Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:-
Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rõ mồn một, đích thân.-
Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với
giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác
xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang
vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy
Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển xạ về hướng
Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
– Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn
bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm
phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa
lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
– Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
– Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi
yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn
đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore
(Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (tiểu đoàn trưởng) bảo Quý:
– Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Sau nầy mới
biết là Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút,
còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và hy sinh anh dũng trên mục tiêu D.
Đáng phục thay một binh sĩ can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và
làm tròn bổn phận núi sông.
Các binh sĩ thuộc hai trung đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã
gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Địch
định lấy thịt đè người. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng
cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước
khi gần hết đạn, Quang có gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ
chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc
Việt (CSBV) một phen vì ta và địch lẫn lộn, không còn cách chọn lựa nào
khác.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Nhờ vậy
các binh sĩ Ðại Ðội 11 được giải tỏa, xác địch và ta nằm ngổn ngang trên
đỉnh đồi 1062.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục
tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Ðại Ðội 14
tổn thất mỗi ngày mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử
dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm. Bản đồ ghi rõ đỉnh 1062,
nhưng D1 và D2 ở phía Bắc và Đông Bắc trong thực tế còn cao hơn 1062. Vì
thế Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới “gõ” vào 1062 được, nhưng với độ
chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Ðại Ðội 11 về
Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như
trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước,
Ðại Ðội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng
cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh
một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81 ly tối đa tối đa,
Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần
thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062.
Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa
bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của
địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và sợ nhất là đạn
súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương.
Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại
một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu
nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Quang bị
cháy thành than như đã nói ở phần trên.
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh. Ba mươi
bảy (37) bị thương trong đó có Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An (sĩ
quan Khóa 26 Đà Lạt).
Trong khi đó bên Ðại Ðội 14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong
hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại Ðội 11, nhưng mọi dự tính
không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội
11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa
giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ (sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt) và Ðại Ðội
15 của Đại Úy Lộc (sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt) đi với Thiếu Tá Ngô Tùng
Châu vẫn lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị
thương do pháo kích, Trung Úy Khánh (truyền tin) ra thay cũng bị tử
thương. Vài hôm sau, Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1
Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Bước tiến quân của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù trong giai đoạn đầu đến sát
chân đồi 1062, bảo vệ sườn phải cho Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù. Sau đó Thiếu Tá
Phú “đen” đến thay thế làm tiểu đoàn phó, Thiếu Tá Quý về đơn vị cũ làm
tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù.
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù từ Quảng Trị về nghỉ dưỡng quân và tái trang bị
được 2 tuần thì có lệnh đi hành quân trở lại, vùng hành quân là Thường
Đức. Đúng 6 giờ sáng, tại trại Trần Quy Mại, đơn vị được trang bị đầy đủ
cấp số đạn dược, quân trang, quân dụng, lương thực. Những người lính
lên xe GMC ra phi trường Tân Sơn Nhất. Năm chiếc vận-tải cơ C-130 chở
quân đáp xuống phi trường Đà Nẳng độ 12 giờ trưa, và đoàn xe vận tải GMC
chở họ đến quận Đại Lộc.
Trong khi binh sĩ lo nghỉ ngơi, nấu nướng, thì các sĩ quan từ đại đội
trưởng trở lên vào họp khẩn cấp về cuộc hành quân giải tỏa quận Thường
Đức. Sau khi mọi người đứng dậy chào vị chủ tọa là Tướng Lê Quang Lưỡng,
các sĩ quan Phòng 2, Phòng 3, và Phòng 4 thuyết trình chi tiết về cuộc
hành quân.
Tướng Lê Quang Lưỡng trực tiếp ra lệnh các đơn vị:
– Các anh phải chiếm các cao điểm và đánh bật địch ra khỏi khu vực
nầy. Muốn như vậy các anh phải đánh địch từ đàng sau lưng, hoặc bọc
ngang hông để cắt đứt đường tiếp tế và viện binh.
Ông vừa nói vừa chỉ lên bản đồ hành quân và tấm bảng đen chỉ rõ rành
mạch. Đây là lần đầu tiên các sĩ quan cấp nhỏ được nghe lệnh trực tiếp
từ vị tư lệnh sư đoàn, mọi người đều hiểu rằng cuộc hành quân nầy thật
quan trọng và đầy cam go.
