.
Sau khi chấp nhận những đề nghị của các giới chức liên hệ và cho  những chỉ thị cần thiết, ông ra lệnh cho Đại Tá Nghìn, tỉnh trưởng Quảng  Đức bay về trước. Tại Ban Mê Thuột, để cho có sự thống nhất chỉ huy,  Tướng Phú bổ nhiệm Đại Tá Quang, tư lệnh phó Sư Đoàn 23 làm tư lệnh  chiến trường Ban Mê Thuột.
Các tư lệnh mặt trận phải ra lệnh đôn đốc các đơn vị chuẩn bị và  sẵn sàng chiến đấu trong 2, 3 tháng liên tiếp; tổ chức những cuộc hành  quân xa ngoài thị xã và vị trí phòng thủ.
Kho xăng, kho đạn phải được phân tán, đề phòng đặc công Cộng Sản  Bắc Việt đánh phá. Lệnh thiết quân luật mỗi nơi được ủy nhiệm cho các tư  lệnh mặt trận toàn quyền định đoạt.
Đến 10.00 giờ đêm ngày 9/3, thành phố Ban Mê Thuộc được lệnh báo động đỏ, tập họp tất cả binh sỉ chuẩn bị tác chiến.
Sang ngày 10/3/1975, từ 1giờ 20 đến 2 giờ 15 sáng, các chốt điểm  Cảnh Sát Dã Chiến ở cửa Bắc và cửa Tây thị xã đã phát giác các tổ trinh  sát tiền phong của Cộng quân và liên tiếp báo về Trung Tâm Hành Quân  Cảnh Lực, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac.
2 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt  đầu thực hiện  trận mưa pháo theo chiến thuật tiền pháo hậu xung bằng đại bác 130 ly,  hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự như Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư  Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và phi trường L19.
Những tiếng nổ của hỏa tiển 122 ly và đại pháo 130 ly khủng khiếp  làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng  động đất. Các nhà cao tầng bị rung chuyển cực mạnh. Thành phố đã như  con tàu chao nghiêng trong bão tố. Một số các nhà xây thô sơ quanh các  khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên tiếp không ngừng đổ  xuống các cứ điểm quân sự cho đến 6 giờ sáng.  
Bốn giờ sáng, đặc công CS đã đột nhập tấn công vào vị trí của Biệt  Đoàn 219 Trực Thăng, và bắn sập đài kiểm báo Pyramid của phi trường  L19. Sau đó chiến xa T-54 và bộ đội Cộng Sản chia làm nhiều mũi tấn công  vào phi trường L19, kho đạn Mai Hắc Đế , Tiểu Khu Darlac, Tòa Hành  Chánh Tỉnh, BTL Sư Đoàn 23 BB, hậu cứ Trung Đoàn 53 BB sát phi trường  Phụng Dực với chiến thuật biển người.
Trận đánh quyết định giữa Nam-Bắc đã diển ra. Nhưng lực lượng giữa  hai bên quá ư chênh lệch, như trứng chọi với đá nếu so sánh cả về quân  số, vũ khí, chiến cụ. Địch đã ở thế thượng phong ngay từ lúc đầu !
6 giờ 15 sáng, xe phóng thanh của Ty Thông Tin đậu tại Ngã 6 thị  xã phát lời kêu gọi của đại tá tỉnh trưởng yêu cầu đồng bào bình tỉnh,  ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại thị xã vẩn còn yên tỉnh.
6 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một góc phía Bắc của phi  trường L19 bị Cộng quân tràn ngập.7 giờ 15 các chốt cảnh sát xin lệnh  rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp lực địch quá mạnh, dân chúng từ khu vực  Buôn A-Lê B, Tân Mai, cửa Nam thị xã lũ lượt chạy vào trung tâm thành  phố.
Lúc 8 giờ 30 sáng, kho đạn Mai Hắc Đế thất thủ. Vị đại úy chỉ huy trưởng kho đạn bị tử thương.
9 giờ 20, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng quân chia làm nhiều mũi tấn  công vào thị xã. Một mũi từ cuối đường Phan Chu Trinh (cửa Bắc) tràn  chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa, ngã Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ Huy Tiểu  Khu 800 mét. Mũi phía Nam, từ khu vực Buôn A-Lê B, đồi La San, theo đại  lộ Thống Nhất tiến đánh khu vực tư Dinh Tỉnh Trưởng, Ty Ngân Khố. Một  mũi khác, từ hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri Phương  Phan Bội Châu, và mặt Tây thị xã cũng đã bị Cộng quân tấn chiếm.
Ngoài mặt trận chính Ban Mê Thuột, Cộng quân tấn công khắp nơi.  Các trận bắc Kontum, nam Pleiku, bắc Bình Định, Quảng Đức và trên 2 quốc  lộ 19, 21 đều bị áp lực nặng nề. 
