Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại

Trận-Chiến ĐỘNG CÙ-MÔNG (Chiến-dịch HQ Lam-Sơn 810)

Miền Trung là nơi mà bề ngang là nơi hẹp nhất cuả tấm bản-đồ hình chữ S được mang tên là Bắc-Trung-Phần. Các nhà điạ-lý thường ví nơi đây là chiếc đòn gánh
 
Tác giả/Nhân vật: Đoàn Văn Tịnh
http://tqlcvn.org/images/TD9-TQLC%20TRANS.gif

 

LTG: Tôi thay thế sự đàm thoại bằng mật mã ra bạch văn hầu đọc giả dễ hiểu thay vì dùng mật mã khi dùng PRC25 để bảo mật về danh xưng của đơn vị, ám danh, cấp số (Tiểu Ðoàn,Ðại Ðội,Trung Ðội…) trong lúc hành quân.

 

Tầm-Dương Đoàn-văn-Tịnh

 

 

***

Miền Trung là nơi mà bề ngang là nơi hẹp nhất cuả tấm bản-đồ hình chữ S được mang tên là Bắc-Trung-Phần. Các nhà điạ-lý thường ví nơi đây là chiếc đòn gánh với hai bó luá ở hai đầu là hai miền Nam và Bắc. Địa-thế được thiên-nhiên phân-định rõ-ràng: Phiá Tây là dãy Trường-Sơn kéo dài từ Bắc suôi Nam, ngút-ngàn hun-hút … Phiá Đông là biển Nam-Hải, bờ cát trắng như giải lụa, trải dài từ Vịnh Bắc-Việt tới nơi tận-cùng cuả đất nước là mũi Cà-Mau.
QL1 là con đường huyết-mạch độc-nhất xuyên qua làng mạc, quận-lỵ, thành-phố và tỉnh-thành. Ba vùng : Núi, đồng-bằng và bờ biển chạy song song với nhau như ba gạch đỏ trên nền vàng cuả lá Quốc-Kỳ, biểu-tượng thiêng-liêng của đất nước. Từ những năm 1971 trở về sau, chiến-trường bỗng trở nên vội vàng, sôi-động, chiến-sự ngày càng to lớn gấp bội phần. Hai Quân-Khu I và II chịu áp-lực nặng-nề nhất cuả địch.
Song song với cuộc hoà-đàm Paris, Bắc-Việt ào-ạt chuyển quân vào miền Nam qua ngả Trường-Sơn với hàng chục Sư-đoàn Bộ-binh và Thiết-giáp, đã tạo nên nhiều trận chiến khốc-liệt với cấp-bộ Trung-đoàn và Sư-Đoàn. Các đơn-vị trừ-bị Biệt-động-Quân, tổng trừ-bị như Nhẩy-Dù và TQLC đều đã vô cùng bận rộn. Sư-Đoàn Dù được xử-dụng tại mặt trận Tây-Nguyên (QD II), hoạt-động tại các vùng Kontum, Pleiku, Ban-mê-Thuột.
Sư-Đoàn TQLC được tăng-cường cho Quân-Đoàn I, hoạt-động tại Vùng I Chiến-thuật bao gồm các chiến-trường Gio-Linh, Đông-Hà, Quảng-Trị và vùng rừng núi phía Tây, Tây-Nam Huế. Trong thời-gian này, Lực-lượng tác-chiến chính của Sư-Đoàn TQLC gồm có 9 Tiểu-Đoàn tác-chiến, 3 BCH/Lữ-Đoàn, với 3 Tiểu-Đoàn Pháo-Binh, 3 Đại-Đội Viễn-Thám, một Tiểu-đoàn Công-Binh và một Đại-Đội Thuỷ-xa. Tất cả các Tiểu-đoàn tác-chiến được hoán-chuyển đặt dưới quyền chỉ-huy cuả 3 BCH/LÐ tùy theo nhu-cầu chiến-thuật và khu-vực trách-nhiệm của từng Lữ-đoàn.
Trong những tháng, năm dài kể từ 1971 trở về sau, tất cả các đơn-vị TQLC hầu như không có thời giờ trở về hậu-cứ ở miền Nam để dưỡng quân, huấn-luyện, tái trang-bị và bổ-sung quân-số như trước. Sau 3 tuần lễ vừa hành-quân lục-soát, vùa nghỉ ngơi ăn Tết trên các căn-cứ hoả-lực C1, C2 và A1, A2 tại vùng địa-đầu, giới-tuyến, vào ngày 6-5-1971, TĐ9/TQLC đã giã-từ miền Gio-Linh để trở về tuyến sau. Trên Quốc-Lộ 1 chạy theo chiều Bắc-Nam cuả đất nước, đoàn xe dừng lại tại cây số 14, nơi mang địa danh Phù-Ốc thuộc quận Phong-Điền, nơi mà làng mạc liên-tục nối nhau chạy dài giữa QL1 và vùng bờ biển Quảng-Trị .

 

Chúng tôi linh-cảm rằng có lẽ Tiểu-Đoàn tôi sẽ có được một vài ngày nghỉ ngơi, kiểm soát lại trang-bị và quân-số trước khi nhận được lệnh chuẩn-bị cho một cuộc hành-quân, một trận đánh lớn, hay một cuộc tiếp-viện cho một đơn-vị nào đó. Ngay khi đổ quân xuống làng Phù-Ốc, Tiểu-Đoàn tổ chức ngay việc phòng-thủ như đã định sẵn. Đại-đội 3 và 4 trấn dọc theo bờ sông và phiá cánh đồng phiá Bắc. Đại-đội 1 và 2 phối-trí dọc theo QL1 và phiá Nam cuả vị trí. Các tiền-đồn cấp Tiểu-đội và trung-đội được tung sang bên kia sông. Đây là một giòng sông tương đối lớn, bờ sông trải dài một bã cát vàng óng, giòng nước trong xan, êm mát lững-lờ trôi như mái tóc thề buông dài bay bướm trên trên tấm lưng nhỏ nhắn, đẹp muôn thở cuả nàng kiều-nữ Cố-đô.

Dừng quân là đào hầm, đào hố, là bố-trí phòng-thủ, là chuẩn-bị tác-chiến. Tất cả những công việc này đều được thực-hiện trước tiên giống như một thói quen cuả một đơn vị tác-chiến chúng tôi. Một khoảng thời gian sau đó, vào khoảng 12 giờ trưa, có lệnh mời các Đại-đội trưởng lên Bộ Chi-Huy Tiểu-Đoàn để họp và có lẽ để nhận lệnh HQ kế tiếp đây, tôi nghĩ vậy.
BCH/TÐ được đặt trên khoảng sân rộng rãi lót gạch đỏ cuả một ngôi nhà dân, chung quanh có khu khu vườn trồng cây ăn trái, xanh tươi mát mẻ, với những hàng cau vươn thẳng lên cao, thẳng như những chiếc đũa cắm xuống đất. Có lẽ không muốn làm phiền chủ nhà, nên Tiểu-đoàn đã cho căng lên tấm lều dã-chiến lớn để làm việc. Trung-đội Truyền-tin cuả TĐ được thiết-trí quanh khu vườn cây ăn trái.
BCH/TD9 Đây là dịp gặp nhau đông đủ sau nhiều ngày Hàng-quân, mọi người trong chúng tôi đều bận-rộn trong trách vụ riêng biệt.

Thiếu-tá Nguyễn-Kim-Đễ, Tiểu-đoàn-Trưởng TĐ9/TQLC trong dáng mặt vui vẻ, thoải-mái, lần lượt chào hỏi và bắt tay từng Đại-dội Trưởng chúng tôi. Bên cạnh ông là Đại-Uý Phạm-Cang, Tiểu-đoàn Phó/TĐ 9 và Trung-Uý Hoàng-Đôn-Tuấn, Trưởng ban 3/Tiểu-Đoàn. Họ là những niên-trưởng khoá trên cùng xuất-thân từ Trường Võ-Bị Quốc-Gia vói chúng tôi. Hai niên-trưởng Phạm-Cang và Hoàng-đôn-Tuấn luôn luôn với nụ cười thân-mến, tánh-tình dễ chịu như sự đối-xử cuả các anh thường ngày với các cấp trong đơn-vị.
Trung-úy Trần-công-Giáo, Đại-đội Trưởng ĐĐ1. Trung-uý Lê-Thắng, Đại-đội Trưởng ĐĐ2. Tôi, Trung-Úy Đoàn-văn-Tịnh, Đại-đội Trưởng ĐĐ3 và Trung-Uý Nguyễn-minh-Trí, ĐĐ4. Đại-úy Ngô-đình-Lợi Đại-đội Trưởng ĐĐCH. Trung-úy Bác-sĩ Thái-minh-Trị, y-sĩ Trưởng cuả TĐ và sau cùng là Đại-úy Carlson, SQ cố-vấn cuả TĐ. Chúng tôi tay bắt mặt mừng, chuyện trò vui vẻ.

