Kinh Khổ
Trần Gia Phụng - Tại Sao Quảng Nam Hay Cãi?
Câu ca dao “Quảng Nam hay cãi…” là sự thật hiển nhiên không bàn cãi. Bài nói chuyện hôm nay là tìm hiểu tại sao người QN chúng ta hay cãi?
(Toronto,
6-11-2014)
http://www.diendantheky.net/2014/11/tran-gia-phung-tai-sao-quang-nam-hay-cai.html
![]() |
Tác giả Trần Gia Phụng (Hình: Uyên Nguyên) |
(Trình
bày tại Đại hội Quảng Nam Toronto ngày 6-11-2014.)
Kính
thưa quý Bà Con Cô Bác,
Câu
ca dao “Quảng Nam hay cãi…” là sự thật
hiển nhiên không bàn cãi. Bài nói chuyện
hôm nay là tìm hiểu tại sao người QN chúng ta hay cãi? Những lý do đưa ra sau đây có thể chủ quan và
thiếu sót, hy vọng được bổ túc thêm thì sẽ đầy đủ hơn.
Quảng
Nam hay cãi có thể có năm lý do: 1) Nguồn gốc di dân. 2) Tranh đấu nghịch cảnh.
3) Tính ham học của người QN. 4) Giọng
nói người QN. 5) Môi trường hay cãi tại
QN.
1) Về
nguồn gốc di dân: Người QN chúng ta
là con cháu của những di dân từ Bắc vào QN lập nghiệp. Có bốn hạng di dân khác nhau đến QN: Những
di dân đầu tiên là những chiến binh theo các đoàn quân viễn chinh đi mở nước về
phương nam. Không có những đoàn quân viễn
chinh thì không có QN. Những chiến binh
viễn chinh thường can đảm, liều lĩnh, sẵn sàng chiến đấu, tranh cãi.
Hạng
di dân thứ hai đến QN là những người tù tội.
Dưới thời Lê Thái Tổ (trị vì 1428-1433), nhà Lê chia tội phạm thành năm
loại: xuy, trượng, đồ, lưu, tử. Xuy là đánh
roi. Trượng là đánh trượng (gậy). Đồ là làm dịch đinh. Lưu là lưu
đày. Tử là tử hình. Mỗi tội chia thành nhiều hạng. Riêng tội lưu có
ba hạng: Lưu cận châu (châu
gần). Lưu viễn châu (châu xa). Lưu ngoại châu (châu biên giới.) Từ
thời Lê Thái Tổ cho đến khi Nguyễn Hoàng vào
nam, trong khoảng trên 200 năm, QN thuộc loại viễn châu, miền biên giới
xa xôi,
giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Những người
phạm tội lưu nặng nhất bị đày đến QN.
Hạng
di dân thứ ba đến QN là những người đào tẩu, trốn tránh vì nhiều lý do, mà
trong đó quan trọng nhất là lý do chính trị, vì sự thay đổi và trả thù của các
triều đại. Ví dụ khi nhà Trần sụp đổ, nhà
Lê lên cầm quyền, con cháu nhà Trần trốn chạy, có gia đình chạy vào tận
QN. Khi nhà Mạc sụp đổ, con cháu nhà Mạc
đổi thành nhiều họ, ly tán khắp bốn phương.
Có nhiều nhánh họ Mạc chạy vào tận QN.
Hạng
di dân thứ tư, đông đảo nhất là những di dân vì lý do kinh tế. Vì quá nghèo khổ ở vùng đất cũ, nên đông đảo dân
chúng theo những đợt di dân do chính quyền tổ chức. Sau mỗi lần mở nước, các triều đại đều tổ chức
đưa người tới định cư vùng đất mới, nhất là từ thời Nguyễn Hoàng vào Nam lập
nghiệp.
Dầu
vì lý do gì, di dân có một số đặc tính chung như mạo hiểm, can đảm, liều
lĩnh, quyết
liệt, bất khuất, cấp tiến, khẳng khái, bộc trực, thích tự do, công bằng,
dân chủ... Không phải tất cả những đặc tính trên đây đều
tác động cùng một lần đến con cháu QN, nhưng ảnh hưởng một cách khác
nhau tùy mỗi
gia đình, tùy mỗi cá nhân, một vài đặc tính trên, đưa đến những kết quả
riêng biệt,
nhưng vẫn có một vài điểm căn bản giống nhau, như là hay tranh đấu và
hay cãi để
bảo vệ những điều mình đạt được trên đường di dân.