Sau thời gian họp khoảng 45 phút, các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 tiếp tục
lên xe chạy tới điểm xuất phát cách làng Hà Nha độ 1 cây số về hướng
Đông. Lúc đó vào khoảng 5 giờ 30 chiều cùng ngày, Ðại Ðội 83 của Đại Úy
Phạm Văn Hiệu, sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt, được lệnh đánh chiếm Hà Nha. Ðại
Ðội 84 của Đại Úy Đồng Văn Minh, sĩ quan Khóa 26 Thủ Ðức đi cánh phải
chiếm ngọn đồi nhỏ ở phía Bắc Hà Nha.
Hiệu cho lệnh Trung Đội 1 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (tự Tiến Trâu)
dẫn đầu, cho tổ khinh binh dọc theo bờ sông di chuyển theo đội hình
chân vẹt yểm trợ cho nhau tiến vào làng. Trung Đội 2 của Thiếu Úy Nguyễn
Văn Thành đi cánh phải kẹp theo Tỉnh Lộ 4 tới dàn quân tại gò mả, sẵn
sàng yểm trợ Trung Đội 1.
Trung Đội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức và Trung Đội 4 của Chuẩn úy Thạch
Huôn làm thành phần trừ bị. Lúc mới xuống xe, Hiệu gặp một tiểu đoàn
thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa từ Thường Đức đi ra, trong đó có một đại đội
trưởng là Trung Úy Nguyễn Văn Nghĩa, sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt. Hai bạn
cùng Trường Mẹ gặp nhau mừng mừng lo lo, Nghĩa bảo Hiệu:
– Niên Trưởng phải cẩn thận, địch đông lắm, chúng đang bám sát tụi tôi, chúc “chiến thắng.”
Trước khi vào mục tiêu, Hiệu nghe máy gọi:
– Đa Hiệu đây 808 (danh hiệu của Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Vân), trả lời.
– Đa Hiệu (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Phạn Văn Hiệu) tôi nghe đích thân.
– Lệnh trên bảo anh phải thanh toán mục tiêu ngay bây giờ, anh là “cử
nhân binh bị” (Võ Bị 4 năm tương đương bằng cử nhân) không thể chậm trễ
đừng làm mất mặt nghe.
Khi Trung đội 1 vào gần tới bờ làng thì quân Bắc Việt đồng loạt khai
hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 vừa bắn vừa hô xung
phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến
nhảy vào chiếm được bờ làng, Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Tiến dẫn
toàn bộ trung đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha.
Hiệu cho bố trí và làm hầm hố phòng địch phản công. Kết quả tịch thu vài
súng cá nhân vì quân số địch cỡ một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả
yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công.
Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên
kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch
thật là chính xác, một xe GMC của Sư Đoàn 3 Bộ Binh chạy lộn chiều ngang
qua Ðại Ðội 83, lập tức bị bắn cháy, tài xế may mắn chạy khỏi vô sự.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn chiếu
sáng, đặt lính gác giặc, Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan
tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi
nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông
trông thấy, nên bảo dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe
“đùng” một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly
không giật. Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy
của Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên
kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà
Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người
vào Đại đội 83.
Nhờ có hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh
liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi
bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy Tiến và Thành ra lệnh bấm mìn
claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân
AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân Bắc Việt cứ nhào tới
định lấy thịt đè người tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành
thật can đảm, hai anh ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự.
Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời 2 người hùng của Ðại Ðội
83.
Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức qua trám lỗ hổng,
nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn
và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì
địch rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số ít tù binh.
Cũng nên nhắc lại rằng làng Hà Nha 1 và 2 là những làng rất nghèo
nàn, có khoảng 20 căn nhà (nói là nhà nhưng thật ra đó chỉ là những túp
lều tranh nhỏ bé), địa thế trống trải, nên xạ trường quan sát của địch
rất tốt, Cộng quân bắn trực xạ bằng đại bác thật chính xác. Chính sĩ
quan và một số binh sĩ ta đã bị tổn thất vì loại súng trực xạ này.