Những tháng ngày dài hành-quân, bận rộn với đơn-vị và chiến trận cùng những lần đụng-độ, có chiến-thắng hăng-say, có te-tua thê-thảm. Những chuyện vui buồn chết chóc đó trở thành chuyện bình-thường mỗi ngày cuả người lính chiến bao giờ cũng được cho nằm qua bên lề tay bằng những nỗi mừng vui khi họp mặt. Chính nhờ vậy mà đời sống cuả những người lính trận như chúng tôi giữ được tánh vui vẻ trẻ-trung trong dáng dấp vô cùng phong-trần, khắc-khổ .
Mọi người tự tìm chỗ ngồi cho mình vì đây là nơi HQ, không bàn ghế, tiện-nghi, hơn nữa như vậy thì tự-nhiên, thoải mái hơn. Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng trong quần trận gom ống, và chiếc aó T-shirt mầu xanh lá cây vui vẻ cười nói với chúng tôi:
- Chúng ta có được vài ngày thoải mái, trước khi tiếp-tục HQ. Hôm nay có chút thì giờ chuyện trò và mời các ông ăn trưa nghe!
Chúng tôi cảm thấy thoải-mái, gỡ nón sắt móc lên những thân cây gần đó, gài tấm bản-đồ HQ vào dây ba chạc, móc thuốc mời nhau và bắt đầu trò chuyện. Những câu chuyện xa gần nơi thành-thị, những chuyện về bạn bè, gia-đình và hậu-cứ. Gần như là những nhu-cầu tinh-thần vô cùng cần-thiết cho những người lính sau tháng ngày vùi quên vào những chuyến hành-quân và chiến-trận. Chiến-trận thì bao giờ cũng khốc-liệt, hiểm-nguy, nó là sự sinh-hoạt thường-xuyên và liên-tục của người lính trận. Còn hôm nay là gặp nhau, là những mẩu chuyện cần-thiết, là Sàigòn, là Vũng-Tầu là những thành-phố đang rộn-ràng ngày đêm cho những sinh-hoạt giải-trí náo-loạn, ồn ào. Vì nơi đó có người thân-thuộc, gia-đình, bạn bè có đủ mọi sinh hoạt cần-thiết cho bất cứ một người quân nhân sau ngày tháng quân-hành xa vắng.
Giữa vùng hành-quân mà có một ngày đẹp trời, với nắng hồng mát mẻ như hôm nay thì thực là tuyệt-diệu. Chúng tôi dự-trù ngày mai mời nhau đi ăn sáng để bõ nhớ những buổi sáng sớm ngồi trên nón sắt, hay vắt vẻo trên chiếc võng mắc giữa hai thân cây rừng, tay nắm cái ca sắt với gói mì nấu vội, hay nửa bịch cơm sấy nhỏ với hộp thịt ba lát qua ngày tháng bận rộn quân-hành .
Nhưng hôm nay thực sớm, lệnh trên đã thay-đổi. Giữa giấc ngủ muộn màng cuả đêm qua, lệnh từ Tiểu-đoàn phát ra trên máy “Tất cả các Đại-đội 1, 2, 3, 4 và CH, chuẩn bị 1 ngày cơm vắt, xong-xuôi trước 7 giờ sáng và mời các Đại-đội trưởng lên họp”. Lệnh HQ, lệnh công-tác thường xuyên và bất chợt đến một cách vội vàng. Như một thói quen, nên chúng tôi cũng không lấy làm bất ngờ, ngạc-nhiên hay một cảm-giác hụt-hẫng nào hết.
Thiếu-tá Tiểu-đoàn trưởng, Đại-úy TĐP đang ngồi uống cà-phê đợi chúng tôi. Mỗi người rút một điếu từ bao thuốc lá nhãn-hiệu con mèo (Craven A) do ông Tiểu-đoàn trưởng mời. Nhìn ông gọn gàng trong bộ quân-phục với nét mặt thoải-mái, chúng tôi cảm thấy yên tâm. Ông bắt tay từng người và nói:
- Hôm nay Tiểu-đoàn sẽ di-chuyển đến khu-vực Bastone, Tây-Nam Huế. Đến đó sẽ có lệnh tiếp. Các ông hãy ghi vào bản-đồ lộ-trình di-chuyển, những điểm kiểm-soát (check-points). Trên lộ-trình di-chuyển phải kiểm-soát đơn-vị cẩn-thận, nhất là khi qua khu vực thành-phố có dân chúng.
Nhìn vào tấm bản-đồ căng trên giá bên cạnh bàn, nhìn điểm khởi-hành, lộ-trình do niên-trưởng Hoàng-đôn-Tuấn (K19, trưởng ban 3/ TĐ) vẽ sẵn, chúng tôi chép vào bản-đồ của mình. Đối với mọi người, có lẽ chẳng có một cảm-nghĩ nào khác hơn là phương-hướng và mục-tiêu hành-quân. Nhưng riêng tôi thì lại vô cùng thú-vị, trong lòng vui vẻ hứng-thú vì từng đọan đường di-chuyển là quãng đường mà ngày xưa tuổi niên-thiếu, tôi và các bạn cùng lớp thường đi, nghịch ngợm đuổi nhau bằng xe đạp sau những buổi tan học; Có đôi lúc chúng tôi còn trốn học để rong chơi, ngoạn cảnh hay những buổi cắm trại của một thời làm Hướng-đạo-Sinh. Những kỷ-niệm cũ thực dễ thương, làm cho lòng mình nôn-nao xúc-động với những hồi-tưởng thân-ái cuả ngày xưa.
Từ Phù-Ốc, đoàn xe di-chuyển qua An-Hòa, đến cầu Bạch-Hổ, quẹo trái về phiá thành-phố Huế. Bên trái là khu-vực kinh-thành Huế rộng lớn của triều Nguyễn cổ kính xa xưa. Bức tường cao chạy dài theo đại-lộ Nguyễn-Hoàng đã mờ rêu-phong. Nhìn từ xa, thành-lũy đã trở nên xám đen, lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất-phới trên cột cờ Ngọ-môn cao thực cao. Dọc theo bờ thành là hồ sen bao quanh, ngát thơm vào muà Hạ, mùa mà chúng tôi đang di-chuyển hành-quân. Bên phải đại-lộ là công-viên Phú-Văn-Lâu.
Thửng Bạc là giòng sông Hương nổi danh xinh đẹp, dòng nước trong xanh từ thượng-nguồn đưa ghe thuyền ngược xuôi về biển cả. Hai bên đường hoa học trò nở rộ, mầu đỏ nhung mịn màng của những hàng cây phưọng-vĩ, một thời nào đó đã ấp ủ tâm-hồn và đời sống trong tuổi ấu-thơ, hay thời niên-thiếu của tuổi học trò. Hai người lính truyền-tin ngồi đằng sau chuyện trò với nhau, tấm-tắc:
- Trung-úy, Huế đẹp quá phải không?
- Phải, Huế đẹp lắm, nếu không bị tàn-phá trong chiến-tranh, nó đẹp lắm, thơ mộng lắm.
- Em nghe người ta nói về Huế, viết về Huế, hát cho Huế, nây giờ em mới nhìn thấy và mọi điều đều xinh-đẹp, như trên trang sách người ta viết.
Tôi vô cùng xúc-động, khi nghe người ta khen tặng quê-hương mình. Tôi quay nhìn Hoàng, nhìn Hường, những người lính quê họ miền Nam, tận cùng ở miền Nam. Ôi thực đáng yêu và tội-nghiệp cho những người lính trẻ. Bởi khi các em nhìn và biết ra rằng quê-hương mình là vô cùng xinh đẹp và đáng yêu là lúc mà tuổi trẻ đang bị tàn-phá tù tâm-hồn cho đến thân-xác. bởi những cuộc vui nơi thị-thành náo-loạn, vứt hết đầu óc vào những cuộc ăn chơi. Rồi ra chiến-trường súng đạn, chết chóc huỷ diệt. Đó, bối-cảnh của tuổi trẻ hôm nay.
Tôi thở dài:
- Khi nào, có một buổi nào đó rảnh-rỗi, tôi sẽ cho các em đi một vòng thăm Huế, thăm đền-đài cung-điện, cổ thành xa xưa, thăm lăng-tẩm của vua chuá triều Nguyễn, thăm các trường học và những khu-vực mà cảnh-sắc lạ thường thơ-mộng.
- Dạ, hôm nào bọn em sẽ đi theo Trung-úy.
- Ừ.
Xe đạp, xe xích lô đạp, xe gắn máy, xe bus, xe hàng, học trò, công chức, thợ-thuyền, người buôn kẻ bán, tấp-nập. Họ ép vào hai bên đường, ngắm nhìn đoàn xe của Tiểu-đoàn di-chuyển. Một đơn-vị Thủy-Quân-Lục-Chiến cấp Tiểu-Đoàn, quân-số đông lắm. Vừa tác-chiến và hậu-trạm có đến cả ngàn người. Nên đoàn xe nối đuôi nhau thực dài. Hướng di-chuyển qua cầu sông Hương, ai cũng mơ ước, tuy rằng điều mơ-ước thực đơn-giản: “Ước chi đoàn xe chạy qua cầu Trường-Tiền” với vài, nối liền mười hai nhịp song song, màu trắng bạc – vắt ngang qua giòng sông – Dưới ánh nắng ban mai – Như một vệt sáng tuyệt-vời xinh đẹp.
Chiếc cầu cũ đó đẹp lắm, nhưng không thể chứa nổi cái đoàn xe to lớn nặng nề chiến-tranh này được, nên lộ-trình phải qua cầu sông Hương, chiếc cầu mới được bắt ngang qua khúc sông trên chừng năm bẩy trăm mét. Cầu này cũng xinh đẹp do Công-Binh Việt-Nam phối-hợp với hãng RMK ( một công-ty của Mỹ) tạo-dựng. Qua cầu Sông Hương , chúng tôi rảnh-rỗi nhìn xuống cầu Trường-Tiền phía dưới, cùng hạ-nguồn của sông – Cái cồn Hến nổi lên giữa giòng sông, tách giòng nước làm hai và ghe thuyền xuôi-ngược, hiền-hòa – và nhìn ngược lên phía thượng-nguồn núi non hùng-vĩ, cây cầu sắt Giả-Viên dài hun-hút như một đoàn xe lửa, mầu đen đang chạy qua con sông muôn đời. Xa xa là chùa Linh -Mụ, nóc tháp cao vút – Từ đó những hồi chuông vang vọng mỗi sớm, mỗi khuya, như như thể để xoa dịu niềm đau của quê-hương giữa thời chinh-chiến.
Đoàn xe tiếp tục qua khu-vực hữu-ngạn của thành-phố, con đường Lê-Lợi chắn ngang trước mặt, nối liền từ Đập-Đá qua bệnh-viện Huế, trường của bọn học trò con gái mang tên Đồng-Khánh, trường Quốc-Học của lũ con trai nghịch-ngợm, một thời vang bóng – và cuối cùng là nhà Ga – Con đường huyền-thoại, mỗi ngày đưa bọn học trò áo trắng quần xanh và đám con gái áo tím bay bay – Mái tóc dài thướt-tha che dấu dưới cái nón lá của Huế xưa. … Nhiều lắm, nhiều lắm, để một ngày nào đó rảnh-rỗi, tôi sẽ viết về Huế như một câu chuyện kể cho các bạn nghe.
Chiếc xe dẫn đầu đổi hướng về phiá giốc Nam-Giao, con đường có cái giốc cao nhất Huế. Giốc Nam-Giao nhìn từ xa không bằng mà thẳng, đúng vậy. Con đường nhựa có nhiều chùa chiền này, nếu đứng từ trên giốc Nam-Giao nhìn xuống, thẳng như một sợi chỉ căng – Nhưng nó lại chạy qua nhiều con giốc cao lên xuống nhiều lần. Rồi ngang qua Đàn Nam-Giao, là nơi mà ngày xưa các vua triều Nguyễn đến đây hàng năm tế Đất, Trời. Nguyện cầu cho non sông xã-tắc và đời sống của con dân bằng yên, đất nước thái-bình, thịnh-trị. Di-tích ngày xưa còn nguyên vẹn, tuy có nhiều sứt mẻ, cũ kỹ. Nơi đây là ngã ba đường – Rẽ trái sẽ đến các chùa Thuyền-Tôn, Từ Hiếu, lăng Tự-Đức. Cò rẽ phải ra phiá bờ sông thì chúng ta sẽ liên-tục được nhìn ngám hầu hết các lăng tẩm của thời Nguyễn – Lăng Thiệu-Trị, Đồng-Khánh, Khải-Định, và bên kia bến đò Ba Bến là lăng Minh-Mạng.
Giữa vùng núi non hùng-vĩ, cảnh-sắc mượt mà thoát-tục, và thượng nguồn sông Hương xinh đẹp, thơ-mộng, kết-hợp thành một vùng thiên-nhiên như gấm, như hoa – mà các thầy địa-lý Tầu ngày xưa gọi đây là vùng đất Kết. Nghĩa là kết nên Vương, nên Tướng – Cho nên hầu hết lăng-tẩm của vua chuá, quan-lại cùng mồ mả những người có uy-quyền, thế-lực đều được chôn cất nơi đây. Chúng ta không có được cái nhìn như các thầy Tầu về đất đai, khí thiêng sông núi – Nhưng rõ ràng nếu đứng trên đồi Vạn-Niên là một ngọn đồi cao bên bờ thượng nguồn sông Hương – để nhìn toàn-bộ khung cảnh, và nếu biết thêm địa-danh của các khu-vực cạnh đó của sông núi, nuớc non này thì đúng là một kết-hợp nghệ-thuật vô cùng tuyệt-hảo.
Chua Thien MuBên kia sông tiếp nối từ Thiên-Mụ là Long-Hồ, Ngọc-Hồ, bên này là Lương-Biều, Nguyệt-Biều đến Tuần ( tên địa-phương ) Một vùng núi non như rồng bay phượng múa giữa đất trời bao-la. Nét mỹ-miều, hùng-tráng của thiên-nhiên khéo vẽ, làm cho tâm-hồn của con người bay cao, thực cao giữa hùng-khí của non sông như đang réo gọi ở một nơi xa xôi nào đó – Hay đôi lúc trầm lắng, xúc-động ngậm-ngùi về một thời xa xưa điêu-tàn. Mà tất cả: cái đẹp, cái hùng và nỗi mộng mơ đó tạo thành những âm vang sống dậy riêng trong từng cảm-xúc của mỗi người.
Đoàn xe nối đuôi nhau dừng lại dưới chân dẫy núi cao, sau khi vượt qua cầu Nam-Hòa. Xa xa ngọn đồi cao lớn đã được ủi, được cày, màu dất đỏ, mang tên là căn cứ Bastogne. Đây là một căn-cứ yểm-trợ hoả-lực rất lớn và nổi danh của vùng Tây Nam Huế, thuộc quận Nam-Hòa, tỉnh Thừa-Thiên.
Tiểu-đoàn rời xe và di-chuyển bố-trí tạm-thời, nhanh chóng trên mấy ngọn đồi dọc theo con sông lớn, sông Tuần. Chung quanh là những dẫy núi non liên-tục, cao nghều-nghệu của rừng núi Trường-Sơn. Tiểu-đoàn Phó Phạm-Cang, danh hiệu của anh là Cam-Ranh, điều-động các đại-đội vào từng vị-trí, dừng quân bố-trí, đặt các tiền-đồn xa và các trạm canh-gác của BCH/Tiểu-đoàn. Bên cạnh khu-vực bố-trí của Tiêu-đoàn là phi-trường trực-thăng dã-chiến, chạy dàì dọc theo chân núi, thuận-lợi cho hành-quân trực-thăng vận, tiếp tế súng đạn, lương-thực cho các đơn-vị hành-quân trong vùng.
o0o
Ngày 9 tháng 5, 1971.
Hôm nay, Tiểu-đoàn gọi máy cho Đại-đội 3 thực sớm . Đại-đội Trưởng lên BCH/ Tiểu-đoàn gặp Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng mang theo bản-đồ hành-quân. Tôi thường thức giấc sớm, cho dù ngày đó có công tác hay rảnh-rỗi nghỉ ngơi để tập thể-dục, đó là công việc thường xuyên như một thói quen trong suốt đời sống của tôi. Quân-phục gọn gàng, dây ba chạc, súng ngắn, bản đồ hành-quân, với lấy cái nón sắt để trên thùng đầu đạn pháo-binh, dặn dò người lính truyền tin đại-đội, Hạ-sĩ Trần-văn-Ba:
- Gọi cho các Trung-đội trưởng chuẩn-bị lên Đại-đội họp khi có lệnh.
- Dạ, HS Ba đáp lời, anh còn nằm đu đưa trên cái võng, nghe radio, còn gì nữa không Trung-uý?
- Chỉ vậy thôi.
BCH Tiểu-đoàn nằm trên quả đồi nhỏ, cạnh đường lộ có sẵn những công sự phòng-thủ cũ của các đơn-vị hành-quân trước. Có sẵn vài cái hầm kiên-cố được xây bàng bao cát và những tấm vỉ sắt để chống pháo-kích dành cho BCH/Tiểu-đoàn. Chỗ họp được thiết kế trong một cái hầm lớn. Khi tôi lên tới nơi, Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng đã ngồi chờ – vẫn cái quần vệt sóng biển gom ống, đôi “bốt đờ sô” còn nhiều đất mới đỏ và chiếc áo T-shirt màu xanh cây lá. Ông vui vẻ đón tôi. Tôi chào tay, rồi bắt tay ông và nghiêm-chỉnh ngồi xuống chiếc ghế gỗ đóng bằng thùng đạn pháo-binh.
- Chuẩn-bị cho Đại-đội chưa Tân-An? (Danh-hiệu truyền-tin của tôi, ĐĐT/ Đại-đội 3)
- Thưa sẵn sàng nhưng chưa gỡ lều trại.
- OK.
Ông cẩn thận mở bao thuốc con mèo, loại thuốc tôi thấy ông thường hút, kéo một điếu, mời tôi. Đây như một thói quen của người Tiểu-đoàn-trưởng TĐ9/TQLC, bao giờ dáng dấp và động-tác cũng thận-trọng và lich-sự, dù đang lúc vui chơi, ngay cả trong bàn tiệc ở nhà hàng hay đôi lúc cùng vui vẻ ở vũ-trường, hoặc công tác họp hành.
Đối với tôi thì bao giờ anh cũng có thái độ thân-thiện đặc-biệt. Không biết có đúng hay không? anh bao giờ cũng mến tôi kể từ ngày thành-lập Tiểu-đoàn. Ngày đầu tiên tôi về trình-diện đơn-vị mới -Tiểu-đoàn 9/TQLC, đang thời-kỳ thành-lập ở hậu-cứ, nằm sau Trung-tâm huấn-luyện TQLC ở quận Dĩ-An. Tôi còn nhớ đó là ngày 23 tháng 4, 1970 – Hồi đó hậu-cứ tổng-cộng chừng vài mươi người. Tôi tìm đến người sĩ-quan trưởng ban 1 – Một Chuẩn-uý lớn tuổi tên Huy – buổi trưa, trời nắng chang chang, giữa một vùng đất không có một bóng cây cối – ông đưa tôi vào gặp đơn-vị trưởng – Tôi gõ cửa và có tiếng:
- Mời vào.
Tôi theo Trưởng ban 1 bước vào và đứng nghiêm chào tay đúng cơ-bản thao-diễn, xưng cấp-bậc danh tánh và số quân:
- Trung-Úy Đoàn-văn-Tịnh, số quân 65A/2021947 trình-diện Thiếu-tá chờ lệnh.
Ông đứng lên và bắt tay tôi.
- Trung-Úy từ Tiểu-đoàn 5 về phải không?
- Vâng
- Tôi sẽ sắp xếp một công việc nào đó cho thích-hợp vói Trung-úy.
- Không, thưa Thiếu tá, tôi nhận công lệnh về Tiểu-đoàn mới với chức vụ Đại-đội trưởng.
Ông nhìn tôi – có lẽ thấy dáng dấp nhỏ cùng với giọng nói nho nhỏ thư-sinh của tôi, ông nghĩ có lẽ cho tôi giữ một nhiệm vụ nào đó thì thích-hợp hơn là một Đại-đội trưởng tác-chiến. Nhưng khi thấy phản-ứng của tôi, thì ông cười và bảo:
- Vâng, tôi biết, thử ông chút thôi.
Cũng cái quần mầu sóng biển gom ống, đôi “Bốt-đờ-sô” và chiếc áo T-shirt màu xanh lá rừng – Từ ngày đầu về đơn-vị mới tôi đã thấy trên người ông – Như một hình ảnh quen-thuộc trong suốt ngày tháng sau này trong đơn-vị. Trời nóng nực, hậu-cứ tạm thời của đơn-vị không có tiện-nghi, ông giải thích và xin lỗi:
- Tôi phải ăn mặc như thế này, Trung-Úy đừng để ý nghe.
- Vâng, không có chi Thiếu tá.
- Chuẩn-úy Huy, anh đưa Trung-Úy về dãy phòng của sĩ-quan, tạm nghỉ ở đó.
Một thời gian ngắn, hơi khó chịu, nhưng khi gặp một vài người lính cũng về trình-diện đơn-vị mới và người bạn cùng khoá – Trung-Uý Nguyễn-minh-Trí (K22 Đà-lạt) và người đàn anh Lê-Thắng (K21 Đà-Lạt). Nhưng có một điều là khi phân-chia công-tác, bao giờ ông cũng căn-cứ trên khả-năng của đại-đội, nên đại-đội của tôi nhận nhiệm-vụ nặng-nề hơn, gần như chưa bao giờ được về phòng-thủ để bảo-vệ Tiểu-đoàn hay đóng chung với Tiểu-đoàn khi đưỡng-quân. Tôi và thuộc-cấp của tôi trong đại-đội cảm-nhận ra điều này và chính điều này làm tôi yên-tâm hơn trong sự liên-hệ giữa tôi và cấp trên: Dù rằng trong đời sống, Anh hầu như luôn luôn để tâm tới tôi.
- Ăn sáng với tôi nghe Tân-An!
- Vâng.
Người lính của ông bưng cho tôi tô mì gói nấu với thịt hộp, còn bốc khói, để nhẹ trên bàn.
- Mời Trung-uý ăn sáng
- Vâng, cám ơn.
Tiểu-đoàn-Trưởng cuời vỗ vai tôi:
- Cất bản đồ đi, vừa ăn sáng vừa nói chuyện.
Ông hỏi:
- Tân An nhớ hôm nay là ngày gì không?
Tôi ngạc nhiên, nhìn ông, một lúc suy-nghĩ, tôi lắc đầu:
- Ngày gì đâu Thiếu-tá?
- Ôi, chú nhớ dùm, chú là người Huế đấy nhé.
Tôi cố nhớ, song không thể nhớ ra được và ngạc nhiên lắc đầu, sao lại có Huế trong việc này!
- Thôi để anh nói nghe (Khi nói chuyện với tôi ông thường xưng như vậy) – Hôm nay là rằm tháng tư, ngày Phật-đản đó, nhớ chưa?
- Ồ, tôi cười và gật đầu.
Ôi đoảng thực, hành-quân, công tác, đơn-vị, thuộc cấp, chiến trận và tuổi trẻ làm cho tôi quên hẳn, có đôi lúc tôi không nhó là mình đang sống nơi đâu. Mỗi người mỗi tâm tính riêng tư. Cái tâm-tính của tôi như rứa đó.
- Tân-An, Anh gọi chú lên đây, vì chúng ta chỉ còn một ngày nghỉ hôm nay nữa thôi. Cho chú đi phép về thăm gia-đình ở Huế và dự ngày Phật-đản, bằng lòng không?
Tôi nhanh chóng nhìn người đơn-vị trưởng, từ dáng mặt phong-thái của anh, mọi người thường bảo anh là người khó tính, Reglo và mọi chuyện đều có planning, tính-toán… Đúng vậy thực, cái gì anh cũng thận-trọng, cái gì cũng dự-trù, suy-nghĩ kỹ-lưỡng. Song có một điều có thể chưa ai biết được tâm-trạng của anh trong anh như tôi.
Bởi bao năm tháng sống cùng đơn-vị, chúng tôi thường có dịp chung đụng, ngoài vấn-đề hành-quân, công tác, đi đâu, chơi đâu anh cũng rủ tôi cùng đi. Thậm chí khi có vợ con anh ra thăm ở vùng hành-quân, anh cũng mời tôi dùng cơm chung và chuyện trò. Tâm tính anh rất thân-thiện, nhiều tình cảm, nhưng rất dè dặt, dù có nói chơi cũng rất tế-nhị, không mất lòng ai.
Nhưng rõ ràng, khi phải đối diện với cấp trên, hay những người mà anh cảm-nhận ra rằng không mấy tốt thì cũng nhẹ-nhàng nhưng hết xẩy, hết xẩy thực đó, đúng như người ta nói: “Nghe anh nói, ngẫm lại đến 10 phút sau mới hiểu ra mà chua chát, xót xa” tôi đã chứng-kiến điều này thực nhiều lần. Trong những lúc đó tôi thấy anh cô-đơn, rõ ràng anh cô-đơn giữa bạn bè, cô-đơn giữa đơn vị mình đang sống.
Tôi vui vẻ hứng-thú, OK ngay thôi, điều này tôi không thể từ chối được mô nghe và cười thoải-mái, mặc dù hiện nay gia-đình tôi không còn ở Huế nữa. Tôi có một người em gái lấy chồng và ở lại đây (ở gần Đập Đá) khi toàn bộ gia-đình tôi di-chuyển vào Nam 1970. Đây là quê-hương thân yêu của tôi, nơi chôn nhau cắt rốn, cả một thời thơ ấu cho đến ngày niên-thiếu, chồng chất vô vàn kỷ-niệm buồn vui với gia-đình, với bè bạn.
- Ồ, mà Thiếu tá đi không?
- Rất tiếc, không thể cùng đi với Tân-An được vì ngày này anh bận rộn lắm. Nhưng anh cũng có quà cho Tân-An đây.
Anh đứng lên, bước bên vách “bao cát” móc trong túi áo Jacket ra một phong bì và đưa cho tôi.
- Tân-An về thăm gia-đình, bạn bè vui vẻ, anh có tí tiền cho em tiêu pha và nấu còn thừa chút ít khi trở về nhớ ghé qua chỗ bán bánh khoái mua dùm cho anh bánh khoái và một thùng Bia hộp ở mé Thượng Tứ đó để mời các Đại-đội trưởng uống cho vui.
- Vâng nhớ rồi Thiếu tá.
Từ giã anh, tôi trở lại Đại-đội, dặn dò Trung-úy Hoà, Đại-đội phó coi việc nhà và lên đường.
Sau một ngày rong chơi trong mùa Phật-đản ở Huế đông vui, khi trở lại vùng hành-quân, trời đã về chiều muộn màng. Ở cuối chân trời còn còn chút nắng vàng sắp tắt. Tôi dừng xe bên cạnh BCH/Tiểu-đoàn, đi vào, tôi ngạc nhiên vì bây giờ ở BCH đã có thực đông người: Anh Phạm-Cang, Tiểu-đoàn Phó, anh Tuấn, anh Thắng, Trí, Giáo và luôn cả mấy người Đại-đội Phó. Bên trong hầm thuyết trình thấy hiện-diện cả Lữ-đoàn Trưởng LĐ 369, và mấy vị cố-vấn Mỹ, ai cũng trang phục đầy đủ.
Tôi vội hỏi anh Cang:
- Chi vậy niên-trưởng?
Anh cười, tay xoay xoay cái bản đồ:
- Sửa soạn Hành-quân đó Tân An.
Tôi nhớ sáng nay Thiếu tá Tiểu-đòan trưởng đã nói “chúng ta chỉ còn một ngày nghỉ hôm nay thôi”.
Trí, Thắng, Giáo vây quanh tôi hỏi:
- Đi chơi có vui không, có mua thùng bia về không Tân-An?
- Có, có đầy đủ hết. Nhưng sao có vẻ nghiêm-trọng quá vậy?
Trí kéo tôi ra ngoài, chỉ về phiá núi rừng Tây Nam:
- Đó, mày thấy không?
Tôi nhìn lên dẫy núi cao trước mặt, mịt mờ sương khói. Đã chiều rồi mà máy bay vẫn tiếp tục ném bom, trực thăng tiếp tục phóng hoả-tiễn trên những đỉnh núi cao. Chúng tôi nhìn vào những dẫy núi loang cháy, nhu những bức tường lửa. Tôi đo phương hướng và nhìn vào bản đồ, xác nhận điểm đứng, đúng đây rồi:
- Động Cù-Mông.
Trong bản đồ, Động Cù-Mông là một dẫy núi hình 3 nhánh. Đỉnh núi được những vòng cao độ xác nhận rộng rãi to lớn. Đỉnh núi cao hơn những dẫy núi chung quanh cả năm bẩy chục mét. Chung quanh động Cù-Mông là núi rừng chồng-chất, liên tục chạy dài hướng Bắc Nam, Đông Tây ngút ngàn không ngừng.
Tôi thầm nhủ: “Nếu đánh bom như vậy thì làm sao Việt cộng sống nổi trên đó!”.
Sáng nay khi tôi về thành phố thì kế-hoạch đánh bom vào nơi đó bắt đầu. Nhiều phi-vụ B52 rải thảm những trận mưa bom với nhiều loạt tiếng nổ kinh-thiên động địa hơn cả địa-chấn trong toàn bộ khu-vực Cù-Mông và chung quanh đó. Kế tiếp là những phi-tuần A37, F4 dội bom lửa, bom cắt cây (daisy cutters). Cuối cùng là những trực-thăng võ trang Cobra phóng hỏa tìễn vào vị-trí một cách chính xác qua sự hướng dẫn của những chiếc trực thăng quan sát nhỏ, hình cán gáo.
Chúng tôi trở vào phòng Hành-quân, Trung tá Lữ-Đoàn Trưởng chỉ vào tấm bản đồ được ghép lớn trên tường hầm:
- Đây là đỉnh Cù-Mông. Hơn một tuần trước, 1 Đại đội Công-Binh Mỹ được 1 Tiểu-đòan BB của Trung-đòan 1 yểm-trợ để thiết-lập Cù-Mông thành một căn cứ hỏa-lực. Sau khi bị một Trung-đoàn địch tấn-công, tràn ngập vị-trí, họ đã phải rút lui, để lại nhiều xác bạn.
- Tiểu-đòan 9/TQLC sẽ được trực-thăng vận vào động Cù-Mông ngày mai, giải toả áp-lực địch, tái chiếm Cù-Mông. Nhiệm vụ kế tiếp là lục soát, đem toàn bộ xác đơn vị bạn ra.
- Ngoài Pháo binh yểm-trợ hoả lực, còn có không-quân Hoa-kỳ và Việt-Nam.
- Trực thăng vận và các phương tiện yểm trợ khác sẵn sàng và đầy đủ.
Bây giờ thì chúng tôi đã hiểu ra nhiệm vụ của TĐ 9/TQLC và ước tính rằng có thể địch không còn tập trung đông-đảo ở khu-vực này nữa. Nhưng chắc chắn rằng những đơn vị nhỏ vẫn còn “Kiềng” tại nơi đây vì chúng biết thế nào bên ta cũng trở lại để lấy xác.
Sau vài câu hỏi của Thiếu-tá Tiểu-đoàn-trưởng, Trung-tá Lữ-đoàn trưởng cùng các cố-vấn Mỹ của LĐ bắt tay chúng tôi ra về. Bây giờ là phần họp chính-thức của TĐ 9/TQLC.
Thiếu tá TĐT bắt tay tôi và cười hỏi:
- Tân-An đi chơi có vui không?
- Vui lắm, tiếc là không có các anh. Tôi có mua bánh khoái và thùng bia về đó.
Ông vui vẻ cám ơn và nói với mọi người:
- Bây giờ chúng ta họp trước, xong công việc sẽ uống bia trò chuyện.
Vào cuộc họp, sau khi chúng tôi đã vẽ và ghi chép vị-trí các mục tiêu, điểm đứng, trục tiến quân một cách cẩn-thận lên bản đồ của mình và sẵn sàng nhận lệnh.
Ông Tiểu-Đoàn trưởng đứng lên:
- Các ông đã nghe Trung-tá Lữ-đoàn trưởng thuyết-trình, Tiểu-đoàn 9 chúng ta có nhiệm vụ tái chiếm Động Cù-Mông, đem xác chết của Công-binh Mỹ và bạn ra cùng giải toả áp-lực địch cho Trung-đoàn 1/BB của Trung-tá Thọ, em ruột của Trung-tá Phúc TĐT/TĐ2/TQLC. Đại đội 2 của Thắng mấy hôm trước đây đóng chung với BCH/TĐ, đáng lẽ ngày mai sẽ nhẩy xuống động Cù-Mông trước tiên. Nhưng tôi nghĩ với tình hình hiện tại cần một đơn vị xoay trở nhanh nhẹn để cận chiến và xử-dụng lựu đạn, tôi nghĩ sẽ để cho Đại đội 3 hay Đại đội 4 thì tốt hơn. Còn Đại đội 1 và 2 tiếp-ứng. Cam-Ranh và các anh nghĩ thế nào?
Trung úy Giáo vừa mới giữ chức vụ Đại-đội trưởng, cần được hoà-hoãn. Tôi và Trí nhìn nhau, tuy không nói ra, nhưng chúng tôi cũng hiểu và dễ dàng chấp-nhận.
- Vâng Đại-đội tôi sẽ nhẩy vào đó trước, Thiếu tá yên tâm.
- Cám ơn, Cam-Ranh sẽ nhẩy với Đại-đội 3 xuống Động Cù-Mông, mục-tiêu A. Nếu được, Đại đội 4 sẽ nhẩy tiếp xuống đó, còn nếu trở-ngại vì hỏa-lực địch quá mạnh thì ĐĐ4 sẽ nhẩy xuống mục-tiêu C. Riêng BCH/TĐ và hai Đại đội 1 và 2 sẽ nhẩy xuống mục-tiêu B, cùng tiến quân tiếp-trợ Đại-đội 3. Xuống đó ráng bám lấy mục-tiêu, chúng ta sẽ được cận-yểm bằng trực-thăng võ-trang. Tất cả mọi trang bị cần-thiết đã được thực hiện đầy đủ hôm nay rồi. Tân-An kiểm soát lại, nhất là phần lựu đạn. Còn các Đại-đội khác có ý-kiến gì cho biết.
Các Đại-đội trưởng viết, vẽ, tính toán và ý-kiến với TĐT, TĐP và Trưởng ban 3 Hành-quân chừng nửa giờ. Còn tôi biểu Hoà gọi Trung sĩ nhất thường vụ đại-đội lên nhận thêm lựu đạn và đạn M79 phóng lựu.
- Anh Cang, tôi cần thêm lựu đạn và M79.
- OK, có ngay.
Anh Cang ra lệnh cho Ban 4 Hành quân thi-hành nhiệm vụ.
o0o
8 Giờ sáng ngày 10 tháng 5, 1971.
Hai Đại đội 3 và 4 đã sẵn sàng, xếp hàng ngồi chờ trực-thăng tại bãi bốc (chỉ cách BCH/TĐ chừng hơn 100 mét). Đây là một bãi đáp được thiết lập bằng những tấm vỉ sắt trải dọc theo chân núi, tương đối an-toàn rộng rãi. Thứ tự tại bãi bốc quân: Trung đội 2, 1, BCH/ĐĐ, Trung-đội 4 và cuối cùng là Trung đội 3. Tiếp theo Đại đội 3 là Đại-đội 4 xếp hàng và sẵn sàng. Tôi gọi các Trung đội trưởng lại dặn dò trước khi lên trực thăng.
- Thiếu-uý Đặng-ngọc-Minh, Trung đội 2 nhẩy xuống động Cù-Mông trước nhất. Khi vừa chạm đất, cho tất cả anh em nhanh chóng tiến chiếm và tràn ra bên ngoài lập tuyến phòng ngự về phiá Tây, Tây Nam. Trung uý Đại-đội phó nhẩy theo Trung đội 2 với một toán Công Binh Mỹ do Trung-úy Peter hướng-dẫn cùng phụ giúp gọi trực-thăng yểm-trợ khi cần.
- Trung-đội 1, Chuẩn-úy Sang hãy nhớ động Cù-Mông gồm 3 nhánh, Trung-đội anh đánh qua phiá Đông, càng xa càng tốt. Trung-uý Hoà nhớ đây là một vị trí đóng quân cũ, nên có nhiều hầm hố. Nên sơ khởi cố lập được phòng tuyến để chiến-đấu. Anh cùng Peter chiếm một vị trí tốt để quan-sát, điều-động và gọi trực-thăng yểm-trợ.
- Trung đội 4 và Trung đội 3 cùng xuống với Đại-đội, bố-trí về phiá Bắc và Trung đội 3 về phía Nam.
- Nếu vì lý do gì, chúng ta không xuống được Động Cù-Mông thì chúng ta sẽ xuống mục-tiêu C cùng với Đại-đội 4 tiến chiếm mục tiêu.
- Ngồi trên máy bay, liên-lạc trực-tiếp vói Pilot hướng dẫn họ đổ vào mục-tiêu của chúng ta.
- Chúng tôi vui vẻ chia nhau mấy điếu thuốc, chuyện trò chờ trực-thăng.
Trên không-phận vùng hành-quân, các phi-vụ trực-thăng võ-trang đang bay lượn và bắn phá bằng hỏa-tiễn và đại-liên. Nhưng dưới đất vẫn bắn lên xối xả, từng loạt đạn lửa bay bổng lên cao, chứng tỏ trên mục tiêu và chung quanh đang có sự hiện-diện của địch, rõ ràng là không an-toàn trên mục tiêu.
Bấy giờ là 8:45, giữa khoảng trời rực sáng ở phương Đông đã xuât-hiện những cánh chim sắt. Những chấm đen càng ngày càng rõ hơn, đoàn trực-thăng đang trên đường nhắm thẳng về phiá chúng tôi rồi dần dần nhanh chóng gọn gàng đáp trên mặt phi-trường dã-chiến và một toán Công-binh Mỹ gồm 4 người đã đến với chúng tôi và leo lên chiếc trực thăng thứ sáu có thầy trò của Hoà.
Tôi và anh Cang bắt tay nhau cười vui vẻ và chuẩn bị lên trực-thăng.
Trung-đội 2, đại-đội phó Hoà và toán CB Mỹ lên chiếc trực-thăng thứ sáu. Trung-đội 1 lên 5 chiếc kế tiếp và tôi lên chiếc thứ 13. Cam Ranh cùng trung-đội 4, trung-đội 3 lên những chiếc kế tiếp, tổng-cộng 24 chiếc. Những chiếc chong chóng quay mạnh hơn. Đoàn trực-thăng nhanh-nhẹn bốc cao khỏi mặt đất, sau vài cái chao đảo, đoàn chim sắt bốc nhanh và nhắm hướng mục-tiêu lao tới.