Có
câu hỏi đặt ra là di dân từ Bắc vào Nam, đến định cư rải rác từ QN đến Bình Định, nhưng tại sao chỉ có dân QN là
hay cãi? Xin chú ý, trước khi tiến xuống
Quảng Ngãi hay Bình Định ngày nay, người di dân từ Bắc vào Nam, tập trung đầu
tiên tại QN, có thể cả một thời gian dài, trên 200 năm, từ thời Huyền Trân đến thời
Nguyễn Hoàng, mới dần dần tỏa xuống phía nam.
Càng xuống phía nam, bình nguyên càng rộng, thời tiết càng dễ chịu, con
người càng thoải mái hơn. Ngoài ra, còn
nhiều lý do khác nữa.
2) Tranh
đấu trước nghịch cảnh: Lý do thứ hai
về việc người QN hay cãi là di dân luôn luôn va chạm và đối phó nghịch cảnh, phải
tranh đấu đề sinh tồn. Tranh đấu với cư
dân địa phương trước đây là người Chiêm Thành (Chàm). Tranh đấu để mưu sinh ở vùng đất lạ, thiên
nhiên khắc nghiệt, rừng thiêng nước độc.
Tranh đấu để được tự do, bình đẳng và dân chủ trên vùng đất mới. Tranh đấu trở thành thói quen của người QN và
từ đó cũng trở thành hay cãi. Hay cãi là
cách tranh đấu bất bạo động để bảo vệ quyền lợi, bảo vệ điều mình nghĩ là lẽ phải,
tránh sai lầm, tìm ra sự thật.
3) Tính
ham học: Lý do thứ ba là di dân vốn thích
phiêu lưu, thích khám phá điều mới lạ, thích tìm tòi học hỏi, có cái nhìn mới. Thêm nữa, người QN nghèo khổ nên ham học để
tiến thân bằng thi cử. Tính ham học, cầu
tiến, ưa học hỏi, tìm hiểu thêm, khiến cho người QN hay cãi để tiến bộ, tìm ra
chân lý.
4) Giọng
nói lớn: Lý do thứ tư là không hiểu
vì sao người QN có giọng nói lớn, mạnh, sắc, chói tai. Chính chất giọng lớn mạnh tạo điều kiện và hỗ
trợ cho người QN hay cãi. Vào một phòng
họp, nghe một giọng QN phát biểu là nhận ra ngay. Nhờ chất giọng mạnh nên người QN dễ cãi, thích
cãi và trở thành hay cãi. Xin chú ý điểm
nầy: ngay cả những người QN nói giọng thấp, nhỏ thì cũng ít cãi.
5) Môi
trường hay cãi: Lúc đầu, người QN
hay cãi với nhau. Anh em, vợ chồng, bạn
bè cãi với nhau, tạo thành môi trường hay cãi, không gian hay cãi. Môi trường hay cãi càng ngày càng mở rộng, trở
thành thói quen, hay nếp sống hoặc truyền thống hay cãi. Điều nầy dễ thấy ở những người QN lấy vợ hay
chồng tỉnh khác. Sống với nhau một thời
gian, và sống trong môi trường hay cãi, người vợ hay chồng đó tuy không phải là
người QN, cũng trở thành hay cãi, có khi còn cãi hăng hơn cả vợ hay chồng người
QN. Vì vậy có câu: "QN lai bằng hai QN thiệt.” Đây
là kết quả của môi trường hay cãi. Nếu
không có môi trường để cãi, thì người QN cãi với ai?
Thưa
quý vị,
Năm
lý do trên đây đưa đến thói quen người “QN hay cãi”. Câu “Quảng
Nam hay cãi” có khi được xem là lời mỉa mai người QN chúng ta. Tuy nhiên, xin chú ý rằng hay cãi không phải
là tính xấu. Hay cãi chỉ xấu khi cãi bướng,
cãi ngang xương, cãi đâm hơi, cãi lấy được.
Ngay cả uống thuốc bổ mà quá liều lượng thì cũng có hại, huống gì là hay
cãi ẩu? Vì cãi quá đà nên mới bị mỉa mai
là “QN hay cãi”. Trong khi thật sự không
cãi thì không tiến bộ được. Xin thử tưởng tượng một nhóm người, một tổ chức hay
một xã hội mà không một tiếng cãi thì chẳng những không có sinh khí mà bị đóng
băng hay là chết
Xin
chú ý thêm là cho đến 1802, khi Gia Long lên ngôi, QN mới chính thức ổn định. Do hay cãi để tiến bộ, hay cãi để tranh đấu chống
bạo quyền, tranh đấu để bảo vệ cho mình và cho dân tộc mình nên chỉ trong thời
gian ngắn, QN đã sản sinh ra một loạt anh hùng, tranh đấu chống Pháp xâm lược,
từ Hoàng Diệu, đến Nguyễn Duy Hiệu, qua Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quý Cáp, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Lê Đình Dương…
Đặc
biệt, Phan Khôi là tay cãi cự phách của QN.