MẶT TRẬN TIỂU KHU DARLAC
Từ  9 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 3/1975, các mũi tiến quân của Cộng  quân từ hướng Bắc và hướng Tây Bắc  đã tràn vào trung tâm thành phố và  tập trung nổ lực tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống  Nhất. Bộ đội và chiến xa T-54 của Cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính  tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ quan, nằm  trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi.
Lực lượng phòng vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt. Một  chiếc T-54 của Cộng quân bị  bắn cháy. Dù với chiến thuật biển người và   đại bác 100 ly trang bị cho T-54 bắn trực xạ không ngừng nhưng Cộng  quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự phòng thủ này. Tinh  thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những chiến sĩ thuộc Tiểu Khu quả  thật không thể tưởng tượng. Cứ mỗi đợt tiến công của Cộng quân là những  tràng đại liên, M-79 (súng phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ  xối xả phản kích làm cho bước tiến quân của Cộng quân đã phải ngừng lại.
Cộng quân lui về cố thủ khu vực cư xá  sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên  Thùy, đồng thời chia quân tràn qua đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa Án,  bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ, và tiếp tục thực hiện trận mưa  pháo bằng đại bác 100 ly từ các chiến xa T-54 và đại bác130 ly cùng hỏa  tiễn 122 ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon) đổ vào Bộ Chỉ Huy Tiểu  Khu.
11giờ  20, một chiếc T-54 của Cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ  Huy Tiểu Khu trên đường Thống Nhất đã bị bắn hạ. Tinh thần chiến đấu  của các chiến sĩ Tiểu Khu càng lên cao.
11 giờ 45, hai chiếc Commando Car (thiết giáp với bốn bánh cao su,  không xích sắt) của Thiết Đoàn 8 từ hướng chùa Khải Đoan theo đường  Quang Trung qua Tôn Thất  Thuyết để tiến về đánh bọc hậu lực lượng của  Cộng quân đang công hãm Tiểu Khu. Nhưng khi đến ngã ba Ama Trang Long  Tôn Thất Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của Cộng quân từ  ngã Sáu tràn xuống chận đánh. Hai chiếc Commando Car bị Cộng quân bắn  cháy trước Bar Quốc Tế. Nhưng các chiến sĩ của Thiết Đoàn 8 đã len theo  khu phố Ama Trang Long để tiến về hướng Tiểu Khu.
Khu chợ Ban Mê Thuột, từ đường Quang Trung chạy dọc theo đường Y  Jút đến Ama Trang Long bị trúng đạn pháo và bốc cháy dữ dội. Nhà hàng  Thanh Thế mới khai trương, cũng tân kỳ không thua gì nhà hàng Thanh Thế ở  đại lộ Lê Lợi Saigon, giờ đây đang là một biển lửa. Dãy phố bên kia  đường Ama Trang Long, đối diện với nhà hàng Thanh Thế như tiệm Rồng  Vàng, nằm mặt sau của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vụn. Khu phố nằm  trên đường Y Jút, đối diện với chợ Ban Mê Thuột như nhà của  Ông Tôn  Thất Hối đã bị sập.
Lực lượng Biệt Ðộng Quân tại Buôn Hô được  điều động về tiếp cứu  Ban Mê Thuộc nhưng gập hỏa lực mạnh mẻ của các chốt kháng cự  trên đường  đi. Một lực lượng Thiết Giáp và ÐPQ đang hành quân tại Budrang cũng  được lệnh trở lại nhưng bị cầm chân ở một cây cầu phía Nam tỉnh lỵ  khoảng 10 km.
Đến 11 giờ 45 các chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ. Lực  lượng của cộng quân từ 2 mặt, phía Bắc và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu  đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ của Tiểu Khu. Những trận đánh xáp  lá cà  đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống công sự phòng thủ nầy.
13 giờ 15 trưa ,Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ  Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền tin bị phá hủy.
14 giờ 20 Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn 7  tiếng đồng hồ giao tranh với lực lượng biển người của Cộng quân có chiến  xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ, mà không có được một đơn vị bạn  nào tiếp cứu. BCH Tiểu Khu phải di tản và sát nhập với BTL tiền phương  của SĐ23BB. 
Sáu mươi ngàn dân thị xã Ban Mê Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công,  lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac.  Trong những giờ phút lâm nguy đã cố gắng và hy sinh để làm tròn bổn phận  cho đến hết sức mình với những trận tấn công và đánh xáp lá cà cùng lực  lượng biển người của quân thù, đến giờ phút cuối đành di tản Bộ Chỉ Huy  Tiểu Khu để bảo toàn lực lượng.   
MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ XÃ 
Những Trận Đánh Oanh Liệt của Các Chiến Sĩ  Cảnh Sát Quốc Gia Thuộc Bộ  Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac
Trong kế hoạch phòng thủ thị xã Ban Mê  Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát  Quốc Gia Tỉnh Darlac là một trong những đơn vị chịu trách nhiệm về một  khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội vi thị xã đến cả một mặt Bắc, bao  gồm phi trường trực thăng và phi trường L19. Phòng thủ phi trường L19  là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Tỉnh.