- Tân-An đây Cam-Ranh.
- Tân-An nghe thẩm-quyền.
- Tân-An thấy mục tiêu không?
- Dễ thấy lắm, đỉnh Cù-Mông tương-đối lớn, nếu không có gì trở ngại, chúng ta sẽ xuống đó từng hai chiếc một.
- Đúng rồi, cẩn-thận, chúng bắn lên đó.
Trong chiếc loa của máy truyền-tin, tôi nghe Cam-Ranh gọi Trùng-Dương (Đại-đội 4)
- Trùng-Dương chuẩn-bị, đoàn trực-thăng sẽ quay trở lại ngay.
- Đáp nhận Cam-Ranh.
Đoàn trực-thăng đầu đã vù vù lượn sát trên mục-tiêu. Đạn địch từ dưới đất tác-xạ liên tục lên máy bay. Những tiếng cọc cọc của trực thăng trúng đạn địch, đồng thời các xạ-thủ đại-liên từ trên trực-thăng rót xuống mục tiêu, tạo nên những đường rạch trên mặt đất như tia lửa.
- Tầm-Dương, Tầm-Dương (danh-hiệu của Tân-An) đây Đúc-Hòa.
- Tầm-Dương nghe.
- Hoả lực của địch bắn lên quá chừng, nhưng chúng tôi vẫn cho nhào xuống, báo cáo Tầm-Dương.
- OK.
Các xạ-thủ đại-liên trên trực-thăng làm việc rất hiệu-quả với khỏang cách không xa và độ nghiêng thuận lợi của máy bay, những loạt đạn liên-tục cày vô số đường gạch trên mặt và cây cối trên đỉnh núi. Từ khoảng cách chừng 50 mét, tôi nhìn thấy sáu bẩy chiếc trực-thăng đã nhào xuống sát mặt đất. Đoàn Cọp-biển tiền-phong không hổ danh là những con Mãnh-hổ, không cần đợi cho trực-thăng đáp hẳn xuống, đã nhẩy xuống mục-tiêu và nhanh chóng bung rộng ra tiến chiêm vào các dãy đá chồng-chất, những hầm hố và giao-thông hào xụp nát chung quanh. Tiếng súng nhỏ, đại-liên, phóng lựu M79 và lựu đạn đã ầm ĩ vun vút phóng về phiá trước, một bức màn hỏa-lực dầy đặc, áp-đảo địch quân. Khởi dầu cho cuộc tấn-công tái-chiếm động Cù-Mông của Tiểu-đoàn 9/TQLC, 7 chiếc trực-thăng đầu tiên đã đổ toàn bộ Trung-đội 2, Đại-đội Phó, toán Công-Binh Mỹ và hơn một Tiểu-đội của Chuẩn-úy Sang xuống mục-tiêu.
- Đức-Hòa đây Tầm-Dương.
- Nghe thẩm-quyền.
- Hình như Đức-Hòa và toán CB nằm trong cái hố bom phải không?
- Đúng Năm, chúng bắn rát lắm nhưng thẩm-quyền yên-tâm.
Tôi chỉ xuống đỉnh Động và ra hiệu cho Pilot nhào xuống. Anh gật đầu, kéo cần lái. Nhưng khi khỏang cách còn chừng 20 mét, người Co Pilot đã bị một loạt đạn từ dưới đất bắn lên trúng vào vai và tay phải, người xạ-thủ đại-liên cũng bị trúng đạn ở vế và tay. …Lạch cạch, lạch cạch, chiếc trực thăng bị trúng quá nhiều đạn, lao chao và gầm gừ giận dữ, ngóc đầu lên và phóng thẳng lên cao.
Trong trận chiến, sống chết với tôi chẳng có gì phải quá bận tâm, nhưng tình-hình trước mặt trong phút chốc sinh-tử đó, lòng tôi bỗng đau đớn vô cùng, vì đoàn quân ở dưới đất kia, kể từ giờ phút này không còn được Đại-đội điều-động và tiếp-trợ nữa. Họ sẽ phải tự chiến-đấu, và tự bảo-toàn sinh-mạng. Còn tôi, tôi cũng không biết ra sao vào những giờ phút tới.
Sau một hồi lảo-đảo, chiếc trực thăng mang nặng thương-tích đã lấy lại được thăng-bằng, rời khỏi mục-tiêu với đoàn trực-thăng còn lại. Pilot ra dấu không thể đổ quân xuống được. Tôi gật đầu và chỉ vào chữ B trên bản-đồ. Anh hiểu và nhắm mục-tiêu B, dẫn theo đoàn trực-thăng còn lại, đổ quân xuống với Đại-đội 1.
- Tân-An đây Cam-Ranh.
- Tân-An nghe Cam-Ranh.
- Máy bay tôi trúng đạn rồi, nhiều lắm, không thể xuống được, có lẽ bay về Phú-Bài.
- Đáp nhận anh Hai. Tôi đã nhẩy xuống mục-tiêu B. Đức-Hòa đây Tầm-Dương.
- Đức-Hòa nghe thẩm-quyền.
- Tình-hình thế nào?
- Thẩm-quyền yên tâm, tôi sẽ cho con cái tiến chiếm, nới rộng vòng vây. Có mấy chiếc Logs yểm-trợ hữu-hiệu, chính xác, VC không ăn được đâu.
- Tôi đã xuống các anh gần cây số và sẽ tiến nhanh về phiá Đông và Đông Bắc của anh, hãy yên tâm.
- Đáp nhận thẩm-quyền.
Tôi kiểm-soát và chấn-chỉnh lại đội-hình, chuẩn-bị lên đường.
- Tân-An, Tân-An đây Cam-Ranh
- Nghe anh Hai.
- Tôi đã đổi Trực-thăng và trên đường tới với Tân-An tại Bravo.
- Đáp nhận anh Hai.
Chùng hai mươi phút sau, Cam-Ranh đã xuống mục-tiêu B. Chúng tôi thảo-luận chừng mười phút, chia phần còn lại của Đại-đội làm hai cánh. Trung đội 3 do Tiểu-đoàn Phó Cam-Ranh hướng-dẫn, Trung-đội 1 còn lại với trung-đội 4 do tôi chỉ-huy, song song tiến về mục-tiêu.
- Đalat đây Tân-An.
- Đalat nghe Tân-An.
- Trình Đại-Bàng, Trung-đội 2 và nửa Trung đội 1 đã xuống mục-tiêu, có Đức-Hòa và toán CB Mỹ, đang bung ra các hầm hố chung quanh, địch phản-công dữ-dội, cố đánh bật Trung-đội 2 ra khỏi đỉnh đồi.
- OK. Cho Đức-Hòa vào tần-số này, tôi sẽ trực-tiếp điều-động và yểm-trợ để Tân-An có thì giờ điều-động Đại-đội.
- Đáp nhận, cám ơn Đalat.
Thời giờ qua thật nhanh, mới đó mà đã ba giờ chiều. Trong giờ phút hiểm-nguy và cấp-bách này, tôi và Cam-Ranh đã tìm ra giải-pháp để làm thế nào có thể nhanh chóng tiến tới mục-tiêu: Bằng cách bỏ bớt những thứ không quá cần-thiết lại cho Đại-đội 1, để tiện leo trèo vựt núi vì lộ-trình di-chuyển quá khó khăn vì vách đá và dây rừng chằng chịt. Hướng trước mặt, tiếng bom đạn ầm ĩ cùng tiếng cánh quạt cụa trực-thăng gào thét trên cao, lòng chúng tôi nóng như lửa đỏ.
- Tân-An đây Cam-Ranh.
- Tân-An nghe anh Hai.
- Có trở-ngại không, cố-gắng nghe.
- Đáp-nhận.
- Tầm-Dương đây Đức-Hoà.
- Tình-hình tốt hơn. Chúng ta vững vàng trên những vị-trí đã chiếm được.
- Trình anh Tư là Trung-sĩ Bền cùng vài anh em đã Q6 (tử-trận)
- Sao vậy?
- Bền thúc Tiểu đội tấn-công về phiá Đông, nhưng khi di-chuyển tới gần giữa đỉnh, Bền trúng đạn ở đầu. Phần còn lại do Hạ-sĩ Tiểu-đội Phó tiếp-tục, không sao. Tôi đang cho Tiểu-đội 2 của Trung-đội 1 trám vào tuyến của Bền.
- Đáp nhận, cẩn-thận.
- Thẩm-quyền đừng lo, ở đây có Trung-úy Peter gọi Log và Cobra yểm trợ, đánh tan các đợt xung-phong của chúng. Những chiếc Logs vừa thả lựu đạn vừa bắn đại-liên chính-xác chừng năm, mười mét trước mặt con cái mình thôi.
- Nói với Peter, tôi cám ơn. Bình-tĩnh giữ phòng tuyến, tôi và Cam-Ranh sẽ tới ngay.
Tôi báo cáo cho Cam-Ranh tình-trạng trên đỉnh đồi. Đường đi càng ngày càng cách-trở và nguy-hiểm, dễ té nhào xuống vực sâu, có chỗ phải bám sát vách đá leo qua, sơ hở là toi mạng. Đoàn quân càng ngày càng nhẹ nhàng hơn về trang-bị vì các Tiểu-đội Trưởng đã cho bỏ bớt lại và gom vào các gộp đá, từng nơi một để leo trèo nhanh-nhẹn hơn trong giờ phút cấ-bách, nguy-hiểm này. Đường núi tuy khó khăn, nhưng hai cánh quân vẫn tiến theo đúng phương-hướng. Nhìn vào đồng hồ, bấy giờ là 6 giờ kém 10 phút. Rừng núi sớm về chiều, màn đêm sắp phủ xuống. Chúng tôi đã nhìn thấy những đốm lửa cháy nửa chừng trên thân cây. Khói lửa, khói súng khó thở và cả mùi thuốc của bom nổ, bom cháy và cuối cùng chúng tôi đã đến sườn núi cách mục-tiêu chừng hơn 100 mét. Trong bóng đêm, những đốm lửa chập chờn và lại mờ sau màn khói, tôi và anh Cang đã gặp nhau sau một gộp đá lớn.
- Cam-Ranh, ta tới nơi rồi.
- OK, cẩn-thận, hạn-chế tiếng động. Tân-An bên trái, tôi bên phải, bò lên và yểm-trợ cho nhau, liên-lạc với Hoà, chuyển hướng tác xạ, khi gần đến, cùng xung-phong đột-kích.
- Hiểu rồi Cam-Ranh.
Cam-Ranh quay lại bốc máy dặn dò Đại-đội 1 tiếp tục di-chuyển lên sẵn sàng tiếp-ứng.
- Đalat đây Cam-Ranh.
- Đalat nghe.
- Tôi và Tân-An đã tới gần mục-tiêu hướng Đông và Đông-Bắc, chuẩn-bị tấn-công. Trên đỉnh núi vẫn còn giao-tranh dữ-dội, nhưng Tân-An cho biết cánh quân nằm trên đỉnh vẫn được những chiếc Logs yểm-trợ và vẫn chống trả vững vàng.
- OK, Cam-Ranh và Tân-An cẩn-thận.
(Đây là lần đầu tiên trực-thăng “Cán gáo” thay nhau yểm-trợ trễ như vậy. Nhờ loại trực-thăng này mà con cái vững tâm trên phòng tuyến.)
Anh nhẹ nhàng giao ống liên-hợp cho người truyền-tin và thở ra.
- Anh Cang, tôi nghĩ chúng ta cần tác-chiến bằng lựu-đạn, một ít súng thôi vì ban đêm nguy-hiểm vì không chính xác phương-hướng. Niên-trưởng yểm trợ bên phải dùm nghe.
- Tân-An yên tâm.
Dàn quân, soát xét lần nữa, dặn dò toán quân xung-kích. Như vậy là Cam-Ranh có 3 Tiểu-đội thuộc Trung đội 3, do Lam chỉ-huy và 1 Tiểu-đội vũ-khí nặng yểm-trợ tại chỗ, dùng hoả-lực không cho địch quân ngóc đầu lên phản-công. Còn tôi và Trung-đội của Chuẩn-úy Sang, xung kích bên trái và Trung đội 4 của Chuẩn-úy Nam bò lên bên trái sườn núi, chận hướng rút lui của địch. Kế-hoạch xong xuôi, tôi vỗ nhẹ Cam-Ranh và gật đầu. Chúng tôi cố gắng bò lên đỉnh núi, những tảng đá lớn nhỏ chồng chất trước mặt làm việc tiến quân khó khăn hơn, nhưng cũng nhờ vậy mà có được sự che chở an-toàn.
- Tầm-Dương đây Nam-Giang.
- Nghe Nam-Giang.
- Trình thẩm-quyền phiá tôi không còn đá lớn nữa, thế đất xuôi xuống, tôi đã trên đường đỉnh rồi.
- Đúng rồi, đó là đường đỉnh, trước mặt anh là vực thẳm, địch không thể nhào xuống đó, và sẽ tràn qua phía anh. Hãy cho con cái bố-trí chờ. Đừng gọi tôi nữa.
- Nhận anh Tư “Năm”
Chúng tôi đã lên đến gộp đá sau cùng, tôi đưa tay ra hiệu cho người lính bên cạnh dừng lại, và tất cả dừng lại chuẩn-bị phút đột-kích quyết-liệt. Trong khi đó cuộc giao tranh của Trung-đội 2 và địch quân vẫn còn tiếp-diễn. Sau khi đã cùng các Tiểu-đội phóng về trước hàng mấy chục quả lựu đạn, Tôi đứng thẳng người lên và la lớn “Xung-phong”, hàng loạt tiếng la xung-phong tiếp theo, cùng những tiếng nổ long trời của lựu đạn, vang động cả khu rừng. Tại mục-tiêu về phiá Tây, Tây-Bắc và Tây Nam, Hoà cho hoả-lực đổi hướng. Trong đêm tối, tiếng đạn bay, lựu đạn nổ và tiếng gào thét reo hò xung-phong của hai cánh quân Tân-An và Cam-Ranh vang dội. Trong phút chốc Ðộng Cù-Mông được soi sáng như ban ngày bởi trái sáng Pháo-binh và máy bay.
Chúng tôi không còn cảm-giác sợ trúng đạn, gục ngã, mà tất cả chỉ còn một thứ cảm-giác nóng bỏng, to lớn nhất, mạnh-mẽ nhất bằng toàn-bộ ý-chí cùng sự can-đảm của con người là Chiến-đấu và chiến-thắng. Tiêu diệt địch quân, để giữ an-toàn cho sự sống còn của đồng-đội đang bị cầm vây trên đỉnh núi đầy máu lửa này. Không nương tay, không chùng bước, phải tiến lên và phải chiến thắng vì sự sống còn của chúng ta.
Tiếng gào thét, tiếng súng đạn, lựu đạn, ông phóng lựu M79, tất cả đổ nhào về phiá trước. Chỉ trong vòng 30 phút sau, hai cánh quân đã tràn lên và toả khắp trên những dãy hầm hố phía Đông và Đông Bắc của Ðỉnh Cù-Mông với một kiểu xung-kích độc-đáo trong chiến-trận của TĐ 9/TQLC mang tên Mãnh-Hổ. Cũng từ giây phút đó, những tiếng súng vang dội lại từ hướng Đông của đỉnh núi. Thì ra đúng như dự-trù, thành-phần sống sót còn lại của địch “chém vè” về phiá Đông và Đông Nam đã bị toán quân phục-kích của Nam-Giang hốt trọn.
Sau gần một giờ giao-tranh, Đại-đội 3 /TĐ 9/TQLC đã làm chủ mục tiêu. Sự yên-lặng được trả lại cho núi rừng, ngoài những tiếng nổ lach tách của cây cối cháy dở.
- Nam-Giang đây Tầm-Dương.
- Nam-Giang nghe thẩm-quyền.
- Để lại một Tiểu-đội nằm tiền-đồn, và đem con cái vào phòng thủ tuyến, bên phải là Sa-Giang, bên trái là Lam-Giang.
- Đáp nhận thẩm-quyền.
Cam-Ranh ngồi dựa cạnh tảng đá lớn, trong đêm tối, chỉ còn những đốm lửa trên cây, tôi mời anh điếu thuốc.
- Anh Hai, chúng ta chúc mừng nhau và anh Hai báo cáo về Dalat dùm tất cả mọi chuyện. Tôi sẽ cho đem tất cả anh em bị thương về đây săn sóc rồi qua nhánh phiá Tây gặp Hoà, gặp Minh và thăm mấy thằng em đã chết sáng nay. Khi bố-trí xong xuôi, tôi sẽ báo cáo anh Hai nghe.
- Tân-An yên-tâm.
Một khoảng cách không đầy trăm mét, nhưng vô vàn khiếp-đảm. Mùi hoá chất của những quả bom làm cho yết hầu sặc sụa, mắt mũi cay sè. Song không sao, tất cả sẽ dễ dàng qua thôi bởi vì chúng ta vừa chiến-thắng địch quân. Xác chết lăn lóc ngập đầy trong đêm tối của hôm nay và những xác không còn nguyên vẹn của bạn và địch trong những hôm trước. Mùi hôi hám của tử-thi, quện với mùi khói lửa, tạo thành một thứ mùi tử khí đặc-biệt của trận chiến trên đỉnh Cù-Mông.
Tôi bắt tay người bạn Công-Binh Hoa-Kỳ. Trong đêm tối, anh ôm tôi và cảm ơn rối-rít. Tôi ôm lại và vỗ vào lưng anh:
- Oh No, Thank you. You and me and everyone make this victory.
Tôi vòng tay, ôm Hoà, ôm Minh. Chúng tôi mừng rỡ sung-sướng như anh em ruột thịt đã tìm thấy nhau sau bao ngày lưu-lạc hiểm-nguy. Đời sống con người, rồi chiến-trường, rồi trận-địa hiểm-nguy, rồi niềm vui về gia-đình thân-yêu, rồi bè bạn … Tôi bước lại, cúi xuống, ôm lấy chiếc Poncho trong đó ủ bọc thân xác của người Trung-sĩ thuộc cấp, Nguyễn văn Bền, một con người hiền-lành dễ thương. Tôi cũng nắm những chiếc Poncho kế tiếp như để bắt tay từ giã:
- Các em yên tâm trong giấc ngủ dài, tôi sẽ chu-toàn phần xác còn lại của các em về với gia-đình.
Sáng hôm sau, BCH/Tiểu-đoàn và các Đại-đội 4, 2 và 1 tiếp tục tiến quân về Cù-Mông để bố-trí và chu-toàn nhiệm vụ của Lữ-đoàn giao-phó. Trực-thăng đáp xuống, mang theo những chiếc túi đặc-biệt bằng nhựa (body bags) để đựng xác của những người lính Công-Binh Hoa-Kỳ. Mỗi Trung-đội trưởng tự đích thân vác những chiếc Poncho, trong đó gói thân xác thuộc cấp của mình. Còn tôi, ngồi xuống thấp để hai binh-sĩ đỡ chiếc Poncho gói Trung-sĩ Bền lên vai, người Hạ-sĩ quan đã cùng chúng tôi về thành-lập TĐ 9/TQLC từ ngày đầu.
Sau khi chiếc Poncho nằm vững trên vai, tôi bước từng bước về phiá bãi đáp để nhờ trực-thăng chuyển anh cùng bạn hữu về với gia-đình. Họ là những người con đã làm tròn bổn-phận với quê-hương đất nước. Anh và đồng-đội cùng những người bạn Mỹ, chiến-đấu cho tự-do, đã gục ngã trên đỉnh núi này, mang địa danh chiến sử: Động Cù-Mông.
Tầm-Dương Đoàn-văn-Tịnh
(MD ngày 20-9-2002)