Ông cãi hay đến nỗi có thời người ta ca tụng “lý luận Phan Khôi”. Sống dưới chế độ CS, ông chẳng sợ hãi khi hay
cãi, vì theo ông: “Làm sao cũng chẳng làm
sao,/ Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi./ Làm chi cũng chẳng làm chi,/ Dẫu có
làm gì cũng chẳng làm sao.” Phan Khôi
là người tiêu biểu cho khí phách QN.
Ngay giữa lòng Hà Nội năm 1957, Phan Khôi ví chủ nghĩa CS là một thứ cỏ
bù xít vì hôi như con bọ xít, hay CS là cây cứt lợn, cây chó đẻ. (Phan Khôi, Nắng chiều, Hà Nội 1957, Hoàng Văn Chí
trích dẫn, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc,
Sài Gòn: 1989, tt. 89-96.) Cách đây 47 năm
mà Phan Khôi gọi CS là cây chó đẻ, thật là vừa can đảm, vừa sáng suốt.
Thưa
quý vị,
Chuyện
QN hay cãi là chuyện dài, nhất là người QN có tính tự trào, tức tự giễu về mình,
nên có rất nhiều chuyện tiếu lâm QN hay cãi, nhưng thời lượng phải giới hạn, nên
câu chuyện của chúng tôi ngang đây xin tạm dừng. Những lý giải trên đây có thể còn thiếu sót,
xin quý vị bổ túc thêm để làm rõ vì sao Quảng Nam hay cãi. Chúng tôi xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe, trân
trọng kính chào quý vị và chúc quý vị một buổi tối gặp gỡ “Quảng Nam hay cãi” thật
vui vẻ.
TRẦN
GIA PHỤNG
http://www.diendantheky.net/2014/11/tran-gia-phung-tai-sao-quang-nam-hay-cai.html
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Vài Chuyện Buồn 30 Tháng 4" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Sinh Nhật Buồn" - by Khuất Đẩu / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Sự thật về “Nước mắm Việt Hương” của Tàu (?) - by Kỳ Đỗ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Mỹ và người Việt khác nhau ở chỗ này !" - by Nguyễn Đắc Phúc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Lịch sử và hoài nghi _ Trần Thế Kỷ
Trần Gia Phụng - Tại Sao Quảng Nam Hay Cãi?
Câu ca dao “Quảng Nam hay cãi…” là sự thật hiển nhiên không bàn cãi. Bài nói chuyện hôm nay là tìm hiểu tại sao người QN chúng ta hay cãi?
![]() |
Tác giả Trần Gia Phụng (Hình: Uyên Nguyên) |
(Trình
bày tại Đại hội Quảng Nam Toronto ngày 6-11-2014.)
Kính
thưa quý Bà Con Cô Bác,
Câu
ca dao “Quảng Nam hay cãi…” là sự thật
hiển nhiên không bàn cãi. Bài nói chuyện
hôm nay là tìm hiểu tại sao người QN chúng ta hay cãi? Những lý do đưa ra sau đây có thể chủ quan và
thiếu sót, hy vọng được bổ túc thêm thì sẽ đầy đủ hơn.
Quảng
Nam hay cãi có thể có năm lý do: 1) Nguồn gốc di dân. 2) Tranh đấu nghịch cảnh.
3) Tính ham học của người QN. 4) Giọng
nói người QN. 5) Môi trường hay cãi tại
QN.
1) Về
nguồn gốc di dân: Người QN chúng ta
là con cháu của những di dân từ Bắc vào QN lập nghiệp. Có bốn hạng di dân khác nhau đến QN: Những
di dân đầu tiên là những chiến binh theo các đoàn quân viễn chinh đi mở nước về
phương nam. Không có những đoàn quân viễn
chinh thì không có QN. Những chiến binh
viễn chinh thường can đảm, liều lĩnh, sẵn sàng chiến đấu, tranh cãi.
Hạng
di dân thứ hai đến QN là những người tù tội.