Với những tin tức nhận được của mạng lưới tình báo cơ hữu và của  các đơn vị bạn, vị  chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, Trung Tá   Trần Quang Vĩnh đã sẵn sàng kế hoạch phòng thủ  và phản công cho đơn vị  hằng tháng trước. Ông đã bổ nhiệm Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn, Đại Đội  Trưởng đại đội Cảnh sát Dã Chiến 206 làm phụ tá đặc trách hành quân.
2 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt  đầu tấn công  phi trường L19, (khu vực phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia  Tỉnh, do Đại Đội Thám Sát chịu trách nhiệm), bằng đại bác 130 ly và hỏa  tiễn 122 ly.
Đến 4 giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu dùng lực  lượng bộ binh với chiến thuật biển người và xe tăng T-54 tấn công phi  trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống trả quyết liệt và báo cáo về Bộ  Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia. Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn liền liên lạc với  Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224 tiếp viện. Nhưng Đại Đội 1/224 đã không thể  chọc thủng vòng vây của Cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19.
6 giờ 20, một đoạn vòng đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc  thủng. Lực lượng Cộng quân tràn ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát  Tỉnh đã phải lui về phòng tuyến phòng thủ phía sau với những tổn thất  nặng nề về nhân sự .
Sau khi tràn ngập các vị trí phòng thủ, 9 giờ  20, lực lượng Cộng  quân từ mặt Bắc thị xã, tức là khu vực phía Bắc phi truờng L19 bắt đầu  tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac, nằm trên đường Tự Do  để xâm nhập trung tâm thành phố.
Lợi dụng hệ thống công sự phòng thủ và  các dãy hàng rào kẽm gai  bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia đườngTự Do, lực lượng Cảnh Sát Quốc  Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của Cộng quân. Các chiến sĩ Cảnh Sát  dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn nhưng đã anh dũng phản công  quyết liệt trước những đợt tấn công của Cộng quân, không cho địch tiến  sát vào hệ thống công sự phòng thủ.
Chính nhờ lòng dũng cảm chiến đấu, kỷ thuật tác chiến, và hệ thống  chỉ huy chặt chẽ  , mà một mặt phía Đông thị xã Ban Mê  Thuột, từ khu  đường Tự Do, chạy dài xuống Bà  Triệu, Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng  Hợp Ban Mê  Thuột, chưa có bóng dáng của Cộng quân. Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát  Quốc Gia Tỉnh Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn mà có lẽ họ không  thể nào ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho các đơn vị  phải rút lui vào phút cuối.
15 giờ 40 với áp lực của địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn  Văn Thành, chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra  lệnh mở đường máu đem đơn vị ra khỏi thị xã về Cây Số 5, phối hợp với  các đơn vị trực thuộc và Chi Khu Ban Mê Thuột để tiếp tục phản công quân  thù.
16 giờ  Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị  xã Ban Mê  Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ  Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn còn kháng  cự.
Trong thành phố, tiếng súng nhỏ đã im, nhưng cảnh tan hoang của  thị xã thật không cách nào tả xiết.  Rải rác trên các khu phố, những  vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai săn sóc. Thành  phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Bóng dáng của Cộng quân  như tử thần đến chiêu hồn những kẻ còn sống và đe dọa mọi người.

Trong gần suốt 14 giờ đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát,  Nghĩa Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Tỉnh và Nhân Dân Tự Vệ toàn  thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với lực lượng biển người, chiến  xa và đại bác của Cộng quân mà không có được một đơn vị bạn nào tiép  cứu.
Và  giữa những giờ phút quyết liệt này, người ta nhận được tin vào  lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một đơn vị Biệt Động quân từ  cửa Bắc thị xã (bến xe Cây Số 3) đã xâm nhập trung tâm thành phố. Tin  tức này được loan truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp  các cửa ngõ thị xã, và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy cho đến binh sĩ  đều vui mừng hy vọng chiến trường sẽ xoay hướng.
Nhưng cho đến một giờ chiều, tin tức về Liên  Đoàn 21 Biệt Động  Quân vẫn im hơi lặng tiếng, mà  chiến trường mỗi lúc càng quyết liệt  hơn, cho đến khi người ta biết rằng đơn vị Biệt Động Quân tiến vào thị  xã sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình vợ con của Chuẩn Tướng Lê Trung  Tường, vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã.
Tin này quả thật là một tác động tâm lý, không những làm cho các  đơn vị tham chiến mà cả toàn thị xã có cảm nghĩ Ban Mê Thuột đã bị bỏ  rơi. Tuy nhiên với tinh thần và trách nhiệm của một người lính, các đơn  vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu với niềm tin lực lượng tổng  trừ bị, và đặc biệt là hai Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ được  gởi đến.
