Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Tưởng Niệm Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long
Trung Tá Nguyễn Văn Long: Bảo Quốc công thần
Kính mời quý vị xem bài của Duyên Anh: Máu Trung Tá Long đã
thấm xuống lòng đất mẹ
Tôi không hiểu, trong Dinh Độc Lập, Dương văn Minh và bọn hàng thần
lơ láo đến mức độ nào trước ống kính xấc xược của bọn phóng viên
cộng sản và trước những câu hạch hỏi hỗn láo của bộ đội giải phóng
cấp tá. Họ có nghe những tiếng súng danh dự, trách nhiệm, tổ quốc
của lính văn nghệ diệt T-54 ở cầu Thị Nghè, của lính nhẩy dù cách
cổng Dinh Độc Lập chẳng bao xa? Chúng tôi vào trung tâm thành phố.
Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai người chiến sĩ thủy quân
lục chiến Việt Nam họng súng nhắm thằng vào Hạ Viện. Những chiếc loa
gắn trên cây cao đã oang oang giọng nói mới chào mừng giải phóng
miền Nam. Bài hát Tiến vào Sài gòn ta quét sạch giặc thù muốn rung
chuyển thành phố. Nhưng trời vẫn thiếu nắng. Cộng sản đã tiếp thu
Đài phát thanh, Bưu điện... Giọng nói cầy cáo của Lý Quý Chung và ca
khúc Nối vòng tay lớn không còn nữa.
Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục
chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi
rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục
màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá cảnh sát Long đã tự sát
ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên
truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30.
Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người
không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những
bài ca cách mạng, những lởi hoan hô bộ đội giải phóng.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn
là Tổng trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô
trưởng Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc
Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những trạng
lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu
tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhởn sống hùng
mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết
tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long. Cộng sản đã chẳng ngu dại
phong anh hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt
sĩ. Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại,
chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ
đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng
ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu, không thích vinh
tôn cái thật, đã đành, nó còn nhận chìm cái thật và vấy bẩn lên cái
thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng. Khi cái thật bị nhận chìm,
bị vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như
vậy, mọi giá trị về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt
cuộc, bọn giả hình sống với cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người
bằng cái giả với bạo lực của quyền uy hợp pháp và cả quyền uy ảo
tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông xuôi. Cuối
cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian
dối, vĩ nhân phường tuồng.
Tôi muốn biểu dương trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu
của Sài gòn. ông ta đang nằm kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục
chiến Việt Nam anh dũng. Máu trung tá Long đã thấm xuống lòng đất
mẹ. Cái chết của trung tá Long nếu chưa thức tỉnh được sự u mê của
thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít ra, nó
cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng
giặc. Tôi không mấy hy vọng cái chết của trung tá Long lay động nổi
cái bóng tối vô liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ.
Chúng ta hãnh diện làm người Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn trung
tá Long không đào ngũ, không đầu hàng giặc và biết chết cho danh dự
miền Nam, danh dự của tổ quốc.
- Tôi chứng kiến tự phút đầu.
- Ông nói sao?
- Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
- Thật chứ?
- Đáng lẽ tôi phải nói dối.
- Tại sao?
- Vì nói thật lúc này không có lợi.
Tôi nghe hai người Sài gòn nói chuyện. Và tôi được nghe "Huyền sử
một người mang tên Long" do một trong hai người kể. Truyện như vầy:
10 giờ 30, Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng, quân đội và cảnh sát
tuân lệnh Tổng thống, lột quần áo, giầy vớ, nón mũ, vất súng đạn bỏ
chạy về nhà mình hay nhà thân nhân của mình. Một mình trung tá Long
không lột chiến bào, không phi tang tích huân chương, không liệng
súng đạn. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. ông xuất hiện ở
công viên trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông ta trầm
ngâm hút thuốc. Rồi ông ta nhìn trước, nhìn sau, ngó ngang, ngó dọc.
Rồi ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Khi ấy, Sài gòn đã ồn ào
tiếng hoan hô cộng sản giải phóng. Bất chợt, ông ta đứng dậy, chậm
rãi bước gần chân tượng đài. Trung tá Long đứng thẳng. ông ta ngẩng
mặt. Thản nhiên, ông ta rút khẩu Colt, kê họng súng vào thái dương
mình bóp cò. Tiếng đạn nổ trùm lấp tiếng hoan hô cộng sản. Trung tá
Long đổ rạp.