Dưới thời Lê Thái Tổ (trị vì 1428-1433), nhà Lê chia tội phạm thành năm
loại: xuy, trượng, đồ, lưu, tử. Xuy là đánh
roi. Trượng là đánh trượng (gậy). Đồ là làm dịch đinh. Lưu là lưu
đày. Tử là tử hình. Mỗi tội chia thành nhiều hạng. Riêng tội lưu có
ba hạng: Lưu cận châu (châu
gần). Lưu viễn châu (châu xa). Lưu ngoại châu (châu biên giới.) Từ
thời Lê Thái Tổ cho đến khi Nguyễn Hoàng vào
nam, trong khoảng trên 200 năm, QN thuộc loại viễn châu, miền biên giới
xa xôi,
giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Những người
phạm tội lưu nặng nhất bị đày đến QN.
Hạng
di dân thứ ba đến QN là những người đào tẩu, trốn tránh vì nhiều lý do, mà
trong đó quan trọng nhất là lý do chính trị, vì sự thay đổi và trả thù của các
triều đại. Ví dụ khi nhà Trần sụp đổ, nhà
Lê lên cầm quyền, con cháu nhà Trần trốn chạy, có gia đình chạy vào tận
QN. Khi nhà Mạc sụp đổ, con cháu nhà Mạc
đổi thành nhiều họ, ly tán khắp bốn phương.
Có nhiều nhánh họ Mạc chạy vào tận QN.
Hạng
di dân thứ tư, đông đảo nhất là những di dân vì lý do kinh tế. Vì quá nghèo khổ ở vùng đất cũ, nên đông đảo dân
chúng theo những đợt di dân do chính quyền tổ chức. Sau mỗi lần mở nước, các triều đại đều tổ chức
đưa người tới định cư vùng đất mới, nhất là từ thời Nguyễn Hoàng vào Nam lập
nghiệp.
Dầu
vì lý do gì, di dân có một số đặc tính chung như mạo hiểm, can đảm, liều
lĩnh, quyết
liệt, bất khuất, cấp tiến, khẳng khái, bộc trực, thích tự do, công bằng,
dân chủ... Không phải tất cả những đặc tính trên đây đều
tác động cùng một lần đến con cháu QN, nhưng ảnh hưởng một cách khác
nhau tùy mỗi
gia đình, tùy mỗi cá nhân, một vài đặc tính trên, đưa đến những kết quả
riêng biệt,
nhưng vẫn có một vài điểm căn bản giống nhau, như là hay tranh đấu và
hay cãi để
bảo vệ những điều mình đạt được trên đường di dân.
Có
câu hỏi đặt ra là di dân từ Bắc vào Nam, đến định cư rải rác từ QN đến Bình Định, nhưng tại sao chỉ có dân QN là
hay cãi? Xin chú ý, trước khi tiến xuống
Quảng Ngãi hay Bình Định ngày nay, người di dân từ Bắc vào Nam, tập trung đầu
tiên tại QN, có thể cả một thời gian dài, trên 200 năm, từ thời Huyền Trân đến thời
Nguyễn Hoàng, mới dần dần tỏa xuống phía nam.
Càng xuống phía nam, bình nguyên càng rộng, thời tiết càng dễ chịu, con
người càng thoải mái hơn. Ngoài ra, còn
nhiều lý do khác nữa.
2) Tranh
đấu trước nghịch cảnh: Lý do thứ hai
về việc người QN hay cãi là di dân luôn luôn va chạm và đối phó nghịch cảnh, phải
tranh đấu đề sinh tồn. Tranh đấu với cư
dân địa phương trước đây là người Chiêm Thành (Chàm). Tranh đấu để mưu sinh ở vùng đất lạ, thiên
nhiên khắc nghiệt, rừng thiêng nước độc.
Tranh đấu để được tự do, bình đẳng và dân chủ trên vùng đất mới. Tranh đấu trở thành thói quen của người QN và
từ đó cũng trở thành hay cãi. Hay cãi là
cách tranh đấu bất bạo động để bảo vệ quyền lợi, bảo vệ điều mình nghĩ là lẽ phải,
tránh sai lầm, tìm ra sự thật.
3) Tính
ham học: Lý do thứ ba là di dân vốn thích
phiêu lưu, thích khám phá điều mới lạ, thích tìm tòi học hỏi, có cái nhìn mới. Thêm nữa, người QN nghèo khổ nên ham học để
tiến thân bằng thi cử. Tính ham học, cầu
tiến, ưa học hỏi, tìm hiểu thêm, khiến cho người QN hay cãi để tiến bộ, tìm ra
chân lý.