ĐÊM KINH HOÀNG
Từ  6 giờ chiều ngày 10 tháng 3/1975, bộ đội Cộng quân bắt đầu  chia thành từng toán nhỏ lục soát khắp cùng các khu phố và những điểm  tập trung của người chạy loạn như chùa Khải Đoan, trường Bồ Đề, trường  Tàu ở đường Y Jút. Họ thanh lọc dân chúng, bắt đi những thanh niên nam  nữ, và truy lùng các viên chức chánh phủ, sĩ quan và binh lính.
Khắp cùng các ngõ phố, bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công,  đập phá các cửa tiệm, dinh thự, tư gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù  ẩn trốn, là Việt gian, phản động, làm việc cho Mỹ Ngụy, hoặc có nợ máu  với nhân dân. Chúng thi nhau lục soát các trường học, nhà thờ, bức tượng  ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị chúng đập nát, đồng  thời lùng bắt những người có thù hằn với chúng, và lôi đốt hết các loại  sách báo, giáo khoa, tự điển, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc biệt  là những ấn phẩm viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp văn.
Một lần nữa, ngọn lửa tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên  khắp cùng thị xã. Cảnh hôi của, hôi người, trả thù cá nhân lan tràn khắp  nơi. Thành phố bây giờ là một xã hội không tổ chức, không luật pháp, và  tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các ngõ phố. Những hình phạt dã  man thời tiền sử đã được đem ra thực hiện. Hình ảnh của chết chóc và  khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và đè nặng xuống tâm hồn  mỗi dân đinh của toàn thành phố. 
Sự  ngu dốt của kẻ chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ  của cấp lãnh đạo chính là  tai họa và thảm trạng tàn khốc cho một xã  hội. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng Hòa miền Nam đã có một  trình độ văn hóa và kỷ thuật cách xa gấp bội so với miền Bắc, nên bộ đội  Cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập tức đi dò tìm những  'đài địch,' và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc đại bác 100 ly trang bị  trên chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ  cho rằng đó là vị trí đặt các máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng  Hòa, mà các trụ ăng ten TV là những 'đài địch ' ấy đã có khắp trong  toàn thị xã. Thảm thương thay cho thành phố Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân  của thị xã này.
Trong đêm này, không biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao  nhiều người bị chết oan, đánh đập, hoặc bị  đấu tố mang thương tích hay  tàn khuyết, mà vợ  con, thân nhân, bạn bè chỉ đứng nhìn mà không dám kêu  van. Máu và lệ đã đổ, nhưng không chảy ra từ khoé mắt, mà lại tuôn  ngược vào lòng. Trời ở quá cao mà Phật cũng rất xa, nên con người đã là  chủ của con người trong đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung dữ. Đêm  kinh hoàng, đêm của địa ngục và Sa Tăng.
Nhưng cái quan trọng của những kẻ chiến thắng không phải là những  thứ đó, Cái quan trọng đối với kẻ  chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1  này là vơ  vét tất cả những gì họ có thể  vơ vét: Kho dự trữ lương thực  trung ương, nằm trên đường Tự Do, Kho Quân Nhu, Quân Cụ, dụng cụ y khoa  và dược phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân Y Viện, Dân Y Viện,  Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo, cửa hàng  bách hóa của tư nhân trong toàn thành phố ….
Suốt  đêm, người ta nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng hóa  vật dụng của thành phố đi về hướng Bandon, phía Tây thị xã.  
BỘ  TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ  BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG
Bây giờ là 4 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, khu suối Đốc Học  với những vườn rau tàn tạ đầy dấu dép râu và dấu xích chiến xa, khu vực  Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Dân Y Viện Ban Mê Thuột, chỉ còn thấy  được ngọn đèn Signal chơ vơ trên trụ truyền tin. Những đóm màu đỏ của  hỏa châu càng nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang trong rừng đêm.
Cái lặng lẽ của đêm trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng  làm cho người ta liên tưởng tới một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu  lâu một tràng đại liên hoặc những loạt súng nhỏ không phân biệt được  AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24 giờ đồng hồ, từ lúc 1 giờ  20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, lực lượng phòng thủ hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư  Đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng trong suốt 24 giờ, và không  hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.
Qua hệ thống truyền tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi Khu  Ban Mê Thuột, và Đại Tá Dậu, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân  còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc, mà chưa chọc thủng được phòng  tuyến của Cộng quân để tiến vào thị xã. Hy vọng duy nhất trong lúc này,  là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu Bộ Tư Lệnh, dầu rằng màng lưới phòng  không với đại liên 37 ly của Cộng quân vẫn không ngừng tấn công.
5 giờ 55 sáng ngày 11 tháng 3/1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh,  Ở cửa Nam thị xã, lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng, nằm trên đại  lộ Thống Nhất vẫn còn cầm cự. 