- Đó, diễn tiến cái chết của Trung Tá Long.
- Ông có mặt ở đây trước lúc trung tá Long xuất hiện?
- Phải. Tôi tuyệt vọng, không thiết về nhà nữa.
- Rồi sao?
- Dân chúng bu quanh xác trung tá Long. Cộng sản chưa có thì giờ kéo
xác ông ta đi. Phóng viên truyền hình Pháp thu cảnh này kỹ lắm. Chỉ
tiếc họ đã không thu được cái oai phong lẫm liệt của trung tá Long.
Họ đến quá chậm và họ chỉ quay phim một xác chết. ông hãy nhìn cho
kỹ. Trung Tá Long tuẫn tiết cùng chiến bào, cùng cấp bậc, cùng tên
mình.
Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có
tên mà không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long... Hôm nay, chúng
ta có thêm trung tá Long. Những ai sẽ viết lịch sử? Và liệu sử gia
đời sau có soi tỏ niềm u ẩn của Trung tá Long chảy máu mắt nhìn quê
hương lạc vào tay quân thù mà bất lực cứu quê hương, mà chỉ còn biết
đem cái chết tạ tội quê hương, dân tộc. Đã hàng tỉ tỉ chữ viết về
những chuyện khốn nạn, viết về những tên khốn kiếp, viết về những sự
việc khốn cùng. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người ta đã
viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa xác chết. Người ta cũng đã
viết cả pho sách dầy cộm để suy tôn xác sống. Người ta ồn ào. Người
ta vo ve. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Ai đã làm công việc
sưu tầm lý lịch đầy đủ của vị liệt sĩ đích thực này? Than ôi, lịch
sử đã hóa thành huyền sử. Cho nên người ta nhìn quốc kỳ mà không cảm
giác linh hồn tổ quốc phấp phới bay. Chúng ta đang bị sống trong cái
thời đại của những ông tướng đào ngũ, của những ông tổng trưởng đào
nhiệm không hề biết xấu hổ. Thời đại của chúng ta còn đòi đoạn ở
chỗ, kẻ sĩ và kẻ vô lại đồng hóa trong "lý tưởng" nguyền rủa xác
chết và suy tôn xác sống.
Xưa, Hàm Nghi 8 tuổi, hỏi cận thần:
- Tay bẩn lấy gì rửa? Cận thần đáp:
- Nước.
Hàm Nghi hỏi thêm:
- Nước bẩn lấy gì rửa?
Cận thần ngơ ngác:
- Tâu bệ hạ, thần không hiểu.
Hàm Nghi nói:
- Nước bẩn lấy máu mà rửa!
Trung tá Long đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính nhẩy dù đã
lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính văn nghệ đã lấy máu rửa một
vết ô nhục 30-4. Những kẻ tạo ra ô nhục 30-4 lấy gì nhỉ? Họ đang cầm
ca, cầm đĩa xếp hàng ngửa tay lấy cơm, lấy nước ở đảo Guam. Biết đâu
chẳng xẩy ra tranh cơm như tranh quyền bính. Và biết đâu chẳng bị
ông quân cảnh Mỹ đen tặng một vài cái tát xiếc! Những kẻ này vẫn
thừa thãi vô liêm sỉ để họp bàn, hiến kết cứu nước. Lịch sử lại thêm
vài phụ trang chó đẻ.
Giải phóng quân đã đổ đầy trước thềm Hạ Viện. Cỏ đuôi chó hoan hô
tưng bừng. Dân chúng chiêm ngưỡng Trung Tá Long tản mạn. Trung Tá
Long nằm nguyên chỗ ông ngã rạp cho máu rửa nhục Sài gòn. Giã từ
liệt sĩ! Vĩnh quyết liệt sĩ. Xin hãy phù hộ tôi kéo dài cuộc sống
hèn để có ngày được viết vài dòng về Trung Tá.
BBT: Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có
dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu
sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta
muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ
túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn
An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng,
người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm
vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An
Vinh
Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc
Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa
Thiên Huế, họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ
trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An.
Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và
Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của
nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An
ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung
Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức
vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn
chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa
phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ
Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát
Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ
vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể
mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển
Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong
một tháng để thu xếp gia-đình.
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn
định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá
Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm
Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình.
Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực
hiện một việc cổ kim không giống ai:
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng
Thành Phố, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường
thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không
điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai
ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn
Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không
chịu, bắt họ đem đi trả lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở
sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân
Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc
lắc đầu nói: “...tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi
còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm
và cương trực, đông con nhà nghèo...”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp
Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán
suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà
Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long
đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi
nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết
ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra
mặt tôi cũng làm thinh luôn.
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ
tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông
gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung.
Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp
bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi
làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc
cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand
Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông
thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn
công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ
có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những
chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi
thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì
tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung
Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt
điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông
Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn văn Long:
“...Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông
dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An
ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong
sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt
đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo.
Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà
tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ
nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm,
Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông
điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền
hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia
đình...
...Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở,
lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn
răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải
chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực
tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện
nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn....
... Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có
khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có
khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật
hẹp với đồng lương của một công chức.
... Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau
khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng
Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như
của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán
giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn
toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như
không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ
đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch
cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà
thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cữa đóng then cài.
Long không tiếp bất cứ ai.
...Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến
Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh
Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu ,
Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ
cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và
văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt,
trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền
nong lem nhem với Long...”
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “...Nếu Long
chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải
cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được
lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày
trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn
Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh
Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu
không vui đấy...”
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không
hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công
việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo
gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không
dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử
hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây
rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông
tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi,
Long từ chối. Long nói:
“...chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và
có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi,
không nên buộc... Ông Giám Ðốc kết luận:...Long khắt khe sắt thép
với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng
với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình...”
Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng
để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu
một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm
năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường
trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố
là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và
nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi
thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng
cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy
lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật
từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ
hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân
trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường
Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc
Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở
vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ
lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang
ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở
lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại
cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường
Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt
điện nước cho Long.
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện
với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi
không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải
viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho
đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi
điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh
bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư
hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong
ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của
Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường
phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc
Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo
gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều
nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các
gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và
giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo
cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn
và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên
Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào.
Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho
Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4
chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần
ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện
không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông
cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu
đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy
Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường
rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông.
Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải
chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng,
nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho
tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói
lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng
vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2
tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ
đã đành, phần tôi cũng vui không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn
tới, hỏi ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một
ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ
tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác
về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm
phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong,
ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp,
tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh
nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có
cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm
một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho
Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải
nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học.
Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm
gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai
có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh
gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long,
tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con
heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo
sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại
càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa
nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các
con làm trọng. Ông thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm
cho được ba mớ chữ. Câu Ông thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là:
Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển
toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và
thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp
sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi
thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi không
quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan
Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi
thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền
cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như
thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà
tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ
những người thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần,
đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa
cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An
Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên
trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía
sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi
bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng.
Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều
về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế
khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến
phục.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin
ân huệ cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần
như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước
đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản
dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai
trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại
đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển
khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi
đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một
ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam
được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động,
thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó
tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của
Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình
Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở
Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng,
nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi
thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào
nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo
Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà
thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc
nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt
có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ
Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao
mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa
lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ
ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng
lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ
là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả
thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không
có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận
xác. Tới SàiGòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ
hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới
nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của
Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra
có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn
nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động
và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe
tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều
hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ
Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm
phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng
vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau
gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ
và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ
Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
* * *
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều
Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính
đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên
chí khí bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay
giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế
giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách
thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có
nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài
Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông
đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu
tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả
thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng
chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài
trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính
Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và
chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh
thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết
của Long là một cái chết bất tử.
Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ.
Ở tấm hình này, chiếc mũ đã bị ai đó lấy mất.
Hình tuẫn tiết của anh hùng Nguyễn Văn Long, trung tá Cảnh Sát
Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà trong ngày 30-4-1975 dưới chân tượng đài
Thủy Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ Nghị Viên VNCH.