Ở làng Hà Nha khoảng 4 ngày, Ðại Ðội 83 được bổ sung hai sĩ quan và
một số binh sĩ mới (trong đó có Thiếu Úy Tiến, Hại Sĩ Hải, và Binh Nhất
Châu Văn Lê) để chuẩn bị làm nỗ lực chính tấn chiếm đỉnh 1062 sắp kể sau
đây:
Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu
Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Đại Úy Hùng vừa đi học khóa
Đại Đội Trưởng ra tăng cường hành quân. Hùng xuất thân từ gốc Thiếu Sinh
Quân, anh rất gan dạ đã sát cánh cùng các Đại Úy Minh, Hiệu, và Trung
Úy Nam từng lập nhiều chiến tích ở các cuộc hành quân Hạ Lào, Cam Bốt,
và An Lộc.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, sĩ quan Khóa 13 Thủ Ðức,
cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải
phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng
Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82, xuất phát từ
chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu
là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiên 70 độ) đồng
loạt tiến về mục tiêu là đỉnh đồi 1062. Đứng trên 1062, ta thấy có 5
đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng
về Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng
giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn
công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062
quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải
qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như
sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán, sĩ quan Khóa 18 Ðà Lạt,
chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu
Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C
băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của
Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch
chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy,
vì sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh
đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Ðại
Ðội 82 của Trung Úy Hùng “ốm” làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc
hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch
đang đang phân tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và
Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo
lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất
cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân
xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm
thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt
địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 83,
và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ
trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa
quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng
nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đã
rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội
81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy
Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa.
Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ
hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, sĩ quan Khóa 26 Ðà
Lạt, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng bị thương.
Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (từ Đại đội 84 chuyển qua bổ sung cho Tiến
“trâu” và Thành vừa hy sinh ở làng Hà Nha) dẫn Trung Ðội 3 của Hiệu đi
bọc phía sau định leo lên mục tiêu D. Bỗng nghe bịt, bịt, bịt, ba trái
lựu đạn từ trên đỉnh 1062 ném xuống mà tịt ngòi không nổ. Nhưng quả thứ
tư trúng ngay Tiến, làm thân hình anh bị tung lên như quả bóng. May nhờ
áo giáp nên chỉ bị thương nặng và được binh sĩ kéo về phía sau và phải
di tản.
“Cái giá” để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao
nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm
tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, thảm nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá
Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.
Để biết rõ chi tiết trận chiến, chúng ta hãy theo một đơn vị cấp đại đội (Ðại Ðội 83) làm cách nào để đánh chiếm đồi 1062:
Hiệu dẫn đại đội xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:
– Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và
địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng mỗi lần hàng
chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ
bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh trái), Ðại Ðội
84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống
làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao
hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế
quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Ngày N+4 (sau 4 ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù), vì không thể theo
đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ý,
Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi
Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062
khoảng 50 thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên
đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống
thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên
sườn núi che chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ
khiến địch phải phân tán mỏng để phòng thủ.
Tiểu Ðoàn 3 ND do Trung Tá Võ Thanh Đồng (tiểu đoàn trưởng) và Thiếu
Tá Trương Văn Vân (tiểu đoàn phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa ở
đồi 1062 khoảng một ngày thì Tiểu Ðoàn 3 ND bị địch trở lại phản công
ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo
hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi.
Chiều hôm đó, một buổi chiều nắng vàng và gió lộng, không còn tiếng
nổ trong trận địa, những mỏm núi bốc lên những sợi khói nhỏ, nóng không
phải vì hơi oi bức của mặt trời mà là âm ỉ của hơi thuốc súng chưa kịp
tan.
– “Thiếu Tá.” Binh sĩ truyền tin của Trương Văn Vân nói. “Đại Úy Đàng gọi.”
– Trình đích thân, từ sáng giờ yên tĩnh nhưng binh sĩ tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi.
Vân nói:
– Anh cho các con gài mìn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế phòng địch tấn công bất ngờ.
– Nhận rõ, đích thân.
Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của đại đội Đàng. Trong nắng chiều,
Vân và Bộ Chỉ Huy đứng trên đỉnh 1062 theo dõi châm chú trận đánh của
Đại Ðội 34. Cối 75 ly và sơn pháo từ những cao độ phía tây bắc bắn từng
nhịp 4 trái một và bộ đội Bắc Việt từ hướng tây, tây bắc, đồng loạt tiến
vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì
cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt.
Binh sĩ của Đàng thi nhau dùng súng phóng lựu từ đồi cao 1063 bắn xuống.
Một quả đạn bay đi khoảng ngắn, đất cát bay lên, 3 cán binh Điện Biên
mất hút trong bụi mù. Chết, sinh Bắc tửNam.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt, với chiến thuật biển người. Bộ
đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại Úy Ngụy Văn
Đàng đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1063 và đồi không tên. Đỉnh
1062 trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn. Và trong hoang vu hấp hối của cỏ
cây đó, hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên, những bộ đội Bắc Việt
vang danh một thời cùng ào lên 1062 một lượt, những cặp chân đã vượt đèo
Mụ Già qua Tchepone, Lao Bảo, những bàn chân rách nát chạy nhanh hơn,
mau hơn. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức
ăn. Họ tìm những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải
phóng “Mỹ ngụy” là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
– Bom! Bom! Đốt cháy tụi nó cho hết. Trung Tá Đồng nói như thét.
– Yes sir! Anh Sĩ quan liên lạc không quân vừa nghe được tiếng “bom,”
và anh đã lập tức gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống sườn
đồi.
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ
bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng
lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn
công. Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột,
người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng
nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt tràn lên thấy Đàng bị
thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng
định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết
trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục. Địch bị tiêu hao
nhiều do đạn pháo kích TOT (Time On Target, tức là pháo binh bắn tập
trung vào một mục tiêu, cùng một lúc) nên tức giận chĩa lưỡi lê đâm nát
thân thể Đại Úy Đàng.
Đại Ðội 34 của Đại Úy Võ Thiên Thư, (Khóa 25 Võ Bị Ðà Lạt), lên tiếp
ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô:
“Hàng sống chống chết,” nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo
binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần
bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư
Ðoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ
quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 ND như Đại Úy Võ Thiên Thư, Tô Văn Nhị
(Khóa 26 Võ Bị Ðà Lạt) đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung
với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, tiểu đoàn phải rút ra để phi pháo bắn ngày
đêm. Mặc dù Cộng quân đã chuẩn bị các “lô cốt” bằng những khúc cây kiên
cố, nhưng phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062,
sau đó dùng “hỏa công” đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và
bằng các viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
Các loại đạn CVT (Controlled Variable Time, tức loại đạn pháo binh từ
trên cao chụp xuống điểm tập trung của địch quân), cùng đạn nổ dọn bãi
cho Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù vào thay (Tiểu Đoàn 9 vừa rút ra một ngày chưa
kịp trang bị bổ sung đã được lệnh cấp tốc trở lại tiếp ứng Tiểu Ðoàn 3).
Tiểu đoàn 9 Dù cũng dùng chiến thuật dương đông kích tây, và nỗ lực
chính kỳ nầy do Đại Úy Tường (đại đội trưởng Đại Đội 93) và Trung Úy
Nhơn (đại đội trưởng Đại Đội 92) tiến đánh từ trên cao xuống.
Bên sườn dốc đứng, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ cho bày
binh bố trận rùm beng, khiến phía Bắc Việt tưởng Nhảy Dù lên mặt nầy nên
bắn giàn thung buộc giấy khiêu chiến: “Thách ngụy Dù lên đánh.”
Tường biết địa thế đồi 1062 kiên cố, hầm hố toàn bằng những thân cây
rừng to lớn, phi pháo không làm gì được. Anh vội phóng lựu đạn cay và
bình E8 để buộc Bắc quân chui ra khỏi hang rồi xin thả bom lửa Napalm
đốt họ tan tành. Anh không dại xua quân vào miệng cọp, chỉ dùng đạn cay
và bom Napalm, rồi bao vây chận nguồn nước và tiếp tế, khiến địch chịu
không nổi. Hai bên cứ giằng co chiếm qua chiếm lại mỗi bên 2, 3 lần và
quân số 2 bên tiêu hao rất nhiều.