6 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, từ khuôn viên trường tiểu học  Nguyễn Du, sau lưng Sở Học Chánh Ban Mê  Thuột, những chiếc T-54 của  Cộng quân, và lực lượng bộ binh tùng thiết đang thực hiện một cuộc  chuyển quân bao vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Vòng vây này  đang được thắt chặt, như một màng lưới dày đặc chung quanh vòng đai  phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng Tây-Nam, đang  dàn hàng ngang tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Với  kinh nghiệm của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư Lệnh khó lòng cầm  cự được trong vòng vài ba giờ đồng hồ tới.
Trong khi đó, những tiếng súng nhỏ, và đại bác 100 ly, cùng lúc  gầm lên như những giây pháo nổ không ngừng, làm rung chuyển cả một vùng  trời. Cộng quân bắt đầu nổ lực tấn công hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ  Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và chiến xa T-54 cũng ráo riết tấn  công lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng.
8 giờ 15 sáng ngày 11 tháng 3/1975, tư dinh tỉnh trưởng bị T-54 ủi  sập các bức tường vòng đai, và pháo sập các tầng lầu. Trung úy Trung  đội trưởng bị trọng thương. Tư dinh tỉnh trưởng đã thất thủ, chốt điểm  cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị Cộng quân tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn  23 Bộ Binh bây giờ như người hùng cô đơn vẫy vùng dưới trời mưa đạn của  quân thù.  
NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG CỦA BỘ  TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ  BINH
Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các phòng  ban chuyên môn, trong đó có đại đội tổng hành dinh, chuyên trách về   hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt là các Trung Đoàn 44 và 45  đang hành quân vùng Pleiku. Trung Đoàn 53 chỉ có hai tiểu đoàn ở Ban Mê  Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105 ly, nhưng một tiểu đoàn lại đã  điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập, một quận vừa bị Cộng quân tràn ngập  vào sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3/1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ Phi  trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7 km.
Cho đến 8 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, đơn vị  quân lực còn  có mặt tại thị xã Ban Mê  Thuột chỉ là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ  Binh, Cộng quân biết rõ điều này, và càng hiểu rằng Trung Đoàn 44 và 45  Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang sơn của họ. Và đặc biệt là  Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt ngoài vòng đai thị xã ở cửa Bắc,
Liên  Đoàn 21 Biệt Động Quân được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách  thị xã Ban Mê Thuột 35 km về hướng Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng  3/1975. Đến 9 giờ tối cùng ngày đã tiến sát vào vòng đai thị xã, nhưng  chưa chọc thủng được vòng vây của Cộng quân. Tiểu Khu Darlac lúc bấy giờ  đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 cố thủ trong khuôn  viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu cầu cho Liên  Đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.
Điểm đáng tiếc là 10 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đơn vị tiền  sát của liên đoàn đã đột nhập thị xã, di tản gia đình vị tư lệnh Sư  Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã, nhưng lại không được lệnh ở lại làm điểm  tựa cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu thị xã sau này. 
Từ  6 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 3/1975, Cộng quân đã bố trí xong  lực lượng thắt chặt vòng văy hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và  thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54,  bắn trực xạ, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly từ hướng Bandon dồn dập đổ  xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời, chiến xa và bộ đội Cộng quân dàn  hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh. Lực lượng phòng thủ Bộ  Tư Lệnh đã chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận  chiến với quân thù.
10 giờ 10 phút, một phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào  Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư  Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị phá hủy.
10 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, một đoạn hệ  thống công sự ở  mặt Tây và phía Nam Bộ  Tư Lệnh đã bị chọc thủng. Bộ đội và chiến xa của  Cộng quân tràn vào hậu cứ Sư Đoàn 23 Bộ Binh như nước vỡ bờ. Đại Tá Vũ  Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng  kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị thoát khỏi  hậu cứ, bỏ lại Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình huống vô  cùng bi thảm. Ban Mê Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn dân như một đàn gà  con mất mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này cùng với nổi hải hùng và  tuyệt vọng mênh mong.  
MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN 53 BỘ BINH
Thị  xã Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân từ chiều  hôm qua, ngày 10 tháng 3/1975, và đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cuối  cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã này lúc 10  giờ 38 phút  ngày 11 tháng 3/1975. Nhưng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, phòng  thủ Phi Trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km về hướng Đông  Bắc vẫn cố thủ và cương quyết chống lại lực lượng biển người và chiến xa  T-54 của Cộng quân.
Cùng lúc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột 1 giờ 20 sáng ngày 10  tháng 3/1975, Cộng quân đã không bỏ sót Trung Đoàn 53. Chiến xa và bộ  đội của Cộng quân, với đại bác 130 ly, và hỏa tiển 122 ly yểm trợ đã  không ngừng luân phiên tấn công Trung Đoàn 53. Và sau khi đơn vị quân  lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ Ban Mê Thuột, Cộng quân càng tập  trung lực lượng tấn công Trung Đoàn 53 ác liệt hơn.