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Tưởng Niệm Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long
Trung Tá Nguyễn Văn Long: Bảo Quốc công thần
Kính mời quý vị xem bài của Duyên Anh: Máu Trung Tá Long đã
thấm xuống lòng đất mẹ
Tôi không hiểu, trong Dinh Độc Lập, Dương văn Minh và bọn hàng thần
lơ láo đến mức độ nào trước ống kính xấc xược của bọn phóng viên
cộng sản và trước những câu hạch hỏi hỗn láo của bộ đội giải phóng
cấp tá. Họ có nghe những tiếng súng danh dự, trách nhiệm, tổ quốc
của lính văn nghệ diệt T-54 ở cầu Thị Nghè, của lính nhẩy dù cách
cổng Dinh Độc Lập chẳng bao xa? Chúng tôi vào trung tâm thành phố.
Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai người chiến sĩ thủy quân
lục chiến Việt Nam họng súng nhắm thằng vào Hạ Viện. Những chiếc loa
gắn trên cây cao đã oang oang giọng nói mới chào mừng giải phóng
miền Nam. Bài hát Tiến vào Sài gòn ta quét sạch giặc thù muốn rung
chuyển thành phố. Nhưng trời vẫn thiếu nắng. Cộng sản đã tiếp thu
Đài phát thanh, Bưu điện... Giọng nói cầy cáo của Lý Quý Chung và ca
khúc Nối vòng tay lớn không còn nữa.
Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục
chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi
rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục
màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá cảnh sát Long đã tự sát
ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên
truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30.
Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người
không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những
bài ca cách mạng, những lởi hoan hô bộ đội giải phóng.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn
là Tổng trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô
trưởng Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc
Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những trạng
lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu
tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhởn sống hùng
mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết
tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long. Cộng sản đã chẳng ngu dại
phong anh hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt
sĩ. Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại,
chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ
đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng
ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu, không thích vinh
tôn cái thật, đã đành, nó còn nhận chìm cái thật và vấy bẩn lên cái
thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng. Khi cái thật bị nhận chìm,
bị vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như
vậy, mọi giá trị về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt
cuộc, bọn giả hình sống với cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người
bằng cái giả với bạo lực của quyền uy hợp pháp và cả quyền uy ảo
tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông xuôi. Cuối
cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian
dối, vĩ nhân phường tuồng.
Tôi muốn biểu dương trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu
của Sài gòn. ông ta đang nằm kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục
chiến Việt Nam anh dũng. Máu trung tá Long đã thấm xuống lòng đất
mẹ. Cái chết của trung tá Long nếu chưa thức tỉnh được sự u mê của
thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít ra, nó
cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng
giặc. Tôi không mấy hy vọng cái chết của trung tá Long lay động nổi
cái bóng tối vô liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ.
Chúng ta hãnh diện làm người Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn trung
tá Long không đào ngũ, không đầu hàng giặc và biết chết cho danh dự
miền Nam, danh dự của tổ quốc.
- Tôi chứng kiến tự phút đầu.
- Ông nói sao?
- Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
- Thật chứ?
- Đáng lẽ tôi phải nói dối.
- Tại sao?
- Vì nói thật lúc này không có lợi.
Tôi nghe hai người Sài gòn nói chuyện. Và tôi được nghe "Huyền sử
một người mang tên Long" do một trong hai người kể. Truyện như vầy:
10 giờ 30, Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng, quân đội và cảnh sát
tuân lệnh Tổng thống, lột quần áo, giầy vớ, nón mũ, vất súng đạn bỏ
chạy về nhà mình hay nhà thân nhân của mình. Một mình trung tá Long
không lột chiến bào, không phi tang tích huân chương, không liệng
súng đạn. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. ông xuất hiện ở
công viên trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông ta trầm
ngâm hút thuốc. Rồi ông ta nhìn trước, nhìn sau, ngó ngang, ngó dọc.
Rồi ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Khi ấy, Sài gòn đã ồn ào
tiếng hoan hô cộng sản giải phóng. Bất chợt, ông ta đứng dậy, chậm
rãi bước gần chân tượng đài. Trung tá Long đứng thẳng. ông ta ngẩng
mặt. Thản nhiên, ông ta rút khẩu Colt, kê họng súng vào thái dương
mình bóp cò. Tiếng đạn nổ trùm lấp tiếng hoan hô cộng sản. Trung tá
Long đổ rạp.