Đỉnh đồi 1062 lúc đầu toàn là rừng cây cổ thụ, sau những ngày 2 bên
thay nhau làm chủ, nay trở thành đồi trọc, xơ xác, tan hoang.
Tiểu Đoàn 9 phải bằng mọi giá quyết xung phong nhào lên chiếm đỉnh
nầy. Gần một tuần lễ sau, với nhiều cuộc chiến đấu ác liệt bằng phi
pháo, lưỡi lê, và lựu đạn, đã tiêu diệt toàn bộ địch trên đỉnh đồi. Các
đơn vị chiếm được những đỉnh cao xung quanh 1062 nhưng với sự trả giá
rất đắt. Ba vị sĩ quan của Đại Úy Trọng bị hy sinh, Đại Úy Tửu bị
thương, các đại đội khác đều bị hao hơn phân nửa quân số.
Sau khi ra Hà Nha hơn 1 tháng, Đại Đội 15 của Đại Úy Lộc và Thiếu Tá
Phú nhập vùng, biệt phái cho Tiểu Đoàn 9. Riêng Đại Đội 11 nghĩ được 2
tuần thì được lệnh di chuyển ra BCH/LĐ1ND (Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy
Dù), và tại đó được trực thăng Chinook bốc vào mục tiêu “B” tăng cường
cho Thiếu Tá Phú để thanh toán mục tiêu “D1” và “D2” nhằm giải tỏa áp
lực cho Tiểu Đoàn 9 đang ở đồi 1062.
Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú “đen”, Khóa 19 Võ Bị Thủ Đức) là một sĩ
quan rất can trường và tháo vát. Anh là một trong những con gà giỏi của
Tướng Lê Quang Lưỡng khi ông còn làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy
Dù. Thiếu Tá Phú sử dụng tối đa các phi tuần A-37 vì độ chính xác thấp.
Trong lúc họp, Đại Úy Thể đưa ra đề nghị đánh địch bất ngờ và kín đáo
bằng cách đi vòng qua thung lũng thay vì đi theo yên ngựa (do kinh
nghiệm lần trước tấn công mục tiêu B và C.).
Thiếu Tá Phú theo kế hoạch này ra lệnh cho Đại Đội 11 và Đại Đội 15
xuyên qua thông thủy tiến sâu về phía Bắc, rồi bất thần quay lại tấn
công chớp nhoáng vào D1 và D2. Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc
quân chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội
15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem
như nhẹ, kết quả: Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng
liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 được 1 súng cối 61 ly và một số
súng cá nhân.
Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng
Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy địch thấy khó
giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia,
đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Trung Tá Nguyễn Đình Ngọc (tiểu đoàn trưởng), Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt,
lúc đó đang đi phép vì ông thân sinh vừa qua đời, Thiếu Tá Trần Công
Hạnh, Khóa 20 Võ Bị Đà Lạt, lên làm tiểu đoàn trưởng, cùng Đại Úy Nguyễn
Hiền Triết, Trưởng Ban 3, đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn
Phương (tiểu đoàn phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung
hữu đột mới phá được vòng vây.
Sáng hôm sau, Phương cho các đại đội tung người ra lục soát, cánh
Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn trung đội tiến tới chiếm chốt phòng-thủ mà địch
đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì
nghe tiếng “Ầm,” tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn
Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường
Đức.
Địch chiếm lại chốt đó và lại đặt súng đại liên bắn vào vị trí Nhảy
Dù. Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt
trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu
diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề
phòng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo
ngay đồi và Lân cũng hy sinh. Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm
đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai thèm đến vùng tử địa
đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo
Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây.
Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải
rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy
sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và
Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Hạnh lên làm tiểu đoàn trưởng thực thụ và
bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về làm tiểu đoàn phó.
Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (tiểu đoàn trưởng), Khóa 18 Võ
Bị Đà Lạt, và Thiếu Tá Quý, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm tiểu đoàn phó,
được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù
dùng chiến thuật dương đông kích tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng
khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ
loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.
Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đã bị thương trong
trận này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn
Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực hiện lời
nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu
Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.
Trương Dưỡng