( Sinh Tồn chuyển )

T.Post

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Trận-Chiến ĐỘNG CÙ-MÔNG (Chiến-dịch HQ Lam-Sơn 810)

Miền Trung là nơi mà bề ngang là nơi hẹp nhất cuả tấm bản-đồ hình chữ S được mang tên là Bắc-Trung-Phần. Các nhà điạ-lý thường ví nơi đây là chiếc đòn gánh
 
Tác giả/Nhân vật: Đoàn Văn Tịnh
http://tqlcvn.org/images/TD9-TQLC%20TRANS.gif

 

LTG: Tôi thay thế sự đàm thoại bằng mật mã ra bạch văn hầu đọc giả dễ hiểu thay vì dùng mật mã khi dùng PRC25 để bảo mật về danh xưng của đơn vị, ám danh, cấp số (Tiểu Ðoàn,Ðại Ðội,Trung Ðội…) trong lúc hành quân.

 

Tầm-Dương Đoàn-văn-Tịnh

 

 

***

Miền Trung là nơi mà bề ngang là nơi hẹp nhất cuả tấm bản-đồ hình chữ S được mang tên là Bắc-Trung-Phần. Các nhà điạ-lý thường ví nơi đây là chiếc đòn gánh với hai bó luá ở hai đầu là hai miền Nam và Bắc. Địa-thế được thiên-nhiên phân-định rõ-ràng: Phiá Tây là dãy Trường-Sơn kéo dài từ Bắc suôi Nam, ngút-ngàn hun-hút … Phiá Đông là biển Nam-Hải, bờ cát trắng như giải lụa, trải dài từ Vịnh Bắc-Việt tới nơi tận-cùng cuả đất nước là mũi Cà-Mau.
QL1 là con đường huyết-mạch độc-nhất xuyên qua làng mạc, quận-lỵ, thành-phố và tỉnh-thành. Ba vùng : Núi, đồng-bằng và bờ biển chạy song song với nhau như ba gạch đỏ trên nền vàng cuả lá Quốc-Kỳ, biểu-tượng thiêng-liêng của đất nước. Từ những năm 1971 trở về sau, chiến-trường bỗng trở nên vội vàng, sôi-động, chiến-sự ngày càng to lớn gấp bội phần. Hai Quân-Khu I và II chịu áp-lực nặng-nề nhất cuả địch.
Song song với cuộc hoà-đàm Paris, Bắc-Việt ào-ạt chuyển quân vào miền Nam qua ngả Trường-Sơn với hàng chục Sư-đoàn Bộ-binh và Thiết-giáp, đã tạo nên nhiều trận chiến khốc-liệt với cấp-bộ Trung-đoàn và Sư-Đoàn. Các đơn-vị trừ-bị Biệt-động-Quân, tổng trừ-bị như Nhẩy-Dù và TQLC đều đã vô cùng bận rộn. Sư-Đoàn Dù được xử-dụng tại mặt trận Tây-Nguyên (QD II), hoạt-động tại các vùng Kontum, Pleiku, Ban-mê-Thuột.
Sư-Đoàn TQLC được tăng-cường cho Quân-Đoàn I, hoạt-động tại Vùng I Chiến-thuật bao gồm các chiến-trường Gio-Linh, Đông-Hà, Quảng-Trị và vùng rừng núi phía Tây, Tây-Nam Huế. Trong thời-gian này, Lực-lượng tác-chiến chính của Sư-Đoàn TQLC gồm có 9 Tiểu-Đoàn tác-chiến, 3 BCH/Lữ-Đoàn, với 3 Tiểu-Đoàn Pháo-Binh, 3 Đại-Đội Viễn-Thám, một Tiểu-đoàn Công-Binh và một Đại-Đội Thuỷ-xa. Tất cả các Tiểu-đoàn tác-chiến được hoán-chuyển đặt dưới quyền chỉ-huy cuả 3 BCH/LÐ tùy theo nhu-cầu chiến-thuật và khu-vực trách-nhiệm của từng Lữ-đoàn.
Trong những tháng, năm dài kể từ 1971 trở về sau, tất cả các đơn-vị TQLC hầu như không có thời giờ trở về hậu-cứ ở miền Nam để dưỡng quân, huấn-luyện, tái trang-bị và bổ-sung quân-số như trước. Sau 3 tuần lễ vừa hành-quân lục-soát, vùa nghỉ ngơi ăn Tết trên các căn-cứ hoả-lực C1, C2 và A1, A2 tại vùng địa-đầu, giới-tuyến, vào ngày 6-5-1971, TĐ9/TQLC đã giã-từ miền Gio-Linh để trở về tuyến sau. Trên Quốc-Lộ 1 chạy theo chiều Bắc-Nam cuả đất nước, đoàn xe dừng lại tại cây số 14, nơi mang địa danh Phù-Ốc thuộc quận Phong-Điền, nơi mà làng mạc liên-tục nối nhau chạy dài giữa QL1 và vùng bờ biển Quảng-Trị .

 

Chúng tôi linh-cảm rằng có lẽ Tiểu-Đoàn tôi sẽ có được một vài ngày nghỉ ngơi, kiểm soát lại trang-bị và quân-số trước khi nhận được lệnh chuẩn-bị cho một cuộc hành-quân, một trận đánh lớn, hay một cuộc tiếp-viện cho một đơn-vị nào đó. Ngay khi đổ quân xuống làng Phù-Ốc, Tiểu-Đoàn tổ chức ngay việc phòng-thủ như đã định sẵn. Đại-đội 3 và 4 trấn dọc theo bờ sông và phiá cánh đồng phiá Bắc. Đại-đội 1 và 2 phối-trí dọc theo QL1 và phiá Nam cuả vị trí. Các tiền-đồn cấp Tiểu-đội và trung-đội được tung sang bên kia sông. Đây là một giòng sông tương đối lớn, bờ sông trải dài một bã cát vàng óng, giòng nước trong xan, êm mát lững-lờ trôi như mái tóc thề buông dài bay bướm trên trên tấm lưng nhỏ nhắn, đẹp muôn thở cuả nàng kiều-nữ Cố-đô.

Dừng quân là đào hầm, đào hố, là bố-trí phòng-thủ, là chuẩn-bị tác-chiến. Tất cả những công việc này đều được thực-hiện trước tiên giống như một thói quen cuả một đơn vị tác-chiến chúng tôi. Một khoảng thời gian sau đó, vào khoảng 12 giờ trưa, có lệnh mời các Đại-đội trưởng lên Bộ Chi-Huy Tiểu-Đoàn để họp và có lẽ để nhận lệnh HQ kế tiếp đây, tôi nghĩ vậy.
BCH/TÐ được đặt trên khoảng sân rộng rãi lót gạch đỏ cuả một ngôi nhà dân, chung quanh có khu khu vườn trồng cây ăn trái, xanh tươi mát mẻ, với những hàng cau vươn thẳng lên cao, thẳng như những chiếc đũa cắm xuống đất. Có lẽ không muốn làm phiền chủ nhà, nên Tiểu-đoàn đã cho căng lên tấm lều dã-chiến lớn để làm việc. Trung-đội Truyền-tin cuả TĐ được thiết-trí quanh khu vườn cây ăn trái.
BCH/TD9 Đây là dịp gặp nhau đông đủ sau nhiều ngày Hàng-quân, mọi người trong chúng tôi đều bận-rộn trong trách vụ riêng biệt.

Thiếu-tá Nguyễn-Kim-Đễ, Tiểu-đoàn-Trưởng TĐ9/TQLC trong dáng mặt vui vẻ, thoải-mái, lần lượt chào hỏi và bắt tay từng Đại-dội Trưởng chúng tôi. Bên cạnh ông là Đại-Uý Phạm-Cang, Tiểu-đoàn Phó/TĐ 9 và Trung-Uý Hoàng-Đôn-Tuấn, Trưởng ban 3/Tiểu-Đoàn. Họ là những niên-trưởng khoá trên cùng xuất-thân từ Trường Võ-Bị Quốc-Gia vói chúng tôi. Hai niên-trưởng Phạm-Cang và Hoàng-đôn-Tuấn luôn luôn với nụ cười thân-mến, tánh-tình dễ chịu như sự đối-xử cuả các anh thường ngày với các cấp trong đơn-vị.
Trung-úy Trần-công-Giáo, Đại-đội Trưởng ĐĐ1. Trung-uý Lê-Thắng, Đại-đội Trưởng ĐĐ2. Tôi, Trung-Úy Đoàn-văn-Tịnh, Đại-đội Trưởng ĐĐ3 và Trung-Uý Nguyễn-minh-Trí, ĐĐ4. Đại-úy Ngô-đình-Lợi Đại-đội Trưởng ĐĐCH. Trung-úy Bác-sĩ Thái-minh-Trị, y-sĩ Trưởng cuả TĐ và sau cùng là Đại-úy Carlson, SQ cố-vấn cuả TĐ. Chúng tôi tay bắt mặt mừng, chuyện trò vui vẻ.