4) Giọng
nói lớn: Lý do thứ tư là không hiểu
vì sao người QN có giọng nói lớn, mạnh, sắc, chói tai. Chính chất giọng lớn mạnh tạo điều kiện và hỗ
trợ cho người QN hay cãi. Vào một phòng
họp, nghe một giọng QN phát biểu là nhận ra ngay. Nhờ chất giọng mạnh nên người QN dễ cãi, thích
cãi và trở thành hay cãi. Xin chú ý điểm
nầy: ngay cả những người QN nói giọng thấp, nhỏ thì cũng ít cãi.
5) Môi
trường hay cãi: Lúc đầu, người QN
hay cãi với nhau. Anh em, vợ chồng, bạn
bè cãi với nhau, tạo thành môi trường hay cãi, không gian hay cãi. Môi trường hay cãi càng ngày càng mở rộng, trở
thành thói quen, hay nếp sống hoặc truyền thống hay cãi. Điều nầy dễ thấy ở những người QN lấy vợ hay
chồng tỉnh khác. Sống với nhau một thời
gian, và sống trong môi trường hay cãi, người vợ hay chồng đó tuy không phải là
người QN, cũng trở thành hay cãi, có khi còn cãi hăng hơn cả vợ hay chồng người
QN. Vì vậy có câu: "QN lai bằng hai QN thiệt.” Đây
là kết quả của môi trường hay cãi. Nếu
không có môi trường để cãi, thì người QN cãi với ai?
Thưa
quý vị,
Năm
lý do trên đây đưa đến thói quen người “QN hay cãi”. Câu “Quảng
Nam hay cãi” có khi được xem là lời mỉa mai người QN chúng ta. Tuy nhiên, xin chú ý rằng hay cãi không phải
là tính xấu. Hay cãi chỉ xấu khi cãi bướng,
cãi ngang xương, cãi đâm hơi, cãi lấy được.
Ngay cả uống thuốc bổ mà quá liều lượng thì cũng có hại, huống gì là hay
cãi ẩu? Vì cãi quá đà nên mới bị mỉa mai
là “QN hay cãi”. Trong khi thật sự không
cãi thì không tiến bộ được. Xin thử tưởng tượng một nhóm người, một tổ chức hay
một xã hội mà không một tiếng cãi thì chẳng những không có sinh khí mà bị đóng
băng hay là chết
Xin
chú ý thêm là cho đến 1802, khi Gia Long lên ngôi, QN mới chính thức ổn định. Do hay cãi để tiến bộ, hay cãi để tranh đấu chống
bạo quyền, tranh đấu để bảo vệ cho mình và cho dân tộc mình nên chỉ trong thời
gian ngắn, QN đã sản sinh ra một loạt anh hùng, tranh đấu chống Pháp xâm lược,
từ Hoàng Diệu, đến Nguyễn Duy Hiệu, qua Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quý Cáp, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Lê Đình Dương…
Đặc
biệt, Phan Khôi là tay cãi cự phách của QN.
Ông cãi hay đến nỗi có thời người ta ca tụng “lý luận Phan Khôi”. Sống dưới chế độ CS, ông chẳng sợ hãi khi hay
cãi, vì theo ông: “Làm sao cũng chẳng làm
sao,/ Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi./ Làm chi cũng chẳng làm chi,/ Dẫu có
làm gì cũng chẳng làm sao.” Phan Khôi
là người tiêu biểu cho khí phách QN.
Ngay giữa lòng Hà Nội năm 1957, Phan Khôi ví chủ nghĩa CS là một thứ cỏ
bù xít vì hôi như con bọ xít, hay CS là cây cứt lợn, cây chó đẻ. (Phan Khôi, Nắng chiều, Hà Nội 1957, Hoàng Văn Chí
trích dẫn, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc,
Sài Gòn: 1989, tt. 89-96.) Cách đây 47 năm
mà Phan Khôi gọi CS là cây chó đẻ, thật là vừa can đảm, vừa sáng suốt.
Thưa
quý vị,
Chuyện
QN hay cãi là chuyện dài, nhất là người QN có tính tự trào, tức tự giễu về mình,
nên có rất nhiều chuyện tiếu lâm QN hay cãi, nhưng thời lượng phải giới hạn, nên
câu chuyện của chúng tôi ngang đây xin tạm dừng. Những lý giải trên đây có thể còn thiếu sót,
xin quý vị bổ túc thêm để làm rõ vì sao Quảng Nam hay cãi. Chúng tôi xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe, trân
trọng kính chào quý vị và chúc quý vị một buổi tối gặp gỡ “Quảng Nam hay cãi” thật
vui vẻ.
TRẦN
GIA PHỤNG
http://www.diendantheky.net/2014/11/tran-gia-phung-tai-sao-quang-nam-hay-cai.html