- Đó, diễn tiến cái chết của Trung Tá Long.
- Ông có mặt ở đây trước lúc trung tá Long xuất hiện?
- Phải. Tôi tuyệt vọng, không thiết về nhà nữa.
- Rồi sao?
- Dân chúng bu quanh xác trung tá Long. Cộng sản chưa có thì giờ kéo
xác ông ta đi. Phóng viên truyền hình Pháp thu cảnh này kỹ lắm. Chỉ
tiếc họ đã không thu được cái oai phong lẫm liệt của trung tá Long.
Họ đến quá chậm và họ chỉ quay phim một xác chết. ông hãy nhìn cho
kỹ. Trung Tá Long tuẫn tiết cùng chiến bào, cùng cấp bậc, cùng tên
mình.
Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có
tên mà không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long... Hôm nay, chúng
ta có thêm trung tá Long. Những ai sẽ viết lịch sử? Và liệu sử gia
đời sau có soi tỏ niềm u ẩn của Trung tá Long chảy máu mắt nhìn quê
hương lạc vào tay quân thù mà bất lực cứu quê hương, mà chỉ còn biết
đem cái chết tạ tội quê hương, dân tộc. Đã hàng tỉ tỉ chữ viết về
những chuyện khốn nạn, viết về những tên khốn kiếp, viết về những sự
việc khốn cùng. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người ta đã
viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa xác chết. Người ta cũng đã
viết cả pho sách dầy cộm để suy tôn xác sống. Người ta ồn ào. Người
ta vo ve. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Ai đã làm công việc
sưu tầm lý lịch đầy đủ của vị liệt sĩ đích thực này? Than ôi, lịch
sử đã hóa thành huyền sử. Cho nên người ta nhìn quốc kỳ mà không cảm
giác linh hồn tổ quốc phấp phới bay. Chúng ta đang bị sống trong cái
thời đại của những ông tướng đào ngũ, của những ông tổng trưởng đào
nhiệm không hề biết xấu hổ. Thời đại của chúng ta còn đòi đoạn ở
chỗ, kẻ sĩ và kẻ vô lại đồng hóa trong "lý tưởng" nguyền rủa xác
chết và suy tôn xác sống.
Xưa, Hàm Nghi 8 tuổi, hỏi cận thần:
- Tay bẩn lấy gì rửa? Cận thần đáp:
- Nước.
Hàm Nghi hỏi thêm:
- Nước bẩn lấy gì rửa?
Cận thần ngơ ngác:
- Tâu bệ hạ, thần không hiểu.
Hàm Nghi nói:
- Nước bẩn lấy máu mà rửa!
Trung tá Long đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính nhẩy dù đã
lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính văn nghệ đã lấy máu rửa một
vết ô nhục 30-4. Những kẻ tạo ra ô nhục 30-4 lấy gì nhỉ? Họ đang cầm
ca, cầm đĩa xếp hàng ngửa tay lấy cơm, lấy nước ở đảo Guam. Biết đâu
chẳng xẩy ra tranh cơm như tranh quyền bính. Và biết đâu chẳng bị
ông quân cảnh Mỹ đen tặng một vài cái tát xiếc! Những kẻ này vẫn
thừa thãi vô liêm sỉ để họp bàn, hiến kết cứu nước. Lịch sử lại thêm
vài phụ trang chó đẻ.
Giải phóng quân đã đổ đầy trước thềm Hạ Viện. Cỏ đuôi chó hoan hô
tưng bừng. Dân chúng chiêm ngưỡng Trung Tá Long tản mạn. Trung Tá
Long nằm nguyên chỗ ông ngã rạp cho máu rửa nhục Sài gòn. Giã từ
liệt sĩ! Vĩnh quyết liệt sĩ. Xin hãy phù hộ tôi kéo dài cuộc sống
hèn để có ngày được viết vài dòng về Trung Tá.
BBT: Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có
dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu
sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta
muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ
túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn
An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng,
người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm
vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An
Vinh
Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc
Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa
Thiên Huế, họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ
trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An.
Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và
Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của
nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An
ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung
Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức
vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn
chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa
phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ
Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát
Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ
vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể
mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển
Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong
một tháng để thu xếp gia-đình.
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn
định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá
Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm
Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình.
Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực
hiện một việc cổ kim không giống ai:
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng
Thành Phố, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường
thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không
điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai
ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn
Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không
chịu, bắt họ đem đi trả lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở
sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân
Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc
lắc đầu nói: “...tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi
còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm
và cương trực, đông con nhà nghèo...”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp
Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán
suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà
Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long
đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi
nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết
ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra
mặt tôi cũng làm thinh luôn.
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ
tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông
gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung.
Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp
bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi
làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc
cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand
Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông
thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn
công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ
có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những
chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi
thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì
tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung
Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt
điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông
Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn văn Long:
“...Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông
dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An
ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong
sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt
đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo.
Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà
tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ
nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm,
Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông
điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền
hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia
đình...
...Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở,
lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn
răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải
chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực
tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện
nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn....
... Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có
khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có
khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật
hẹp với đồng lương của một công chức.
... Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau
khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng
Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như
của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán
giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn
toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như
không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ
đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch
cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà
thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cữa đóng then cài.
Long không tiếp bất cứ ai.
...Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến
Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh
Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu ,
Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ
cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và
văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt,
trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền
nong lem nhem với Long...”
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “...Nếu Long
chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải
cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được
lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày
trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn
Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh
Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu
không vui đấy...”
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không
hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công
việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo
gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không
dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử
hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây
rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông
tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi,
Long từ chối. Long nói:
“...chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và
có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi,
không nên buộc... Ông Giám Ðốc kết luận:...Long khắt khe sắt thép
với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng
với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình...”
Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng
để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu
một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm
năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường
trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố
là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và
nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi
thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng
cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy
lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật
từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ
hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân
trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường
Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc
Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở
vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ
lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang
ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở
lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại
cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường
Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt
điện nước cho Long.
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện
với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi
không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải
viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho
đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi
điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh
bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư
hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong
ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của
Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường
phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc
Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo
gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều
nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các
gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và
giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo
cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn
và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên
Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào.
Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho
Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4
chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần
ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện
không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông
cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu
đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy
Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường
rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông.
Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải
chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng,
nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho
tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói
lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng
vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2
tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ
đã đành, phần tôi cũng vui không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn
tới, hỏi ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một
ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ
tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác
về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm
phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong,
ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp,
tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh
nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có
cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm
một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho
Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải
nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học.
Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm
gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai
có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh
gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long,
tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con
heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo
sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại
càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa
nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các
con làm trọng. Ông thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm
cho được ba mớ chữ. Câu Ông thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là:
Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển
toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và
thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp
sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi
thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi không
quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan
Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi
thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền
cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như
thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà
tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ
những người thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần,
đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa
cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An
Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên
trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía
sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi
bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng.
Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều
về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế
khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến
phục.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin
ân huệ cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần
như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước
đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản
dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai
trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại
đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển
khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi
đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một
ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam
được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động,
thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó
tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của
Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình
Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở
Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng,
nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi
thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào
nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo
Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà
thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc
nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt
có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ
Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao
mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa
lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ
ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng
lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ
là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả
thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không
có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận
xác. Tới SàiGòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ
hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới
nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của
Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra
có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn
nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động
và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe
tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều
hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ
Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm
phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng
vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau
gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ
và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ
Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
* * *
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều
Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính
đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên
chí khí bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay
giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế
giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách
thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có
nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài
Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông
đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu
tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả
thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng
chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài
trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính
Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và
chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh
thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết
của Long là một cái chết bất tử.
Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ.
Ở tấm hình này, chiếc mũ đã bị ai đó lấy mất.
Hình tuẫn tiết của anh hùng Nguyễn Văn Long, trung tá Cảnh Sát
Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà trong ngày 30-4-1975 dưới chân tượng đài
Thủy Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ Nghị Viên VNCH.
Tân Sơn Hòa chuyển