Những tháng ngày dài hành-quân, bận rộn với đơn-vị và chiến trận cùng những lần đụng-độ, có chiến-thắng hăng-say, có te-tua thê-thảm. Những chuyện vui buồn chết chóc đó trở thành chuyện bình-thường mỗi ngày cuả người lính chiến bao giờ cũng được cho nằm qua bên lề tay bằng những nỗi mừng vui khi họp mặt. Chính nhờ vậy mà đời sống cuả những người lính trận như chúng tôi giữ được tánh vui vẻ trẻ-trung trong dáng dấp vô cùng phong-trần, khắc-khổ .
Mọi người tự tìm chỗ ngồi cho mình vì đây là nơi HQ, không bàn ghế, tiện-nghi, hơn nữa như vậy thì tự-nhiên, thoải mái hơn. Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng trong quần trận gom ống, và chiếc aó T-shirt mầu xanh lá cây vui vẻ cười nói với chúng tôi:
- Chúng ta có được vài ngày thoải mái, trước khi tiếp-tục HQ. Hôm nay có chút thì giờ chuyện trò và mời các ông ăn trưa nghe!
Chúng tôi cảm thấy thoải-mái, gỡ nón sắt móc lên những thân cây gần đó, gài tấm bản-đồ HQ vào dây ba chạc, móc thuốc mời nhau và bắt đầu trò chuyện. Những câu chuyện xa gần nơi thành-thị, những chuyện về bạn bè, gia-đình và hậu-cứ. Gần như là những nhu-cầu tinh-thần vô cùng cần-thiết cho những người lính sau tháng ngày vùi quên vào những chuyến hành-quân và chiến-trận. Chiến-trận thì bao giờ cũng khốc-liệt, hiểm-nguy, nó là sự sinh-hoạt thường-xuyên và liên-tục của người lính trận. Còn hôm nay là gặp nhau, là những mẩu chuyện cần-thiết, là Sàigòn, là Vũng-Tầu là những thành-phố đang rộn-ràng ngày đêm cho những sinh-hoạt giải-trí náo-loạn, ồn ào. Vì nơi đó có người thân-thuộc, gia-đình, bạn bè có đủ mọi sinh hoạt cần-thiết cho bất cứ một người quân nhân sau ngày tháng quân-hành xa vắng.
Giữa vùng hành-quân mà có một ngày đẹp trời, với nắng hồng mát mẻ như hôm nay thì thực là tuyệt-diệu. Chúng tôi dự-trù ngày mai mời nhau đi ăn sáng để bõ nhớ những buổi sáng sớm ngồi trên nón sắt, hay vắt vẻo trên chiếc võng mắc giữa hai thân cây rừng, tay nắm cái ca sắt với gói mì nấu vội, hay nửa bịch cơm sấy nhỏ với hộp thịt ba lát qua ngày tháng bận rộn quân-hành .
Nhưng hôm nay thực sớm, lệnh trên đã thay-đổi. Giữa giấc ngủ muộn màng cuả đêm qua, lệnh từ Tiểu-đoàn phát ra trên máy “Tất cả các Đại-đội 1, 2, 3, 4 và CH, chuẩn bị 1 ngày cơm vắt, xong-xuôi trước 7 giờ sáng và mời các Đại-đội trưởng lên họp”. Lệnh HQ, lệnh công-tác thường xuyên và bất chợt đến một cách vội vàng. Như một thói quen, nên chúng tôi cũng không lấy làm bất ngờ, ngạc-nhiên hay một cảm-giác hụt-hẫng nào hết.
Thiếu-tá Tiểu-đoàn trưởng, Đại-úy TĐP đang ngồi uống cà-phê đợi chúng tôi. Mỗi người rút một điếu từ bao thuốc lá nhãn-hiệu con mèo (Craven A) do ông Tiểu-đoàn trưởng mời. Nhìn ông gọn gàng trong bộ quân-phục với nét mặt thoải-mái, chúng tôi cảm thấy yên tâm. Ông bắt tay từng người và nói:
- Hôm nay Tiểu-đoàn sẽ di-chuyển đến khu-vực Bastone, Tây-Nam Huế. Đến đó sẽ có lệnh tiếp. Các ông hãy ghi vào bản-đồ lộ-trình di-chuyển, những điểm kiểm-soát (check-points). Trên lộ-trình di-chuyển phải kiểm-soát đơn-vị cẩn-thận, nhất là khi qua khu vực thành-phố có dân chúng.
Nhìn vào tấm bản-đồ căng trên giá bên cạnh bàn, nhìn điểm khởi-hành, lộ-trình do niên-trưởng Hoàng-đôn-Tuấn (K19, trưởng ban 3/ TĐ) vẽ sẵn, chúng tôi chép vào bản-đồ của mình. Đối với mọi người, có lẽ chẳng có một cảm-nghĩ nào khác hơn là phương-hướng và mục-tiêu hành-quân. Nhưng riêng tôi thì lại vô cùng thú-vị, trong lòng vui vẻ hứng-thú vì từng đọan đường di-chuyển là quãng đường mà ngày xưa tuổi niên-thiếu, tôi và các bạn cùng lớp thường đi, nghịch ngợm đuổi nhau bằng xe đạp sau những buổi tan học; Có đôi lúc chúng tôi còn trốn học để rong chơi, ngoạn cảnh hay những buổi cắm trại của một thời làm Hướng-đạo-Sinh. Những kỷ-niệm cũ thực dễ thương, làm cho lòng mình nôn-nao xúc-động với những hồi-tưởng thân-ái cuả ngày xưa.
Từ Phù-Ốc, đoàn xe di-chuyển qua An-Hòa, đến cầu Bạch-Hổ, quẹo trái về phiá thành-phố Huế. Bên trái là khu-vực kinh-thành Huế rộng lớn của triều Nguyễn cổ kính xa xưa. Bức tường cao chạy dài theo đại-lộ Nguyễn-Hoàng đã mờ rêu-phong. Nhìn từ xa, thành-lũy đã trở nên xám đen, lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất-phới trên cột cờ Ngọ-môn cao thực cao. Dọc theo bờ thành là hồ sen bao quanh, ngát thơm vào muà Hạ, mùa mà chúng tôi đang di-chuyển hành-quân. Bên phải đại-lộ là công-viên Phú-Văn-Lâu.
Thửng Bạc là giòng sông Hương nổi danh xinh đẹp, dòng nước trong xanh từ thượng-nguồn đưa ghe thuyền ngược xuôi về biển cả. Hai bên đường hoa học trò nở rộ, mầu đỏ nhung mịn màng của những hàng cây phưọng-vĩ, một thời nào đó đã ấp ủ tâm-hồn và đời sống trong tuổi ấu-thơ, hay thời niên-thiếu của tuổi học trò. Hai người lính truyền-tin ngồi đằng sau chuyện trò với nhau, tấm-tắc:
- Trung-úy, Huế đẹp quá phải không?
- Phải, Huế đẹp lắm, nếu không bị tàn-phá trong chiến-tranh, nó đẹp lắm, thơ mộng lắm.
- Em nghe người ta nói về Huế, viết về Huế, hát cho Huế, nây giờ em mới nhìn thấy và mọi điều đều xinh-đẹp, như trên trang sách người ta viết.
Tôi vô cùng xúc-động, khi nghe người ta khen tặng quê-hương mình. Tôi quay nhìn Hoàng, nhìn Hường, những người lính quê họ miền Nam, tận cùng ở miền Nam. Ôi thực đáng yêu và tội-nghiệp cho những người lính trẻ. Bởi khi các em nhìn và biết ra rằng quê-hương mình là vô cùng xinh đẹp và đáng yêu là lúc mà tuổi trẻ đang bị tàn-phá tù tâm-hồn cho đến thân-xác. bởi những cuộc vui nơi thị-thành náo-loạn, vứt hết đầu óc vào những cuộc ăn chơi. Rồi ra chiến-trường súng đạn, chết chóc huỷ diệt. Đó, bối-cảnh của tuổi trẻ hôm nay.
Tôi thở dài:
- Khi nào, có một buổi nào đó rảnh-rỗi, tôi sẽ cho các em đi một vòng thăm Huế, thăm đền-đài cung-điện, cổ thành xa xưa, thăm lăng-tẩm của vua chuá triều Nguyễn, thăm các trường học và những khu-vực mà cảnh-sắc lạ thường thơ-mộng.
- Dạ, hôm nào bọn em sẽ đi theo Trung-úy.
- Ừ.
Xe đạp, xe xích lô đạp, xe gắn máy, xe bus, xe hàng, học trò, công chức, thợ-thuyền, người buôn kẻ bán, tấp-nập. Họ ép vào hai bên đường, ngắm nhìn đoàn xe của Tiểu-đoàn di-chuyển. Một đơn-vị Thủy-Quân-Lục-Chiến cấp Tiểu-Đoàn, quân-số đông lắm. Vừa tác-chiến và hậu-trạm có đến cả ngàn người. Nên đoàn xe nối đuôi nhau thực dài. Hướng di-chuyển qua cầu sông Hương, ai cũng mơ ước, tuy rằng điều mơ-ước thực đơn-giản: “Ước chi đoàn xe chạy qua cầu Trường-Tiền” với vài, nối liền mười hai nhịp song song, màu trắng bạc – vắt ngang qua giòng sông – Dưới ánh nắng ban mai – Như một vệt sáng tuyệt-vời xinh đẹp.
Chiếc cầu cũ đó đẹp lắm, nhưng không thể chứa nổi cái đoàn xe to lớn nặng nề chiến-tranh này được, nên lộ-trình phải qua cầu sông Hương, chiếc cầu mới được bắt ngang qua khúc sông trên chừng năm bẩy trăm mét. Cầu này cũng xinh đẹp do Công-Binh Việt-Nam phối-hợp với hãng RMK ( một công-ty của Mỹ) tạo-dựng. Qua cầu Sông Hương , chúng tôi rảnh-rỗi nhìn xuống cầu Trường-Tiền phía dưới, cùng hạ-nguồn của sông – Cái cồn Hến nổi lên giữa giòng sông, tách giòng nước làm hai và ghe thuyền xuôi-ngược, hiền-hòa – và nhìn ngược lên phía thượng-nguồn núi non hùng-vĩ, cây cầu sắt Giả-Viên dài hun-hút như một đoàn xe lửa, mầu đen đang chạy qua con sông muôn đời. Xa xa là chùa Linh -Mụ, nóc tháp cao vút – Từ đó những hồi chuông vang vọng mỗi sớm, mỗi khuya, như như thể để xoa dịu niềm đau của quê-hương giữa thời chinh-chiến.
Đoàn xe tiếp tục qua khu-vực hữu-ngạn của thành-phố, con đường Lê-Lợi chắn ngang trước mặt, nối liền từ Đập-Đá qua bệnh-viện Huế, trường của bọn học trò con gái mang tên Đồng-Khánh, trường Quốc-Học của lũ con trai nghịch-ngợm, một thời vang bóng – và cuối cùng là nhà Ga – Con đường huyền-thoại, mỗi ngày đưa bọn học trò áo trắng quần xanh và đám con gái áo tím bay bay – Mái tóc dài thướt-tha che dấu dưới cái nón lá của Huế xưa. … Nhiều lắm, nhiều lắm, để một ngày nào đó rảnh-rỗi, tôi sẽ viết về Huế như một câu chuyện kể cho các bạn nghe.
Chiếc xe dẫn đầu đổi hướng về phiá giốc Nam-Giao, con đường có cái giốc cao nhất Huế. Giốc Nam-Giao nhìn từ xa không bằng mà thẳng, đúng vậy. Con đường nhựa có nhiều chùa chiền này, nếu đứng từ trên giốc Nam-Giao nhìn xuống, thẳng như một sợi chỉ căng – Nhưng nó lại chạy qua nhiều con giốc cao lên xuống nhiều lần. Rồi ngang qua Đàn Nam-Giao, là nơi mà ngày xưa các vua triều Nguyễn đến đây hàng năm tế Đất, Trời. Nguyện cầu cho non sông xã-tắc và đời sống của con dân bằng yên, đất nước thái-bình, thịnh-trị. Di-tích ngày xưa còn nguyên vẹn, tuy có nhiều sứt mẻ, cũ kỹ. Nơi đây là ngã ba đường – Rẽ trái sẽ đến các chùa Thuyền-Tôn, Từ Hiếu, lăng Tự-Đức. Cò rẽ phải ra phiá bờ sông thì chúng ta sẽ liên-tục được nhìn ngám hầu hết các lăng tẩm của thời Nguyễn – Lăng Thiệu-Trị, Đồng-Khánh, Khải-Định, và bên kia bến đò Ba Bến là lăng Minh-Mạng.
Giữa vùng núi non hùng-vĩ, cảnh-sắc mượt mà thoát-tục, và thượng nguồn sông Hương xinh đẹp, thơ-mộng, kết-hợp thành một vùng thiên-nhiên như gấm, như hoa – mà các thầy địa-lý Tầu ngày xưa gọi đây là vùng đất Kết. Nghĩa là kết nên Vương, nên Tướng – Cho nên hầu hết lăng-tẩm của vua chuá, quan-lại cùng mồ mả những người có uy-quyền, thế-lực đều được chôn cất nơi đây. Chúng ta không có được cái nhìn như các thầy Tầu về đất đai, khí thiêng sông núi – Nhưng rõ ràng nếu đứng trên đồi Vạn-Niên là một ngọn đồi cao bên bờ thượng nguồn sông Hương – để nhìn toàn-bộ khung cảnh, và nếu biết thêm địa-danh của các khu-vực cạnh đó của sông núi, nuớc non này thì đúng là một kết-hợp nghệ-thuật vô cùng tuyệt-hảo.
Chua Thien MuBên kia sông tiếp nối từ Thiên-Mụ là Long-Hồ, Ngọc-Hồ, bên này là Lương-Biều, Nguyệt-Biều đến Tuần ( tên địa-phương ) Một vùng núi non như rồng bay phượng múa giữa đất trời bao-la. Nét mỹ-miều, hùng-tráng của thiên-nhiên khéo vẽ, làm cho tâm-hồn của con người bay cao, thực cao giữa hùng-khí của non sông như đang réo gọi ở một nơi xa xôi nào đó – Hay đôi lúc trầm lắng, xúc-động ngậm-ngùi về một thời xa xưa điêu-tàn. Mà tất cả: cái đẹp, cái hùng và nỗi mộng mơ đó tạo thành những âm vang sống dậy riêng trong từng cảm-xúc của mỗi người.
Đoàn xe nối đuôi nhau dừng lại dưới chân dẫy núi cao, sau khi vượt qua cầu Nam-Hòa. Xa xa ngọn đồi cao lớn đã được ủi, được cày, màu dất đỏ, mang tên là căn cứ Bastogne. Đây là một căn-cứ yểm-trợ hoả-lực rất lớn và nổi danh của vùng Tây Nam Huế, thuộc quận Nam-Hòa, tỉnh Thừa-Thiên.
Tiểu-đoàn rời xe và di-chuyển bố-trí tạm-thời, nhanh chóng trên mấy ngọn đồi dọc theo con sông lớn, sông Tuần. Chung quanh là những dẫy núi non liên-tục, cao nghều-nghệu của rừng núi Trường-Sơn. Tiểu-đoàn Phó Phạm-Cang, danh hiệu của anh là Cam-Ranh, điều-động các đại-đội vào từng vị-trí, dừng quân bố-trí, đặt các tiền-đồn xa và các trạm canh-gác của BCH/Tiểu-đoàn. Bên cạnh khu-vực bố-trí của Tiêu-đoàn là phi-trường trực-thăng dã-chiến, chạy dàì dọc theo chân núi, thuận-lợi cho hành-quân trực-thăng vận, tiếp tế súng đạn, lương-thực cho các đơn-vị hành-quân trong vùng.
o0o
Ngày 9 tháng 5, 1971.
Hôm nay, Tiểu-đoàn gọi máy cho Đại-đội 3 thực sớm . Đại-đội Trưởng lên BCH/ Tiểu-đoàn gặp Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng mang theo bản-đồ hành-quân. Tôi thường thức giấc sớm, cho dù ngày đó có công tác hay rảnh-rỗi nghỉ ngơi để tập thể-dục, đó là công việc thường xuyên như một thói quen trong suốt đời sống của tôi. Quân-phục gọn gàng, dây ba chạc, súng ngắn, bản đồ hành-quân, với lấy cái nón sắt để trên thùng đầu đạn pháo-binh, dặn dò người lính truyền tin đại-đội, Hạ-sĩ Trần-văn-Ba:
- Gọi cho các Trung-đội trưởng chuẩn-bị lên Đại-đội họp khi có lệnh.
- Dạ, HS Ba đáp lời, anh còn nằm đu đưa trên cái võng, nghe radio, còn gì nữa không Trung-uý?
- Chỉ vậy thôi.
BCH Tiểu-đoàn nằm trên quả đồi nhỏ, cạnh đường lộ có sẵn những công sự phòng-thủ cũ của các đơn-vị hành-quân trước. Có sẵn vài cái hầm kiên-cố được xây bàng bao cát và những tấm vỉ sắt để chống pháo-kích dành cho BCH/Tiểu-đoàn. Chỗ họp được thiết kế trong một cái hầm lớn. Khi tôi lên tới nơi, Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng đã ngồi chờ – vẫn cái quần vệt sóng biển gom ống, đôi “bốt đờ sô” còn nhiều đất mới đỏ và chiếc áo T-shirt màu xanh cây lá. Ông vui vẻ đón tôi. Tôi chào tay, rồi bắt tay ông và nghiêm-chỉnh ngồi xuống chiếc ghế gỗ đóng bằng thùng đạn pháo-binh.
- Chuẩn-bị cho Đại-đội chưa Tân-An? (Danh-hiệu truyền-tin của tôi, ĐĐT/ Đại-đội 3)
- Thưa sẵn sàng nhưng chưa gỡ lều trại.
- OK.
Ông cẩn thận mở bao thuốc con mèo, loại thuốc tôi thấy ông thường hút, kéo một điếu, mời tôi. Đây như một thói quen của người Tiểu-đoàn-trưởng TĐ9/TQLC, bao giờ dáng dấp và động-tác cũng thận-trọng và lich-sự, dù đang lúc vui chơi, ngay cả trong bàn tiệc ở nhà hàng hay đôi lúc cùng vui vẻ ở vũ-trường, hoặc công tác họp hành.
Đối với tôi thì bao giờ anh cũng có thái độ thân-thiện đặc-biệt. Không biết có đúng hay không? anh bao giờ cũng mến tôi kể từ ngày thành-lập Tiểu-đoàn. Ngày đầu tiên tôi về trình-diện đơn-vị mới -Tiểu-đoàn 9/TQLC, đang thời-kỳ thành-lập ở hậu-cứ, nằm sau Trung-tâm huấn-luyện TQLC ở quận Dĩ-An. Tôi còn nhớ đó là ngày 23 tháng 4, 1970 – Hồi đó hậu-cứ tổng-cộng chừng vài mươi người. Tôi tìm đến người sĩ-quan trưởng ban 1 – Một Chuẩn-uý lớn tuổi tên Huy – buổi trưa, trời nắng chang chang, giữa một vùng đất không có một bóng cây cối – ông đưa tôi vào gặp đơn-vị trưởng – Tôi gõ cửa và có tiếng:
- Mời vào.
Tôi theo Trưởng ban 1 bước vào và đứng nghiêm chào tay đúng cơ-bản thao-diễn, xưng cấp-bậc danh tánh và số quân:
- Trung-Úy Đoàn-văn-Tịnh, số quân 65A/2021947 trình-diện Thiếu-tá chờ lệnh.
Ông đứng lên và bắt tay tôi.
- Trung-Úy từ Tiểu-đoàn 5 về phải không?
- Vâng
- Tôi sẽ sắp xếp một công việc nào đó cho thích-hợp vói Trung-úy.
- Không, thưa Thiếu tá, tôi nhận công lệnh về Tiểu-đoàn mới với chức vụ Đại-đội trưởng.
Ông nhìn tôi – có lẽ thấy dáng dấp nhỏ cùng với giọng nói nho nhỏ thư-sinh của tôi, ông nghĩ có lẽ cho tôi giữ một nhiệm vụ nào đó thì thích-hợp hơn là một Đại-đội trưởng tác-chiến. Nhưng khi thấy phản-ứng của tôi, thì ông cười và bảo:
- Vâng, tôi biết, thử ông chút thôi.
Cũng cái quần mầu sóng biển gom ống, đôi “Bốt-đờ-sô” và chiếc áo T-shirt màu xanh lá rừng – Từ ngày đầu về đơn-vị mới tôi đã thấy trên người ông – Như một hình ảnh quen-thuộc trong suốt ngày tháng sau này trong đơn-vị. Trời nóng nực, hậu-cứ tạm thời của đơn-vị không có tiện-nghi, ông giải thích và xin lỗi:
- Tôi phải ăn mặc như thế này, Trung-Úy đừng để ý nghe.
- Vâng, không có chi Thiếu tá.
- Chuẩn-úy Huy, anh đưa Trung-Úy về dãy phòng của sĩ-quan, tạm nghỉ ở đó.
Một thời gian ngắn, hơi khó chịu, nhưng khi gặp một vài người lính cũng về trình-diện đơn-vị mới và người bạn cùng khoá – Trung-Uý Nguyễn-minh-Trí (K22 Đà-lạt) và người đàn anh Lê-Thắng (K21 Đà-Lạt). Nhưng có một điều là khi phân-chia công-tác, bao giờ ông cũng căn-cứ trên khả-năng của đại-đội, nên đại-đội của tôi nhận nhiệm-vụ nặng-nề hơn, gần như chưa bao giờ được về phòng-thủ để bảo-vệ Tiểu-đoàn hay đóng chung với Tiểu-đoàn khi đưỡng-quân. Tôi và thuộc-cấp của tôi trong đại-đội cảm-nhận ra điều này và chính điều này làm tôi yên-tâm hơn trong sự liên-hệ giữa tôi và cấp trên: Dù rằng trong đời sống, Anh hầu như luôn luôn để tâm tới tôi.
- Ăn sáng với tôi nghe Tân-An!
- Vâng.
Người lính của ông bưng cho tôi tô mì gói nấu với thịt hộp, còn bốc khói, để nhẹ trên bàn.
- Mời Trung-uý ăn sáng
- Vâng, cám ơn.
Tiểu-đoàn-Trưởng cuời vỗ vai tôi:
- Cất bản đồ đi, vừa ăn sáng vừa nói chuyện.
Ông hỏi:
- Tân An nhớ hôm nay là ngày gì không?
Tôi ngạc nhiên, nhìn ông, một lúc suy-nghĩ, tôi lắc đầu:
- Ngày gì đâu Thiếu-tá?
- Ôi, chú nhớ dùm, chú là người Huế đấy nhé.
Tôi cố nhớ, song không thể nhớ ra được và ngạc nhiên lắc đầu, sao lại có Huế trong việc này!
- Thôi để anh nói nghe (Khi nói chuyện với tôi ông thường xưng như vậy) – Hôm nay là rằm tháng tư, ngày Phật-đản đó, nhớ chưa?
- Ồ, tôi cười và gật đầu.
Ôi đoảng thực, hành-quân, công tác, đơn-vị, thuộc cấp, chiến trận và tuổi trẻ làm cho tôi quên hẳn, có đôi lúc tôi không nhó là mình đang sống nơi đâu. Mỗi người mỗi tâm tính riêng tư. Cái tâm-tính của tôi như rứa đó.
- Tân-An, Anh gọi chú lên đây, vì chúng ta chỉ còn một ngày nghỉ hôm nay nữa thôi. Cho chú đi phép về thăm gia-đình ở Huế và dự ngày Phật-đản, bằng lòng không?
Tôi nhanh chóng nhìn người đơn-vị trưởng, từ dáng mặt phong-thái của anh, mọi người thường bảo anh là người khó tính, Reglo và mọi chuyện đều có planning, tính-toán… Đúng vậy thực, cái gì anh cũng thận-trọng, cái gì cũng dự-trù, suy-nghĩ kỹ-lưỡng. Song có một điều có thể chưa ai biết được tâm-trạng của anh trong anh như tôi.
Bởi bao năm tháng sống cùng đơn-vị, chúng tôi thường có dịp chung đụng, ngoài vấn-đề hành-quân, công tác, đi đâu, chơi đâu anh cũng rủ tôi cùng đi. Thậm chí khi có vợ con anh ra thăm ở vùng hành-quân, anh cũng mời tôi dùng cơm chung và chuyện trò. Tâm tính anh rất thân-thiện, nhiều tình cảm, nhưng rất dè dặt, dù có nói chơi cũng rất tế-nhị, không mất lòng ai.
Nhưng rõ ràng, khi phải đối diện với cấp trên, hay những người mà anh cảm-nhận ra rằng không mấy tốt thì cũng nhẹ-nhàng nhưng hết xẩy, hết xẩy thực đó, đúng như người ta nói: “Nghe anh nói, ngẫm lại đến 10 phút sau mới hiểu ra mà chua chát, xót xa” tôi đã chứng-kiến điều này thực nhiều lần. Trong những lúc đó tôi thấy anh cô-đơn, rõ ràng anh cô-đơn giữa bạn bè, cô-đơn giữa đơn vị mình đang sống.
Tôi vui vẻ hứng-thú, OK ngay thôi, điều này tôi không thể từ chối được mô nghe và cười thoải-mái, mặc dù hiện nay gia-đình tôi không còn ở Huế nữa. Tôi có một người em gái lấy chồng và ở lại đây (ở gần Đập Đá) khi toàn bộ gia-đình tôi di-chuyển vào Nam 1970. Đây là quê-hương thân yêu của tôi, nơi chôn nhau cắt rốn, cả một thời thơ ấu cho đến ngày niên-thiếu, chồng chất vô vàn kỷ-niệm buồn vui với gia-đình, với bè bạn.
- Ồ, mà Thiếu tá đi không?
- Rất tiếc, không thể cùng đi với Tân-An được vì ngày này anh bận rộn lắm. Nhưng anh cũng có quà cho Tân-An đây.
Anh đứng lên, bước bên vách “bao cát” móc trong túi áo Jacket ra một phong bì và đưa cho tôi.
- Tân-An về thăm gia-đình, bạn bè vui vẻ, anh có tí tiền cho em tiêu pha và nấu còn thừa chút ít khi trở về nhớ ghé qua chỗ bán bánh khoái mua dùm cho anh bánh khoái và một thùng Bia hộp ở mé Thượng Tứ đó để mời các Đại-đội trưởng uống cho vui.
- Vâng nhớ rồi Thiếu tá.
Từ giã anh, tôi trở lại Đại-đội, dặn dò Trung-úy Hoà, Đại-đội phó coi việc nhà và lên đường.
Sau một ngày rong chơi trong mùa Phật-đản ở Huế đông vui, khi trở lại vùng hành-quân, trời đã về chiều muộn màng. Ở cuối chân trời còn còn chút nắng vàng sắp tắt. Tôi dừng xe bên cạnh BCH/Tiểu-đoàn, đi vào, tôi ngạc nhiên vì bây giờ ở BCH đã có thực đông người: Anh Phạm-Cang, Tiểu-đoàn Phó, anh Tuấn, anh Thắng, Trí, Giáo và luôn cả mấy người Đại-đội Phó. Bên trong hầm thuyết trình thấy hiện-diện cả Lữ-đoàn Trưởng LĐ 369, và mấy vị cố-vấn Mỹ, ai cũng trang phục đầy đủ.
Tôi vội hỏi anh Cang:
- Chi vậy niên-trưởng?
Anh cười, tay xoay xoay cái bản đồ:
- Sửa soạn Hành-quân đó Tân An.
Tôi nhớ sáng nay Thiếu tá Tiểu-đòan trưởng đã nói “chúng ta chỉ còn một ngày nghỉ hôm nay thôi”.
Trí, Thắng, Giáo vây quanh tôi hỏi:
- Đi chơi có vui không, có mua thùng bia về không Tân-An?
- Có, có đầy đủ hết. Nhưng sao có vẻ nghiêm-trọng quá vậy?
Trí kéo tôi ra ngoài, chỉ về phiá núi rừng Tây Nam:
- Đó, mày thấy không?
Tôi nhìn lên dẫy núi cao trước mặt, mịt mờ sương khói. Đã chiều rồi mà máy bay vẫn tiếp tục ném bom, trực thăng tiếp tục phóng hoả-tiễn trên những đỉnh núi cao. Chúng tôi nhìn vào những dẫy núi loang cháy, nhu những bức tường lửa. Tôi đo phương hướng và nhìn vào bản đồ, xác nhận điểm đứng, đúng đây rồi:
- Động Cù-Mông.
Trong bản đồ, Động Cù-Mông là một dẫy núi hình 3 nhánh. Đỉnh núi được những vòng cao độ xác nhận rộng rãi to lớn. Đỉnh núi cao hơn những dẫy núi chung quanh cả năm bẩy chục mét. Chung quanh động Cù-Mông là núi rừng chồng-chất, liên tục chạy dài hướng Bắc Nam, Đông Tây ngút ngàn không ngừng.
Tôi thầm nhủ: “Nếu đánh bom như vậy thì làm sao Việt cộng sống nổi trên đó!”.
Sáng nay khi tôi về thành phố thì kế-hoạch đánh bom vào nơi đó bắt đầu. Nhiều phi-vụ B52 rải thảm những trận mưa bom với nhiều loạt tiếng nổ kinh-thiên động địa hơn cả địa-chấn trong toàn bộ khu-vực Cù-Mông và chung quanh đó. Kế tiếp là những phi-tuần A37, F4 dội bom lửa, bom cắt cây (daisy cutters). Cuối cùng là những trực-thăng võ trang Cobra phóng hỏa tìễn vào vị-trí một cách chính xác qua sự hướng dẫn của những chiếc trực thăng quan sát nhỏ, hình cán gáo.
Chúng tôi trở vào phòng Hành-quân, Trung tá Lữ-Đoàn Trưởng chỉ vào tấm bản đồ được ghép lớn trên tường hầm:
- Đây là đỉnh Cù-Mông. Hơn một tuần trước, 1 Đại đội Công-Binh Mỹ được 1 Tiểu-đòan BB của Trung-đòan 1 yểm-trợ để thiết-lập Cù-Mông thành một căn cứ hỏa-lực. Sau khi bị một Trung-đoàn địch tấn-công, tràn ngập vị-trí, họ đã phải rút lui, để lại nhiều xác bạn.
- Tiểu-đòan 9/TQLC sẽ được trực-thăng vận vào động Cù-Mông ngày mai, giải toả áp-lực địch, tái chiếm Cù-Mông. Nhiệm vụ kế tiếp là lục soát, đem toàn bộ xác đơn vị bạn ra.
- Ngoài Pháo binh yểm-trợ hoả lực, còn có không-quân Hoa-kỳ và Việt-Nam.
- Trực thăng vận và các phương tiện yểm trợ khác sẵn sàng và đầy đủ.
Bây giờ thì chúng tôi đã hiểu ra nhiệm vụ của TĐ 9/TQLC và ước tính rằng có thể địch không còn tập trung đông-đảo ở khu-vực này nữa. Nhưng chắc chắn rằng những đơn vị nhỏ vẫn còn “Kiềng” tại nơi đây vì chúng biết thế nào bên ta cũng trở lại để lấy xác.
Sau vài câu hỏi của Thiếu-tá Tiểu-đoàn-trưởng, Trung-tá Lữ-đoàn trưởng cùng các cố-vấn Mỹ của LĐ bắt tay chúng tôi ra về. Bây giờ là phần họp chính-thức của TĐ 9/TQLC.
Thiếu tá TĐT bắt tay tôi và cười hỏi:
- Tân-An đi chơi có vui không?
- Vui lắm, tiếc là không có các anh. Tôi có mua bánh khoái và thùng bia về đó.
Ông vui vẻ cám ơn và nói với mọi người:
- Bây giờ chúng ta họp trước, xong công việc sẽ uống bia trò chuyện.
Vào cuộc họp, sau khi chúng tôi đã vẽ và ghi chép vị-trí các mục tiêu, điểm đứng, trục tiến quân một cách cẩn-thận lên bản đồ của mình và sẵn sàng nhận lệnh.
Ông Tiểu-Đoàn trưởng đứng lên:
- Các ông đã nghe Trung-tá Lữ-đoàn trưởng thuyết-trình, Tiểu-đoàn 9 chúng ta có nhiệm vụ tái chiếm Động Cù-Mông, đem xác chết của Công-binh Mỹ và bạn ra cùng giải toả áp-lực địch cho Trung-đoàn 1/BB của Trung-tá Thọ, em ruột của Trung-tá Phúc TĐT/TĐ2/TQLC. Đại đội 2 của Thắng mấy hôm trước đây đóng chung với BCH/TĐ, đáng lẽ ngày mai sẽ nhẩy xuống động Cù-Mông trước tiên. Nhưng tôi nghĩ với tình hình hiện tại cần một đơn vị xoay trở nhanh nhẹn để cận chiến và xử-dụng lựu đạn, tôi nghĩ sẽ để cho Đại đội 3 hay Đại đội 4 thì tốt hơn. Còn Đại đội 1 và 2 tiếp-ứng. Cam-Ranh và các anh nghĩ thế nào?
Trung úy Giáo vừa mới giữ chức vụ Đại-đội trưởng, cần được hoà-hoãn. Tôi và Trí nhìn nhau, tuy không nói ra, nhưng chúng tôi cũng hiểu và dễ dàng chấp-nhận.
- Vâng Đại-đội tôi sẽ nhẩy vào đó trước, Thiếu tá yên tâm.
- Cám ơn, Cam-Ranh sẽ nhẩy với Đại-đội 3 xuống Động Cù-Mông, mục-tiêu A. Nếu được, Đại đội 4 sẽ nhẩy tiếp xuống đó, còn nếu trở-ngại vì hỏa-lực địch quá mạnh thì ĐĐ4 sẽ nhẩy xuống mục-tiêu C. Riêng BCH/TĐ và hai Đại đội 1 và 2 sẽ nhẩy xuống mục-tiêu B, cùng tiến quân tiếp-trợ Đại-đội 3. Xuống đó ráng bám lấy mục-tiêu, chúng ta sẽ được cận-yểm bằng trực-thăng võ-trang. Tất cả mọi trang bị cần-thiết đã được thực hiện đầy đủ hôm nay rồi. Tân-An kiểm soát lại, nhất là phần lựu đạn. Còn các Đại-đội khác có ý-kiến gì cho biết.
Các Đại-đội trưởng viết, vẽ, tính toán và ý-kiến với TĐT, TĐP và Trưởng ban 3 Hành-quân chừng nửa giờ. Còn tôi biểu Hoà gọi Trung sĩ nhất thường vụ đại-đội lên nhận thêm lựu đạn và đạn M79 phóng lựu.
- Anh Cang, tôi cần thêm lựu đạn và M79.
- OK, có ngay.
Anh Cang ra lệnh cho Ban 4 Hành quân thi-hành nhiệm vụ.
o0o
8 Giờ sáng ngày 10 tháng 5, 1971.
Hai Đại đội 3 và 4 đã sẵn sàng, xếp hàng ngồi chờ trực-thăng tại bãi bốc (chỉ cách BCH/TĐ chừng hơn 100 mét). Đây là một bãi đáp được thiết lập bằng những tấm vỉ sắt trải dọc theo chân núi, tương đối an-toàn rộng rãi. Thứ tự tại bãi bốc quân: Trung đội 2, 1, BCH/ĐĐ, Trung-đội 4 và cuối cùng là Trung đội 3. Tiếp theo Đại đội 3 là Đại-đội 4 xếp hàng và sẵn sàng. Tôi gọi các Trung đội trưởng lại dặn dò trước khi lên trực thăng.
- Thiếu-uý Đặng-ngọc-Minh, Trung đội 2 nhẩy xuống động Cù-Mông trước nhất. Khi vừa chạm đất, cho tất cả anh em nhanh chóng tiến chiếm và tràn ra bên ngoài lập tuyến phòng ngự về phiá Tây, Tây Nam. Trung uý Đại-đội phó nhẩy theo Trung đội 2 với một toán Công Binh Mỹ do Trung-úy Peter hướng-dẫn cùng phụ giúp gọi trực-thăng yểm-trợ khi cần.
- Trung-đội 1, Chuẩn-úy Sang hãy nhớ động Cù-Mông gồm 3 nhánh, Trung-đội anh đánh qua phiá Đông, càng xa càng tốt. Trung-uý Hoà nhớ đây là một vị trí đóng quân cũ, nên có nhiều hầm hố. Nên sơ khởi cố lập được phòng tuyến để chiến-đấu. Anh cùng Peter chiếm một vị trí tốt để quan-sát, điều-động và gọi trực-thăng yểm-trợ.
- Trung đội 4 và Trung đội 3 cùng xuống với Đại-đội, bố-trí về phiá Bắc và Trung đội 3 về phía Nam.
- Nếu vì lý do gì, chúng ta không xuống được Động Cù-Mông thì chúng ta sẽ xuống mục-tiêu C cùng với Đại-đội 4 tiến chiếm mục tiêu.
- Ngồi trên máy bay, liên-lạc trực-tiếp vói Pilot hướng dẫn họ đổ vào mục-tiêu của chúng ta.
- Chúng tôi vui vẻ chia nhau mấy điếu thuốc, chuyện trò chờ trực-thăng.
Trên không-phận vùng hành-quân, các phi-vụ trực-thăng võ-trang đang bay lượn và bắn phá bằng hỏa-tiễn và đại-liên. Nhưng dưới đất vẫn bắn lên xối xả, từng loạt đạn lửa bay bổng lên cao, chứng tỏ trên mục tiêu và chung quanh đang có sự hiện-diện của địch, rõ ràng là không an-toàn trên mục tiêu.
Bấy giờ là 8:45, giữa khoảng trời rực sáng ở phương Đông đã xuât-hiện những cánh chim sắt. Những chấm đen càng ngày càng rõ hơn, đoàn trực-thăng đang trên đường nhắm thẳng về phiá chúng tôi rồi dần dần nhanh chóng gọn gàng đáp trên mặt phi-trường dã-chiến và một toán Công-binh Mỹ gồm 4 người đã đến với chúng tôi và leo lên chiếc trực thăng thứ sáu có thầy trò của Hoà.
Tôi và anh Cang bắt tay nhau cười vui vẻ và chuẩn bị lên trực-thăng.
Trung-đội 2, đại-đội phó Hoà và toán CB Mỹ lên chiếc trực-thăng thứ sáu. Trung-đội 1 lên 5 chiếc kế tiếp và tôi lên chiếc thứ 13. Cam Ranh cùng trung-đội 4, trung-đội 3 lên những chiếc kế tiếp, tổng-cộng 24 chiếc. Những chiếc chong chóng quay mạnh hơn. Đoàn trực-thăng nhanh-nhẹn bốc cao khỏi mặt đất, sau vài cái chao đảo, đoàn chim sắt bốc nhanh và nhắm hướng mục-tiêu lao tới.