Trận  đánh thư hùng giữa Trung đoàn 53 Bộ binh và  một lực lương  quân chính qui CS Bắc Việt đã  được tăng cường thêm  đông hơn gấp 10 lần  xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng là lần xuất trận đầu tiên của Sư đoàn  316, sư đoàn tổng trừ bị của Bắc Việt tại mặt trận phi trường Phụng Dực  trên chiến trường Cao nguyên.

Phi Trường Phụng Dực
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh là Trung Tá  Võ Ân. Biết  rõ ý đồ của Cộng quân, nhưng ông cũng hiểu rằng Phi Trường Phụng Dực là  điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho lực lượng tổng trừ bị là sư đoàn  Nhảy Dù sẽ đến giải cứu Ban Mê Thuột sau này, đồng thời đơn vị của ông  là lực lượng đầu cầu và liên lạc duy nhất cho các đơn vị bạn về sau. Do  vậy, ông đã ra lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm đạn dược  và mọi phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của địch  để chống lại kẻ địch, và phải nhất định bắn trúng mục tiêu.
Trong suốt thời gian 6 ngày đêm, Trung Đoàn 53 Bộ Binh không những  đã đánh tan nhiều đợt tấn công biển người của Cộng quân, mà còn tịch  thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như súng cộng đồng để tiêu diệt T-54  và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến trường. Sự tổn thất nặng nề nhất  của Cộng quân trong mặt trận Ban Mê Thuột, hơn 200 nhân mạng, không biết  được con số bị thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng chính B-40,  B-41 của Cộng quân do Trung Đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường  Phụng Dực.
Góp phần đáng kể vào việc kéo dài trận chiến là  một đại đội chừng  70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được huấn luyện đặc biệt và quyết tâm  chiến đấu đến cùng. Tham gia trận chiến Ban Mê Thuột ngay từ ngày đầu,  và là đơn vị sau chót rút khỏi đấy là Đại Đội Thám Báo mà Thiếu Uý  Nguyển Công Phúc là một trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến đấu trong hoàn cảnh cô đơn, cam go, căng thẳng và  thiếu thốn súng đạn, lương thực. Họ đã gây tổn thương nặng cho một tiểu  đoàn địch, giúp Trung Đoàn 53 của bạn chống trả lại những đợt tấn công  mãnh liệt của đối phương, đồng thời chấm tọa độ hướng dẫn pháo binh bạn  bắn vào những vị trí địch.
Một trong những yếu tố để đại đội đạt được thành tích trên và tồn  tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở Ban Mê Thuột là Cộng quân không biết vị  trí đóng quân kín đáo và bất ngờ của đại đội. Cộng quân khi tấn công  Trung Đoàn 53 đã bị thúc mạnh vào cạnh sườn vì không biết có đại đội  thám báo nằm quanh những ụ đất dùng để che chở cho máy bay ở phi trường  và gần rừng cao su phía ngoài căn cứ của trung đoàn. Đại đội mới nhận vị  trí đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là  doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến quân dễ  bị phát hiện.
Trong những giờ đầu của cuộc tấn công, Phúc theo dõi tình hình mặt  trận qua máy truyền tin. Được trang bị  hệ thống truyền tin tối tân hơn  những đơn vị bộ binh thông thường khác, đại đội thám báo có thể liên  lạc với những đợn vị bạn theo hàng dọc, mà cả với mấy đơn vị theo hàng  ngang như quân đoàn, sư đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Nhờ vậy Phúc  biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến. 
Từ  sáng sớm ngày 10 tháng 3/1975 cho đến hết ngày 15 tháng  3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh, và pháo đội  105 ly đã anh dũng chiến đấu với một lực lượng Cộng quân nhiều gấp bội,  có chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần biết đến Ban Mê Thuột đã  thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14 tháng 3/1975, đã  loan tin Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử Quân Lực Việt Nam  Cộng Hòa.
Ngày 15 tháng 3/1975, một phi vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho  Trung Đoàn 53 đã không rơi đúng điểm ấn định mà lại rơi xuống khu vực  Vườn Ương ở Hồ thực nghiệm.
Ngày 16 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn mất liên lạc  với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Hết  đạn dược và thuốc men, Trung Tá Trung  Đoàn Trưởng Võ Ân đành phải ra lệnh rút khỏi phi trường Phụng Dực. Điểm  liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân.  Nhưng Trung Tá Ân, đúng là người hùng của quân lực, và Trung Đoàn 53 Bộ  Binh anh dũng là những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm khiếp đảm quân  thù, và đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng Hòa  miền Nam.
Với lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế của mặt trận Ban Mê  Thuột, nếu thị  xã Ban Mê Thuột được Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh  phòng thủ, thì cho dầu Cộng Sản Bắc Việt có quân số nhiều hơn vài ngàn  người trong cuộc tấn công này, Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đã không rơi  vào biển đêm của lịch sử dân tộc. Và Sư Đoàn 23 Bộ Binh vĩnh viễn sẽ là  một đơn vị kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.  
Quân Đoàn 2 tiếp cứu BMT:
Ban Mê Thuộc lọt vào tay CS, khởi đầu cho việc sụp đổ của miền Nam  Tự Do. Buổi sáng khi 2 trái bom 500 cân Anh của Không Quân đánh sập một  đầu hầm Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, một số  sĩ quan trong bộ tham mưu đã thoát lên được. Đại Tá Quang ra lịnh rút  quân vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là “Suối Bà Hoàng” -  cách BTL sư đoàn 250m.
Cũng may mùa này là mùa khô nên suối cạn. Lòng suối lại thấp hơn  mặt đất tới 15m nên rất dễ cho việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất  đông, khoảng 100 người. Xa xa tiếng phát thanh tuyên truyền của  địch  quân gần Chùa của Tỉnh hội Phật Giáo Ban Mê Thuột kêu gọi các binh sĩ ta  đầu hàng. Cộng quân lúc này đầy khắp các ngả đường trong thành phố cùng  với những đoàn xe tăng của chúng
Sau cùng Đại Tá Quang quyết định mọi người phải phân tán mỏng để  tránh sư phát giác của địch quân. Đại Tá Quang, vị tư lịnh chiến trường  Ban Mê Thuột sẽ đi về hướng Nam, đến gần cầu khoảng cách 14km và tìm  đường về Nha Trang. Còn Đại tá Nguyễn Trọng Luật cùng với Phó Tỉnh  Trưởng Hành Chánh Nguyễn Ngọc Vỵ đi về hướng Tây, nhằm về khu vườn cà  phê của Trung Tướng Thái Quang Hoàng và chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc  Ban Mê Thuột và từ đó tìm về Nha Trang. Riêng các binh sỉ thì phân tán  mỏng và tìm cách trở về Nha Trang. Hy vọng lúc đó sẽ tập họp lại để tiếp  tục chiến đấu..
Cũng thời gian này trên Quốc Lộ 14, từ Đức Lập về Ban Mê Thuột, Bộ  Chỉ Huy Hành Quân Nhẹ của Trung Đoàn 53 Bộ binh cùng với một tiểu đoàn,  được lệnh rút từ vùng hành quân phía đông bắc quận Đức Lập về tiếp cứu  Ban Mê Thuột, cũng bị Việt cộng phục kích chận đánh. Trung tá trung đoàn  phó Trung Đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều bị tử trận hoặc bị địch  bắt. Cánh quân này coi như bị tan rã trước khi tới được trận địa Ban Mê  Thuột.
Đến xế trưa ngày 11 tháng 3, bên cạnh Đại Tá Quang chỉ còn có  người thiếu úy, sĩ quan tùy viên và một người lính. Không thể đi tới  được phi trường Phụng Dực và cũng không còn phương tiện truyền tin để  liên lạc, ba người đã lẩn tránh trong một vườn cà phê mấy tiếng đồng hồ,  đợi đêm tối nhắm hướng nam đi về phía Quảng Đức.
Khoảng 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, Đại Tá Quang và  tùy tùng trốn  khỏi Trung Tâm Hành Quân, đi được khoảng 6 cây số đường rừng, ngay khi  vừa tới sát một làng Thượng, thì bị Việt Cộng nổ súng, xông ra vây bắt.  Đại Tá Quang vẫn còn mang cấp bậc trên cổ áo và xưng danh là tư lệnh phó  Sư Đoàn 23 Bộ Binh, chúng đã trói lại, lột giầy và liệng xuống hố.  Chừng một giờ sau, chúng được lệnh dẫn Đại Tá Quang đi suốt đêm. Tới  chiều hôm sau, ngày 13 tháng 3, được cởi trói, cho đi giầy vào và chở đi  bằng xe Molotova sang Cam Bốt để khai thác.
Riêng cánh Đại Tá Nguyễn Trọng Luật  khi chạy  đến vườn cà phê của  Trung Tướng Thái Quang Hoàng, tất cả cũng bị Cộng quân dàn quân chận  bắt hết. Riêng Đại Tá Luật bị chúng bắt lên một xe thiết giáp chở đi  mất.
Những cơ sở đầu não ở Ban Mê Thuột bị  VC đánh chiếm trong hai  ngày đầu. Mấy ngày sau Sài Gòn chưa nhìn nhận Ban Mê Thuột thất thủ vì  chiến trận còn tiếp diễn ở Trung Đoàn 53 khu vực gần phi trường nằm phía  ngoài thị xã.
Ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2  tổ chức cuộc đổ quân tăng viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Lực lượng  chính của cuộc phản công là Trung Đoàn 45 Bộ Binh (BB) và 1 tiểu đoàn  của Trung Đoàn 44 thuộc Sư Đoàn 23 BB đang phòng ngự tại Pleiku. Về phía  Không Quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn của Sư đoàn 6  Không quân, BTL đặt tại Pleiku, còn có các phi đoàn trực thăng của Sư  Đoàn 1 Không Quân (Đà Nẵng) và Sư Đoàn 4 Không Quân (Cần Thơ), với hơn  100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.
-Theo lịch trình đổ quân, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 45 BB và  đại đội Trinh Sát Sư Đoàn 23 BB được trực thăng vận trước tiên. Tiếp  đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác 105 thả xuống khu vực đổ quân  của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.
-1 giờ 10 trưa ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu Tướng Phú  từ Bộ Tư  Lệnh Quân Đoàn 2 bay đến Ban Mê Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực  tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đã  liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến đấu ở quanh Ban Mê  Thuột như Trung Đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực, Liên Đoàn 21 Biệt  Động Quân, các tiểu đoàn Địa Phương Quân Darlac. Cùng đi theo cánh quân  cứu viện còn có Đại Tá Trịnh Tiếu, trưởng Phòng 2 Quân Đoàn 2, được  Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Darlac  thay thế Đại Tá Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi  theo Đại Tá Tiếu, còn có bộ chỉ huy lưu động của Tiểu Khu Darlac vừa  thành lập.

Tuy nhiên, sự phản công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không  hữu hiệu, các Trung Đoàn 44 và  45 được đổ xuống Phước An dùng làm bàn  đạp để tiến về thành phố Bàn Mê Thuột. Nhưng Phước An vào lúc đó trở  thành một trung tâm tản cư của những người dân chạy thoát ra từ Ban Mê  Thuộc. Ở đây nhiều binh sỉ gặp lại gia đình tự động lẫn vào đám đông bỏ  ngũ. Một số các binh sỉ khác tự động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân mất  tích. Một đạo quân giải vây trong tình trạng như thế chắc chắn không thể  hoạt động được. Bốn ngày sau, SĐF10 của CSBV tiến chiếm Phước An. Hy  vọng giải vây BMT bị tan vở.
Chiều ngày 12 tháng 3/1975, cùng lúc tấn chiếm tại chiến trường  Ban Mê Thuột, thì tại Pleiku, Cộng quân cũng đã pháo kích bằng hỏa tiễn  vào phi trường quân sự Cù Hanh và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. 
Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, trong khi Sư Đoàn 23 BB đang khai  triển các cánh quân để tiến về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh,  Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao  Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An Ninh Quân Sự của tổng  thống, đã họp mật với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2/Quân  Khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra  lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân  Đoàn 2/Quân Khu 2 khỏi Cao Nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền  Trung thuộc lãnh thổ Quân Khu 2. 
Thay lời kết:
Cộng Sản Bắc Việt tung vào trận địa tấn công Ban Mê Thuột 3 sư  đoàn chủ lực và các đơn vị biệt lập địa phương, toàn bộ lực lượng vào  khoảng 30 ngàn người, gấp 7 lần lực lượng trú phòng (khoảng 4000). Chủ  lực quân ta chỉ có hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 53 còn lại là Địa  Phương Quân, Cảnh Sát… Lực lượng đã quá chênh lệch, địch lại đánh lén,  đánh trộm thì  chúng phải dành chắc phần thắng trong tay. Sự thất thủ  của Ban Mê Thuột là chuyện đương nhiên; dù biết trước phòng thủ cũng vẫn  thua. Nhưng nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây tổn thất nặng  nề cho địch thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy  vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp  đổ tan tành mau chóng.
Tuy nhiên sự sai lầm của Tướng Phú chỉ là  phương diện chiến  thuật, Ban Mê Thuột mất vì  tại Quân Khu 2 ta không đủ lực lượng để  đương đầu lại áp lực của địch quân gồm 5 sư đoàn chủ lực cộng với 15  trung đoàn biệt lập và cơ giới, lại thêm những lệnh lạc bất thường thiếu  nghiên cứu vì cấp lãnh đạo của ta đã sai lầm về lãnh đạo và chiến lược…  
Tài liệu tham khảo:
-   Những Ngày Cuối Của VNCH, của Đại Tướng Cao Văn Viên. Bản dịch Việt  Ngữ của Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản Vietnambliography 2003.
-   Ban Mê Thuột, Ngày Đầu Cuộc Chiến của Nguyễn  Định trên trang Web History of the Viet NamWar.
-   Mặt Trận Ban Mê Thuột ngày 10/3/1975 của Vương Hồng Anh đăng trên Việt Báo từ 3/2000.
-   Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chién^ Tranh VN 1963-1975 của Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương, Đại Nam xuất bản 1993.
-   Mặt Trận Ban Mê Thuột của Phạm Huấn trên trang nhà http://doanket.orgfree.com
-   Nhìn Lại Trận Đánh Ban Me Thuột 1975 của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật trên http://doanket.orgfree.com
-   Email suavantran@hotmail.com của Trần Văn Sua Biệt Đoàn 219 Trực Thăng tại Ban Mê Thuột.
Tân Sơn Hòa chuyển
 
       


638971020696366341.jpg)





638971020696366341.jpg)



638970064605070432.jpg)


638969228438150095.jpg)