- Tân-An đây Cam-Ranh.
- Tân-An nghe thẩm-quyền.
- Tân-An thấy mục tiêu không?
- Dễ thấy lắm, đỉnh Cù-Mông tương-đối lớn, nếu không có gì trở ngại, chúng ta sẽ xuống đó từng hai chiếc một.
- Đúng rồi, cẩn-thận, chúng bắn lên đó.
Trong chiếc loa của máy truyền-tin, tôi nghe Cam-Ranh gọi Trùng-Dương (Đại-đội 4)
- Trùng-Dương chuẩn-bị, đoàn trực-thăng sẽ quay trở lại ngay.
- Đáp nhận Cam-Ranh.
Đoàn trực-thăng đầu đã vù vù lượn sát trên mục-tiêu. Đạn địch từ dưới đất tác-xạ liên tục lên máy bay. Những tiếng cọc cọc của trực thăng trúng đạn địch, đồng thời các xạ-thủ đại-liên từ trên trực-thăng rót xuống mục tiêu, tạo nên những đường rạch trên mặt đất như tia lửa.
- Tầm-Dương, Tầm-Dương (danh-hiệu của Tân-An) đây Đúc-Hòa.
- Tầm-Dương nghe.
- Hoả lực của địch bắn lên quá chừng, nhưng chúng tôi vẫn cho nhào xuống, báo cáo Tầm-Dương.
- OK.
Các xạ-thủ đại-liên trên trực-thăng làm việc rất hiệu-quả với khỏang cách không xa và độ nghiêng thuận lợi của máy bay, những loạt đạn liên-tục cày vô số đường gạch trên mặt và cây cối trên đỉnh núi. Từ khoảng cách chừng 50 mét, tôi nhìn thấy sáu bẩy chiếc trực-thăng đã nhào xuống sát mặt đất. Đoàn Cọp-biển tiền-phong không hổ danh là những con Mãnh-hổ, không cần đợi cho trực-thăng đáp hẳn xuống, đã nhẩy xuống mục-tiêu và nhanh chóng bung rộng ra tiến chiêm vào các dãy đá chồng-chất, những hầm hố và giao-thông hào xụp nát chung quanh. Tiếng súng nhỏ, đại-liên, phóng lựu M79 và lựu đạn đã ầm ĩ vun vút phóng về phiá trước, một bức màn hỏa-lực dầy đặc, áp-đảo địch quân. Khởi dầu cho cuộc tấn-công tái-chiếm động Cù-Mông của Tiểu-đoàn 9/TQLC, 7 chiếc trực-thăng đầu tiên đã đổ toàn bộ Trung-đội 2, Đại-đội Phó, toán Công-Binh Mỹ và hơn một Tiểu-đội của Chuẩn-úy Sang xuống mục-tiêu.
- Đức-Hòa đây Tầm-Dương.
- Nghe thẩm-quyền.
- Hình như Đức-Hòa và toán CB nằm trong cái hố bom phải không?
- Đúng Năm, chúng bắn rát lắm nhưng thẩm-quyền yên-tâm.
Tôi chỉ xuống đỉnh Động và ra hiệu cho Pilot nhào xuống. Anh gật đầu, kéo cần lái. Nhưng khi khỏang cách còn chừng 20 mét, người Co Pilot đã bị một loạt đạn từ dưới đất bắn lên trúng vào vai và tay phải, người xạ-thủ đại-liên cũng bị trúng đạn ở vế và tay. …Lạch cạch, lạch cạch, chiếc trực thăng bị trúng quá nhiều đạn, lao chao và gầm gừ giận dữ, ngóc đầu lên và phóng thẳng lên cao.
Trong trận chiến, sống chết với tôi chẳng có gì phải quá bận tâm, nhưng tình-hình trước mặt trong phút chốc sinh-tử đó, lòng tôi bỗng đau đớn vô cùng, vì đoàn quân ở dưới đất kia, kể từ giờ phút này không còn được Đại-đội điều-động và tiếp-trợ nữa. Họ sẽ phải tự chiến-đấu, và tự bảo-toàn sinh-mạng. Còn tôi, tôi cũng không biết ra sao vào những giờ phút tới.
Sau một hồi lảo-đảo, chiếc trực thăng mang nặng thương-tích đã lấy lại được thăng-bằng, rời khỏi mục-tiêu với đoàn trực-thăng còn lại. Pilot ra dấu không thể đổ quân xuống được. Tôi gật đầu và chỉ vào chữ B trên bản-đồ. Anh hiểu và nhắm mục-tiêu B, dẫn theo đoàn trực-thăng còn lại, đổ quân xuống với Đại-đội 1.
- Tân-An đây Cam-Ranh.
- Tân-An nghe Cam-Ranh.
- Máy bay tôi trúng đạn rồi, nhiều lắm, không thể xuống được, có lẽ bay về Phú-Bài.
- Đáp nhận anh Hai. Tôi đã nhẩy xuống mục-tiêu B. Đức-Hòa đây Tầm-Dương.
- Đức-Hòa nghe thẩm-quyền.
- Tình-hình thế nào?
- Thẩm-quyền yên tâm, tôi sẽ cho con cái tiến chiếm, nới rộng vòng vây. Có mấy chiếc Logs yểm-trợ hữu-hiệu, chính xác, VC không ăn được đâu.
- Tôi đã xuống các anh gần cây số và sẽ tiến nhanh về phiá Đông và Đông Bắc của anh, hãy yên tâm.
- Đáp nhận thẩm-quyền.
Tôi kiểm-soát và chấn-chỉnh lại đội-hình, chuẩn-bị lên đường.
- Tân-An, Tân-An đây Cam-Ranh
- Nghe anh Hai.
- Tôi đã đổi Trực-thăng và trên đường tới với Tân-An tại Bravo.
- Đáp nhận anh Hai.
Chùng hai mươi phút sau, Cam-Ranh đã xuống mục-tiêu B. Chúng tôi thảo-luận chừng mười phút, chia phần còn lại của Đại-đội làm hai cánh. Trung đội 3 do Tiểu-đoàn Phó Cam-Ranh hướng-dẫn, Trung-đội 1 còn lại với trung-đội 4 do tôi chỉ-huy, song song tiến về mục-tiêu.
- Đalat đây Tân-An.
- Đalat nghe Tân-An.
- Trình Đại-Bàng, Trung-đội 2 và nửa Trung đội 1 đã xuống mục-tiêu, có Đức-Hòa và toán CB Mỹ, đang bung ra các hầm hố chung quanh, địch phản-công dữ-dội, cố đánh bật Trung-đội 2 ra khỏi đỉnh đồi.
- OK. Cho Đức-Hòa vào tần-số này, tôi sẽ trực-tiếp điều-động và yểm-trợ để Tân-An có thì giờ điều-động Đại-đội.
- Đáp nhận, cám ơn Đalat.
Thời giờ qua thật nhanh, mới đó mà đã ba giờ chiều. Trong giờ phút hiểm-nguy và cấp-bách này, tôi và Cam-Ranh đã tìm ra giải-pháp để làm thế nào có thể nhanh chóng tiến tới mục-tiêu: Bằng cách bỏ bớt những thứ không quá cần-thiết lại cho Đại-đội 1, để tiện leo trèo vựt núi vì lộ-trình di-chuyển quá khó khăn vì vách đá và dây rừng chằng chịt. Hướng trước mặt, tiếng bom đạn ầm ĩ cùng tiếng cánh quạt cụa trực-thăng gào thét trên cao, lòng chúng tôi nóng như lửa đỏ.
- Tân-An đây Cam-Ranh.
- Tân-An nghe anh Hai.
- Có trở-ngại không, cố-gắng nghe.
- Đáp-nhận.
- Tầm-Dương đây Đức-Hoà.
- Tình-hình tốt hơn. Chúng ta vững vàng trên những vị-trí đã chiếm được.
- Trình anh Tư là Trung-sĩ Bền cùng vài anh em đã Q6 (tử-trận)
- Sao vậy?
- Bền thúc Tiểu đội tấn-công về phiá Đông, nhưng khi di-chuyển tới gần giữa đỉnh, Bền trúng đạn ở đầu. Phần còn lại do Hạ-sĩ Tiểu-đội Phó tiếp-tục, không sao. Tôi đang cho Tiểu-đội 2 của Trung-đội 1 trám vào tuyến của Bền.
- Đáp nhận, cẩn-thận.
- Thẩm-quyền đừng lo, ở đây có Trung-úy Peter gọi Log và Cobra yểm trợ, đánh tan các đợt xung-phong của chúng. Những chiếc Logs vừa thả lựu đạn vừa bắn đại-liên chính-xác chừng năm, mười mét trước mặt con cái mình thôi.
- Nói với Peter, tôi cám ơn. Bình-tĩnh giữ phòng tuyến, tôi và Cam-Ranh sẽ tới ngay.
Tôi báo cáo cho Cam-Ranh tình-trạng trên đỉnh đồi. Đường đi càng ngày càng cách-trở và nguy-hiểm, dễ té nhào xuống vực sâu, có chỗ phải bám sát vách đá leo qua, sơ hở là toi mạng. Đoàn quân càng ngày càng nhẹ nhàng hơn về trang-bị vì các Tiểu-đội Trưởng đã cho bỏ bớt lại và gom vào các gộp đá, từng nơi một để leo trèo nhanh-nhẹn hơn trong giờ phút cấ-bách, nguy-hiểm này. Đường núi tuy khó khăn, nhưng hai cánh quân vẫn tiến theo đúng phương-hướng. Nhìn vào đồng hồ, bấy giờ là 6 giờ kém 10 phút. Rừng núi sớm về chiều, màn đêm sắp phủ xuống. Chúng tôi đã nhìn thấy những đốm lửa cháy nửa chừng trên thân cây. Khói lửa, khói súng khó thở và cả mùi thuốc của bom nổ, bom cháy và cuối cùng chúng tôi đã đến sườn núi cách mục-tiêu chừng hơn 100 mét. Trong bóng đêm, những đốm lửa chập chờn và lại mờ sau màn khói, tôi và anh Cang đã gặp nhau sau một gộp đá lớn.
- Cam-Ranh, ta tới nơi rồi.
- OK, cẩn-thận, hạn-chế tiếng động. Tân-An bên trái, tôi bên phải, bò lên và yểm-trợ cho nhau, liên-lạc với Hoà, chuyển hướng tác xạ, khi gần đến, cùng xung-phong đột-kích.
- Hiểu rồi Cam-Ranh.
Cam-Ranh quay lại bốc máy dặn dò Đại-đội 1 tiếp tục di-chuyển lên sẵn sàng tiếp-ứng.
- Đalat đây Cam-Ranh.
- Đalat nghe.
- Tôi và Tân-An đã tới gần mục-tiêu hướng Đông và Đông-Bắc, chuẩn-bị tấn-công. Trên đỉnh núi vẫn còn giao-tranh dữ-dội, nhưng Tân-An cho biết cánh quân nằm trên đỉnh vẫn được những chiếc Logs yểm-trợ và vẫn chống trả vững vàng.
- OK, Cam-Ranh và Tân-An cẩn-thận.
(Đây là lần đầu tiên trực-thăng “Cán gáo” thay nhau yểm-trợ trễ như vậy. Nhờ loại trực-thăng này mà con cái vững tâm trên phòng tuyến.)
Anh nhẹ nhàng giao ống liên-hợp cho người truyền-tin và thở ra.
- Anh Cang, tôi nghĩ chúng ta cần tác-chiến bằng lựu-đạn, một ít súng thôi vì ban đêm nguy-hiểm vì không chính xác phương-hướng. Niên-trưởng yểm trợ bên phải dùm nghe.
- Tân-An yên tâm.
Dàn quân, soát xét lần nữa, dặn dò toán quân xung-kích. Như vậy là Cam-Ranh có 3 Tiểu-đội thuộc Trung đội 3, do Lam chỉ-huy và 1 Tiểu-đội vũ-khí nặng yểm-trợ tại chỗ, dùng hoả-lực không cho địch quân ngóc đầu lên phản-công. Còn tôi và Trung-đội của Chuẩn-úy Sang, xung kích bên trái và Trung đội 4 của Chuẩn-úy Nam bò lên bên trái sườn núi, chận hướng rút lui của địch. Kế-hoạch xong xuôi, tôi vỗ nhẹ Cam-Ranh và gật đầu. Chúng tôi cố gắng bò lên đỉnh núi, những tảng đá lớn nhỏ chồng chất trước mặt làm việc tiến quân khó khăn hơn, nhưng cũng nhờ vậy mà có được sự che chở an-toàn.
- Tầm-Dương đây Nam-Giang.
- Nghe Nam-Giang.
- Trình thẩm-quyền phiá tôi không còn đá lớn nữa, thế đất xuôi xuống, tôi đã trên đường đỉnh rồi.
- Đúng rồi, đó là đường đỉnh, trước mặt anh là vực thẳm, địch không thể nhào xuống đó, và sẽ tràn qua phía anh. Hãy cho con cái bố-trí chờ. Đừng gọi tôi nữa.
- Nhận anh Tư “Năm”
Chúng tôi đã lên đến gộp đá sau cùng, tôi đưa tay ra hiệu cho người lính bên cạnh dừng lại, và tất cả dừng lại chuẩn-bị phút đột-kích quyết-liệt. Trong khi đó cuộc giao tranh của Trung-đội 2 và địch quân vẫn còn tiếp-diễn. Sau khi đã cùng các Tiểu-đội phóng về trước hàng mấy chục quả lựu đạn, Tôi đứng thẳng người lên và la lớn “Xung-phong”, hàng loạt tiếng la xung-phong tiếp theo, cùng những tiếng nổ long trời của lựu đạn, vang động cả khu rừng. Tại mục-tiêu về phiá Tây, Tây-Bắc và Tây Nam, Hoà cho hoả-lực đổi hướng. Trong đêm tối, tiếng đạn bay, lựu đạn nổ và tiếng gào thét reo hò xung-phong của hai cánh quân Tân-An và Cam-Ranh vang dội. Trong phút chốc Ðộng Cù-Mông được soi sáng như ban ngày bởi trái sáng Pháo-binh và máy bay.
Chúng tôi không còn cảm-giác sợ trúng đạn, gục ngã, mà tất cả chỉ còn một thứ cảm-giác nóng bỏng, to lớn nhất, mạnh-mẽ nhất bằng toàn-bộ ý-chí cùng sự can-đảm của con người là Chiến-đấu và chiến-thắng. Tiêu diệt địch quân, để giữ an-toàn cho sự sống còn của đồng-đội đang bị cầm vây trên đỉnh núi đầy máu lửa này. Không nương tay, không chùng bước, phải tiến lên và phải chiến thắng vì sự sống còn của chúng ta.
Tiếng gào thét, tiếng súng đạn, lựu đạn, ông phóng lựu M79, tất cả đổ nhào về phiá trước. Chỉ trong vòng 30 phút sau, hai cánh quân đã tràn lên và toả khắp trên những dãy hầm hố phía Đông và Đông Bắc của Ðỉnh Cù-Mông với một kiểu xung-kích độc-đáo trong chiến-trận của TĐ 9/TQLC mang tên Mãnh-Hổ. Cũng từ giây phút đó, những tiếng súng vang dội lại từ hướng Đông của đỉnh núi. Thì ra đúng như dự-trù, thành-phần sống sót còn lại của địch “chém vè” về phiá Đông và Đông Nam đã bị toán quân phục-kích của Nam-Giang hốt trọn.
Sau gần một giờ giao-tranh, Đại-đội 3 /TĐ 9/TQLC đã làm chủ mục tiêu. Sự yên-lặng được trả lại cho núi rừng, ngoài những tiếng nổ lach tách của cây cối cháy dở.
- Nam-Giang đây Tầm-Dương.
- Nam-Giang nghe thẩm-quyền.
- Để lại một Tiểu-đội nằm tiền-đồn, và đem con cái vào phòng thủ tuyến, bên phải là Sa-Giang, bên trái là Lam-Giang.
- Đáp nhận thẩm-quyền.
Cam-Ranh ngồi dựa cạnh tảng đá lớn, trong đêm tối, chỉ còn những đốm lửa trên cây, tôi mời anh điếu thuốc.
- Anh Hai, chúng ta chúc mừng nhau và anh Hai báo cáo về Dalat dùm tất cả mọi chuyện. Tôi sẽ cho đem tất cả anh em bị thương về đây săn sóc rồi qua nhánh phiá Tây gặp Hoà, gặp Minh và thăm mấy thằng em đã chết sáng nay. Khi bố-trí xong xuôi, tôi sẽ báo cáo anh Hai nghe.
- Tân-An yên-tâm.
Một khoảng cách không đầy trăm mét, nhưng vô vàn khiếp-đảm. Mùi hoá chất của những quả bom làm cho yết hầu sặc sụa, mắt mũi cay sè. Song không sao, tất cả sẽ dễ dàng qua thôi bởi vì chúng ta vừa chiến-thắng địch quân. Xác chết lăn lóc ngập đầy trong đêm tối của hôm nay và những xác không còn nguyên vẹn của bạn và địch trong những hôm trước. Mùi hôi hám của tử-thi, quện với mùi khói lửa, tạo thành một thứ mùi tử khí đặc-biệt của trận chiến trên đỉnh Cù-Mông.
Tôi bắt tay người bạn Công-Binh Hoa-Kỳ. Trong đêm tối, anh ôm tôi và cảm ơn rối-rít. Tôi ôm lại và vỗ vào lưng anh:
- Oh No, Thank you. You and me and everyone make this victory.
Tôi vòng tay, ôm Hoà, ôm Minh. Chúng tôi mừng rỡ sung-sướng như anh em ruột thịt đã tìm thấy nhau sau bao ngày lưu-lạc hiểm-nguy. Đời sống con người, rồi chiến-trường, rồi trận-địa hiểm-nguy, rồi niềm vui về gia-đình thân-yêu, rồi bè bạn … Tôi bước lại, cúi xuống, ôm lấy chiếc Poncho trong đó ủ bọc thân xác của người Trung-sĩ thuộc cấp, Nguyễn văn Bền, một con người hiền-lành dễ thương. Tôi cũng nắm những chiếc Poncho kế tiếp như để bắt tay từ giã:
- Các em yên tâm trong giấc ngủ dài, tôi sẽ chu-toàn phần xác còn lại của các em về với gia-đình.
Sáng hôm sau, BCH/Tiểu-đoàn và các Đại-đội 4, 2 và 1 tiếp tục tiến quân về Cù-Mông để bố-trí và chu-toàn nhiệm vụ của Lữ-đoàn giao-phó. Trực-thăng đáp xuống, mang theo những chiếc túi đặc-biệt bằng nhựa (body bags) để đựng xác của những người lính Công-Binh Hoa-Kỳ. Mỗi Trung-đội trưởng tự đích thân vác những chiếc Poncho, trong đó gói thân xác thuộc cấp của mình. Còn tôi, ngồi xuống thấp để hai binh-sĩ đỡ chiếc Poncho gói Trung-sĩ Bền lên vai, người Hạ-sĩ quan đã cùng chúng tôi về thành-lập TĐ 9/TQLC từ ngày đầu.
Sau khi chiếc Poncho nằm vững trên vai, tôi bước từng bước về phiá bãi đáp để nhờ trực-thăng chuyển anh cùng bạn hữu về với gia-đình. Họ là những người con đã làm tròn bổn-phận với quê-hương đất nước. Anh và đồng-đội cùng những người bạn Mỹ, chiến-đấu cho tự-do, đã gục ngã trên đỉnh núi này, mang địa danh chiến sử: Động Cù-Mông.
Tầm-Dương Đoàn-văn-Tịnh
(MD ngày 20-9-2002)

( Sinh Tồn chuyển )

T.Post

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm