Tham Khảo

Tùy bút của GS Tiến sĩ Tô Đồng (Dược)

Tin Westminster - Giáo sƣ Tô Đồng, nguyên khoa trƣởng Đại Học Dƣợc Khoa Saigon vào hai năm cuối 1974 và 1975, đã qua đời tại tƣ gia ở Newport Coast, California sáng sớm ngày thứ năm, hƣởng thọ 80 tuổi.

Những dòng kỷ niệm
Giáo sƣ Tiến sĩ Tô Đồng (1933-2012)
Khoa trƣởng
trƣờng Đại Học Dƣợc Khoa Sài Gòn, 1974-1975
Nguyễn Loan & Tô Đồng (8-9-1962)
Kính dâng anh linh Tứ Thân Phụ Mẫu
Thương mến tặng Nguyễn Loan
Các con:
Tô Huy Daniel & Robinson Miriam Cara
Tô Bảo Châu Brigitte & Bùi Xuân Minh
Tô Hoàng David
và các cháu:
Tô Nguyễn Norman Connor
Tô Mills Nolan
Tô Mills Brennan
Bùi Xuân Anh Maximilian
Bùi Bảo Khanh Annelise
Thân tặng các anh chị em Nội Ngoại
Riêng tặng các bè bạn xa gần
Tiểu sử
Giáo sư Tô Đồng (1933-2012)
Tin Westminster - Giáo sƣ Tô Đồng, nguyên khoa trƣởng Đại Học Dƣợc Khoa Saigon vào hai năm cuối 1974 và 1975, đã qua đời tại tƣ gia ở Newport Coast, California sáng sớm ngày thứ năm, hƣởng thọ 80 tuổi. Giáo sƣ Tô Đồng sinh ngày 7 tháng 11 năm 1933. Thời trẻ, ông là một sinh viên xuất sắc cả hai ngành Vật Lý và Dƣợc Khoa tại Đại Học Hà Nội rồi Saigon. Ông trình luận án Tiến sĩ Sinh Hóa tại Paris năm 1962. Về nƣớc, ông lập gia đình với Dƣợc sĩ Nguyễn Loan. Hai ông bà có ba ngƣời con và năm cháu nội ngoại. Trong thời gian giảng dạy các bộ môn Hóa Vô Cơ, Sinh Hóa tại Đại Học Dƣợc Khoa Saigon, Tiến sĩ Tô Đồng sát cánh cùng Dƣợc sĩ Bùi Đình Nam tạo dựng nên hãng bào chế Tenamyd, sản xuất nhiều loại thuốc viên và thuốc chích theo kỹ thuật tân tiến nhƣ các hãng Âu Mỹ thời bấy giờ. Sau khi di tản sang Hoa Kỳ tháng 5, 1975, Giáo sƣ Tô Đồng tiếp tục công việc nghiên cứu mà ông yêu thích.
Ông làm việc tại Stevens Point tiểu bang Wisconsin năm 1976, rồi trung tâm nghiên cứu Oklahoma trong bốn năm từ 1976 tới 1980, và đóng góp rất nhiều vào các công trình của trung tâm này. Từ thập niên 1980 tới lúc nghỉ hƣu 1999, nhà khoa học Tô Đồng tiếp tục đóng góp bằng công việc nghiên cứu tại đại học UC San Diego về các loại tế bào liên quan tới bệnh ung thƣ; rồi các công ty dƣợc phẩm Hybriteck, Eli Lylli, chuyên nghiên cứu về cách bào chế thuốc chống ung thƣ, làm từ các loại kháng thể nguyên bản. Cũng trong thập niên 1980, ông hết lòng hỗ trợ các dƣợc sĩ từng đƣợc đào tạo tại Saigon trƣớc 1975 trong việc học thi lấy bằng tƣơng đƣơng để hành nghề tại Hoa Kỳ. Giáo sƣ Tô Đồng viết nhiều câu chuyện mang tính hồi ký về những năm tháng khó quên trong các tập san Nha-Y-Dƣợc; và năm 2004, ông cho in cuốn Những Dòng Kỷ Niệm, tặng bạn hữu xa gần, đƣợc độc giả khắp nơi hâm mộ.
SB-TN xin thông báo tin này đến khán thính giả khắp nơi, và gửi lời phân ƣu đến cùng tang quyến.
Nguồn : http://sbtn.net/D_1-2_2-68_4-64054/giao-su-to-dong-nguyen-khoa-truong-duoc-khoa-saigon-qua-doi-tho-80-tuoi.html

Lời Giới Thiệu
Cách đây ít lâu, giáo sƣ Tô Đồng đƣa cho tôi xem bản thảo cuốn Những Dòng Kỷ Niệm và bảo tôi viết đôi dòng giới thiệu cùng với các bạn thân của ông là bác sĩ Nguyễn Khắc Minh, giáo sƣ Đàm Quang Hƣng và bác sĩ Phạm Tu Chính. Tôi thật cảm động vì đƣợc một ngƣời thầy cũ danh tiếng của trƣờng Dƣợc Khoa Sài Gòn tin cậy trong công việc tế nhị này.
Những Dòng Kỷ Niệm là một tập hợp những bài viết của giáo sƣ Tô Đồng về những kỷ niệm trong đời ông đã đƣợc đăng trên mạng lƣới toàn cầu. Đây không phải là một cuốn hồi ký giống nhƣ nhiều hồi ký xuất bản trong mấy năm gần đây. Ông không viết một tập hồi ký quy mô, mà chỉ ghi lại một vài kỷ niệm "để bà con cô bác xa gần sau này có thể biết đƣợc một phần nào về cuộc đời nhiễu nhƣơng, phức tạp của thế hệ chúng tôi" nhƣ ông đã viết trong lời phi lộ.
Bác sĩ Nguyễn Khắc Minh đã nêu rõ tinh thần khiêm tốn và sự hữu ích của Những Dòng Kỷ Niệm. Ông viết: "Đây là một hồi ký kể lại cuộc đời mình, nhƣng ít thấy tác giả nói về cái tôi. Tô Đồng giống nhƣ một máy quay phim, ghi lại những diễn viên, những cảnh trí mà đời đã mang lại cho mình, để có thể san sẻ với con cháu, bạn bè ở thế hệ này cũng nhƣ thế hệ sau…Với trí nhớ phong phú, với lời văn trung thực và sống động, tác giả đã trao cho đời một áng văn rất có giá trị, một món ăn tinh thần cho con cháu và bạn bè đƣơng thời. Tác phẩm này cũng rất hữu ích cho các thế hệ sau, để đọc và biết thêm cuộc sống của một ngƣời dân trong khoảng thời gian đặc biệt của lịch sử nƣớc nhà".
Giáo sƣ Đàm Quang Hƣng đã có nhận xét tổng quát rất xác đáng về nội dung cũng nhƣ hình thức của Những Dòng Kỷ Niệm: "Chúng tôi nghĩ rằng qua mƣời bài viết trong cuốn sách này, với lời văn thật nhẹ nhàng, sáng sủa, dung dị, dễ hiểu, tác giả muốn gửi đến bà con, bạn bè đồng thế hệ, cũng nhƣ gửi đến các độc giả đồng thanh đồng khí ở các thế hệ sau, nỗi niềm tâm sự của tác giả, một khoa học gia Việt Nam đa tài và khiêm tốn. Chúng tôi tin rằng quý vị độc giả sẽ cảm thấy thoải mái dễ chịu và say mê trong lúc đang đọc cuốn sách, và sau khi đọc xong, quý vị sẽ giữ lại đƣợc một số hình ảnh trong một giai đoạn đăc biệt của lịch sử nƣớc nhà, cũng nhƣ giữ lại đƣợc dƣ vị dịu dàng trong văn chƣơng của tác giả".
Bác sĩ Phạm Tu Chính trong thƣ gửi cho tác giả, đã viết những lời rất cảm động: "Đọc Những Dòng Kỷ Niệm, kỷ niệm cũ, trƣờng xƣa trên mấy thập niên, lại hiện về khiến tôi bồi hồi xúc động nghĩ tới những ngƣời bạn đã vĩnh viễn ra đi vì bệnh tật, hay đau buồn hơn vì cuộc chiến huynh đệ tƣơng tàn hay bỏ mình ngoài biển khơi trên đƣờng vƣợt biển tìm tự do. Cám ơn anh đã viết kể lại những đoạn đƣờng đời, không phải của riêng anh mà theo tôi nghĩ là của anh em cùng thời. Với trí nhớ tốt anh đã ghi lại nhiều kỷ niệm, thầy xƣa, bạn cũ mà anh em nhiều khi đã quên. Mong rằng Những Dòng Kỷ Niệm sẽ đƣợc in thành sách, phổ biến rộng rãi để thanh niên thế hệ sau hiểu đƣợc đời sống cha anh đã trải qua trong một giai đoạn lịch sử nƣớc Việt Nam thân yêu, nay đã ngàn trùng xa cách."
Ba vị kể trên đều là bạn thân của tác giả từ thuở nhỏ. Họ có thẩm quyền nói về tác giả và tác phẩm Những Dòng Kỷ Niệm. Còn tôi, một sinh viên thuộc thế hệ sau, nhỏ hơn ông đến 8 tuổi, cớ gì lại đƣợc ông bảo viết thêm lời giới thiệu? Khi học ở trƣờng Dƣợc vào thập niên 1960, tôi né tránh không liên lạc với các giáo sƣ đến mức tối đa, nên không quen biết giáo sƣ Tô Đồng. Ngày nay, ông thật đã coi tôi nhƣ một ngƣời bạn vong niên. Ông nghĩ là tôi đã hiểu ông nhiều
khi tôi đã sống và làm việc nhiều năm bên cạnh ông, từ 1972 khi tôi về nƣớc, và nhất từ 1976 khi ông về làm việc cùng tôi tại Oklahoma Medical Research Foundation cho đến ngày thầy trò cùng về hƣu trí tại San Diego. Đƣờng đời tuy có khác nhƣng hai thầy trò cũng đã chia xẻ nhiều cảnh ngộ: thuở thiếu thời đều may mắn đƣợc xuất ngoại du học giữa buổi chiến tranh. Thuở thanh niên cũng từng quyết tâm về nƣớc mong làm đƣợc một việc gì khả dĩ đền đáp đƣợc công ơn của đất mẹ. Thuở trung niên cũng phải rời bỏ đất nƣớc ra đi trong cơn quốc biến. Tại Hoa Kỳ, thầy trò cũng sát cánh bên nhau cùng những ngƣời tâm huyết làm những việc biết là chẳng thể thành công mà vẫn cố làm. Rồi những ngày thầy trò khảo cứu khoa học trong cùng một phòng thí nghiệm, những buổi đánh bài giải trí khi tuyết bay ngập trời bên ngoài ở Oklahoma City, những ngày đêm ở California cùng một số anh em tìm cách giúp đồng nghiệp cũ trở lại ngành Dƣợc. Nay đến tuổi về hƣu, thầy trò vẫn có dịp trò chuyện về trƣờng Dƣợc thuở xƣa, về cuộc đời muôn mặt… Ông đã coi tôi nhƣ một ngƣời thân cận đáng tin và tôi đã coi ông vừa là thầy vừa là bạn lớn tuổi đáng kính. Vì thế ông đã bảo tôi viết đôi dòng giới thiệu cuốn sách đầu tay của ông và tôi cũng hoan hỷ nhận lời.
Viết cuốn Những Dòng Kỷ Niệm, tác giả muốn mô tả cuộc sống của một ngƣời Việt Nam qua những kỷ niệm buồn vui của chính tác giả. Tuy cùng sống trong cảnh thăng trầm của đất nƣớc nhƣng mỗi ngƣời đều có kinh nghiệm cá nhân. Đọc Những Dòng Kỷ Niệm, những ngƣời cùng thế hệ với tác giả sẽ đƣợc dịp sống lại những ngày xa xƣa, nay chỉ còn là kỷ niệm dĩ vãng, và dĩ vãng dù đau thƣơng khi đã nhạt phai cũng sẽ trở thành êm ả. Những độc giả trẻ tuổi sẽ có một cái nhìn trung thực về thời đại gần mình nhất qua sự mô tả chân thực của một ngƣời trí thức có tiếng là thanh liêm. Tôi chƣa thấy ai tự khai chuyện mình thi đậu không do sức mình vì hoàn cảnh lạ lùng trong bài Những năm học và mùa thi đã qua. Những việc ông cho là do số phận đã làm cho chúng ta gần với ông hơn, vì cảm thấy một ngƣời nổi tiếng nhƣ ông cũng vẫn phải trải qua sự thử thách của bất cứ sinh viên nào khi chế độ giáo dục lỗi thời đã đƣa đẩy đến chỗ "học tài thi phận". Hào hứng nhất là những kỷ niệm thời niên thiếu của tác giả. Một kỷ niệm về ngành bào chế soi sáng huyền thoại về viện bào chế Tenamyd với những kỷ niệm cá nhân của ông Giám đốc Kỹ thuật, đọc không khô khan vì tràn ngập tình bằng hữu, tình đồng nghiệp, tình đồng đội, tình ngƣời. Thật trái ngƣợc với những kinh nghiệm làm việc ở Hoa Kỳ, đƣợc mô tả rất linh hoạt với sức sống động của nền kỹ nghệ trên đất Mỹ, đôi khi tàn nhẫn với các khoa học gia, nhất là với những ngƣời thuộc thế hệ di dân thứ nhất nhƣ thầy trò chúng tôi, một thế hệ lạc lõng vì cuộc đổi đời năm 1975.
Ngoài những chi tiết về một thời đã qua, độc giả còn đƣợc thƣởng thức bút pháp giản dị, trong sáng và những nhận xét rất tinh tế của tác giả, một ngƣời từ nhỏ đã có tiếng là có trí nhớ tuyệt luân và thông minh. Tác giả đã mô tả cảnh chống bão ở thôn quê thật đúng và thật buồn cƣời: "Căn nhà tranh vách đất rung lên từng hồi nhƣ lên cơn sốt rét…Gió lùa vào tận phía trong nhƣ muốn cuốn luôn cả tấm mái tranh lên trời cao. Ông Thân bảo chúng tôi phải ôm chặt lấy cột nhà, còn ông và bố tôi thì đánh đu lên sà ngang để giữ cho mái nhà khỏi bay mất. Thế mà bão cũng đi qua và căn nhà may còn đứng vững." Tôi rất thích đoạn tả tình tả cảnh của cậu học trò 16 tuổi một mình thui thủi sang tỉnh bên du học: "Lòng nặng trĩu nỗi lo âu của một học sinh nhỏ tuổi thời chinh chiến, tôi đeo ba lô độc hành trên đồng ruộng, xuyên qua những cánh đồng thơm mùa lúa chín. Bƣớc chân lặng lẽ mà vẫn làm kinh động những đàn cào cào, châu chấu, chúng vụt bay rồi đáp xuống rào rào nhƣ những chiếc lá vàng rơi rụng sau một cơn gió lốc xoáy lên cao."
Thầy tôi thƣờng hỏi cuốn Những Dòng Kỷ Niệm có nên xuất bản không? Tôi đáp: "Rất nên". Lý do rất đơn giản: Những Dòng Kỷ Niệm sẽ làm cho sinh hoạt văn hóa ở hải ngoại phong phú hơn với sự đóng góp của một ngƣời đáng tin cậy, lại có lòng nhân hậu ngay cả khi nói về những việc bi thảm của cuộc đời muôn mặt trong chiến tranh.
Viết tại San Diego, California, mùa thu năm Giáp Thân (2004)
Duyên Hà Lê Phục Thủy
CHƢƠNG 1
Lời Phi Lộ
Tôi về hƣu đến nay tính ra cũng hơn bốn năm. Thời gian trôi thật nhanh, mái tóc đã nhƣ Lý Bạch mô tả trong bài Tƣơng Tiến Tửu triêu nhƣ thanh ti mộ thành tuyết, sớm mới nhƣ tơ mà tối đã nhƣ sƣơng. Thỉnh thoảng tôi gom góp một vài dữ kiện, kể lại dăm ba chuyện cũ, e để lâu quên dần đi hết chăng? Hay vì muốn cung ứng một số bài vở cho mấy tập san Y Nha Dƣợc tại hải ngoại? Và lần hồi Những Dòng Kỷ Niệm này đã đƣợc hoàn tất tại San Diego, trong khoảng từ tháng 6, 2002 tới tháng 4, 2004. Khởi đầu, thật ra tôi định viết để bà con cô bác xa gần sau này có thể biết đƣợc phần nào về cuộc đời nhiễu nhƣơng phức tạp của thế hệ chúng tôi. Nhƣng kể những việc mình trải qua đƣa tôi trở về với môi trƣờng sinh hoạt thân quen, nên tôi đã để tâm ghi lại một vài nét trung thực của cuộc sống riêng tƣ cùng gia đình và bè bạn. Tôi nghĩ rất giản dị rằng những bài hồi ký tạo thành dòng kỷ niệm qua bao mùa ly loạn này có còn hơn không.
Khi có ý định nghỉ hƣu, tôi cũng tìm hỏi ý kiến và kinh nghiệm của các bè bạn đi trƣớc. Đang đi làm toàn thời gian, mà bỗng nhiên nghỉ hẳn thôi không làm gì cả thì làm sao giết thì giờ đây? Phải chi tôi làm việc bán thời gian, lúc về nghỉ có lẽ dễ dàng hơn. Có bạn vui đùa dọa rằng nếu bà xã đã về hƣu trƣớc mà là ngƣời nói nhiều thì thà đi làm không công còn sƣớng hơn. Ở nhà suốt ngày phải nghe bà ấy nói thì thật là khổ, mệt óc thật chứ không phải nhức tai đâu! Tôi học anh Nguyễn Ngọc Thịnh hiện cƣ ngụ ở Úc Châu nhiều điều đáng ghi nhớ nhất. Phải bới việc ra để mà làm, kể cả những việc lặt vặt nhƣ sắp xếp lại sách vở, bầy biện lại đồ đạc, thay đổi chỗ đặt chậu kiểng chậu lan, ra thƣ viện xem sách coi truyện đọc báo. Các anh Đặng Vũ Biền, Lê Phụng thì đi học chữ nho, anh chị Võ Đức Diễn đi học quan thoại. Hiện nay tôi có thì giờ trao đổi ý kiến thƣ từ trên mạng lƣới với các bạn Vƣơng Tú Toàn, Nguyễn Khắc Minh, Vũ Quốc Oai, Nguyễn Hữu Quang, Đàm Quang Hƣng. Hoặc đọc ít sách về dịch học hay triết học, tôn giáo. Mới thấy những đề tài quan trọng nhƣng khó lãnh hội này cũng có những bài viết đặc sắc của các bạn Lê Phụng, Bạch Lý Từ, Nguyễn Văn Phú... Ai nấy trở lại cuộc đời sinh viên nhƣ học vẽ, tập đàn, làm việc thiện nguyện. Và ngƣời ta cũng bỏ công tìm lại một vài hình ảnh thất lạc, kiếm liên lạc với bà con đã lâu không có tin tức. Hay tụ họp chơi cờ, đánh bài, ăn nhậu ca hát, cùng ôn chuyện cũ, kể chuyện mới. Hoặc đi casino đánh bạc thử vận đỏ đen, đi du lịch và du thuyền rồi nhân dịp tham dự hội hè và gặp lại bạn bè bốn phƣơng.
Ngoài việc đi bộ, hay tập tành tại các trung tâm thể dục thể thao, thì lúc hƣu trí, làm vƣờn nhặt lá tƣới cây cũng là lối giải trí lành mạnh cho cả tâm hồn lẫn thể xác. Nhớ lại khi chúng tôi mới tới thành phố San Diego cƣ ngụ, có lần giàn bí đao ra đến năm trái lớn, mỗi ngày đi làm về lại ra ngắm các trái bí xanh to dần lên, thật là kỳ diệu! Có quả nặng tới 52 pounds, tôi phải dùng những
cây sắt chống đỡ cho giàn khỏi sụp đổ. Hay khi hoa lan hoa quỳnh trong các chậu cảnh nở rộ, cây mận cây hồng ngoài vƣờn cho ít nhiều trái chín, là lòng thoáng thấy nhẹ nhàng an vui.
Chúng tôi cũng thấy lây sự hồn nhiên khi bầy cho con trẻ những trò đƣợc thua, theo thể nói lối của các bài đồng dao. Thí dụ chơi Nu na nu nống, Chi chi chành chành, Kéo cƣa lừa xẻ. Nhiều khi muốn dậy con trẻ nói tiếng Việt mà thấy tội nghiệp cho chúng đã vất vả với tiếng Mỹ tại trƣờng và còn phải tập đủ thứ nhƣ đàn dƣơng cầm, võ Đại Hàn, chơi đá bóng, chơi baseball. Nhƣng nếu bảo cùng đọc những bài ca dao, thì tuy chúng không hiểu đƣợc nghĩa cũng bắt chƣớc đƣợc giọng:
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.
Và tuổi thơ ấu thật đẹp biết bao! Không nhớ ai đã phỏng dịch một bài thơ tuyệt hay Lorsque l‟ enfant paraît của Victor Hugo trong những câu sau đây:
Em bé hỡi em là nắng sớm,
Mà hồn ta là cánh đồng hoang,
Đồng hoang tươi với hoa ngàn,
Hoa ngàn vui với nắng vàng buổi mai...
Đƣợc trông nom vui đùa cùng các cháu nội ngoại lúc tuổi già quả là niềm hạnh phúc. Tỷ nhƣ chúng ta đƣợc sống an lành trong thời Việt Nam còn tràn ngập khói lửa cũng là có phƣớc lớn hay có mệnh tốt? Tôi nghĩ chỉ cần biết qua loa về tử vi, phong thổ, tƣớng số cũng là điều lý thú, những triết lý mà tôi có cơ may học hỏi từ chú thím Hoàng Ngọc Can. Tuy nhiên, lần thầy Minh Lộc đƣờng Trần Quí Cáp trao cho tôi mấy chục tập vở ghi lại kinh nghiệm của ông để tôi biên soạn lại, tôi đắn đo mãi rồi đành xin chịu vì thấy không đủ sức. Chuyện khoa học huyền bí làm tôi hồi tƣởng đến những buổi vui vẻ đƣợc nghe thầy Minh Lộc, thầy Canh, thầy Kim giảng tử vi, cụ Dƣơng Thái Ban nói về địa lý, hay cụ Diễn bàn về diện mạo thần sắc.
Tuy không cơ hội để tìm hỏi nguyệt lão, nhƣng tôi quả may mắn có dƣợc sĩ Nguyễn Loan nhận làm ngƣời bạn đời. Chúng tôi chỉ biết trông vào duyên số, và thƣờng cầu xin Trời Phật ban cho cuộc sống bình an. Một vài bài của bác sĩ kiêm nhà văn Nguyễn Đức An nói về trƣờng cũ còn nhắc đến các chị Cao Xuân Châu Phố, Hoàng Thị Châu Quy, Tăng Thị Tuyết và nhà tôi khi đang theo học tại Chu Văn An. Xin cám ơn bác sĩ An, vì khi đọc truyện, chúng tôi cảm thấy tất cả sự xao xuyến của buổi thiếu thời. Tôi cũng không quên ông Chánh, tài xế của viện đại học đã đem giùm hoa của tôi gửi tặng nhà tôi vào một dịp tết năm nào. Và các sứ giả đã giúp những lá thƣ xanh của chúng tôi tuần tự vƣợt đại dƣơng mấy năm trời liên tiếp: chị Vũ Thị Hòa sau là giáo sƣ và chị Nguyễn Thị Ngoan sau là dƣợc sĩ. Để rồi chuyện chúng tôi thành tựu bình thƣờng khi tôi từ Paris về lại Sài Gòn. Cô chú Lê Văn Khoa đã từng bảo lãnh cho tôi đi Pháp, nay lại đại diện cho nhà trai. Cô Tô Kim Hiến là em thân thiết của bố tôi, chú Khoa lúc đó đang làm Đại Tá Ủy Viên Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt. Bố mẹ nhà tôi đều hiền hậu, cụ ông Nguyễn Văn Ƣng là Kỹ sƣ Công Chính đã về hƣu, cụ bà Phạm Thị Hiền chỉ biết chăm lo cho con cháu. Từ dạo đó, cô án Khoa và bà tham Ƣng trở thành bạn thân. Chạm mặt, ăn hỏi, lễ đón dâu đƣợc tổ chức theo đúng thủ tục Việt Nam. Chúng tôi in thiệp báo hỉ tại Kim Lai Ấn Quán, lập hôn thú tại Tòa Đô Chính
Sài Gòn, đặt dạ tiệc tại nhà hàng Kim Đô. Ngày cƣới là ngày 8 tháng 9 năm 1962, có các cô Phan Thị Tích Thiện, Vũ Thị Hòa, Nguyễn Lan Phƣơng, Nguyễn Thị Minh Hằng làm phù dâu. Có các anh Võ Đạm, Vũ Xuân Châu, Phùng Quốc Anh, Phạm Ngọc Tùng đi phù rể. Với sự hiện diện của bao nhiêu bà con bè bạn thân thƣơng. Tôi không muốn viết lại câu chuyện này, vì thấy chung quanh có nhiều cuộc tình thật đẹp đáng kể hơn, và cũng vì mình còn chƣa luyện đủ bút pháp.
Tuy tuổi nhỏ từng phải làm luận, học thuộc lòng các bài thơ hay, sao chép lại các đoạn tiểu thuyết đẹp, nhƣng tôi ít năng khiếu văn chƣơng. Làm sao tài ba nhƣ Anatole France viết về ngày khai trƣờng mà đọc lên y hệt nhƣ một bài thơ? Ông nhìn lại hình bóng của mình trong tâm tƣởng hai mƣơi lăm năm về trƣớc. Chỉ là cậu học trò nhỏ đi học ngang qua vƣờn Luxembourg, tay đút túi quần, vai mang cặp sách, dáng đi nhẩy nhót nhƣ một con chim sẻ. Làm sao thiệt giỏi nhƣ Alphonse Daudet, ngƣời kể chuyện quyến rũ nhất của thế kỷ thứ 19? Với những trang giấy đầy cảnh ngộ đặc sắc trong Les Lettres de Mon Moulin. Làm sao vui nhộn nhƣ một nhà văn trong giai phẩm Xuân 1950 tại Liên Khu Ba, bàn về một kỳ kế của đệ nhất gian hùng thời Tam Quốc mà y hệt nhƣ nói câu chuyện vừa mới xẩy ra. Để kết luận bằng một lời khen kèm theo câu chửi rủa phẫn nộ: Hay, hay thật, tiên sƣ anh Tào Tháo! Và làm sao học hỏi đƣợc các văn nghệ sĩ tài danh, bên này và bên kia chiến tuyến, nơi mà kẻ thắng ngƣời bại đều mang đầy thƣơng tích? Trong hệ lụy quốc cộng, độc tài và dân chủ, chiến tranh và hòa bình. Của các nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nam Phong, Tri Tân, Nhân Văn Giai Phẩm, Sáng Tạo, Chỉ Đạo... Và thời đại nhiễu nhƣơng nô lệ, kháng chiến, tản cƣ, hồi cƣ, di cƣ, di tản của toàn thể dân Việt.
Nếu không có biến cố tháng tƣ năm 1975, tôi đã không viết lại một số chuyện đã xẩy ra. Để rồi nhiều lúc băn khuăn tự hỏi viết để làm gì, viết cho ai đọc? Và còn cố tìm ra những lý do, những lời giải thích cho việc làm rất giản dị này. Tiếc rằng tôi không có ngòi bút sắc bén để mô tả đƣợc các sự việc của thời đại đã qua nhƣ một chứng nhân. Là một nhà khoa học, tôi chỉ cầu mong một cuộc sống an bình. Và những điều mình không muốn, thì không làm cho ngƣời khác: kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân. Tuy nhiên, nếu ghi lại đƣợc một chút nào tình ngƣời, kể đƣợc đôi ba điều vui đẹp trong cuộc sống, tôi cũng cảm thấy niềm thích thú để chia sẻ cùng bạn bè độc giả. Trong thời tản cƣ, tôi gặp nhiều dân quê miền Bắc chất phác, giúp đỡ nơi ăn chốn ở mà chẳng mong cầu sự trả ơn. Tính họ giản dị dễ dàng nhƣ làn nƣớc chảy xuôi. Họ đã cho tôi những tháng ngày vui tƣơi ở Ngọc Nha, Gạo Nam, Thƣợng Phú. Thời di cƣ, tôi quen nhiều dân Nam thật thà không kiểu cách, tâm tình tƣơi sáng nhƣ gạo trắng trăng thanh miền sông nƣớc Đồng Nai. Để cho tôi những ngày thật đẹp ở Đại Học Xá Chợ Lớn. Trong bốn năm học tại Kinh Đô Ánh Sáng, tôi đƣợc giao thiệp với nhiều dân Pháp lịch sự, không kỳ thị mà cũng chẳng bóc lột ai. Tôi đã học hỏi chiêm nghiệm đƣợc phần nào những nét đẹp của văn minh tây phƣơng. Và từ thời di tản, tôi cũng gặp nhiều ngƣời Mỹ tốt tính, có đầu óc xã hội và hay tận tình giúp đỡ. Tôi cũng đã hòa vào một thế giới hợp chủng năng động, đầy sức mạnh kỹ thuật kỳ bí khó mà lý giải đƣợc.
Thế mà trong khi đó, vào cuối thế kỷ qua, đất nƣớc tôi đã trải qua biết bao nhiêu hoạn nạn vì chinh chiến. Làm ngƣời dân thƣờng chỉ còn biết kêu trời, khổ tại mình cũng có mà tại ngƣời cũng không phải ít. Dù duy tâm hay duy vật, con ngƣời vào thời nào và ở nơi nào cũng có tốt có xấu. Có thể vì tính tình khó dễ, quan niệm khác biệt, trình độ hiểu biết không đồng đều. Nhƣng ông trời đã phó mặc cho những nhà điều khiển quốc gia trọng trách với đồng loại, thì một chính sách lầm lẫn của họ có thể gây tang tóc cho dân nƣớc khác, đôi khi còn làm hại cho cả chính dân mình. Tôi không có thói quen viết nhật ký, nên nói chuyện cũ hầu nhƣ chỉ còn dựa vào trí nhớ rất
giới hạn. Mà những điều mắt thấy tai nghe thƣờng bị quên lãng vì thời gian và không gian, nay đã quá cách xa. Nhiều chuyện xẩy ra cũng trên nửa thế kỷ. Lắm lúc phải hỏi lại nghĩ lại mới chợt nhớ ra. Với những dòng kỷ niệm sau đây đƣợc sắp xếp theo từng khung trời riêng biệt về việc, về ngƣời, về cảnh, về vật. Tôi mong bà con bè bạn có tên hay không trong tập bút ký này, hãy rộng lƣợng bỏ qua các lỗi lầm vì vô tình hay sơ xuất. Trong đôi ba nét mộc mạc ghi dấu một thời ly loạn mà chính chúng tôi hay có thể các độc giả đã phải trải qua.
CHƢƠNG HAI
Tuổi xanh ở miền Bắc
Thời đệ nhị thế chiến có những buổi sáng tới lớp học, chúng tôi phải đọc lời của Quốc Trƣởng Đức Hitler đã nói, hay phải hát bài chúng tôi có mặt đây với Thống Chế Pháp Pétain: Maréchal, nous voilà, devant toi le sauveur de la France... Nhƣng cũng có khi đƣợc xem những trang hoạt họa mầu sắc kể chuyện về chiến công của đồng minh, về sự hy sinh của Đại Úy Phi Công Đỗ Hữu Vị cho mẫu quốc trong thế chiến thứ nhất.
Từ cuộc cách mạng tháng tám, thời của các cuộc biểu tình, hoan hô, đả đảo, các phong trào cứu quốc, có lúc chúng tôi phải ca tụng Chủ Tịch Hồ Chí Minh: Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng... Về Hà Nội, vùng quốc gia, thời của những truyền đơn chống thực dân đòi độc lập, chúng tôi có lần phải thề trung thành với Quốc Trƣởng Bảo Đại. Và đến ngày di cƣ, thời đủ các loại mít tinh, biểu ngữ, kiến nghị, các vận động bài phong đả thực, chúng tôi có khi đứng dậy suy tôn Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong rạp chiếu bóng: Ngô Tổng Thống muôn năm... Công hay tội của những vị này có lẽ tùy theo quốc gia và cách nhìn của mỗi thời điểm.
Nếu anh hùng hào kiệt đã có các sử gia phê phán, thì đại đa số dân lành đành lãnh chịu đủ mọi hậu quả, thƣờng là tai hại hơn phúc lợi, của những chính sách nhà nƣớc, một khi quốc gia còn nô lệ hay độc tài. Nhƣng ai mà không có những lựa chọn và ƣa ghét riêng tƣ, và ở thời nào thì vẫn nhất tƣớng công thành vạn cốt khô, hay đƣợc làm vua thua làm giặc. Điều đáng tiếc nhất là từ thời buổi hỗn mang đó, đất nƣớc chúng ta đã có bao nhiêu gia đình chịu cảnh anh em phân tán, vợ chồng ly tan. Và thiệt thòi biết bao, khi quá nhiều nhân tài bị thui chột, cả bên này lẫn bên kia chiến tuyến. Vì phong kiến, thực dân, cộng sản, và các tổ chức cực đoan. Con ngƣời ta chỉ còn trông vào sự may rủi hay số mệnh. Biết đến ngày nào thế giới mới thật sự có hòa bình và nƣớc ta sẽ đƣợc thanh bình trong sự phồn vinh dân chủ?
Bài viết này tôi ghi lại vài nét về thời thơ ấu, những ngày còn trẻ dại, cho tới tuổi thanh xuân. Một chút gì của riêng tôi, khi tóc còn xanh, môi còn hồng, trôi theo những tháng năm an bình xen lẫn với các mùa ly loạn. Trên những khung trời miền Bắc, trƣớc khi có cuộc di cƣ vĩ đại vào Nam tháng 7 năm 1954.
Lao Kay
Tôi chào đời năm 1933 tại Lao Kay, một tỉnh biên giới Việt Bắc. Bƣớc qua chiếc cầu nhỏ Hồ Kiều là đã sang tới Vân Nam của Trung Hoa, vùng đất cho những trái mận ngọt ngào và đào tiên thơm ngon. Sinh nhật tôi mồng 7 tháng 11 thật dễ nhớ, vì cũng là ngày Cách Mạng Nga Sô Viết, hay ngày Khởi Nghĩa của nhóm Bôn Sê Vích. Vào năm 1917, nhóm này đã cƣớp chính quyền
nƣớc Nga, mang lại cho nhân loại một thời hi vọng thật ngắn ngủi, để rồi tiếp theo một thời hãi hùng dài đằng đẵng. Phải đợi tới bẩy chục năm sau, Tổng Thống Yeltsin mới có thể cho xây một đài tƣởng niệm các nạn nhân trong cuộc Nội Chiến 1918-1920, và ra nghị định đổi ngày này thành Ngày Hòa Hợp Hòa Giải. Thế giới hiện nay may có đƣợc đôi chút an bình, tuy ngƣời ta lại bắt đầu lo sợ chiến tranh khủng bố!
Trong khai sinh tôi thấy ghi tỉnh Lao Kay, châu Bảo Thắng, làng Lao Kay. Ngoài tên bố mẹ, ngƣời đứng khai là bác sĩ tỉnh Lao Kay, với các thầy giáo Đoàn Quang Hanh và Vũ Ngọc Toản làm nhân chứng. Mẹ tôi kể là khi sinh ra tôi có tràng hoa quấn cổ, lúc nhỏ khó nuôi và hay đau ốm, nhƣng nếu sống đƣợc thì sẽ khá. Bà còn chế nhạo rằng tôi đi đâu cũng phải mang theo một chiếc gối, lúc cần thì dùng để đỡ đầu, vì đầu tôi xem ra lớn hơn khổ ngƣời. Trên đƣờng đời, mỗi lần thay đổi chỗ ở, tôi thƣờng mang theo hành trang một số ảnh chụp cùng gia đình. Để khi rảnh rỗi, đôi lúc đem ra coi lại. Có cả tấm ảnh hồi nhỏ tôi mặc một chiếc áo gấm dài đứng trên cầu Hồ Kiều với bố mẹ. Thế mà những ảnh chụp ở mọi nơi chúng tôi đã sinh sống đều bị thất lạc khi vội chạy thoát thân trong biến cố tháng tƣ đen! Gần đây tôi mới đƣợc ở nhà gửi cho mấy tấm ảnh cũ còn sót lại. Có một bức chụp ba chị em với bố mẹ tại trƣờng kiêm bị Lao Kay, khi em Đằng mới sinh đƣợc mấy tháng. Tôi còn quá nhỏ để nhớ phong cảnh nhân vật tỉnh lỵ này ra sao? Nhƣng đặc biệt là món sôi nứa của ngƣời miền núi thì tôi không quên. Gạo nếp đem vo, đổ vào ống nứa non, rồi nƣớng trên lửa cho chín. Lúc tách ống nứa lấy cơm nếp ra ăn thì thật là dẻo và thơm ngon.
Thông thƣờng, công chức thời Pháp thuộc phải đi miền sơn cƣớc nhận việc mấy năm trƣớc khi đƣợc đổi về nhiệm sở vùng đồng bằng. Khi bố tôi làm hiệu trƣởng trƣờng Lao Kay, mẹ tôi sinh em Đằng, khỏe mạnh và cao lớn hơn tôi, nƣớc da ngăm ngăm đen. Mẹ tôi thƣờng gọi đùa em là mán xá, vì vùng này có nhiều sắc tộc thiểu số. Mẹ tôi nói khi bà có mang tôi, gia đình còn ở vùng Trà Lũ Bắc Nam Định, nên tôi trông trắng trẻo nhƣng yếu đuối hơn. Có lẽ nào nƣớc da lại phụ thuộc vào nơi sinh trƣởng?
Nơi đây bố tôi nhận việc sau khi tốt nghiệp trƣờng bƣởi Nam Sƣ Phạm vào năm 1928. Cũng là nơi mà bố tôi có đƣợc một ngƣời học trò tốt, đẹp trai, tƣớng ngũ đoản, anh Mai Quí Hiên, sau học lớp sĩ quan tại Tông của Pháp. Anh theo kháng chiến từ cuộc cách mạng mùa thu cho đến khi thắng lợi. Hồi chúng tôi còn tản cƣ ở vùng Hƣng Yên Liên Khu Ba, thỉnh thoảng anh có rẽ qua thăm bố tôi. Lúc đó tƣớng Nguyễn Văn Vận, nguyên là Thiếu sinh quân của Pháp, đi đâu ở đâu anh ấy cũng có tin tức. Tƣớng Vận, con cụ Lãnh Quảng, ngƣời bạn thƣờng đến chơi với bố tôi trong nhửng dịp tết nhất, cũng là học trò cũ tại Hải Dƣơng. Vì vậy nên có thể ngƣợc lại, anh Hiên ở đâu đi đâu tƣớng Vận cũng rõ. Hình nhƣ về sau, thời Thủ Tƣớng Ngô Đình Diệm, gia đình tƣớng Vận sang lập nghiệp ở Sceaux, ngoại ô Paris. Tôi ngƣỡng mộ anh Hiên, và rất biết ơn anh đã săn sóc bố tôi khi đau yếu và vĩnh viễn ra đi lúc 75 tuổi tại Hà Nội. Vào dịp tôi về thăm mẹ cùng anh chị em tôi tại Hà Nội những ngày cuối năm 1994, tôi may mắn đƣợc gặp chị Hiên. Tuy tóc chị đã bạc trắng nhƣng thần thái rất an vui. Thật là thú vị tuyệt vời, khi đƣợc gập một gia đình trọng lễ nghĩa ở một thời ly loạn khắc nghiệt!
Hải Dƣơng thời Pháp thuộc
Thời gian gia đình tôi ở Hải Dƣơng tính ra cũng đến gần bẩy năm. Tỉnh này nằm trên đƣờng số 5, khoảng giữa Hà Nội và Hải Phòng. Tôi học trƣờng Ga từ lớp đồng ấu đến khi thi Sơ Học Yếu Lƣợc, rồi lên lớp nhì năm thứ nhất. Hệ thống tiểu học lúc đó có lẽ sáu năm, gồm các cours enfantin, préparatoire, élémentaire, moyen un, moyen deux, supérieur. Sau lớp nhất thi Sơ học Bổ túc hay CEPCI. Trong tỉnh có cụ Đốc Học Nguyễn Hoài Đĩnh, với bốn cậu con trai đều học giỏi Xuân Hạ Thu Đông. Tuần phủ là cụ Nguyễn Hữu Cung, thân phụ của các anh Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Vƣợng. Tôi còn nhớ đƣợc ít nhiều phố xá nơi đây và một số sự việc xẩy ra ngày ấy.
Nhà tôi ở số 79 phố Đông Giàng là một căn nhà rộng rãi, có cổng bên hông nhỏ và lối đi vô thật dài. Sân trong nhà rất rộng có thể chơi bịt mắt bắt dê, nhẩy dây, nhẩy lò cò, đánh ô, chơi dải danh. Nhà mặt tiền có hàng hiên rộng ở giữa, đƣa tới cửa chính đi ngay vào phòng khách. Trong phòng bầy bộ sa lông gồm nhiều bàn ghế tràng kỷ bằng gỗ gụ chạm trổ thật đẹp, có đỉnh đồng, có lộc bình trang trí. Bên phải là phòng làm việc của bố tôi, có bàn giấy rộng, mấy tủ sách, một ghế ngựa đặt gần cửa sổ trông ra phố. Bên trái có phòng ngủ rộng kê mấy chiếc giƣờng, một phòng nhỏ kê mấy chiếc rƣơng. Phòng ngủ này có cửa sổ rộng phía trƣớc trông ra đƣờng và một
cửa ra vào ăn thông xuống nhà ngang phía sau. Trong nhà này có kê mấy tấm ghế ngựa, trên trần có quạt kéo, và một bàn học trò dài của chúng tôi. Nhìn ra sân có tƣờng thấp ngăn chỗ ở và một hƣơng án giữa trời xây trên bể nƣớc ăn, có một giếng nƣớc, và vào trong phía sâu là nhà bếp, nhà tắm, nhà của ngƣời làm. Cổng hậu nhà bếp mở ra một vƣờn nhỏ trồng mấy cây đu đủ, có nhà cầu, có nhà kho chứa than. Những nắm than hình quả bàng do ngƣời bếp trộn than với bùn rồi nắm lại phơi cho khô trƣớc khi đốt trong lò.
Thân nhất có các anh chị con bác Văn Hải, chủ một nhà sách lớn nhất ở trung tâm thành phố. Bác có biệt tài đóng những tập sách quí, bìa bọc da, chữ mạ vàng thật đẹp. Những quyển sách gia bảo. Các chị lớn là Thuyến, Toàn, Dung, và các anh cùng trạc tuổi tôi Minh, Long, Lanh. Ngoài Văn Hải còn có nhà sách Phú Văn tỉnh Hải Dƣơng cũng của một bà con trong họ. Bè bạn tuổi học trò có Lê Phụng, Nguyễn Văn Vỹ, Nguyễn Hoàng Lĩnh con thầy Nguyễn Hoàng Trừng, Lê Văn Kiên con bác sĩ Lê Văn Khải. Bác sĩ Khải từng chữa trị cho cả gia đình chúng tôi. Tôi sợ nhất mỗi lần phải ra nhà thƣơng uống huile de ricin chénopodée, thuốc trị lải đũa lải kim. Mà dầu thầu dầu để sổ đặc sệt thật khó nuốt, mùi tinh dầu chenopodium trị lải dễ làm ói mửa. Mất cả một ngày khốn khổ, bây giờ không một ai còn dùng thứ thuốc này. Tại tỉnh có nhà thuốc tây cửa hàng quầy tủ sang trọng, đầy đủ thuốc pha chế của dƣợc sĩ Quản Trọng Tiến. Tôi còn nhớ bà đỡ Vũ Thị Ngãi thƣờng đỡ đẻ cho mẹ tôi, cũng là bạn đánh quần vợt của bố tôi. Lần mẹ tôi sinh em Tô Đại xong thì bị hậu sản, băng huyết, đƣợc chích nƣớc biển và dùng đủ thuốc bổ cả tây lẫn ta mà không thấy hiệu quả. Mẹ tôi sức khỏe yếu dần, tƣởng không thể thoát chết. Lúc đó bà con nội ngoại trong quê nghe tin đã ra túc trực chật cả nhà để chờ đƣa đám, nên ba anh em chúng tôi đƣợc gửi đi ở nhờ nhà bác Văn Hải. Bác gái hỏi tôi là nếu mẹ cháu mất, cháu có buồn không? Hình nhƣ tôi đã trả lời là cháu buồn lắm chứ, nhƣng sống chết có số biết làm thế nào đƣợc? May mà mẹ tôi đột nhiên hồi tỉnh lại, rồi sức khỏe hồi phục dần dần, sau còn sinh thêm ba em nhỏ nữa. Nếu mẹ tôi mất ngày đó, thật không biết thân phận anh chị em chúng tôi sẽ ra sao?
Tại Hải Dƣơng tôi cũng đi theo sói con trong mấy năm, biết đƣợc mƣời điều tâm niệm, học đƣợc nhiều kiến thức phổ thông, thăm đƣợc bao nhiêu danh lam thắng cảnh trong những lần cắm trại. Thƣờng ngày cũng cố làm đƣợc một việc thiện nhỏ bé giản dị. Nhớ nhất là buổi họp bạn trong đêm tại đền Kiếp Bạc thờ đức Trần Hƣng Đạo. Và tôi còn thuộc ít nhiều về một bài hát tƣơi trẻ nhƣ sau:
Ngày vui sướng,
Tiếng cười vang,
Gieo trong lòng
Tình yêu đời.
Về chớ quên,
Nơi này đầy vui sống.
Ngày vui ngắn,
Ví tầy gang.
Chân ra về,
Lòng khôn rời.
Về chớ quên,
Nơi này đầy thắm tươi.
Kìa vừng ô lấp ló xuống non,
Đường về thôn tiếng hát véo von.
Đây là lối,
Chim về tối,
Tìm ân ái dưới mái trong màn đêm.
Đây là chốn,
Ta về tối
Tìm thân ái dưới mái êm đềm.
Chỉ tiếc rằng tôi đã quên hết tên của bè bạn và ngƣời Trƣởng dìu dắt sói con và hƣớng đạo lúc đó! Cho đến một bức ảnh kỷ niệm cũng không có nữa.
Hƣng Yên thời đệ nhị thế chiến
Đầu thập niên 40, bố tôi đậu kỳ thi Huấn Đạo Hạng Nhất khóa đầu tiên. Vì đậu thứ tƣ nên đƣợc quyền chọn chỗ, và bố tôi đã chọn tỉnh Hƣng Yên. Có thể vì quê tôi thuộc tỉnh này, hay vì tỉnh này nổi danh với nhiều nhân vật, nhiều lịch sử, và Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến chăng? Giữa tỉnh lỵ có một hồ bán nguyệt lúc nào nƣớc cũng trong xanh. Ngƣời ta cho rằng thời loạn lạc xƣa kia có nhiều đồ đồng chôn dấu ở dƣới nên rỉ đồng làm nƣớc trở thành xanh ngắt.
Nhà tôi ở là một nhà lầu của chính phủ, gia đình chúng tôi ở trên tầng gác. Tầng dƣới dùng làm văn phòng của bố tôi, có lính lệ, có thƣ ký. Ngƣời phu xe kéo chiếc xe nhà chở bố tôi tới tận các trƣờng làng thuộc những phủ huyện gần tỉnh lỵ, nhƣ Tiên Lữ, Phù Cừ, Kim Động, Khoái Châu, Ân Thi. Anh ta còn có nhiệm vụ của ngƣời bếp, mang theo một số dụng cụ nấu nƣớng để làm cơm cho bố tôi. Mỗi lần đi khám trƣờng tiểu học cũng mất cả năm bẩy ngày mới xong. Rồi bố tôi về làm bản báo cáo, phê điểm, và trình lên trên. Tới Hƣng Yên, tôi vừa lên lớp nhì năm thứ hai tiểu học. Tôi có thêm nhiều bạn mới, nhƣng nhớ nhất là Vũ Trùng Thân con cụ tham Hàn. Thầy Lê Văn Trọng, với chủ trƣơng tiên học lễ hậu học văn, đã dậy dỗ cho tôi nên ngƣời. Và là ngƣời đã đào tạo ra các giáo sƣ nổi danh, Vũ Nhƣ Canh của Khoa Học, Nguyễn Khắc Minh của Y Khoa.
Trong thế chiến thứ hai, tỉnh Hƣng Yên có hai trƣờng trung học sơ tán từ Hà Nội về là Đỗ Hữu Vị, và Đồng Khánh. Đốc Học coi ngành tiểu học lúc đó là cụ Lê Văn Lệ. Cụ đƣợc sáu anh chị, kể cả chị Dƣơng, chị Trúc cùng học với chị Xuân Nhân tôi. Và cùng học với các chị Phạm Thị Ngọ, Phạm Thị Thân, chị Hƣng, chị Liên tại trƣờng Đồng Khánh, khi bà Mougenel còn là Giám Đốc. Chị Hƣng học giỏi nhƣng mất sớm. Chị Liên con bác Trịnh Quang Quỹ thƣờng ra ở chơi cuối tuần với bố mẹ tôi, cũng mất vì thƣơng hàn vào một mùa hè tại Hải Phòng. Mãi sau này tôi có dịp gập lại bác Quỹ, lúc đó đã là một thƣợng nghị sĩ miền Nam. Anh Chu Thế Nhƣơng, cháu ruột mẹ tôi, một ngƣời anh thân của tôi, học tại Đổ Hữu Vị. Trên con đƣờng vô tới cổng trƣờng này, ngƣời ta xây một hồ nhỏ trồng sen thả cá thật đẹp. Hƣng Yên để lại cho tôi nhiều kỷ niệm thuở học trò, cùng bạn học đánh khăng, đánh đáo, đánh bi trên những con đê trồng nhiều cây nhãn lồng, loại nhãn tiến để vua chúa thƣởng thức. Vào mùa nƣớc, các chùm quả sẫm vàng nặng chĩu chen lấn với cành lá xanh đậm. Những lá xanh này thƣờng đƣợc dùng để ủ mốc làm tƣơng. Hè phố trong tỉnh còn trồng nhiều cây bồ hòn rất cao. Cứ mỗi trận mƣa rào mùa hạ làm lá trút xuống và quả xanh rơi rụng, thì mặt đƣờng lại đầy bọt bong bóng nổi lên dƣới những hạt mƣa. Đầu tỉnh có con đƣờng dài chạy ra phía ngoại ô và dẫn tới một ngôi chùa thật đẹp. Vào những ngày đầu năm, tôi lại súng sính trong chiếc áo xa đen mỏng mặc phủ ngoài một áo dài trắng, theo bố mẹ chị em đi đón xuân hái lộc.
Nhƣng nhớ nhất và sợ nhất là trận đói năm Ất Dậu. Thời đó ruộng ở thôn quê phải dành để trồng đay cho quân phiệt Nhật, vì thế trong tỉnh cũng xuất hiện nhiều xƣởng dệt bao bố dùng cho chiến tranh. Ngƣời dân quê mất đất trồng trọt, nên không có gì để ăn dù là củ chuối, đọt khoai. Họ bèn lũ lƣợt kéo nhau nhƣ những xác vô hồn lên tỉnh để xin cơm cháo, rồi đói nằm la liệt trên vỉa hè. Mỗi buổi sáng có những chiếc xe bò thu nhặt ngƣời chết hay ngắc ngoải chết. Rồi đổ vôi bột lên khử trùng và đem đi chôn cất. Cũng có trẻ em miền quê bị bỏ đói hay bị giết làm nhân bánh giò trong thời buổi đau thƣơng này. Và vì vậy ngƣời lớn thƣờng căn dặn trẻ nhỏ cấm không đƣợc đi theo ngƣời lạ, sợ bị mẹ mìn dỗ rồi bắt mang đi làm thịt!
Trƣờng tiểu học chúng tôi trông sang một trƣờng tiểu học của các trẻ em Pháp sơ tán về Hƣng Yên thời thế chiến. Tôi có thoáng thấy mấy bà giáo đầm và các học trò tây, nhƣng cũng e ngại nên né tránh họ thành thử chƣa bao giờ gập gỡ. Lúc đó, trong tỉnh đã có các phƣơng pháp phòng thủ thụ động, còi hụ báo máy bay tới, ban đêm đèn đƣờng đem che phủ cho bớt sáng. Ngay nhà tôi cũng có hầm trú ẩn đào chữ chi bên cạnh một gốc nhãn trong vƣờn. Nhƣng thực ra tôi chƣa hiểu và biết những gì là cảnh tƣợng chiến tranh bom đạn cả. Phải tới khi cuộc đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 xẩy ra, tôi mới sợ hãi. Chỉ trong một đêm có tiếng đạn chen lẫn tiếng pháo nổ liên hồi, mà hôm sau tất cả tỉnh này đã ở dƣới quyền kiểm soát của quân đội Nhật. Quân và dân Pháp tại đây đều bị quản thúc, nhƣ tại các nơi khác ở Đông Dƣơng. Từ giờ phút này, những cuộc chính biến và tranh đấu dành độc lập trở thành công khai. Bấy giờ đã có một số ngƣời nói tiếng Nhật, làm cho Nhật. Thuyết Đại Đông Á nghe tƣởng hay, nhƣng sự tàn ác của quân đội Nhật ai cũng kinh hãi. Tới tin Nhật đầu hàng vô điều kiện sau khi bị ném liên tiếp hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Rồi đến cuộc cách mạng tháng 8. Trong tỉnh, có rất nhiều tin đồn đại về những tay sai của Nhật, quan lại làm cho Pháp, cƣờng hào ác bá tại phủ huyện bị bắt giam, bị giết. Dân chúng hoang mang lẫn với hi vọng. Việt Nam của ngƣời Việt Nam. Sau tuần lễ vàng gây quỹ tại Hƣng Yên, gia đình tôi quay trở lại sinh sống ở tỉnh Hải Dƣơng.
Hải Dƣơng thời Dân Chủ Cộng Hòa
Tình hình đất nƣớc càng lúc càng rối loạn. Quân Quốc Dân Ðảng Trung Hoa của tƣớng Lƣ Hán đã đến giải giới quân Nhật ở miền Bắc. Một ông quan tầu cấp lớn cùng bộ hạ đến đóng bản doanh ngay tại nhà tôi, số 79 phố Đông Giàng, đem buộc cả bầy ngựa trên vỉa hè phía trƣớc cửa. Bố tôi phải bút đàm với ông ta và vận động cho họ đi ở chỗ khác. Tôi thấy nhiều ủy ban, phong trào, tổ chức nam phụ lão ấu cứu quốc đƣợc thành lập. Thời gian này ngƣời dân có quyền bầu cử Quốc Hội Dân Chủ Cộng Hòa khóa đầu tiên. Vì bố tôi làm việc tại Hải Dƣơng đã lâu, nên bà con hàng phố thúc đẩy ra ứng cử dân biểu. Mấy ngƣời học trò lớn của bố tôi thì làm và căng biểu ngữ cổ động dân thành phố bầu cử cho ông thầy, một ứng cử viên độc lập. Bố tôi và tôi thì viết lời vận động nên bầu ông Tô Đƣờng trên những tấm giấy lớn, để anh em chúng tôi đem dán vào những gốc cây trên hè phố. Cuộc kiểm phiếu ngày bầu cử cho thấy bố tôi đƣợc nhiều phiếu nhất trong tỉnh.
Nhƣng ngay buổi tối hôm đó, nhiều ngƣời lạ đến nhà thăm bố tôi, có cả bộ đội mang súng ống, ngồi chật cả phòng khách. Hình nhƣ có ông giáo Tạo cao lớn đẹp trai nhƣ tây, và ông giáo Thông ăn mặc chải chuốt đúng mốt thời đó. Tôi chỉ lén trông vào mà không nghe rõ hay hiểu đƣợc ngƣời ta bàn chuyện gì. Đến tối khuya mọi ngƣời mới ra về. Hôm sau cuộc bầu cử đƣợc tuyên bố là không hợp lệ và sẽ đƣợc tổ chức lại. Trong lần bầu lại này, có thêm nhiều quân nhân đoàn thể đi bầu, bác sĩ Lê Văn Khải trúng cử để trở thành dân biểu quốc hội Dân Chủ Cộng Hòa. Bác sĩ
Khải sau cuộc di cƣ vô Nam đã có lúc làm Tổng Giám Đốc Y Tế và Bệnh Viện của Đệ Nhất Cộng Hòa. Tôi nghĩ có thể vì bố tôi ngày đó không chịu gia nhập một đảng phái nào nên thất cử. Thế là may, vì bố tôi không có tài và theo cụ cố Tô Huân, không có số làm chính trị. Nếu có làm cũng chỉ khổ cho mình và gia đình mà thôi.
Tại Hải Dƣơng, tôi bắt đầu biết đàn mandoline một số bản nhạc trữ tình mà sau này gọi là nhạc tiền chiến: Con thuyền không bến, Giọt mƣa thu, Đêm đông. Trong thời gian này, tôi đƣợc nghe những buổi diễn thuyết tràng giang đại hải của Trần Văn Giàu, của Trần Huy Liệu. Anh em chúng tôi có ngƣời nghe mãi phát chán bèn đi ngủ, khi tỉnh dậy vẫn còn thấy diễn giả nói chƣa hết. Chúng tôi cũng đón tiếp và hoan hô Thủ Tƣớng Phạm Văn Đồng trên chuyến tầu hỏa đặc biệt chạy qua tỉnh sau khi dự hội nghị Fontainebleau trở về. Toa xe lửa đẹp đẽ, bóng láng và chăng nhiều cờ quạt, biểu ngữ. Một lần tôi theo chân bố tôi ngồi nghe buổi thảo luận của chi bộ đảng Dân Chủ của nhóm Dƣơng Đức Hiền, Phan Anh. Ngƣời ta kết luận gần nhƣ chắc chắn rằng quân Pháp sẽ không trở lại Đông Dƣơng, vì nƣớc Pháp đã kiệt lực sau thế chiến vừa qua đâu còn sức gây chiến nữa. Tôi đứng lên cho rằng chính vì vậy mà nƣớc Pháp mới phải cố gắng tái chiếm thuộc địa, lấy lại tài nguyên đã mất, để mong tìm vị thế cƣờng quốc nhƣ xƣa kia. Nhƣng chẳng ai thèm để ý đến lời phát biểu của một đứa học trò con trẻ nhƣ tôi. Và khi quân viễn chinh Pháp theo chân quân Anh tiếp thu miền Nam, rồi đổ bộ ra Hải Phòng, dân thành phố lại phải bắt đầu lo tản cƣ về miền đồng ruộng, khởi đầu cho cuộc trƣờng kỳ kháng chiến.
Trong Nam, ngƣời dân đã dùng gậy tầm vông đánh giặc. Cũng có nhiều thanh niên Bắc xung phong trên đƣờng trƣờng vô Nam. Kế hoạch lúc đó là tiêu thổ kháng chiến, vƣờn không nhà trống. Tôi mới học đƣợc có hai ba tháng tại trƣờng trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn phải đọc những bài tiếng Việt cũ kỹ khó nhớ của Huỳnh Tịnh Của, Trƣơng Vĩnh Ký, còn phải chia các động từ bất quy tắc, học ngữ vựng và viết chính tả tiếng Pháp, thì gia đình tôi đã bỏ thành phố chạy loạn. Tính về tạm quê nội tại Xuân Cầu, cách Hà Nội chừng hai chục cây số. Đồ đồng đồ sứ không mang theo đƣợc thì đem cất dấu hay bỏ xuống giếng. Chú Viện đã phải vất vả lắm mới chở hết đồ đạc vật dụng cần thiết về quê đƣợc! Xa lông giƣờng ghế sập gụ tủ chè chú đều quấn bọc bằng các cuộn rơm nhỏ cho khỏi xây sát, rồi lấy dây thừng buộc chặt lên những chiếc xe bò. Chú dẫn đoàn xe thuê này đi mấy ngày trời trên đƣờng số 5 mới về đến làng. Làm sao quên đƣợc công lao của chú đối với gia đình tôi?
Tháng Ngày Tản Cƣ
Hơn bốn năm kể từ mùa đông năm 1946 đến mùa xuân năm 1950, tôi đã sống đời tản cƣ với gia đình nơi quê nội, quê ngoại, và ở một số làng mạc tại Hƣng Yên, Thái Bình. Tôi có nhiều kỷ niệm khó quên với những tháng ngày tại Ngọc Nha phủ Khoái Châu, tại các làng Gạo Nam, Bình Lăng, Bích Tràng huyện Ân Thi, tại Thƣợng Phú phủ Thái Ninh. Tôi đã sống ở làng Gạo Nam, trong gần suốt một niên học. Đây là một làng nhỏ, nghèo nàn, đa số là nhà tranh, đƣờng đất. Bên cạnh làng Vân giầu có, nhà ngói, đƣờng gạch, nhà thờ rất đẹp. Nhƣng tại Gạo Nam, ông giáo Thân, bố và ba anh em tôi đƣợc ở riêng một căn nhà tranh ba gian, có ao, có vƣờn. Cũng không trồng trọt gì và khu đất trống để hoang vắng, trừ một luống rau húng, rau mùi tầu mà trong Nam gọi là ngò gai. Nhà ở gần đình phía đầu làng, nơi có giếng nƣớc ăn thật rộng. Tối tối, tôi lại đi xách nƣớc giếng đổ vào chum. Một lần vào dịp tết, tôi đƣợc gập anh bộ đội chủ nhà là anh Ðảo về thăm. Anh không còn ai là bà con họ hàng. Anh hát vang bài Cô láng giềng khi về tới ngõ, điệu bộ vui mừng thích thú. Chắc anh chỉ mơ tƣởng tới ngƣời tình trong mộng cho cuộc đời
chiến binh thêm ấm áp, vì đâu tôi có thấy bóng dáng cô nào quanh đây? Mà hàng tƣờng vi thật sự cũng chẳng có nữa.
Tôi ngày ngày đi học tại trƣờng trung học Bình Lăng. Hình nhƣ lúc đó bố tôi làm cho Sở Bình Dân Học Vụ và dậy tiếng Pháp tại trung học Bích Tràng. Ông giáo Thân cũng dậy tại mấy trƣờng tiểu học ở các làng quanh đấy. Tôi chƣa thấy ai hiền lành và tốt tính nhƣ ông giáo Thân. Ông rất khỏe mạnh, mập mạp, nƣớc da ngăm ngăm đen. Đôi mắt tròn luôn luôn mở lớn nhƣ ngạc nhiên với cảnh vật chung quanh. Nhƣ tự hỏi gia đình ông nay yên ở đâu rồi, nhƣ băn khoăn vì sao ông lại phải đơn độc ăn ở cùng chúng tôi? Ông từng dậy tôi nhớ tên các chòm sao trên trời, những Đại hùng Tiểu hùng để xác định phƣơng hƣớng. Mà ông thích nhất là sao ba vua Orion thật sáng, đi lững thững trong đêm từ đông sang tây. Cứ trông chòm sao này, ngƣời ta có thể đoán đƣợc giờ giấc ban đêm. Ông làm bếp cũng giỏi, nhất là cách quay vịt của ông thì số dách. Ông rán vịt thật nhỏ lửa trong chiếc nồi gang, thêm các gia vị hành lá húng láng, rồi đậy nồi lại và để những mẩu than hồng lên nắp cho vịt chín đều. Da vịt trở thành mầu vàng và rất dòn. Ông kể chuyện vui lắm, về gia đình, về quê Thanh Hóa. Một hôm trời bão tố, gió thổi từ chập tối, cây cối nghiêng ngả, rồi mƣa xuống nhƣ trút. Căn nhà tranh vách đất rung lên từng hồi nhƣ lên cơn sốt rét, mấy cánh cửa liếp bật ra bật vào mà không ai làm sao chặn yên lại đƣợc. Để gió lùa tới tận phía trong, nhƣ muốn cuốn luôn cả tấm mái tranh lên trời cao. Ông Thân bảo chúng tôi phải ôm chặt lấy cột nhà, còn ông và bố tôi thì đánh đu lên sà ngang để giữ cho mái nhà khỏi bay mất. Thế mà bão cũng đi qua và căn nhà may còn đứng vững!
Có lúc ba anh em chúng tôi tản cƣ tới một làng đạo. Chúng tôi đi chợ, thổi nấu cơm lấy ăn và học hành tiếng Anh tiếng Pháp trong mấy quyển sách cũ rích. Những ngày phiên, phải lo mua sẵn từng gánh rơm gánh rạ để đun bếp. Chủ nhà cho chúng tôi ở một gian bên, gian giữa có bàn thờ Chúa. Mỗi buổi tối khuya và sáng sớm lại đƣợc nghe mấy cậu con đọc kinh. Lâu dần thành ra thuộc lòng, bây giờ tôi còn nhớ. Một hôm trời lạnh, ba anh em nằm trong chăn ấm ngƣời nọ đùn ngƣời kia không chịu ra cất quần áo len dạ đã phơi ở ngoài hiên từ buổi sáng. Hôm sau thấy bị mất trộm hết, thôi từ nay chúng tôi chỉ còn lại đủ ít đồ mặc rét. Lúc có tiếng máy bay và thấy từng chiếc khu trục lần lƣợt tách khỏi đoàn để lƣợn theo vòng rộng rồi nhào xuống bắn phá thì chúng tôi bỏ chạy ngay ra hố cá nhân ẩn nấp. Nếu ngƣớc mắt nhìn lên thấy các trái bom trút ngay phía trên đầu thì biết chắc bom sẽ rơi sang làng khác. Một lần em Đằng bảo tôi là sao đun mãi mà nồi cơm không sôi? Thì ra Đằng vội chạy máy bay quên không kịp đổ nƣớc vào nồi gạo, để sau đó lại cứ thế mà đun nên làm sao sôi lên đƣợc, và gạo cũng bị cháy đen gần hết!
Thời khói lửa thƣờng thiếu thốn đủ thứ, kể cả cơm ăn, áo mặc, thuốc men trị bệnh. Nhƣng những ngày tản cƣ vẫn in sâu vào tâm thức tuổi trẻ, sau này làm tôi có chút ý thức về vẻ đẹp đồng quê thôn xóm, về giá trị lối sống hiền hòa đầy tình tự dân tộc của nhà nông. Tuy nghèo nàn vật chất, nhƣng dƣ thừa nhân nghĩa. Tôi còn hình dung đƣợc nhiều nơi dù chỉ ở lại dăm ba ngày nhƣ Bình Hồ với nhà cửa san sát thật đẹp của huyện Kim Động, nhƣ các làng Đông Tảo Đông, Đông Tảo Nam đầy trại chuối rộng bao la của huyện Quỳnh Côi. Những bụi chuối tiêu xanh um thật lớn che kín hết bầu trời, mang các buồng chuối dài đến cả mấy chục nải. Trong huyện, cũng có vài làng trồng bông. Ngƣời ta cán bông gòn tách rời khỏi hạt, làm ra những cuộn bông dài nho nhỏ. Tôi đã học cách quay tơ thành sợi, rút ra từ những con cúi này. Để không thể nào quên đƣợc lời ca mơ mộng trữ tình và tiếng nhạc nhịp nhàng tuyệt đẹp trong bài Tiếng hát quay tơ của Tử Phác. Rồi từ khi rời làng Khuốc qua sông Luộc để hồi cƣ về Hà Nội đầu mùa xuân năm 1950, những hình ảnh cũ thỉnh thoảng lại hiện ra tuần tự nhƣ trong một cuốn phim quay chậm. Và
trong thời gian bốn năm tiếp theo, tôi may mắn đƣợc sống cùng gia đình với cuộc đời học sinh sinh viên thủ đô.
Tháng Ngày Hà Nội
Tôi không thể quên những năm tháng hồi cƣ hạnh phúc này đƣợc cùng sống với gia đình. Tuy chiến tranh vẫn dình dập bên ngoài thủ đô, khói lửa còn tràn lan khắp nơi khắp chốn, nhƣng hình nhƣ ngƣời dân đô thị đã cố quên đi thực trạng của đất nƣớc để tiếp tục sinh hoạt nhƣ thời bình. Một thuở tạm an cƣ ở một nơi phồn hoa đô hội và có đủ bốn mùa xuân hạ thu đông. Mỗi mùa một vẻ đẹp riêng vì cảnh Hà Nội cũng có mà vì ngƣời Hà Nội cũng có. Ba mƣơi sáu phố phƣờng cổ kính với bao nhiêu thắng cảnh và di tích lịch sử, cộng thêm nhiều xây cất mới kiến trúc lối tây phƣơng. Văn Miếu, chùa Một Cột, đền Trấn Võ, vƣờn Bách Thảo, viện Bảo Tàng. Các trƣờng Trung Học rộng rãi khang trang, khuôn viên trƣờng Đại Học uy nghiêm sang trọng. Ngoại ô với gò Đống Đa, chùa Trầm, chùa Trăm Gian. Và những công tử tiểu thƣ ăn mặc chải chuốt, nói năng điệu bộ, thái độ lịch sự, cử chỉ dịu dàng.
Với chúng tôi, đó là thời tuổi trẻ ham học tuy đã biết ƣa thích sự ăn diện. Và muốn tập luyện nhiều môn thể thao, muốn theo học đủ mọi ngành văn nghệ. Có những buổi chiều cùng bè bạn bát phố, tản bộ trên những vỉa hè đông vui. Hay đạp xe đạp khắp ngang cùng ngõ hẻm mà không có lấy một mục đích. Những lần đi chơi hội chợ, ngắm nhìn vẻ đẹp mỹ miều của các hoa hậu ngồi thu tiền cho việc thiện, bƣớc theo làn sóng thanh niên nam nữ nhí nhảnh đầy sức sống, hoặc xen chân vô cảnh náo nhiệt ngƣời mua kẻ bán ở các gian hàng. Những ngày tết đi xem chợ hoa, có đào, cúc, thƣợc dƣợc khoe đủ mầu đủ sắc. Nhửng buổi lễ Phật ngày xuân, cùng thiện nam tín nữ cúng vái xin quẻ tại chùa Trấn Quốc, đền Ngọc Sơn, đền Quan Thánh. Thời mà chúng tôi lùng kiếm hiệu có thợ may giỏi phố hàng Trống để may từng chiếc sơ mi, từng bộ âu phục. Hoặc đi đóng giầy đủ thứ kiểu tại hàng Da. Hay tìm mua sách vở tại các nhà sách Trƣờng Thi, Hƣơng Sơn, và Bình Minh phố Huế. Những dịp cùng bè bạn ăn uống vui chơi tại nhà Thủy Tạ, bánh tôm đƣờng Cổ Ngƣ, bia 33 tại quán Mụ Béo bên hồ Hoàn Kiếm. Hay ăn kem hiệu Cẩm Bình phố
Huế, ăn phở Chung Chính, phở phố Hàng Da. Hay đi ăn cơm tầu cơm tây phố hàng Buồm, chả cá Lã Vọng đƣờng hàng Cân.
Còn là những ngày đi thuyền buồm tại Tiểu Đồ Sơn, chèo xuồng tại hồ Thiền Cuông. Hay bơi lội ở hồ Quảng Bá với anh Đào Văn Quang con cụ Đào Văn Sử phố Huế. Tôi đã đƣợc cụ cho ở tạm mấy tuần khi mới hồi cƣ, cụ là nhạc phụ của ông bác tôi. Anh Quang đang theo học trƣờng Dũng Lạc rồi sau gia nhập quân đội quốc gia vì bị động viên. Cụ Sử nhà giầu, có trang trại ở làng Đồng Tỉnh, ngƣời cao lớn khỏe mạnh và rất đẹp lão. Đều đặn mỗi buổi sáng sớm, cụ xách ô tản bộ lên hồ Tây cho tới trƣa mới trở về nhà. Sau ngày di cƣ vô Nam, tôi lại đƣợc thăm hầu cụ ở một căn nhà nhỏ gần Bệnh Viện Bình Dân. Cụ trở thành tay trắng, nhƣng lại có dịp sang Pháp ít lâu để thăm ngƣời con lớn là giáo sƣ Y Khoa đại học Paris Đào Văn Tỵ. Tôi trộm nghĩ chắc cụ phải hãnh diện lắm vì ngƣời con thành danh này.
Thời mà chúng tôi đƣợc xem những phim thật hay của Mỹ, Pháp hay Ý. Mỗi tuần cũng có một hai phim đáng coi. Thƣờng có phụ đề tiếng Pháp hay tiếng Việt. Những phim Ivanhoe, Cléopâtre, Samson et Dalida, Vũng biển xanh Le lagon bleu, trong các màn ảnh đại vĩ tuyến tại rạp Majestic, Đại Nam hay Olympia. Và những phim Những năm đẹp nhất trong đời chúng tôi Les plus belles années de notre vie, Luân vũ trong bóng tối La valse dans l‟ombre, Ba chàng ngự lâm pháo thủ Les trois musquetaires, Những trái nho nổi giận Les raisins de la colère, Ánh đèn sân khấu Les feux de la rampe. Một vài phim Hồng Kông với tài tử Lý Lệ Hoa và phim Việt Nam nhƣ Kiếp Hoa. Và đến nay tôi còn tiếc không kịp xem phim Trong tuổi đôi mƣơi Vous qui avez vingt ans của rạp Studio!
Cũng là thời tôi có đƣợc thêm nhiều bạn học của năm đệ nhất ban Khoa học B trƣờng Nguyễn Trãi. Thân nhất thời gian này có Tạ Văn Quang, một học sinh giỏi của trƣờng Nguyễn Khuyến tại Yên Mô Ninh Bình, cũng mới từ hậu phƣơng trở về. Tôi đã viết phụ bài diễn văn khai mạc để Nguyễn Tuấn Ngọc đọc tại Nhà Hát Lớn trong ngày Đại Hội Học Sinh Toàn Thành. Rồi tôi còn đƣợc theo học ba năm tại đại học Hà Nội cùng bao nhiêu bè bạn Trung Nam Bắc và trải qua nhiều mùa thi đầy kỷ niệm đẹp nhƣ hoa phƣợng vĩ. Trong đó có năm cuối ăn ở tại trƣờng Quân
Y Trung Ƣơng Việt Nam, với nhiều đồng môn từng mang chung một niềm hi vọng phục vụ trong tƣơng lai. Tôi cũng đã tham dự vào một số hoạt động của Tổng Hội Sinh Viên, lớp hè bổ túc, quán cơm xã hội. Hay làm cả tối ngày cho hội Phụ Huynh Học Sinh Sinh Viên Hà Nội nhằm quyên tiền cứu trợ nạn lụt miền Trung. Và may mắn đƣợc dịp thƣởng thức tài nghệ của Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng khi ban hợp ca Gió Nam trình bầy tại Đại giảng đƣờng đại học Hà Nội. Cùng với tài trình diễn của quái kiệt Trần Văn Trạch. Cũng có thời tôi kèm học toán lý hóa tại nhà cho các con bác sĩ Nguyễn Viêm Hải, các cô cậu Hân, Bái Giang, Hiên, Mỵ đang theo học ở Albert Sarraut. Cậu Hân trạc tuổi tôi, ít lâu sau mất vì bệnh thƣơng hàn. Hay nhận dậy tại tƣ gia các cô Liên, cô Đạm Trang của trƣờng Notre Dame de Rosaire. Cô Trang về sau sang Pháp du học. Một thời mà tôi e ngại nhất là ngƣời ta có thể gọi tôi là cậu giáo.
Thú nhất ở Hà Nội còn là những ngày hè mà bạn bè mách bảo nhau đủ loại truyện hay của Pháp Mỹ Nga. Chú tôi là Giám đốc Trần Văn Kha tại Thƣ Viện Trung Ƣơng đƣờng Trƣờng Thi đã cấp cho tôi thẻ để có thể mƣợn sách mang về nhà đọc. Nhƣng thƣờng thì tôi thích lại thƣ viện xem truyện. Vì phòng đọc sách yên tĩnh sáng sủa, nằm trong dẫy nhà chính của những dẫy nhà kiến trúc lối tây phƣơng cổ kính chứa đầy tài liệu, bao quanh khu vƣờn thật đẹp nhiều cây cao bóng cả. Đa số truyện Mỹ đã có bản dịch ra tiếng Pháp nên tƣơng đối không khó hiểu mấy. Truyện tình cảm nhƣ Rebecca của Daphné du Maurier, Thành phố La Citadelle của Archibald Joseph Cronin. Truyện triết lý tôn giáo nhƣ Con ngƣời và định mệnh L‟homme et sa destinée của Le Comte du Noüy. Truyện xã hội nhƣ Những trái nho phẫn nộ Les raisins de la colère của John Ersnt Steinbeck, Gió đông gió tây Vent d‟Est Vent d‟Ouest của Pearl Buck, Thân phận con ngƣời Servitude humaine của Sommerset Maugham, Tội ác và hình phạt Crime et châtiment của Fyodor Dostoyevsky. Và những truyện trinh thám hấp dẫn của Peter Cheyney. Riêng những chuyện tầu nhƣ Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Thủy Hử thì bất cứ lúc nào và ở đâu, đọc đi đọc lại tôi vẫn thấy thật hay. Nhƣng suốt ngày nơi thƣ viện lại e ngƣời ta có thể nhạo mình đã trở thành con mọt sách! Thời kỳ này bọn chúng tôi cũng còn đọc và luận bàn đến các loại sách Học Làm Ngƣời. Nhƣ Đắc nhân tâm và Quẳng gánh lo đi mà vui sống của Dale Carnegie do Nguyễn Hiến Lê dịch, Thuật xử thế của ngƣời xƣa, Cái dũng của thánh nhân của Nguyễn Duy Cần. Hay học thêm những lớp hàm thụ ABC đủ loại của Pháp.
Từ khi về Hà Nội, tôi tìm cách học đàn tính để giải trí, vì tự biết mình cũng chẳng có khiếu gì. Nhớ hồi còn ở Hải Dƣơng, cụ giáo Ân thƣờng bảo tôi hãy đến nhà Thờ rồi cụ dậy cho phong cầm, nhƣng lúc đó tôi còn nhỏ nên chƣa nghĩ thích học đàn gì. Và trong khi tản cƣ, vì đƣợc bè bạn chỉ dẫn, nên tôi biết chơi banjo hay mandoline một cách tàm tạm. Bây giờ ở thủ đô, tôi theo học dƣơng cầm tại Âm Nhạc Học Xá, tọa lạc trong một căn biệt thự gần hồ Thiền Cuông. Với giáo sƣ hiệu trƣởng là cụ Duyệt, và anh nhạc sĩ Tiến là phụ tá. Cụ có lẽ là một nhà tu xuất, ngƣời nhỏ nhắn ít nói, thỉnh thoảng lại lấy hai ngón tay vân vê ria mép. Cụ dậy cả dƣơng cầm lẫn vĩ cầm. Nhƣng cụ chỉ bảo rất ít, học sinh liệu mà tự luyện tập lấy. Giỏi nhất có cô Liên, trình độ cỡ quyển bẩy quyển tám của Les classsiques favoris du piano, thƣờng biểu diễn cho các học sinh nghe vào những buổi họp mặt ngày chủ nhật. Đó là những dịp cụ giảng đôi chút về ký âm pháp và nhạc lý. Các nốt có dấu thăng theo thứ tự là fa do sol re la mi si, và các nốt có dấu giảm theo thứ tự ngƣợc lại si mi la re sol do fa. Một bài nhạc không có dấu thăng hay giảm thì là tông do. Tôi còn thuộc câu vè dễ nhớ của cụ để biết một bản nhạc thuộc tông nào: Nhất són, nhị rế, tam la. Tứ mi, ngũ sí, lục pha, thất đồ! Mà ai chẳng buồn cƣời vì chữ thất đồ theo tiếng Bắc! Nghĩa là nếu một nốt fa có dấu thăng (nhất) thì là tông sol, hai nốt fa do có dấu thăng (nhị) là tông re, ba nốt fa do sol có dấu thăng (tam) là tông la...vân vân.
Mấy bạn học đàn có khiếu và chăm chỉ ở phố Jacquin ngay gần nhà tôi là anh em Tạ Văn Quang, Tạ Văn Dƣỡng, Tạ Văn Tài. Đặc biệt có Tài là tập luyện chăm chỉ nên chơi giỏi nhất. Cả Hà Nội chỉ có một hiệu đàn Au Ménestrel có đàn dƣơng cầm bán hay cho mƣớn, mà ông tây mù là chủ. Nhƣng muốn mƣớn cũng không tới lƣợt. Quang và tôi hay nhắc lại tỷ số 9/8, 5/4, 4/3, 3/2 giữa tần số của các nốt nhạc học hồi tú tài và hỏi nhau không biết tai thính thì phân biệt đƣợc bao nhiêu savart, khi một quãng tám octave gồm những 301 savarts? Khi tôi biết sẽ vô ăn ở trong trƣờng Quân Y và không có thì giờ để tập nữa, tôi đăng báo bán cây đàn Pleyel. Mấy ngày sau có một bà ăn mặc sang trọng cùng hai cô con gái đi chiếc xe Citroen đen đến nhà. Bà là phu nhân của kiến trúc sƣ Nguyễn Bá Chí. Bà coi xem đàn qua loa, nói rằng nếu để ở phòng khách của bà thì rất đẹp. Tôi không muốn lời lỗ, nên chỉ muốn lấy lại giá tiền mua năm trƣớc đây từ nhạc sĩ Tiến đƣờng Nhà Thờ Hà Nội. Và bà đã lịch sự ƣng thuận ngay không mặc cả. Thật là một kỷ niệm đẹp. Vài chục năm sau tôi mới biết bà là thân mẫu của Đàm Giang, một dƣợc sĩ giỏi và có biệt tài thơ văn. Nói đến đàn, tôi cũng muốn nhắc đến nhạc sĩ Dung đƣờng Hiền Vƣơng Sài Gòn, ngƣời thầy dậy tôi về jazz, về đủ loại nhịp điệu và hòa âm. Các bài tango habanera nhƣ La Paloma, Tiếng Sáo Thiên Thai và tango milonga nhƣ La Cumparsita, Jalousie. Các bài bossa nova nhƣ The Girl of Ipanema, Quiet Nights and Quiet Stars. Ông chỉ cho tôi sự liên hệ giữa nhạc cổ điển tây phƣơng và tân nhạc. Kể cả cách tạo lập các hợp âm trong cổ nhạc Việt Nam. Và ông tin rằng ngƣời da đen có khả năng bẩm sinh cùng với sự tích lũy tài năng qua nhiều thế hệ trong nhạc jazz. Chỉ tiếc rằng tôi đã gập giáo sƣ dƣơng cầm tài hoa có một không hai này trong khoảng thời gian quá ngắn. Tôi còn một bà chị Tô Anh Đào dậy dƣơng cầm ở Hà Nội, phu nhân nhạc sĩ Thẩm Oánh, mà phải đến khi lƣu lạc sang Mỹ mới có dịp nhận họ, vào lúc chị em đã ngoài sáu bẩy chục tuổi đầu! Nhà tôi cũng có học bà chị hồi nhỏ, nhƣng tôi thì nay mới đƣợc dịp chuyện trò qua điện thoại.
Dù ở đâu tôi cũng nhớ cảnh trời dịu dàng ấm áp ngày mồng một đầu năm. Hà Nội nhƣ nhẹ nhàng bƣớc vào một không gian tƣơi đẹp mới mẻ và tràn đầy hi vọng, sau một vòng dạo quanh mặt trời. Tôi nghe đài phát thanh lập đi lập lại Xuân về rồi muôn đóa hoa đào tƣơi, cƣời trong nắng ứ ƣ... của nhạc sĩ Thẩm Oánh mà lòng bỗng nôn nao thú vị lúc chúa xuân về. Để lại thầm cầu mong tại Hà Nội mến yêu, đất ngàn năm văn vật, thời nào cũng có những trái tim nhân hậu và những bộ óc trong sáng cho dân tộc Việt.
Xuân Giáp Thân, 2004
CHƢƠNG BA
Quê nội và Quê ngoại
Quê nội
Quê nội tôi là Xuân Cầu, một làng rất gần Hà Nội, ở khoảng cột cây số 21 của con đƣờng số 5 nối liền Hà Nội – Hải Phòng. Quê ngoại tôi là Kim Ngƣu, chỉ cách quê nội có một cánh đồng. Hai làng này của huyện Văn Giang, nguyên thuộc tỉnh Bắc Ninh, rồi tỉnh Hƣng Yên, có lúc là tỉnh Hải Hƣng.
Làng Xuân Cầu rất đẹp, chạy dài theo con sông Nghĩa Trụ, nhà ngói san sát, đƣờng suốt làng lát gạch. Lũy tre xanh dầy đặc bao quanh. Ngay đầu cổng làng, lối đi ra đồng làm việc, có cây đa cổ
thụ sống đã mấy trăm năm, đứng bên cạnh một giếng rất sâu, xây bằng đá, nƣớc mạch lên trong suốt. Nếu vào từ đƣờng số 5, có chợ đƣờng cái là nơi dân quê thƣờng họp những ngày phiên, phải đi qua một chiếc cầu gỗ lớn bắc qua sông. Phía đầu cầu ngƣời ta chôn một trụ đá to để ngăn không cho xe hơi chạy qua. Làng có nhiều họ, họ Tô, họ Quản, họ Khƣơng, họ Lê, họ Nguyễn. Làng Xuân Cầu, nguyên là Huê Cầu hay Hoa Cầu đƣợc thành lập đã lâu, nên có tên trong Dƣ Địa Chí của cụ Nguyễn Trãi. Đi men con đƣờng gạch dài thì tới làng Đồng Tỉnh, đƣợc nói đến trong câu ca dao quen thuộc:
Ai về Đồng Tỉnh, Xuân Cầu
Để thương để nhớ, để sầu cho ai?
Để sầu cho khách vãng lai,
Để thương để nhớ cho hai cô hàng!
Có lẽ ngƣời ta ám chỉ một cô bán thuốc ở Đồng Tỉnh, một cô nhuộm thâm ở Xuân Cầu chăng? Và còn có những bài hát trống quân, hát nói:
Làng anh nhất xã chia làm ba thôn
Văn Minh đã nức tiếng đồn.
Giữa làng có điếm Đình Ba
Đồng gần Quán Ốc, đồng xa Cây Đề.
Làng tôi chia làm ba thôn: Tam Kỳ, Phúc Thọ, Lê Cao. Chúng tôi thuộc về thôn Tam Kỳ. Khi tôi lên chín mƣời tuổi, mẹ tôi về làng trông nom xây cất một căn nhà gạch. Tôi chỉ còn mang máng hình dung đƣợc cảnh thợ thuyền ra vào tấp nập, gạch ngói bề bộn, và một cái hố đất thật lớn tôi vôi trắng sôi lên sùng sục. Nhà ba gian, lợp ngói đỏ, hiên rộng, có hai bồn trồng cây lựu làm cảnh ở phía sân trƣớc. Sân sau để phơi thóc, có đống rơm đống rạ. Cổng bên hông phải có mái lợp, ghế ngồi chơi, dẫn tới một luống đất giồng hoa, có cây hòe cho bóng mát và những chùm hoa vàng rực rỡ ngày hè. Một hàng rào thƣa ngăn cách với nhà chị hai Cảnh, thân mẫu anh Tô Ngọc Chấp. Vƣờn bên trái trồng dâu lấy lá nuôi tầm, có hàng rào dâm bụt bao quanh. Phía trƣớc còn cửa hàng tạp hóa nhỏ để thím Mỹ buôn bán. Chú Mỹ, ngƣời em út bố tôi, làm hƣơng sƣ trong làng, đƣợc ở căn nhà này để trông coi hộ bố mẹ tôi mấy mẫu ruộng tại đây. Chỉ thỉnh thoảng nghỉ hè về thăm quê, anh chị em chúng tôi mới có dịp ở chơi. Ngƣời em thứ hai của bố tôi là chú Phụng, buôn bán gỗ tại Tuyên Quang, làm ăn giầu có, cũng xây một căn nhà hai tầng thật đẹp gần đấy. Tôi còn nhớ cảnh đánh cờ ngƣời, tổ tôm điếm trong những ngày hội. Hay tiếng mõ rao tin tức, gọi dân ra đình đi họp theo lệnh của hội đồng kỳ mục. Tại chợ làng có bầy bán các chim ngói, chim sẻ, chim dẽ, và những con chuột đồng da trắng muốt vì đã đƣợc làm lông sạch sẽ. Ngƣời ta nói những con chuột này chỉ ăn thóc ngoài đồng vào mùa lúa chín nên thịt thơm ngon hơn thịt gà. Còn nhiều loại bánh trái nhƣ bánh gio, bánh khoai, bánh mật, mà đặc biệt là bánh tổ trong suốt mầu nâu đỏ, làm bằng bột và đƣờng rồi nhuộm gấc, lúc ăn thì chiên lên nhƣ bánh phồng tôm.
Tôi đƣợc ngƣời lớn kể lại cảnh loạn lạc ngày xửa ngày xƣa, chuyện giặc dã tới giết ngƣời cƣớp của, phá làng đốt xóm. Thôi thì đủ thứ giặc, giặc cờ đen, giặc châu chấu, giặc tầu, giặc cỏ. Dân chúng phải ẩn núp hay chạy trốn, đem chôn dấu vàng bạc của cải, và thả xuống giếng những đồ đồng đồ gốm nhƣ đỉnh hƣơng, lƣ đèn, lộc bình, đôn sứ. Thế mà thời chúng tôi nay cũng chinh chiến hiểm nguy không kém gì. Tôi còn nhớ nhƣ in một buổi họp của bà con họ hàng về tản cƣ tại Xuân Cầu, vào một ngày cuối thu 1946. Lúc đó dân làng còn đọc các Báo Cứu Quốc, Cờ Giải
Phóng. Anh Tô Ninh, một đảng viên Quốc Dân Đảng, nhà cách mạng từng bị tù tại Côn Đảo, có đứng lên nói là chúng ta quyết phải đánh Pháp để dành độc lập, dù phải trả giá hy sinh cả triệu dân, dù phải bỏ mất một vài chục năm. Và bà con cô bác hãy tập chịu đựng gian khổ, từ bỏ nếp sống tƣ sản có ngƣời hầu kẻ hạ nơi thành thị. Không một ai còn muốn bàn cãi tranh luận nữa vì anh nói nếu yếu đuối không theo nổi thì cứ việc chết dần chết mòn trong cuộc trƣờng kỳ và tiêu khổ kháng chiến này! Có lẽ giới lãnh đạo thời nay coi sinh mạng con ngƣời rẻ hơn thời Tam Quốc, nghĩ lại thì làm sao so đƣợc với Lƣu Bị khi phải bỏ Tân Dã sang Phàn Thành, bỏ Tƣơng Dƣơng qua Giang Lăng, còn cố dìu già giắt trẻ qua đò hay bắt các tƣớng trông nom trăm họ mà đi. Tôi thấy ai nấy đều chán ngán. Vì vậy ngay sau đó tùy hoàn cảnh mà tự lo lấy thân, ngƣời trở lại thành thị, ngƣời về nơi hậu phƣơng xa xôi. Mỗi ngƣời phân tán đi một ngả, và bà con có ngƣời mãi đến nay cũng chƣa có dịp gập lại nhau.
Từ quê nội, trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, tôi đã nhìn thấy phía Hà Nội rực cháy, cả một vùng trời chìm trong khói lửa. Tôi đƣợc nghe nhiều giai thoại về chiến công oanh liệt của Trung Đoàn Thủ Đô, về những kỳ tích của các tƣớng Nam Long, Song Hào trên đƣờng số 5, về trận đánh cảm tử của Vệ Quốc Quân vào phi trƣờng Gia Lâm, về sự hy sinh anh dũng của Tiểu Đoàn Trƣởng Lê Tôn Hy vùng Bần Yên Nhân. Và những bài hát ca tụng anh hùng thời đó, về một nhi đồng cứu quốc Anh Kim Đồng ơi, anh Kim Đồng ơi, về một nhóm chiến sĩ chống Pháp Bình Xuyên, Bình Xuyên oai hùng muôn năm! Sau này có bài hát địch vận Ngọn trào quay súng khuyến khích thân binh trở về miền quốc gia tự do, các bài báo tuyên truyền tiếng Pháp còn khuyên dân chúng không nên dinh tê về thành. Quê nội tôi đã bị tàn phá ngay trong tết tản cƣ đầu tiên, cả chục tự vệ làng mà đa số là thanh niên thủ đô bị giặc giết hại nơi các giao thông hào. Chỉ ít lâu sau, làng Xuân Cầu trở thành làng tề, nhƣng dân cƣ đã đi lánh nạn gần hết. Rồi có một ngày đẹp trời tôi liều về thăm gia đình chú Mỹ ở lại, để thấy cảnh dân cƣ thƣa thớt, xóm làng tiêu điều sót sa. Căn nhà tôi nay hoang vắng, sân trƣớc sân sau lau sậy mọc um tùm, thân cao ngập đầu ngƣời, che hết cả lối đi. Cho tới cuối năm 1950, thời của chính quyền quốc gia, tôi lại từ Hà Nội về thăm làng, thì ngƣời xƣa cảnh cũ tạm hồi phục dần dần. Thế mà ngay sau hiệp định Genève năm 1954, bố tôi cho biết làng Xuân Cầu cách mạng này đã bị bom đạn của giặc Pháp san bằng. Làng của các anh em họ Nguyễn nhƣ Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Mỹ, Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lƣơng). Của các con cháu dƣợc sĩ Quản Trọng Tiến, thân phụ giáo sƣ dƣợc khoa Quản Trọng Lạng. Của các anh em họ Tô nhƣ Tô Hiệu, mà có lúc ngƣời ta đồn rằng sẽ lấy tên ông đặt cho thành phố Hải Phòng, của Tô Điểm (Tô Quang Đẩu) chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến Liên Khu Ba, của Tô Dĩ (Lê Giản) Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa. Đến thời cải cách ruộng đất, nhà thờ họ Tô bị chia cho ngƣời khác ở, nhà cửa ruộng đất của gia đình tôi cố nhiên không còn nữa!
Lúc nhỏ, tôi đã vào nhà thờ họ đôi ba lần khi anh Trƣởng Anh còn lo trông nom. Nhà đƣợc xây theo hình chữ công. Trừ những dịp giỗ tết đèn nến sáng choang, còn ngày thƣờng tôi cảm thấy sợ sệt vì nơi thờ phụng lớn rộng, lại hay để tối om. Có treo những bức hoành phi:
Thanh môn văn thái
Tích thiện thành đức
Vũ lộ lưu căn
và rất nhiều câu đối:
Đại gia khoa hoạn truyền giang bắc
Ngô bối cầm thư đáo hải nam
Gia miếu trùng tu, chính Khải-Định vạn niên chi ngũ
Ngã Tô đắc tỉnh, tự Lê-triều triệu thủy chí kim
Theo Tiến sĩ Trần Huy Bích, thì câu đối thứ nhất nói họ chúng tôi có lẽ xƣa kia ở miền Giang Bắc, tỉnh Tứ Xuyên bên Tầu. Con cháu mang đàn và sách xuống miền biển phía Nam. Câu đối thứ hai tả nhà thờ họ đƣợc trùng tu vào thời Khải Định. Nơi quê nội, tôi nhớ nhất bà Bẩy, bà vợ thứ của cụ cử Tô Nha. Bà hiền từ vui tính, thƣờng cho tôi ăn những bữa cơm mùa nào thức ấy ngon lành, và hay kể cho tôi nghe dăm ba câu chuyện thôn xóm. Tôi cũng khó quên có những ngày tết chơi rút bất hay tam cúc, ngày hè câu cá bắn chim, cùng các anh chị em trong họ từ các thành phố về thăm làng. Các em Yên, Thạch con chú Phụng. Các em Phục, Sửu, Thế, Nam con chú Mỹ. Các em Hi, Nghiên, Hằng con chú Tham Kha. Chị Tá con bác hai Mai. Các anh chị con bác Ấm Tuất, bác Văn Hải, bác ba Phƣợng, bác tƣ Khải, bác Úy. Các anh chị em cùng tuổi tôi thì rất nhiều, có các em Phục, Quân, các anh Long, Nhân, các chị Thi, Thanh. Một đàn gà thật đông, vì chúng tôi cùng tuổi Quý Dậu! Nhƣng thân nhất thì có anh Nhân, chị Thi. Anh Nhân học trƣờng Albert Sarraut rồi sau tốt nghiệp trƣờng Hải Quân Brest của Pháp. Nhà anh ở khu Cột Cờ, và là một trong những biệt thự đẹp nhất Hà Nội. Chị Thi lấy Nguyễn Đình Long, em ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trƣởng Quốc Phòng thời đệ nhất Cộng Hòa. Lúc di cƣ anh Long ở lại ngoài Bắc, chị phải theo gia đình nhà chồng vào Nam cùng với một đứa con nhỏ.
Quê nội tôi chính là quê ngoại anh Đặng Trần Phiến. Anh nặng tình với Xuân Cầu hơn ai hết trong tất cả anh chị em trong họ. Tôi không thể viết về quê nội thật hay và đầy tình tự nhƣ bài Nắng Quê Ngoại của anh. Anh trắng trẻo nhƣ con gái, ăn mặc đúng điệu công tử Hà Nội, tóc chải bồng bềnh bóng mƣợt. Suốt ngày chỉ thấy anh ca hát, những bài nhƣ Trƣơng Chi, Suối Mơ của Văn Cao, Tình Quê Hƣơng của Việt Lang, Đêm Đông của Nguyễn Văn Thƣơng, Con Thuyền Không Bến, Giọt Mƣa Thu của Đặng Thế Phong. Rồi lại viết chuyện, làm thơ. Bút hiệu anh là Băng Hồ, lấy từ câu Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ của Vƣơng Xƣơng Linh. Anh thƣờng đi chơi chụp ảnh cùng một vài cô thôn nữ xinh đẹp. Có thể anh tiêu biểu cho các cậu ấm cô chiêu, lạc lõng trong thời kháng chiến. Tôi còn nhớ một bài thơ quá lãng mạn của anh:
Anh là một gã thư sinh,
Tóc xanh nhuốm mầu gió bụi.
Gập ngày lửa cháy kinh thành,
Cất bước ra đi hờn tủi.
Em là cô gái tuyết sương,
E ấp tình xiêm chăn gối.
Sớm chiều hát giữa quê hương,
Xuân đời vừa hai mươi tuổi.
Hôm nao hoa cười nguyệt nói,
Gót chân mỏi mệt cuộc đời.
Anh về tìm em ngơ ngẩn,
Gập em, em đẹp em ơi....
Mai đây đô thành ánh sáng
Cười vui đón gót lưu ly,
Dang tay hẹn cùng năm tháng,
Tình ta đẹp giữa kinh kỳ.
Nhờ có anh mà khi tản cƣ tôi đƣợc đọc vở kịch Những Ngƣời Ở Lại của Nguyễn Huy Tƣởng, viết về sự bất khuất của ngƣời dân phải sống trong vùng địch chiếm đóng. Cảnh huống của gia đình bác sĩ Thành, bè bạn, sinh viên ở lại Hà Nội từ cuối đông 1946 đến giữa hè 1947. Cùng cuộc chiến đấu của Tự Vệ Thành, của Trung Đoàn Thủ Đô. Cũng nhờ anh mà tôi đã thuộc Bài Hát Của Ngƣời Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, nói lên sự nhớ nhung tha thiết của những chàng trai khi lìa xa thủ đô bùng cháy trong ngày đầu kháng chiến:
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây,
Đây Lãng Hồ, núi sông ngàn năm.
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội,
Hà Nội mến yêu.
Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời.
Hà Nội ầm ầm rung.
Hà Nội vùng đứng lên!
Sông Hồng reo.
Hà Nội vùng đứng lên!...
Hà Nội đẹp sao!
Ôi nước Hồ gươm xanh thắm lòng!
Bóng tháp rùa thân mật êm ấm lòng...
Hồng Hà tràn đầy,
Hồng Hà cuốn, ngàn nguồn sống, tràn đầy dâng.
Hà Nội vui sao,
Những cửa đầu ô,
Đây ô chợ Dưa, kia ô cầu Dền, làn áo xanh nâu.
Hà Nội tươi thắm,
Sống vui phố hè,
Bồi hồi chàng trai, những đôi mắt nào...
Anh Băng Hồ hồi cƣ về Hà Nội đầu năm 1950 cùng với chúng tôi, tiếp tục sự nghiệp văn thơ, nhƣng đến năm 1954 đã không di cƣ vào Nam.
Tết Dƣơng lịch năm 1995, chúng tôi có dịp về thăm Hà Nội, và may đƣợc gập lại anh. Anh là ngƣời con duy nhất của nhà văn Đặng Trần Phất, tú tài tây học xuất thân từ trƣờng Albert Sarraut, và cháu cụ Đặng Trần Vỹ, Tổng Đốc Bắc Ninh. Tuy mồ côi lúc hơn một tuổi, mà gần bẩy chục năm sau, trong cảnh một đất nƣớc nghèo nàn và khói lửa triền miên, anh đã âm thầm sƣu tầm để rồi tổng kết đƣợc những tác phẩm văn thơ tiếng Việt và tiếng Pháp của ngƣời cha. Anh trân trọng tặng chúng tôi một cuốn sách mộc mạc chƣa kịp đóng bìa: Văn thơ Đặng Trần Phất, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội, 1994. Đọc Lời cuối sách anh viết về thân phụ, tôi mới hình dung đƣợc tình phụ tử của anh to lớn vô cùng. Anh phải chắp nối những chuyện kể lại từ bà mẹ và họ hàng nội ngoại, rồi tạo ra một hình ảnh về ngƣời bố, để mà sống bằng những kỷ niệm trong khung trời tâm tƣởng ấy. Thân phụ anh là nhà văn viết xã hội tiểu thuyết sớm nhất, với Cành Hoa Điểm Tuyết, xuất bản năm 1921 và Cuộc Tang Thƣơng năm 1923, cùng thời với Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm xuất bản năm 1925. Và vì đƣợc mẹ nuôi dƣỡng, nên anh rất nặng tình quê ngoại Xuân Cầu. Năm ngoái, anh lại gửi cho tôi cuốn Phƣợng ơi! mùa dĩ vãng, do nhà xuất
bản Văn Học Hà Nội, 2002. Đây là tuyển tập những truyện ngắn của anh trong thời hồi cƣ 1950-54 tại Hà Nội, trong có bài Dòng mực đầu năm viết riêng về thân mẫu anh, bà Tô Thạch Lan.
Một ngƣời mẹ đã phải lặng lẽ từ khƣớc biết bao nhiêu chân tình để mong khỏi phải đi bƣớc nữa, vì sợ anh phải khổ hay phải tủi với ngƣời bố dƣợng. Một ngƣời mẹ chỉ cầu cho anh sớm yên bề gia thất để có con nối dõi tông đƣờng, vì lo anh quá miệt mài với nghiệp chƣớng thi văn. Rồi trong cảnh mẹ góa con côi ấy, giọt nƣớc mắt của mẹ lúc nào cũng là hình phạt mà anh sợ hãi nhất. Đọc xong, tôi lại càng mến phục anh thêm vì tình mẫu tử rất đặc biệt này.
Vài dòng về họ Tô
Lúc nhỏ thỉnh thoảng tôi cũng đƣợc bố tôi cho biết qua loa về giòng họ, nhất là những chuyện về cụ Tô Huân, Phó bảng khoa Mậu Thìn. Cụ Huân đã viết gia phả họ Tô Xuân Cầu vào năm Tự Đức thứ 23 (1870), kể từ đời cụ là đời thứ năm trở về trƣớc. Bản bằng chữ nôm này đƣợc Viện Nghiên Cứu Hán Nôm dịch ra vào năm 1999. Theo cụ, nếu không có việc thuật lại mà lƣu truyền thì sau lấy gì mà làm bài học cho con cháu? Cụ đã viết “Có cái ban đầu mới có cái ngày nay, có cái ngày nay mới có cái mà truyền về sau. Cổ nhân ngày xƣa trồng cây đức để đợi đời sau báo đáp. Và làm rạng rỡ gia phả cũng là một cố gắng lớn của con cháu nhằm ghi lại ân đức của ông cha”. Thời trƣớc, trong họ cũng có nhiều cụ thành đạt. Đến đời thứ hai có cụ đƣợc lƣu học tại Quốc Tử Giám, có cụ mới 16 tuổi đã đỗ tú tài, đƣợc gọi là kho sách của Kinh Bắc, và thƣờng giao du với các con cháu cụ Trạng Trình. Vào năm 1989, các cụ trong họ cùng bố tôi đã viết lại gia phả giản yếu bằng quốc ngữ để cho con cháu dễ ghi nhớ, kể từ đời cụ Tô Huân là đời thứ năm trở về sau. Tôi là chắt của cụ Tô Huân, thuộc chi thứ ba.
Tôi đƣợc bố kể cho nghe chuyện hiềm khích giữa ngƣời Bắc ngƣời Trung khi cụ Huân làm Phó Ngự Sử tại Huế, chuyện để thành phố bị Pháp chiếm đến nỗi phải cắn lƣỡi tự tử khi cụ làm Quản Đạo Hà Tĩnh. May mà cụ có thổ dân cứu sống, nuôi dƣỡng cả năm trời, và rồi đƣợc nhà vua ân xá. Về sau cụ đƣợc vời ra làm Đốc Học Sơn Tây rồi Đốc Học Hải Dƣơng. Tại đây, cụ có dậy đƣợc nhiều học trò thành đạt. Nhƣng vinh hiển nhất là Phó Bảng Phạm Văn Thụ sau làm đến Hộ
Bộ Thƣợng Thƣ, Cơ Mật Viện Đại Thần. Cụ Thụ thƣờng xuyên thăm hỏi thầy học cũ, và coi cụ Huân nhƣ nghiệp sƣ của cụ. Thật là một cảnh cảm động và quí hóa. Tôi có học cùng và quen các cháu cụ, các anh Phạm Công Lăng, Phạm Ngũ Tùng con ông Thủ Hiến Bắc Việt Phạm Văn Bính. Vào năm 1997 ở San Diego, tôi may mắn đƣợc các anh chị Phạm Văn Việt và Nghiêm Xuân Húc tới thăm và cho đọc Đàn Viên Ký Ức Lục của cụ Phó Bảng Phạm Văn Thụ do Phạm Văn Kỳ sao trích tại Hà Nội, 1981. Cụ Thụ có thuật lại lời tiên tri của ông thầy học qua bài thơ sau, là khoa tuy Phó Bảng, nhƣng hoạn thì vẫn có thể đƣợc dự yến Quỳnh Lâm. Và đây cũng là bài thơ duy nhất mà tôi may có đƣợc của cụ Tô Huân:
Long vân tương hữu mộng
Giáp tý quả phùng thần
Bạch phát tiểu dư vãn
Hồng chương đắc tử tân
Mặc trang di chí phó
Khoa thạch tráng đồ chân
Miễn miễn tiền trình đại
Quỳnh lâm tổng thị xuân
Nghĩa là:
Rồng mây ứng mộng tốt
Độ số nhằm khoa xưa
Tóc bạc, tớ già cả
Bảng son, anh trẻ thơ
Nền nho lòng đã thoả
Thềm đá dấu còn trơ
Cố gắng đường còn rộng
Yến quỳnh vẩn đợi chờ.
Ông nội tôi là Tô Thiều, sinh năm 1868. Ông tôi mất sớm, bố tôi đƣợc bác ruột là cụ Tô Nha, cử nhân khoa Canh Tý năm Thành Thái thứ 12 (1900) trông nom. Bà nội tôi là Nguyễn Thị Tý (1869-1937), thuộc chi cụ nghè Nguyễn Gia Cát. Lúc bà nội mất, tôi còn quá nhỏ không biết đƣợc gì.
Bố tôi dễ tính và quảng giao. Trong những ngày tao loạn, ông dậy tôi về toán học, khoa học, và văn chƣơng Pháp, nhờ vậy tôi mới đậu đạt đƣợc. Ở Hà Nội, ông có nhiều dịp cho tôi đi ăn uống cùng, chả cá Lã Vọng, cơm Siêu Nhiên, Đông Hƣng Viên và Lục Quốc Đại Tửu Gia. Một đôi lần ông kể chuyện về dòng họ, nhƣng tôi vẫn cảm thấy ông có vẻ hơi nghiêm khắc và xa cách. Vì họ Tô viết có bộ thảo đầu, nên tên Đồng thuộc bộ này. Ngƣời trong họ đông dần nên muốn đặt tên trong bộ này cũng khó kiếm ra chữ. Những thời trƣớc, cũng có ngƣời lấy họ Tô của mẹ, cũng có ngƣời cho rằng con gái họ Tô đảm đang. Nhƣng nhiều ngƣời tin rằng họ Tô chỉ có đất dậy học. Khi tôi vừa đậu Toán Học Đại Cƣơng tại trƣờng Cao Đẳng Khoa Học Hà Nội năm 1952, bác ký Chữ, một ngƣời dâu họ Tô, có bảo tôi rằng cháu có học gì đi nữa thì cũng đến làm thầy giáo, đất họ nhà ta mà! Nghĩa là chỉ làm nghề bạc bẽo mà thôi. Tôi nghe nói đâm ra nản chí và lo nghĩ. Năm sau tôi theo học ngành Dƣợc rồi lại thi vô Quân Dƣợc thì làm sao còn hành nghề nhà giáo đƣợc? Thế mà lời tiên đoán ấy rồi sau cũng có phần nào đúng đấy. Lúc đậu Huấn Đạo hạng nhất, bố tôi cảm thấy buồn vì trong họ chỉ có ông là ra làm quan với Pháp. Khi hiệp định Genève đƣợc ký kết, ông đang làm Trƣởng Ty Tiểu Học Hà Đông, nhƣng không muốn vô Nam. Tôi nghĩ có nhiều lý do, vì ông tiếc nhà đất mua tại Hà Nội và Hải Dƣơng, vì ông cho rằng đời sống miền Nam sô bồ khi ông đã có dịp thăm viếng vào lúc trƣớc, vì ông tha thiết với bà con quê hƣơng miền Bắc. Và cũng có thể ông tin rằng chỉ sau hai năm là tổng tuyển cử và thống nhất. Nhƣng lý do chính có lẽ vì nghĩ con gái mình theo kháng chiến thành công mà sao mình lại nỡ bỏ chạy? Tôi đoán ông quí con gái hơn con trai, cho rằng ở nƣớc ta làm con gái thiệt thòi quá nhiều, vì thời tôi vẫn còn thấy chế độ đa thê và các cuộc tảo hôn. Riêng về tôi, ông tin rằng tôi tuy khó tính nhƣng đƣợc cái dè dặt và ôn hòa nhƣ ông!
Quê ngoại
Từ quê nội sang làng Kim Ngƣu chừng mƣời cây số, thƣờng chúng tôi đi mất một buổi. Làng này nhỏ và nghèo, lũy tre bao chung quanh, có một số nhà gạch, còn phần lớn là nhà tranh. Đƣờng làng chạy ngang dọc bằng gạch, nhiều đoạn do ông bà ngoại tôi xây cất. Dinh cơ bên ngoại tôi lớn nhất làng, gồm nhiều nhà trên một khu đất vuông vắn hai mặt đƣờng. Nhà chính hai tầng thông liền với nhà thờ ba gian có hàng hiên dài, có gian để sẵn hai chiếc quan tài sẽ dùng cho ông bà ngoại. Tôi không hay bƣớc vào nhà thờ vì sợ hãi cảnh nơi thờ phụng tối âm u, cửa đóng then cài im ỉm. Hai nhà ngang cất dƣới thấp sát liền hai bên cổng có nhiều gian, có gian để những cót thóc cót ngô, bồ đỗ bồ gạo, có gian để dụng cụ cầy bừa, có gian để cối xay lúa, chầy giã gạo. Nhà ngang trên phía sân cao có nhiều phòng, treo hoành phi câu đối, chính giữa đặt bộ tràng kỷ, hai bên kê nhiều tấm ghế ngựa. Cũng có một vài hoành phi của bố tôi mang từ tỉnh về, nhƣ Thi Thƣ Thị Bảo và Thi Thƣ Thế Trạch. Lúc tản cƣ, gia đình tôi đƣợc ở căn nhà ngang này. Sân trƣớc thấp nhƣng thật rộng, để phơi thóc lúa vào những ngày mùa. Sân trên cao hơn gần cả thƣớc nhƣng nhỏ hơn. Nhà bếp riêng rất rộng, cửa bên thông sang một vƣờn nhỏ có vại, chum, bể nƣớc. Ngƣời ta thổi cơm bằng những nồi ba mƣơi đặt trên những ông đồ rau to tƣớng để cho ngƣời làm công ăn lúc tảng sáng, trƣớc khi họ ra đồng làm ruộng. Có vƣờn trƣớc trồng nhiều cây sấu thật cao, vƣờn sau có cây nhãn và một bể lớn chứa nƣớc mƣa. Có chuồng bò, chuồng lợn, sân bên chứa đống rơm đống rạ. Chung quanh dinh cơ rào kín, lũy tre dầy đặc, trên cổng vào có tháp canh để đao kiếm cung nỏ. Nếu đóng những cánh cổng gỗ lim nặng nề lại thì nội bất xuất, ngoại bất nhập! Nhà còn nuôi một đàn chó dữ. Xƣa kia khi tôi về thăm bà ngoại, mỗi lần thấy chó sủa gầm gừ là kinh sợ quá sức, chân ríu lại, tay bám chặt lấy ngƣời lớn!
Khi ông ngoại tôi mất vào ngày 8 tháng 4 năm Ất Dậu 1945, lúc đó đƣợc coi là ngày Phật Đản, tôi đi theo bố mẹ về đƣa đám. Mấy ngày liền nhà bếp mổ bò mổ lợn, còn nhớ dành riêng cho tôi
mấy chiếc bong bóng lợn để đem phơi khô thổi làm bóng đá. Trong sân dựng những rạp thật lớn để đón tiếp quan viên mọi nơi đến tiễn đƣa, phúng viếng. Rồi ngƣời ta ăn uống, nói năng ồn ào, tiếp theo những đợt khóc lóc, kèn trống ầm ĩ. Có các cụ rƣợu vào mặt đỏ tía tai, ăn nói hò hét hăng say trong mâm cỗ. Mỗi buổi chiều, những nhà bếp giỏi chuyên chặt thịt thành từng miếng đều đặn, rồi chia ra thành phần. Mỗi phần là một xâu thịt đủ loại, có thịt thủ, thịt mỡ, thịt nạc và một nắm xôi. Quan viên mang phần ra về, tùy theo vai vế mà đƣợc lấy nhiều hay ít. Lúc này đang có nạn đói, ngƣời ăn xin mọi nơi đổ về ngồi chật cả quãng đƣờng từ nhà đám ra đến cổng làng. Mỗi khi cổng nhà mở buổi chiều, ngƣời nhà phải mang từng thúng cơm ra phân phát trƣớc cho hành khất. Tuy thế mà các quan viên lúc ra về vẫn phải tay đƣa phần chia lên quá trên đầu vì sợ bị giật!
Cũng tại ông bà nội tôi mất sớm nên sau đám tang ông ngoại, tôi chỉ còn đƣợc chuyện trò với bà ngoại. Mỗi lần về quê thăm bà, tôi lại đƣợc ăn cơm riêng cùng bà. Cơm gạo dự thổi niêu đất, thức ăn thơm ngon tinh khiết. Bà sinh một trai là bác Hựu, một gái là mẹ tôi. Bà có nhiều cháu, nhƣng có lẽ quí tôi nhất, vì bà thƣơng mẹ tôi hơn hết, lúc nào cũng gọi cô Huấn cô Huấn. Và tôi, nhắc đến tình quê, lại bâng khuâng nghĩ tới thời thơ ấu khi còn đƣợc ở gần bà ngoại thân thƣơng. Hồi tản cƣ, gia đình tôi đƣợc ở căn nhà ngang bên ngoại trong hơn bốn năm, nên tôi may mắn có thêm nhiều kỷ niệm thật đẹp về bà ngoại. Tại đây, mẹ tôi còn bẩy tám mẫu ruộng cho cấy rẽ, đỡ lo miếng ăn. Dinh cơ chỉ có hai gia đình, bên bác tôi và bên mẹ tôi. Bác trai lên dậy học trên Yên Phong, Bắc Giang, anh Kỳ theo bộ đội để vợ ở lại với mấy đứa nhỏ, anh Nhƣơng đi học trƣờng Đào Giã Phú Thọ. Ở nhà chỉ còn hai bác gái, và các con trạc tuổi anh chị em chúng tôi, sống bằng mấy chục mẫu ruộng. Bố tôi cũng ra đi công tác tại Hƣng Yên. Khi có dịp thuận tiện, bố tôi cho ngƣời về đón ba anh em chúng tôi xuống ở cùng để ăn học. Khi tình hình bất ổn lại gửi chúng tôi về quê ngoại. Chị tôi và em Yên con chú Phụng đã theo chú lên Tuyên Quang từ ngày đầu kháng chiến. Lúc đó, bà ngoại tôi trở thành cột trụ tinh thần cho cả đại gia đình. Bà bảo chúng tôi có gì đã có bà! Lâu lâu mới thấy bà chống gậy đi thăm ruộng vƣờn và bà con lối xóm. Cũng có khi đi ra sinh phần coi mộ ông ngoại. Những ngày giặc về càn quét, sau khi dặn dò con cháu ẩn nấp cho kỹ, bà tôi ngồi lại một mình trong căn nhà gác, thần thái ung dung nhƣ không biết sợ mũi tên hòn đạn. May mà con cháu không ai bị giặc giết hại. Lần anh Kỳ bị đạn liên thanh của địch xuyên thủng đùi tại mặt trận, nhƣng may không trúng vào xƣơng, đƣợc đem về nhà dƣỡng sức mấy tháng, sau lại trở về bộ đội. Phúc đức chăng? Đố ai mà biết đƣợc! Có lần giặc tới làng Đa Ngƣu kế cận, một làng giàu nhất vùng này với đƣờng gạch, nhà ngói san sát. Đây là quê của nhiều ngƣời dân phố hàng Bồ và Phúc Kiến Hà Nội, và cũng là quê của sinh viên trƣờng kỹ sƣ công chánh Phó Đức Chính, một đảng viên cách mạng Việt Nam Quốc Dân Đảng, một trong mƣời ba ngƣời liệt sĩ Yên Bái. Chúng đốt phá nhà cửa tan hoang, bắn giết và hãm hại nhiều dân lành. Hôm sau tôi đi chợ Trâu tạt qua thăm, còn thấy gia súc cháy xám chƣa kịp thu dọn, sinh vật chết chƣơng phình bên đƣờng, đống rơm cót thóc khói lên âm ỉ. Ôi, cảnh tàn phá chết chóc nơi quê hƣơng này thấy mà biết bao hãi hùng chua xót!
Chỉ một vài năm sau ngày toàn quốc kháng chiến, làng Kim Ngƣu trở thành làng tề. Ban ngày có lý trƣởng để giao dịch với quân Pháp và chính quyền quốc gia. Ban đêm thì bộ đội về làng, sinh hoạt và ẩn nấp cùng dân chúng. Lúc này tôi có dịp đƣợc đọc nhiều loại chuyện, tạp chí, sách báo thời đó. Có tập truyện Những Cảnh Hoang Tàn Đế Thiên Đế Thích tả cuộc sống mai danh ẩn tích của một chàng trai cách mạng, nhận làm công cho một gia đình khá giả vùng Biển Hồ. Trong tạp chí Tri Tân, có chuyện Đêm Hội Long Trì kể mối tình oan nghiệt giữa quận chúa
Quỳnh Hoa, ái nữ của Tĩnh Đô Vƣơng Trịnh Sâm, với Bảo Kim, vì bị cậu trời Đặng Lân em của Tuyên Phi bức hại. Có sách về tính dục Nam Nữ Phòng Trung Bảo Hiểm.
Tôi đã học đƣợc trong sách báo đông tây kim cổ biết bao nhiêu điều hay thứ lạ xƣa nay. Có lúc tôi cũng phụ giúp mẹ tôi trong việc bếp nƣớc, nhƣ làm tƣơng, làm mắm, muối dƣa, muối cà. Ngày giáp Tết thì tƣớc ống giang làm lạt, cắt lá dong, thổi đậu, ngâm gạo nếp. Rồi giúp mẹ tôi gói những chiếc bánh chƣng vuông vắn và trông nồi luộc bánh đêm ba mƣơi. Tôi cũng học đòi phụ với ngƣời làm để đi tát nƣớc vô ruộng, biết dùng gầu giai, gầu sòng. Rồi xay lúa, giã gạo. Rồi trồng cà, trồng ngô, trồng lạc. Mà đời sống thôn quê nhiều lúc thật là thanh thản, tôi đã quên đi tiếng động ồn ào của xe cộ, tầu bè, máy nƣớc và quên luôn cả ánh đèn thành phố. Tôi còn nuôi đƣợc một đàn vịt mấy chục con, cho ăn ngô ăn thóc, chúng lớn nhanh nhƣ thổi. Lúc trời mƣa thì tôi đội nón lá, tay cầm cần tre đầu buộc một túm vải vụn để lùa vịt ra đồng ruộng bắt giun. Dân làng trông thấy thƣờng ví đùa tôi chăn vịt với ông Tô Vũ chăn dê! Thật ra, tôi đã sống nơi đây trong khung cảnh tuyệt đẹp hƣơng quê, và đƣợc hƣởng tràn đầy tình thƣơng của bà con lối xóm. Nhƣng thú nhất là tôi gây đƣợc một đàn gà hai ba chục con. Có những con trống thật đẹp mã, lông óng mƣợt, mào đỏ chót, cựa sắc, dáng đi hiên ngang. Tôi gọi tên là Mã Siêu, Trƣơng Phi, Triệu Tử Long, Hoàng Trung, nhƣ ngƣời hùng thời Tam Quốc. Riêng hai con trống hiền lành bộ tịch thƣ sinh, chân cao, là Liêm Khê và Hải Ngọc, thƣờng đi thƣ thả theo sau một con mái vàng tuyền, chân thấp, là Lệ Dung. Tên chúng đƣợc đặt theo một truyện tình cảm cách mạng của Nguyễn Công Hoan. Lâu dần mấy em tôi cũng nhớ tên của đám gà này, con nào đi lạc, con nào đã về chuồng là có thể biết ngay. Nhƣng rồi một trận dịch làm gà toi gần hết, tôi lại không biết cách cứu chữa ra sao, nên chán chẳng buồn nuôi nữa.
Câu chuyện thời tản cƣ thì kể sao cho hết. Một lần có bộ đội về làng ăn ở mấy bữa, và hôm ấy ngƣời ta làm lễ xuất quân. Tại một sân đất rộng của nhà một bà mẹ nuôi, trời tối mờ mờ không trăng sao, mấy chục anh em du kích gác súng, ngồi quây thành vòng tròn. Rồi kể chuyện đời chiến khu, hát các khúc quân hành, và hứa sẽ phá đồn giặc tại huyện Văn Giang trong đêm. Có đông dân làng ngồi nghe, im lặng thán phục. Tôi đƣợc cử đứng lên hát bài Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy để tiễn đoàn trai trẻ ra đi trong muôn lời thiêng còn vang:
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng,
Núi cây rừng
Lắng tiếng nghe hình dáng,
Của người anh hùng
Lạnh lùng theo trống dồn,
Trên khu đồi nương
Im trong chiều buông.
Ra biên khu trong một trời sương âm u,
Âm thầm chen khói mù.
Bao oan khiên đang về đây hú với gió,
Là hồn người Nam nhớ thù.
Khi ra đi đã quyết chí nuôi căm hờn,
Muôn lời thiêng còn vang
Hồn quật cường còn mong đến phút chiến thắng,
Sầu hận đời nuốt tan
Gươm anh linh, biết bao lần uống máu
Làm sác xây thành.
Thời gian luống những vô tình.
Rừng trầm phai sắc
Thấp thoáng tàn canh,
Hỡi người chiến sĩ vô danh!
Ngày hôm sau và những ngày sau đó, tôi có ý nghe ngóng tin tức, phập phồng lo sợ cho tính mệnh ngƣời Vệ quốc. Nhƣng rồi không thấy đồn giặc bị phá, nên làng cũng may không bị Pháp trả thù.
Huyện Văn Giang có một khu chợ, mà hồi mới tản cƣ, mẹ tôi có dọn một gian hàng xén nhỏ, để kiếm thêm ít tiền tiêu cho gia đình. Hàng hóa thì mua của bác Úy gái mang từ Hà Nội về, đủ thứ vải vóc, kim chỉ, bút máy, bút chì, bật lửa, đá lửa. Vào những ngày phiên chợ, ngƣời làm là anh Phúc quẩy gánh hàng theo mẹ tôi lên huyện. Lúc chợ chiều anh lại đến dọn dẹp rồi quẩy hàng về nhà giúp mẹ tôi. Thỉnh thoảng tôi theo mẹ lên chợ ngồi phụ bán hàng. Mỗi khi bán đƣợc một sợi giây dù, một sấp vải, một tập giấy, chỉ lời dăm ba đồng bạc là thấy thật yêu đời. Có một lần tôi lên chợ từ sáng sớm. Đột nhiên ngƣời trong chợ chạy nhốn nháo, rồi có tiếng còi, tiếng súng nổ, tiếng đóng cửa ầm ầm. Bác Úy vội vàng lên xe ca theo các bạn hàng trở về lại Hà Nội. Tôi thấy một chiếc cáng chạy qua, chở một ngƣời lính ngụy vừa bị du kích quân đâm một dao lút cán, máu chảy lênh láng. Lính trên đồn tủa xuống bao vây quanh chợ rồi bắt tất cả đàn ông con trai về doanh trại bên huyện. Tôi cũng không thoát và bị bắt ngồi suốt ngày trong sân nắng, chờ đến lƣợt bị hỏi khẩu cung. Lúc trời đã nhá nhem tối mới đƣợc thả ra về. Tôi mừng muốn khóc vì gập lại mẹ tôi còn đang đứng lóng ngóng chờ nơi cổng trại! Đêm khuya hai mẹ con mới dắt nhau về tới làng Kim Ngƣu. Từ đó mẹ tôi không cho tôi phụ giúp bán hàng nữa, bà gửi ba anh em trai chúng tôi xuống Hƣng Yên đi theo bố.
Có một ngày vừa sang hạ, ruộng còn ngập nƣớc và lúa đang mọc xanh um, giặc bỗng tràn về đốt phá những huyện phía nam tỉnh Hƣng Yên. Lúc đó còn mờ mờ tối, trời sắp rạng đông. Dân chúng nghe tin sợ hãi, ẩn núp trốn tránh quanh quẩn. Hoặc lũ lƣợt bồng bế nhau thoát ra khỏi làng. Bốn bề đều có lửa cháy, súng nổ. Ba anh em tôi vội chạy ra giữa cánh đồng, núp yên trong một thửa ruộng. Mãi tới quá trƣa, nắng đã xiên quai, mới nghe im tiếng súng. Nhìn xuống chân, cả đám đỉa đen ngòm bám vào mà không hay biết. Gạt xuống đất thấy chúng no tròn vì đã hút máu thỏa thê! Tuy cả ngày không có một hột cơm trong bụng mà vì sợ hãi nên không thấy đói. Tôi tính phải tìm đƣờng về lại ngay quê ngoại, dù cách xa ngoài hai chục cây số. Thôi đành đi theo hƣớng những hình dáng mờ xẫm quen thuộc vƣơn lên từng cao của nhà thờ, cây đa, rặng tre, hàng cau, nghĩa là dựa vào hình bóng riêng biệt của làng mạc hiện ra phía chân trời. Tay giắt em Đằng, có lúc lƣng phải cõng em Giang, chúng tôi lần theo đƣờng ruộng, đƣờng làng, bãi hoang, gần đến tối đêm mới về tới Kim Ngƣu. Gập đƣợc ngƣời làng mà lòng mừng vô hạn, nhƣ con trẻ bắt đƣợc cái đinh, nhƣ ngƣời lớn bắt đƣợc của. Mẹ tôi có tin vùng dƣới bị càn quét, nên khi thấy chúng tôi về đƣợc bình yên, đã thắp hƣơng lâm râm khấn vái cám ơn Trời Phật. Chúng tôi thật đúng nhƣ những con chim nhỏ dại trôi dạt trong cơn bão táp, may mà còn tìm về lại đƣợc tổ ấm.
Những kỷ niệm khó quên ngày tản cƣ làm tôi thân thiết nhiều với họ hàng bên ngoại. Các chị Phi, Kha, Đĩnh, Phú, Lê, Cảnh, các anh Kỳ, Nhƣơng, Tộ, Chi con bác Hựu. Các em Ty, Tèo, Kha con chú Viện. Và biết bao bà con lối xóm!
Ông ngoại tôi là Chu Thế Trƣờng (1864-1945), đậu cử nhân khoa Quí Mão, năm Thành Thái thứ 15 (1903) làm Huấn Đạo huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên. Bà ngoại tôi là Nguyễn Thị Vũ (1867-1952). Khi bà mất, dù tình hình quê ngoại đã mất an ninh và rất nguy hiểm, bố tôi từ Hà Nội cũng cố trở lại Kim Ngƣu để đƣa tiễn bà về nơi yên nghỉ ngàn thu. Bà đƣợc chôn gần ông, trong một sinh phần đã xây từ lúc ông bà còn sống. Thời cải cách điền địa, nơi này cũng bị phá hủy. Hơn năm chục năm sau, nghĩa là vừa mới đây, con cháu đã phải dùng phƣơng pháp riêng của nhà Phật để tìm kiếm lại phần mộ.
Mẹ tôi tuy không đảm đang tài giỏi nhƣng hiền từ và rất khảng khái.
Ở quê ngoại trong những ngày tản cƣ thiếu thốn, mẹ tôi vẫn giữ một cuộc sống độc lập, làm ăn buôn bán thêm vì không muốn nhờ cậy ai. Mẹ tôi cũng ít ghen tuông, để bố tôi trong thời bình đƣợc tự do giải trí tổ tôm, tài bàn, cô đầu hay thể thao cƣỡi ngựa, quần vợt. Có thể vì vậy tôi chƣa thấy bố mẹ tôi to tiếng hay cãi nhau bao giờ. Mẹ tôi nhìn đời bằng con mắt bình thản, và không mấy khi lo nghĩ. Tuy thừa hƣởng tính khí khái và trí nhớ phi thƣờng của mẹ, tôi lại dễ lo âu nhƣ bố tôi. Về hình dạng, tôi giống mẹ tôi đƣợc đôi mắt!
Tình quê hƣơng
Ai nói đến quê nội quê ngoại, mà không thấy cảnh quê hƣơng êm đẹp, tình quê hƣơng thân thƣơng. Tôi chợt nhớ có lần bác Tiên Đàm Nguyễn Tƣờng Phƣợng đã bắt tôi tả cảnh quê nhà trong một mùa thu khói lửa, dựa vào hai câu Kiều của Nguyễn Du:
Thú quê thuần húc bén mùi
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
Câu dƣới lấy từ Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu thì tôi dễ hiểu. Một lá cây ngô đồng rụng xuống, ai mà chẳng biết mùa thu đã tới. Miền Bắc đông hàn, hạ thử, xuân ôn, thu lƣơng, có mùa đông rét mƣớt, mùa hè nóng nực, mùa xuân ấm áp và mùa thu lạnh lẽo. Riêng mùa thu là tiết trời nhẹ nhàng êm dịu nhất. Để nhặt lá vàng rơi sau cơn gió thoảng, để câu cá nơi ao hồ nƣớc trong leo lẻo, để ngắm trăng rầm sáng ngời tròn trĩnh. Hay dự coi những đám cƣới thôn quê, vui
vẻ nhộn nhịp ngay cả thời buổi đang giặc dã. Nhƣng còn câu trên có rau thuần và cá húc, chẳng hiểu có phải là rau rút và cá riếc trong mùa thu không? Tôi đã cố viết đƣợc một hai trang, kể thêm những món ăn quê với canh cua rau rút khoai sọ, canh cá rô rau cải, thịt bò xào rau cần. Khói lửa đâu phải lúc nào cũng làm giảm đƣợc thú quê!
Nhƣng làm sao nói hết về tình quê hƣơng hay đất nƣớc đƣợc, nếu không có những bài ca tuyệt đẹp của Hoàng Trọng, Thẩm Oánh, Phạm Duy, Châu Kỳ, Hoàng Thi Thơ, cùng những lời sau đây của Hoàng Quí:
Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm
Chạy dài trên khóm cây, đàn chim ríu rít ca
Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm,
Chuyện trò chung với nhau đời sống thần tiên...
Việt Lang:
Ngàn dâu xanh ngát, mấy nếp tranh xa mờ,
Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa...
Ta ra đi, một chiều thắm vang lời ca buồn trong khóm lá,
Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi...
Chung Quân:
Làng tôi có cây đa cao vút trời xanh,
Có sông sâu lơ lững vờn quanh, êm xuôi về Nam.
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau,
Bóng tre ru bên mấy hàng cau, đồng quê mơ màng...
Hoàng Giác:
Về quê xưa để sống êm đềm giấc mơ,
Về quê xưa tìm bóng dáng ngày đã qua,
Và say sưa cuộc sống bên ngàn lũy tre,
Xa lánh cuộc đời khắt khe, trăm đau ngàn thương.
Và thơ của Phan Lạc Tuyên, Đan Thọ phổ nhạc:
Anh về qua xóm nhỏ,
Em chờ dưới bóng dừa.
Nắng chiều lên mái tóc,
Tình quê hương đơn sơ...
Có lẽ tấm tình đơn sơ ấy đã cho chúng ta bao hoài niệm về quê hƣơng, về tuổi trẻ. Dù đang sinh sống ở một phƣơng trời mới, nơi văn minh tiến bộ quá sức tƣởng tƣợng của con ngƣời. Với công viên đẹp đẽ, lâu đài tráng lệ, nhà cửa nguy nga, xe cộ tối tân. Đầu năm 1995, chúng tôi may mắn có dịp về thăm quê nội. Nhƣng còn quê ngoại, biết ngày nào mới trở về thăm đƣợc? Lại e rằng cảnh xƣa, nay đà đổi khác, và ngƣời cũ, biết tìm nơi đâu? Thế thì lo về mà làm chi? Thôi hãy để cảnh sắc quê ngoại êm trôi theo dòng thời gian, và đành giữ trọn tình quê hƣơng trong tâm tƣởng!
Mùa Giáng Sinh 2003
CHƢƠNG BỐN
Vài Nét Về Đông Y
Tháng ngày ở Ngọc Nha
Trong những ngày đầu kháng chiến năm 1946, gia đình tôi chạy về quê nội Xuân Cầu, rồi sau sang ở quê ngoại Kim Ngƣu. Hai làng này của huyện Văn Giang, nguyên thuộc tỉnh Bắc Ninh, sau là tỉnh Hƣng Yên, có lúc thuộc tỉnh Hải Hƣng. Nhƣng chỉ ít lâu sau, vùng này bị tạm chiếm, ngày thì thuộc chính quyền thân Pháp, đêm thì du kích quân kéo về hoạt động. Kể từ đó, gia đình tôi bị phân tán đi nhiều nơi. Bố tôi và ba anh em chúng tôi tản cƣ về làng Ngọc Nha, phủ Khoái Châu, tỉnh Hƣng Yên. Nơi đây hiện còn yên ổn, dân chúng hiền hòa, trù phú, đa số nhà gạch lợp ngói, và đƣờng trong làng đều có lát gạch. Làng trải dài hai bên một con sông nhỏ, chảy vào một cái đầm thật lớn. Đầm này trùng tên với đầm Dạ Trạch làng Đa Hòa gần đấy, là dấu tích một lâu đài tình ái đã chợt biến đi, trong đêm Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đƣa nhau về trời. Theo truyền thuyết, Chữ Đồng Tử đƣợc kể là một trong tứ bất tử của Việt Nam, có công cứu nƣớc hộ dân, cùng với Tản Viên Sơn Thần, Phù Đổng Thiên Vƣơng và Liễu Hạnh Công Chúa.
Gia đình tôi tạm trú nhà cụ Thứ Chỉ Hoàng Văn Hòe. Tôi làm bạn với các con trai của cụ, anh Khôi sau đổi tên là Hoàng Đình Khoa và anh Thúy. Nhà ngƣời em cụ, ông Chánh Đàn cũng ở gần đấy. Ông có ngƣời con trai trạc tuổi tôi là Hoàng Văn An. Lúc đó vào mùa gặt, chúng tôi đƣợc mời ăn cơm gạo mới, hay cơm nếp mới thật dẻo và thơm ngon. Cũng có khi thì đƣợc ăn ngô nƣớng bếp than, khoai lang vùi bếp tro. Mấy tuần sau chúng tôi cùng gia đình ông bác là giáo sƣ Nguyễn Tƣờng Phƣợng đến ở hẳn nhà cụ Đội Nghị, một căn nhà hai tầng rộng rãi, có ao sâu kế bên một cái sân gạch rộng. Ngày ngày chúng tôi không biết làm gì ngoài việc đi chợ nấu ăn, rồi đi chơi với mấy anh chị em con cụ chủ nhà là chị Tuyết, anh Diệu. Riêng tôi, thỉnh thoảng cũng đƣợc bác Phƣợng, nguyên chủ bút Tạp chí Tri Tân, dậy môn Việt văn, và bố tôi dậy Pháp văn. Để tôi có thể học hành đều đặn và đỡ lêu lổng, bố tôi cho tôi theo học chữ nho cụ Hòe. Thế là mỗi buổi sáng, ngày ngày tôi đi theo đƣờng gạch ven sông đến nhà cụ. Trong lớp chỉ có bốn năm ngƣời học trò, kể cả anh Khoa. Tôi đã đƣợc học Tam Thiên Tự, nhƣ Thiên trời, Địa đất, Cử cất, Tồn còn... Tam Tự Kinh, nhƣ „Giáo bất nghiêm, sƣ chi nọa‟, Dậy mà chẳng nghiêm, do ông thầy lƣời, „Nhân bất học, bất tri lý‟, Ngƣời mà không học, không biết lẽ phải... Minh Đạo Gia Huấn nhƣ „Nhân tham tài tử, điểu tham thực vong‟, Ngƣời tham của thì chết, chim tham ăn thì mất, „Đãn hoạn vô tài, bất hoạn vô dụng‟, Chỉ lo không có tài, chẳng lo không đƣợc dùng... rồi Nhị Thập Tứ Hiếu, hay truyện hai mƣơi bốn ngƣời con có hiếu ở bên Tầu. Suốt ngày chi hồ dã giả, không hiểu ngày sau tôi sẽ có thể làm nghề gì trong bốn môn Nho, Y, Lý, Số...mà mới môn đầu tôi đã thấy thật khó học đến nơi đến chốn. Nhƣng vào những ngày phiên chợ huyện, tôi cũng đi lùng tìm cho bằng đƣợc cái bút lông mềm mại, một thỏi mực tầu chính hiệu, những tập giấy bản tốt, và mua cậy để đóng giấy thành quyển tập viết chữ nho. Cụ Hòe vốn dòng dõi khoa bảng, ngƣời tầm thƣớc, trắng trẻo, tính tình rất hiền hậu. Gần cụ, nhƣ gần một gƣơng sáng, tôi học đƣợc sự xử thế của một nhà nho nghiêm túc. Lâu dần thấy tôi lo sợ vì chữ nho là một loại tử ngữ không mấy thích hợp nữa, cụ bèn dậy chúng tôi thêm văn bạch thoại, để có thể đọc một số báo chí Trung hoa thời đó. Tôi đã đƣợc học một số bài của Tôn Dật Tiên, cha đẻ của Tam Dân chủ nghĩa. Lối văn này, vẫn còn rƣờm rà, vì tuy ít chi hồ dã giả, nhƣng lại dùng nhiều chữ đệm hay trợ từ đích.
Đầm Dạ Trạch rộng, nƣớc trong và sâu, bên bờ có chỗ cây cao bóng cả. Dân chài thƣờng đánh cá vào buổi sáng. Năm sáu chiếc thuyền nan chạy theo hàng ngang để cùng trải một mảng lƣới thẳng dài, rồi ngƣ phủ vừa gõ vào mạn thuyền đuổi cá vừa quây lƣới tụ lại một chỗ. Họ kéo lƣới lên và gỡ lấy những con cá mầu bạc lóng lánh đủ loại lớn nhỏ bị mắc vào lƣới. Đôi khi ngƣ phủ quây thuyền thành vòng tròn rồi đồng thời tung những chiếc lƣới gấp gọn lên trên không. Chúng vụt tỏa rộng ra nhƣ những cánh lá sen rỗng vĩ đại sẫm mầu, rồi cùng một lƣợt chụp xuống làn nƣớc sóng lăn tăn. Họ kéo lƣới lên bắt cá để lại tiếp tục quăng lƣới mẻ sau. Những ngày có sƣơng mù bao phủ một vùng mênh mông buổi sáng, cảnh chài lƣới huyền ảo đẹp nhƣ trong cõi mộng, làm con ngƣời quê dễ vui sống an lành với thiên nhiên.
Vào những ngày hè nắng ấm, Khoa thƣờng hay rủ tôi đi bơi tại đầm làng. Khoa bơi sải nhanh và rất đẹp. Có một buổi chiều chúng tôi đang bơi, bỗng một quả cầu lửa vụt ngang trên trời cao để biến mất về phía chân trời, kéo theo một đƣờng khói trắng thật thẳng tan loãng dần trên không. Tôi không biết là vật gì, mà cũng chẳng thấy một ai chú ý. Cả chục năm sau tôi mới suy đoán có thể là tên lửa đƣợc thử thời đó đã đi lạc vào đất liền. Rồi một bận chúng tôi trèo lên cành cây nhào xuống nƣớc, đúng vào hồi nƣớc đầm đã rút cạn. Khoa thì giỏi, nhoài ra xa ngay, nhƣng tôi lúng túng đầu bị đâm xuống bùn. Tôi sợ muốn chết và từ đó bỏ không dám đi bơi tại đầm này, cũng chẳng còn chú ý đến mức nƣớc lên xuống theo mùa nữa.
Thuốc Nam thuốc Bắc
Nói đến tháng ngày ở Ngọc Nha, tôi thƣờng nhớ lại chuyện học chữ nho. Để rồi miên man nghĩ đến thời còn nhỏ, anh chị em chúng tôi nhiều lúc ốm đau cũng thƣờng đƣợc dùng thêm thuốc Nam, thuốc Bắc. Bố mẹ tôi đều biết chữ nho, có thể bốc những thang thuốc thông dụng, nên tôi đƣợc phụ qua loa vào việc tẩm thuốc, sao thuốc, sắc thuốc. Nhƣ dùng dao cầu để cắt, thuyền tán để nghiền thành bột. Và viên thật tròn những viên thuốc tễ, thuốc bổ. Hồi thế chiến thứ hai chấm dứt, khi quân Tầu sang giải giới quân phiệt Nhật miền Bắc nƣớc ta, họ thƣờng bị bệnh lở loét hay sâu quảng. Tôi cũng thấy mẹ tôi tán nhỏ đinh hƣơng cùng với hoạt thạch rồi cho họ rắc lên vết thƣơng. Có lẽ hoạt thạch làm khô và đinh hƣơng sát trùng nên vết sâu quảng dễ lành chăng? Cả hai thứ này đều có ghi trong Dƣợc liệu tây phƣơng. Hồi tản cƣ nơi quê ngoại làng Kim Ngƣu, có hôm đi chợ Trâu về, tôi bỗng thấy cánh tay trái sƣng phù lên, rồi vết lở chảy nƣớc và đau nhức đến không nhấc tay lên đƣợc. Ngƣời ta nói tôi bị lở sơn. Thế mà Sơn ăn từng mặt, ma bắt từng ngƣời, có thể tùy thuộc sự mẫn cảm của mỗi ngƣời chăng? Tôi lấy vải đeo tay trái lên vai, rồi ngồi cầm cần câu cá bằng tay phải cho quên đau và cho qua thì giờ. Sau mấy ngày cánh tay tự nhiên lành, nếu dùng thuốc chắc đã cho là tại thuốc. Nhƣng thƣờng thì chữa theo kinh nghiệm ngƣời xƣa để lại. Mấy bữa ở tạm làng Bình Hồ, không hiểu sao tôi bị ngứa ngáy, da nổi mề đay. Ngƣời ta mách lấy giẻ vó hay miếng lƣới đánh cá đã rách, đem rang lên thật nóng rồi xoa vô chỗ ngứa vì dị ứng thì sẽ khỏi liền, thế mà đúng thật. Những ngày ở làng quê, tiêu chảy thì xoa dầu nhị thiên đƣờng hay dầu con hổ cho ấm bụng, hoặc ăn lá búp ổi để cầm lại. Kiết lỵ thì ăn lá mơ tam thể bác với trứng, ho thì ngậm gừng giã nhỏ chƣng với mật ong. Cảm sốt thì xông cho ra mồ hôi, bằng cách chùm khăn lên ngƣời bệnh để giữ hơi nóng xông lên từ nồi nuớc đun lá tre. Cảm cúm thì bôi dầu bạc hà vào thái dƣơng, hay đánh gió: lấy ít gừng thái nhỏ, một mớ tóc rối, một quả trứng vừa luộc chín còn cả vỏ, bỏ vào một khăn tay, rồi cầm một đồng bằng bạc thiệt cắt ngang quả trứng còn nóng hổi. Bọc nhanh những thứ đó trong khăn tay và trộn lại thành một nắm, rồi lấy nắm ấy chà xát vào sống lƣng, các khớp xƣơng, cho đến khi nguội. Nếu mở bọc ra
mà thấy đồng tiền bạc xám lại, là bị cảm gió, càng xám nhiều là càng cảm nặng. Đứt tay đứt chân thì lấy lá trầu không nhai với vôi đắp lên rồi buộc lại. Cũng có thể rịt bằng thuốc lào. Mắt sƣng đỏ mà rỉ hay ghèn gắn chặt lông mi làm hai mi mắt dính lại không mở ra đƣợc, ngƣời ta vò lá cây dành dành cho ra tiết, lấy giấy bản gói miếng tiết vào, rồi đắp lên mắt cho bớt nóng. Thời đó, vệ sinh thƣờng thức còn rất thiếu sót. Bệnh nhân dễ chết vì nhiễm trùng nhƣ bị hậu bối ở lƣng, bị đinh râu ở quanh miệng, bị bệnh tả, bệnh kiết lị, bệnh thƣơng hàn. Cũng nhiều trƣờng hợp ngƣời bệnh chống cự lại đƣợc và tự nhiên lành trở lại. Nhƣ khi xuống ở làng Gạo Nam, em Đằng tôi bị thƣơng hàn, ngƣời gầy trơ xƣơng, đầu tóc rụng hết. Mấy tuần lễ không có thuốc thang, chỉ uống nƣớc cháo, và kiêng ăn đồ rắn, cầm cự chờ cơn bệnh lui dần. Lúc em tôi bắt đầu hồi phục, may còn đƣợc tẩm bổ bằng nửa kí đƣờng cát trắng của Bác sĩ Tiến ở làng Vân kế bên gửi cho!
Nhƣng có một chuyện mà tôi không thể nào quên đƣợc. Lúc còn ở quê ngoại, gia đình tôi đƣợc tin chị Xuân Nhân tôi trên Việt Bắc bị đau nặng chắc chết. Mẹ tôi phải nhờ chú Viện và anh Triết, lặn lội mất ba tuần lễ lên miền ma thiêng nƣớc độc tìm ra cho đƣợc chị để cáng về quê nhà. Chị chỉ còn có da bọc xƣơng, ngƣời dúm lại nhƣ một con mèo, tinh thần tán loạn hết vì không còn nhận biết đƣợc gì nữa. Có ngƣời bảo chị lên mạn ngƣợc dễ thƣờng bị ma làm, hoặc mƣờng mán nó chài đấy! Phải mau tìm thầy cúng vái để bắt tà ma, nhƣng biết tìm đâu? Bố tôi có ghé về thăm, nói chị bị ho lao đến thời kỳ cuối, mà bác sĩ chữa trị đã bó tay rồi. Trƣớc khi ra đi, ông đứng hè nhà mà khóc, rồi dặn tôi phụ với mẹ tôi lo việc chôn cất cho chị. Mẹ tôi dở khóc dở cƣời, cảnh buồn nản không thể nói ra lời. May lúc đó có ngƣời mách một ông lang ở một phủ huyện tỉnh Hƣng Yên chữa đƣợc nhiều chứng bệnh nan y hay lắm. Mẹ tôi nói thôi thì còn nƣớc còn tát, mình có bệnh thì phải vái tứ phƣơng, và sai anh Phúc đi kiếm ông thầy này ngay. Anh ngƣời làm phải vất vả mấy ngày tìm gập ông lang để kể bệnh của chị tôi, rồi đem thuốc về sắc. Chị tôi mới uống chừng mấy thang thì bắt đầu ói ra mật xanh mật vàng, rồi hết sốt và tỉnh lại dần dần. Mấy tháng sau thì chị tôi khỏi bệnh, ăn trả bữa, rồi lại tiếp tục đi công tác nhƣ cũ. Tôi nghĩ ít ai có thể nói là thuốc Nam thuốc Bắc không công hiệu đƣợc. Thời nào cũng vậy, chỉ khó làm sao là tìm đúng thầy và dùng đúng thuốc mà thôi.
Một tài liệu Việt Y quí giá
Sau gần hai năm ở làng Ngọc Nha, bố tôi và ba anh em chúng tôi xuống ở Gạo Nam huyện Ân Thi, và tôi đƣợc tiếp tục học trung học tại trƣờng Tiền Phong của giáo sƣ Nguyễn Văn Đỉnh ở làng Bình Lăng. Nhƣng cũng từ đó, chúng tôi không có dịp trở lại Ngọc Nha nữa.
Cho đến những ngày mới di cƣ vào Nam năm 1954, đôi lúc tôi mới lại thăm đƣợc cụ Chỉ Hòe tại khu Phú Thọ, và cụ Đội Nghị tại khu Đại Học Xá Chợ Lớn. Từ năm 1957 tới 1972, cụ Hòe làm Giáo sƣ Hán văn Trƣờng Trung Học Nguyễn Trãi, và Chuyên viên dịch thuật tại Nha Văn Hóa Sài Gòn. Cụ đã dịch từ chữ nho sang chữ Việt, bộ Sử về sự giao thiệp giữa vua Quang Trung và vua Càn Long vào đời nhà Thanh, các sách về tuồng cải lƣơng. Để rồi biết bao nhiêu nƣớc chảy qua cầu....
Thấm thoát đã trên nửa thế kỷ qua, tại vùng đất hứa California này, nhờ bác sĩ Nguyễn Đăng Cát cho số điện thoại, tôi mới có dịp gập lại ngƣời bạn đồng môn thời tản cƣ, anh Hoàng Đình Khoa. Anh đã theo đƣợc nghiêm phụ, và bây giờ là đông y sĩ Ông Thọ của Tiểu Sài Gòn. Vì vậy, tôi mới hay cụ Đình Thụ Hoàng Văn Hòe cùng anh Hoàng Đình Khoa có dịch đƣợc bộ sách Hải
Thƣợng Y Tôn Tâm Lĩnh của Lãn Ông Lê Hữu Trác. Sách này gồm 5 quyển, hơn 3000 trang, do Khai Trí Sài Gòn ấn hành, từ 1972 tới 1975.
Tôi không dám giới thiệu hay điểm sách về một tài liệu Việt Y rất quí giá này, vì tự biết không có đủ khả năng. Vậy chỉ xin nêu lên đôi ba cảm nghĩ sau khi đọc bản dịch của cụ Hòe, về những phần liên hệ đến ngành Dƣợc, qua các đoạn dƣới đây.
Trƣớc kia, ngƣời làm thuốc chỉ có những sách cổ từ 4000 năm cũ của Trung Y, nhƣ bộ Thần Nông Bản Thảo, quyển Nội Kinh, bộ Kim Giám... Phải đợi đến đời nhà Trần, Tuệ Tĩnh thiền sƣ mới cho ấn hành quyển Nam Dƣợc Thần Hiệu, ghi tính chất các vị thuốc Nam, nhƣng tiếc rằng bản in bị ngƣời nhà Minh đem về Tầu. Đến hậu bán thế kỷ thứ 18, thời vua Lê Hiển Tôn, mới có một bộ sách thuốc duy nhất do ngƣời Việt viết ra: bộ Hải Thƣợng Y Tôn. Sách này gồm 25 tập, do Lê Hữu Trác, biệt hiệu Hải Thƣợng Lãn Ông, biên soạn ra. Đƣợc nhà Nguyễn phong là một Việt Nam Y Thánh, Lãn Ông đã thâu góp căn bản ở những sách cổ, cộng thêm nhiều sáng tạo để chữa bệnh hợp theo khí hậu của nƣớc ta và tạng phủ của ngƣời Việt thời bấy giờ.
Cụ Hòe đã nêu rõ khúc chiết của bộ sách trong phần Thay lời tựa. Chỉ cần đọc đoạn này, ta có thể hiểu đƣợc phần nào tâm tƣ của dịch giả. Trong xã hội ta, có ngƣời suốt đời chỉ dùng đông y dƣợc, có ngƣời suốt đời chỉ dùng tây y dƣợc. Cũng có ngƣời dùng đông y không khỏi phải đổi sang tây y hay ngƣợc lại. Theo ý cụ, nền đông y không những nên bảo tồn mà cần đƣợc nghiên cứu để phát triển, mà muốn bảo tồn đƣợc di sản của tiền nhân viết bằng chữ nho, thì phải dịch ra quốc ngữ trƣớc. Vì vậy, cụ đã bỏ ra 4 năm để dịch Bộ Hải Thƣợng Y Tôn, chia thành 5 quyển gồm 25 tập, và ghi thêm rất nhiều chú giải. Tôi không thể lạm bàn phần viết về Y, những căn bản y lý, âm dƣơng, lục phủ, ngũ tạng, kinh mạch, bệnh đàn bà, bệnh trẻ con. Bộ sách này còn có phần về dƣơng án ghi lại những chứng bệnh nặng mà Lãn Ông chữa khỏi, âm án kể lại những chứng bệnh nặng chữa không khỏi, và Thƣợng Kinh Ký Sự mà Lãn Ông ghi chép việc khoảng năm 1782 khi ra Thăng Long để chữa bệnh cho vua Lê Hiển Tôn và thế tử Trịnh Cán theo lời mời của chúa Trịnh Sâm. Nếu đọc qua những phần viết về Dƣợc, quyển 1 có tập 1 hay tập Thủ dạy lúc mới học thuốc, với câu ngạn ngữ "ba đời làm thuốc hay, đời sau con cháu tất có ngƣời làm nên khanh tƣớng", kể mƣời phƣơng pháp dùng thuốc, bẩy thứ phƣơng thuốc, các phép bào chế bằng lửa, bằng nƣớc, phép tẩm với rƣợu, với giấm, với sữa. Bệnh hoãn phải chữa về gốc, bệnh cấp phải chữa về ngọn. Tập 4 hay Dƣợc phẩm Bị yếu là tập rất quan trọng, bàn về tính chất của 150 vị thuốc, ngũ vị, âm dƣơng, phép dùng hay để dành thuốc, và tả từng vị thuốc theo các bộ hỏa, mộc, thổ, kim, thủy. Nhà làm thuốc phải rõ về ôn, lƣơng, hàn, nhiệt của vị thuốc để chữa những chứng biểu, lý, hƣ, thực. Quyển 4 từ tập 17 đến 20 gồm Lĩnh Nam Bản Thảo do chính Hải Thƣợng Lãn Ông viết về thuốc Nam, có trích thêm Nam Dƣợc Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh, Bách Gia Chân Tàng về thuốc gia truyền, Hành Giản Chân Nhu về thuốc đơn giản, Tập Nhật về các bài thuốc.
Trong nguyên bản toàn bộ có phần Nguyên Dẫn của Võ Xuân Hiệp, ghi việc tìm kiếm các cuốn sách của Lãn Ông để đem khắc ra bản in, phần Tiểu Dẫn của Thích Thanh Cao, vị trụ trì chùa Đồng Nhân Bắc Ninh coi việc ấn hành, và lời Tựa của Hải Thƣợng Lãn Ông. Riêng phần này, Lãn Ông có viết rằng: “Tôi muốn đem những điều đã học đã nghiệm, trƣớc tác thành sách, nhƣng lại nghĩ rằng lẽ làm thuốc man mác, làm sao hợp đƣợc trăm bộ sách lại cho thành một bộ. Vả lại, làm thuốc không bằng lập bài thuốc, cắt chén thuốc chỉ chữa đƣợc một ngƣời, mà lập phƣơng thuốc mới chữa đƣợc nhiều ngƣời, nhƣng một lời nói sai lầm thì di họa không ít”. Mỗi
mục thƣờng bắt đầu bằng bài Tiểu Dẫn, tóm tắt các ý kiến và ƣu tƣ của Lãn Ông. Nhƣ về thuốc đơn giản, tiểu dẫn có đoạn nhƣ sau: “Trong một bài thuốc, có vị nhiều hơn nhất là quân, có vị nhiều vừa là thần, có vị ít hơn là tá, có vị ít hơn hết là sứ, nhiều vị góp lại mà phải hơn kém khác nhau, nhƣ vậy mới có công hiệu”.
Tú tài Tế Xuyên Tô Văn Độ đã viết những lời giới thiệu công việc dịch thuật của cụ Hòe nhƣ sau: “Nếu bộ Hải Thƣợng Y Tôn không đƣợc dịch ra tiếng Việt, thì e có thể đi đến chỗ hữu thƣ vô truyền. Bản văn dịch lƣu loát, ý nghĩa đúng với nguyên bản, cách xếp đặt khoa học, lời giải thích rất rõ ràng. Hải Thƣợng Lãn Ông trƣớc tác mà Đình Thụ Hoàng Văn Hòe dịch ra. Tuy việc của ngƣời sau chỉ bằng nửa của ngƣời trƣớc, nhƣng công thì nên kể cho gấp đôi”. Thiết tƣởng những dòng nói trên cũng quá đủ để ghi lại công trình dịch thuật của cụ Hòe trong ngành Đông Y.
Tôi cũng có xem thoáng qua Hải Thƣợng Y Tông Tâm Lĩnh do miền Bắc soạn dịch. Tuy chữ nho viết là y tông, nhƣng từ triều Nguyễn vì kiêng tên húy của vua, nên đọc là y tôn. Vào đầu năm 1972, giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên có lần hỏi tại sao đƣờng Lê Thánh Tông lại viết là Lê Thánh Tôn, tôi nhớ có trả lời là vì những sự húy kị này. Nguyên quán Lãn Ông ở xã Liêu Thƣợng, huyện Đƣờng Hào, Hải Dƣơng, thời nhà Nguyễn đƣợc đổi là huyện Mỹ Hào, Hƣng Yên. Thời xƣa, sĩ tử thƣờng bị đánh rớt vì phạm vào những trƣờng qui này. Quê nội tôi là làng Hoa Cầu, sau đổi thành Xuân Cầu, chỉ vì mẹ vua Thiệu Trị tên là Hoa. Ngay cho đến bây giờ, tên một vùng có khi cũng phải bị thay đổi cho hợp với thể chế. Mong rằng rồi ra, khi chính sử nƣớc ta đƣợc kiện toàn, thì sự vô lý này sẽ không còn nữa. Phải đọc bộ Hải Thƣợng Y Tôn Tâm Lĩnh, tôi mới biết phần lễ nghi phụng sự tiên sƣ về y dƣợc, gồm 120 vị, thật là nghiêm cẩn. Trong 12 vị thánh sƣ phối hƣởng về phía đông, có Biển Thƣớc và Hoa Đà. Nhân dịp, tôi xin kể tóm lƣợc vài đoạn thú vị trong truyện tầu nói đến tài trị liệu của Biển Thƣớc, ông tổ ngành Nội khoa và Hoa Đà, ông tổ ngành Phẫu thuật.
Biển Thƣớc và Hoa Đà
Theo Đông Chu Liệt Quốc do Nguyễn Đỗ Mục diễn nôm của Nhà Xuất Bản Đại Nam, Glendale, Hoa Kỳ, Biển Thƣớc (~500 TTL) là một ông thánh trong nghề thuốc. Ông cùng thời với Hiên Viên Hoàng Đế, có tài cải tử hoàn sinh đƣợc. Thời Đông Chu Liệt Quốc, Tần Hoãn, tự là Việt Nhân, mắt sáng nhƣ gƣơng, trông thấy cả lục phủ ngũ tạng của bệnh nhân, làm nghề thuốc rất giỏi, ngƣời ta ví với Biển Thƣớc ngày xƣa, nên cũng đƣợc gọi là Biển Thƣớc tiên sinh.
Khi thế tử nƣớc Quắc bị ngộ cảm mà chết, Biển Thƣớc đã dùng kim đá chích cho thế tử sống lại. Rồi cho uống thuốc, ba tuần thì thế tử khỏi hẳn.
Tề Hoàn Công lúc về già vẫn còn ham mê tửu sắc. Biển Thƣớc khi yết kiến, nói rằng nhà vua có bệnh ở da thịt, Tề Hoàn Công trả lời trẫm đâu có bệnh gì. Sau 5 ngày, Biển Thƣớc đến yết kiến Tề Hoàn Công, nói rằng bệnh nhà vua đã ở huyết mạch, rồi ít ngày sau lại nói bệnh nhà vua ở trong ruột rồi. Tề Hoàn Công cho rằng thầy thuốc chỉ hay thêu dệt, nên không buồn trả lời. Qua 5 ngày nữa, Biển Thƣớc lại vào yết kiến, thì vừa thấy mặt Tề Hoàn Công đã vội lui ra. Tề Hoàn Công sai ngƣời hỏi tại sao thì Biển Thƣớc nói rằng bệnh ở da thịt còn xoa thuốc đƣợc, bệnh ở huyết mạch còn tiêm thuốc đƣợc, bệnh ở ruột còn uống thuốc đƣợc. Nay bệnh nhà vua đã vào
đến xƣơng tủy rồi, dẫu trời cũng không chữa đƣợc nữa. Quả nhiên, Tề Hoàn Công ốm nặng rồi chết.
Cao Hoãn nƣớc Tần, học trò của Biển Thƣớc, đƣợc phái sang chữa cho Tấn Cảnh Công đang bị đau nặng. Lúc đó, Tấn Cảnh Công bỗng nằm mộng thấy hai đứa bé trong lỗ mũi chui ra. Một đứa nói rằng Cao Hoãn cho thuốc thì chúng ta tất bị thƣơng. Còn đứa kia đáp lại nếu chúng ta tránh về phía trên mạng mỡ, phía dƣới quả tim thì hắn làm gì ta nổi. Quả nhiên, sau khi xem mạch xong, Cao Hoãn nói bệnh này ở phía trên mạng mỡ, phía dƣới quả tim, dẫu tiêm cũng không tới đƣợc, còn chữa làm sao? Tấn Cảnh Công thấy lời nói hợp với mộng, khen Cao Hoãn là danh y, và đành bó tay chịu chết vì mệnh trời.
Chuyện Hoa Đà có trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Tử Vi Lang dịch thuật và Nhà Xuất Bản Xuân Thu, Los Alamitos, Hoa Kỳ ấn hành. Hoa Đà (110-207) ngƣời nƣớc Bái, tự là Nguyên Hóa, từng nổi tiếng là danh y thời Tam Quốc. Ai mắc bệnh, thì Hoa Đà hoặc cho thuốc uống, hoặc mổ chích, hoặc châm cứu, cứ động tay vào là khỏi liền.
Quan Công bị tên bắn vào cánh tay mặt trong khi đang bao vây và công phá Phàn Thành. Vì mũi tên có tẩm thuốc độc Ô Đầu nên tay ấy trở thành tê liệt. Hoa Đà nghe tin vội từ Giang Đông cƣỡi thuyền con tìm đến trại quân, và bảo Quan Công hãy chú tâm vào một việc gì để quên đau trong lúc chữa trị. Quan Công bèn thản nhiên đánh cờ với Mã Lƣơng bằng tay trái, rồi đƣa cánh tay phải ra cho Hoa Đà mổ. Hoa Đà dùng dao nhọn rạch da khoét thịt đến chỗ bị bắn, nạo hết chỗ xƣơng bị ngấm độc đi, lấy thuốc rịt vào rồi lấy chỉ khâu lại, thì cánh tay co duỗi trở lại đƣợc nhƣ thƣờng. Quan Công đã phải khen rằng Hoa Đà quả là một thần y.
Tào Tháo đang khi cho xây điện Kiến Thủy, đầu óc bị đau nhƣ búa bổ. Hoa Đà đƣợc triệu đến bắt mạch xem bệnh. Hoa Đà nói phải cho đại vƣơng uống thang ma phế để mê đi, rồi dùng búa sắc tách xƣơng sọ, rạch vào màng óc lấy cái rải gió ra, thì mới chữa khỏi đƣợc. Tào Tháo nghe xong cho rằng Hoa Đà thân với Quan Công nên thừa cơ hội muốn giết mình, vì tay có thể mổ đƣợc chứ đầu thì mổ làm sao, bèn bắt giam Hoa Đà vào ngục tra khảo. Đƣợc Ngô áp ngục ngày ngày đem cơm rƣợu cung phụng, Hoa Đà báo đáp lại bằng cách tặng bộ Thanh Nang, mong sau này Ngô áp ngục tiếp nối lấy nghề thuốc của mình. Ít ngày sau, Hoa Đà chết trong ngục. Chôn cất Hoa Đà xong, Ngô áp ngục liền bỏ nghề cai ngục, toan mang bộ Thanh Nang để học nghề làm thuốc cứu nhân độ thế, thì thấy vợ đang đem sách ra đốt. Giằng lại đƣợc mấy tờ thì ngƣời vợ nói: Nếu mình có học đƣợc giỏi nhƣ Hoa Đà thì cũng đến chết trong lao tù mà thôi, chứ quý báu cái gì? Chính vì vậy mà đời sau chỉ còn lại mấy thuật nhƣ thiến gà, hoạn lợn trong vài trang sách còn lại!
Về việc này, Mao Tôn Cƣơng đã viết: Hoặc có ngƣời tiếc rằng vì sách Thanh Nang không đƣợc truyền lại, nên đời sau không có bậc thần y chăng? Thƣa rằng luận nhƣ thế không đúng. Sách y khoa còn có thể truyền lại, chứ cái ý của thầy giỏi thì truyền làm sao? Vợ Ngô áp ngục đốt sách thuốc vì sợ rằng sách có thể giết mình, nếu không, để cho ngƣời đời nay đem sách ra học rồi làm thuốc, thì sợ sách sẽ giết ngƣời. Tôi thấy lời bàn của Mao Tôn Cƣơng thật chí lý, có sách cũng cần có thầy chỉ dẫn mới có thể thành ngƣời hữu dụng.
Ngƣ Tiều vấn đáp Y thuật
Nói đến thuốc Nam thuốc Bắc, chúng ta không thể không kể tới sách viết bằng tiếng nôm của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) hay Đồ Chiểu, một thế kỷ sau Hải Thƣợng Lãn Ông. Cụ Đồ Chiểu là ngƣời huyện Bình Dƣơng, đã sáng tác Ngƣ Tiều vấn đáp Y thuật để dậy học trò thuốc cổ truyền. Trong thời Pháp đánh chiếm sáu tỉnh miền Nam, cụ là một nhà nho hữu tâm với thời cuộc và quốc văn, nên đƣợc đồng bào rất mến mộ. Cụ còn là tác giả truyện Lục Vân Tiên, và Dƣơng Từ - Hà Mậu. Sách Ngƣ Tiều vấn đáp Y thuật do Phan Văn Hùm hiệu đính và chú thích, Nhƣợng Tống tăng bình bổ chú, và nhà Xuất Bản Xuân Thu, Los Alamitos, California ấn hành. Trong Lệ Ngôn, Phan Văn Hùm giải thích việc làm của ông là tồn cổ, chƣa phải là việc bảo tồn đông y. Theo ông, cụ Đồ Chiểu có tâm, có chí, có khí, có tiết, một lời soi cả một đời, và thƣờng bầy tỏ nỗi chua xót về thân thế, về nƣớc non. “Ngƣ Tiều gốc để dậy học thuốc tầu, Đông Y lấy gốc nơi Dịch Kinh và Nội Kinh. Nơi Dịch Kinh, Đông Y chỉ mƣợn phƣơng pháp, và Nội Kinh mới là con đƣờng thực hành trị liệu. Nếu quả Nội Kinh là do cuộc vấn đáp giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá mà biên thành sách, thời trải mấy ngàn năm nó chẳng màng vào cuộc tiến triển của khoa học, tự cho mình là chân lý đời đời, ắt lẽ dịch là biến là dời hẳn cũng thành không ngôn hƣ từ vô sở dụng? Gần đây, ngƣời Tầu, và nhất là ngƣời Nhật, thâu thái văn minh Âu Mỹ, có đem Tây Y về so sánh và sửa đổi Đông Y, nhƣng bản thể của Đông Y vẫn không khác. Lối kinh nghiệm vẫn giữ lề xƣa, không trổ ra lối thí nghiệm”. Ông Hùm nói nghiên cứu đã trên mƣời năm mà chƣa hiểu "khí" là gì cả. Trong Tăng Bình, ông nói khác với Tây Y lấy khoa học làm cơ sở, Đông Y nƣơng tựa vào huyền học hay siêu hình học, mong tìm một chân lý đơn giản thống nhất để giải thích mọi sự trong đời. Bởi vậy mà hai chữ Âm Dƣơng căn bản trong huyền học đã thấy áp dụng trong mọi chuyện liên quan đến việc trị liệu. Tôi không dám lạm bàn về những nguyên lý, nhƣng chỉ đọc lời Tựa của Nhƣợng Tống đã phải kính cẩn và bồi hồi rồi.
Nhƣợng Tống Hoàng Phạm Trân, một hậu duệ của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, một nhà cách mạng thông nho và tri y, cho rằng “Nguyễn Đình Chiểu đem tất cả khí tiết, và một phần học vấn trong đời mà nhờ Ngƣ Tiều gửi lại làm quà cho thế hệ sau. Vất hẳn phần y thuật và phần cổ văn ra, nếu chúng ta lấy đƣợc một chút tinh thần cứng cáp trẻ trai của tác giả, thì món qùa ấy quả đã là vô giá”.
Những thắc mắc tạm nêu ra trong những dòng trên của nhà cách mạng kiêm học giả và triết gia Phan Văn Hùm từ thời ấy đến nay, nghĩa là trên nửa thế kỷ, hầu nhƣ còn nguyên vẹn.
Phƣơng Đông và phƣơng Tây
Chúng ta hãy kể sơ lƣợc về mấy bác sĩ ngƣời Hi Lạp khai phá ra Tây Y. Ông tổ Hippocrates (460-357 TTL) áp dụng luận lý và lý trí trong các thuyết giảng về y học, đƣợc viết lại bởi đệ tử trong nhiều thế kỷ kế tiếp. Ba châm ngôn của ông còn đúng đến bây giờ là trƣớc hết không gây tổn hại, thứ đến thuốc là thức ăn và thức ăn là thuốc, rồi đến thân thể tự chữa lành. Dioscorides ( ~ 65) ghi lại các thuốc thời ông trong materia medica, mà 80% là dƣợc thảo, 10% là kim loại, và 10% gốc là động vật. Claudius Galen (131-200), nổi danh tại La Mã, để lại nhiều lý thuyết về thể dịch và cách sử dụng dƣợc liệu. Vì những khảo cứu về dƣợc thảo, Galen đã sáng lập ra ngành Dƣợc Học mang tên ông.
Kể từ thời đại Lý-trí, khoảng năm trăm năm về trƣớc, cái nhìn của con ngƣời vào vũ trụ và vào bản thể của mình đƣợc tìm hiểu cặn kẽ theo khoa học. Thế mà nhiều vấn đề nhân sinh lại không thể dùng khoa học mà giải quyết thỏa đáng đƣợc. Nỗi lo về dân số của Malthus (1766-1834) tới
nay còn nguyên vẹn, tuy từ đó đã có nhiều kế hoạch về gia đình. Chỉ cần thêm mƣời, mƣời lăm năm nữa, thế giới sẽ đầy chật 8 tỷ ngƣời. Pavlow (1849-1936), ông tổ của ngành Sinh Lý Học Thực Nghiệm với các thí nghiệm về phản xạ có điều kiện, thay vì mang lại đƣợc sự hoàn bị của trí óc, đã chỉ đƣa đến những cuộc tẩy não, những buổi tự thú trong các trại tập trung. Phải tới khi gần từ trần, Pavlow mới thấy rằng con đƣờng mình theo đuổi càng ngày càng dài ra, khi nói rằng ngƣời dân Nga còn cần có tôn giáo và lòng tin vào kiếp sống sau. Cứu cánh của con ngƣời vẫn chƣa đƣợc soi sáng, dù Le Comte de Noüy (1883-1947) đã chứng minh bằng tính sác xuất sự có mặt của thƣợng đế, khi lập ra thuyết viễn đích và khi giải thích về định mệnh con ngƣời.
Ngƣời là một con vật biết suy nghĩ theo Bacon (1561-1626), hay một cây sậy có tƣ tƣởng thời Pascal (1623-1662), nay trở thành một bộ máy biết suy nghĩ. Trong thời đại đầy thử thách này, phẩm chất và vận tốc trở thành hai yếu tố quan trọng hàng đầu. Cùng với sự thông minh nhân tạo, những tiến bộ về đủ mọi ngành khoa học đã làm thay đổi đến tận gốc các xã hội hiện tại. Tuy nhiên nền văn minh cơ khí còn có quá nhiều khuyết điểm. Khi Tin Học đem lại nhiều kiến thức cần thiết cho cuộc sống mới, thì Mạng Lƣới Toàn Cầu cũng xuất hiện một số tác dụng vị lợi nguy hại, tin tức sai lạc hay chỉ dẫn vô bằng. Nếu những phƣơng tiện dùng để cứu sống con ngƣời ngày nay tinh vi bao nhiêu, thì những khả năng dùng để hủy diệt con ngƣời lại mãnh liệt bấy nhiêu. Các thực hiện nhân tạo càng vĩ đại, thì sự ô nhiễm thiên nhiên càng gia tăng. Thật là nghịch lý, không gian cho sinh vật thì hữu hạn mà con ngƣời cố nới rộng thêm ra, và thời gian thì vô cùng mà con ngƣời hấp tấp vội vã nhƣ cố thu ngắn lại. Cho tới nay, Vật Lý chƣa xác định đƣợc quá khứ, hiện tại, vị lai theo không-thời-gian, Toán Học còn mơ hồ trong nhiều nghịch lý và các con số cực đại cực tiểu, Triết Học đang tìm chỗ đứng khả dụng trong các sinh hoạt hiện đại. Con ngƣời vẫn chƣa hiểu đƣợc những động lực đối kháng tạo ra cảnh trần gian này để có thể hóa giải các động lực đó, và tới một cuộc sống an lành hòa hài.
Với ngành y dƣợc Tây phƣơng bây giờ thật tân tiến và kỳ diệu, ngƣời ta thấy còn cần những bộ môn trị liệu cổ xƣa từ Đông phƣơng, nhƣ Châm Cứu, Chỉnh Xƣơng, Tẩm Quất, Khí Công, và Dƣợc phẩm luân phiên hay bổ túc. Tại Hoa Kỳ, National Center for Complementary and Alternative Medicine dùng cả trăm triệu Mỹ kim để nghiên cứu vấn đề này, theo khoa học chính xác. Thời nay, nhiều vị trong giới y tế tin rằng đông y và tây y có thể bổ túc lẫn nhau, trong một y khoa hợp nhất, hay đúng ra là một y khoa liên hợp. Vấn đề thật là phức tạp. Theo thiển ý thì hai nền y khoa này dựa vào những lý thuyết hoàn toàn khác biệt, dùng âm dƣơng ngũ hành để giải nghĩa phƣơng cách chữa trị theo tây y cũng khó khăn nhƣ dùng các phản ứng dƣợc lực hay sinh học phân tử để chứng minh tinh khí thần trong đông y. Tuy nhiên, vì dƣợc liệu đƣợc dùng trong cả hai nền y học có khi cho một tác dụng tƣơng đƣơng bởi có cùng một hoạt chất, chúng ta cũng hi vọng dùng đƣợc những phƣơng pháp khoa học thực nghiệm hiện đại để kiểm chứng hay phát hiện thêm giá trị của các phƣơng thuốc phức tạp cổ truyền.
12 tháng 8, 2003
CHƢƠNG NĂM
Tháng Ngày ở Thƣợng Phú
Vào đầu tháng 8 năm 1949, tôi rời tỉnh Hƣng Yên để sang Thái Bình theo học ban tú tài trƣờng trung học Lê Quí Ðôn làng Thƣợng Phú. Thu đang trở về với cái se lạnh mênh mông, và cảnh
vật hiện ra thật mờ ảo, lẫn chút vẻ trong sáng trời chiều của một bức tranh thủy mạc. Lòng nặng trĩu nỗi lo âu của một học sinh nhỏ tuổi thời chinh chiến, tôi đeo ba lô độc hành trên đƣờng ruộng, xuyên qua những cánh đồng thơm mùa lúa chín. Bƣớc chân lặng lẽ mà vẫn làm kinh động những đàn cào cào, châu chấu, chúng vụt bay rồi đáp xuống rào rào nhƣ những chiếc lá vàng rơi rụng sau một cơn gió lốc xoáy lên cao. Tới một bến đò thì trời đã xế chiều, tôi tạt vào một quán nƣớc nghỉ chân, ăn uống qua loa và đợi trời tối thì xuống đò dọc để sang chợ Ðống Năm, Thái Bình. Cũng nhƣ Chợ Ðại, Cống Thần, Ðống Năm là một địa danh đƣợc nhiều dân tản cƣ vùng Khu Ba biết tới trong những năm đầu kháng chiến. Tại nơi này, hàng quán la liệt, ngoài các món ăn nhậu khoái khẩu của địa phƣơng, còn có đủ các vật dụng xa xỉ mang từ Hà Nội ra, bằng những đƣờng dây buôn lậu.
Ðò dọc chỉ đi ban đêm để tránh phi cơ giặc bắn phá, là những con thuyền chở chừng hai ba chục hành khách, chạy men theo các sông lạch. Thuyền có một ngƣời cầm sào để khi cần thì đẩy thuyền ra giữa dòng hay điều khiển hƣớng đi, và đƣợc kéo bởi hai ngƣời đàn ông lực lƣỡng đi kèm hai bên bờ, vai đeo dây chão cột vào phía trƣớc thuyền. Hành khách nằm ngổn ngang trong khoang thuyền trải chiếu, có mui tre che ở giữa. Tôi đắp một chăn dạ mỏng, nằm dựa đầu lên chiếc ba lô, trong chứa lỉnh kỉnh đủ thứ, từ quần áo, dầu con hổ và thuốc cảm cúm, khăn mặt, bàn chải và thuốc đánh răng, đến sách vở và những quyển tập học trò. Tuy rằng trên sông về đêm trời trở lạnh, tôi vẫn cảm thấy đủ ấm áp, vì có mặc trên mình một chiếc áo trấn thủ mẹ tôi đặt may bằng vải chúc bâu đen, nhồi bông và máy theo hình quả trám. Nằm ngủ gà ngủ vịt với tiếng sóng vỗ đều đều và nhè nhẹ vào mạn thuyền, thỉnh thoảng tôi lại giật mình nghĩ đến những chuyện đâu đâu, nhƣ nếu đau bụng bất tử lúc này, hay nếu có ngƣời giật mất cái chăn đang đắp thì phải làm sao? Và lại nghĩ đến các câu chuyện đò dọc đủ vẻ hỉ nộ ai lạc, thƣờng đƣợc kể trong giới buôn bán nơi bến nƣớc sông hồ. Một bàn tay anh chị lợi dụng đêm khuya để mò mẫm đã trở thành đề tài câu chuyện chiếc đồng hồ dạ quang biết bò...Rồi liên tƣởng đến bài hát Bình Hồ một đêm trăng, một làng trù phú mà tôi có dịp tá túc mấy ngày trên đƣờng tản cƣ:
Ánh trăng mùa ngập hồn chinh biên,
Gió xóm quê gửi lời lưu luyến.
Buông mái chèo khuấy dòng tâm tư,
Lá rơi rơi về bến đâu xưa.
Tha phương từng đoàn thuyền xuôi đêm,
Vốn liếng trơn chỉ còn niềm tin....
Phải, chỉ còn một niềm tin đem lại ý nghĩa của cuộc sống hôm nay, để mơ mộng đến Những hình bóng qua mà tôi đƣợc nghe tại huyện Ân Thi, Hƣng Yên. Dạo ấy, tôi còn học ở trƣờng trung học Tiền Phong làng Bình Lăng với giáo sƣ Nguyễn Văn Ðỉnh, và thi ở trƣờng trung học Nguyễn Thiện Thuật làng Bích Tràng mà hiệu trƣởng là giáo sƣ Chu Duy Khánh. Bài hát có những câu sau:
Ðàn thu trầm dâng khúc ca sông hồ,
Mấy đường tơ biếc rung lời năm xưa.
Mùa trăng, hàng dương liễu xanh đôi bờ,
Ai về tôi nhắn một vài ý thơ....
Tà áo nhuốm bao mầu thời gian,
Buồn xa vắng nghe chiều than van.
Từng đôi mắt nụ cười vương hương,
Trên bến đời xanh thắm muôn dường....
Năm xưa nhắc nhớ lá vàng cuốn muôn phương,
Một trời thắm gió.
Tới năm nay,
Ðường đời đầy gót phong sương,
Bao lần, mơ tìm theo bóng ai...
Cũng có thể chỉ có hình bóng thôi, tìm đâu ra ngƣời thật mà mơ với mộng? Nhƣng với tiếng đàn của Nguyễn Thế Thâu hay Bùi Xuân Lân thuở ấy, ai nghe mà không mơ?
Vào tảng sáng thì thuyền tới Ðống Năm. Ở đây có trƣờng Quang Trung là trƣờng tƣ có ban chuyên khoa. Bác tôi, giáo sƣ Nguyễn Tƣờng Phƣợng, ngƣời đã truyền cho tôi môn Việt văn, và một ngƣời bạn thân của gia đình, giáo sƣ triết học Trần Mộng Chu, đang dậy ở trƣờng này. Tôi vào một quán chợ ăn sáng và uống cà phê, nơi đây có phở tái, phở xào, phở áp chảo và đủ thức điểm tâm. Thực khách có nhiều ngƣời hút thuốc, ngoài thuốc lá ngoại quốc nhƣ Camel, Philip Morris, còn có thuốc lá nội hóa Bắc Lệ, mà khói mang theo mùi va ni đặc biệt. Sau này có đôi lần tôi đang ăn phải ù té bỏ chạy khỏi chợ, vì tầu bay địch sà xuống. May mà không bị ăn bom đạn lần nào. Nhớ khi còn ở Gạo Nam, trông thấy chợ Thi gần đấy bị ném bom, làm cả trăm ngƣời chết hay bị thƣơng, và những cáng tải thƣơng lầm lũi chạy trên đƣờng quê, để nhỏ xuống mặt đất những giọt máu đỏ đặc loang lổ, tôi thực sợ hãi không bút nào tả xiết.
Từ Ðống Năm đi bộ chừng một tiếng thì về phủ Thái Ninh, rồi tới làng Thƣợng Phú, là nơi mà đình làng đƣợc đặt làm trƣờng trung học Lê Quí Ðôn. Ðình có nhiều gian, mỗi gian có thể ngăn thành những lớp học bằng các phên liếp. Tại Liên Khu Ba hồi đó, Lê Quí Ðôn là trƣờng trung học công, có ban chuyên khoa. Ban giảng huấn rất nổi danh và có nhiều con cái theo học tại trƣờng. Hiệu trƣởng là giáo sƣ Vũ Chứ, có các anh Vũ Ðạm, Vũ Hoạt, chị Vũ Xuân Chiêm.
Giáo sƣ Tăng Xuân An dậy môn Pháp văn, con thầy là chị Tăng Thị Tuyết. Giáo sƣ Vũ Ngô Xán có các chị Vũ Nhất Thanh, Vũ Nhị Thủy. Ðƣợc tiếng là đẹp và nhiều chàng trai mơ tƣởng là các chị Tăng Thị Tuyết, Vũ Nhị Thủy...
Học trò có thể ở trọ tại phố phủ hay tại làng, vì từ phủ vào làng chỉ độ một hai cây số. Tôi và mấy ngƣời bạn, My, Bình, Mạnh, ở trọ tại nhà một học sinh cùng lớp của làng này và đã có gia đình. Làng Thƣợng Phú là một làng giầu có, rất nhiều nhà gạch lợp ngói, và đƣờng trong làng đều lát gạch đỏ từ đầu đến cuối ngõ. Xế nhà chúng tôi trọ học là nhà ông phán Phụng, có gia đình giáo sƣ Tăng Xuân An ở nhờ. Anh Phạm Công Lăng, một ngƣời bạn thân cùng lớp, cũng ở nhà này thì phải.
Tôi học môn lý hóa với giáo sƣ Vũ Lai Chƣơng. Thầy là một nhà mô phạm hiếm có, giảng bài kỹ lƣỡng, viết trên bảng đen thật rõ ràng những công thức vật lý hay phản ứng hóa học. Tôi thƣờng đƣợc thầy gọi lên làm một vài con tính lý hóa. Thầy Ðính dậy toán học. Tôi không nhớ những gì đã đƣợc học, tuy toán là môn tôi sở trƣờng. Thầy An dậy văn phạm và văn chƣơng tiếng Pháp, là một giáo sƣ giỏi, tính tình rất hiền hậu. Tôi đã học đƣợc ở thầy biết bao nhiêu kiến thức về thi, văn, tuồng, kịch... Pháp văn là môn tôi vốn ƣa thích, mà cũng là môn tôi thừa hƣởng nhiều sự dậy dỗ của bố tôi. Có những bài luận tôi viết đƣợc thầy mang đọc cho cả lớp nghe, nhƣ bài tả tết trung thu tại Thƣợng Phú. Tôi không nhớ đƣợc những ý và cảnh gì tôi đã diễn tả, khi mà nơi đây, đang thời kháng chiến, sự thiếu thốn cái mặc, nơi ăn, chốn ở đã thành cùng cực. Ðâu còn những
con giống đủ loại đủ mầu đủ sắc? Ðâu còn ông tiến sĩ giấy xinh xinh, con thỏ ngọc làm bằng trái bƣởi phủ đính bông gòn, chiếc tầu thủy chạy bằng dầu hay nến trong chậu nƣớc? Và nhất là đâu còn những chiếc bánh dẻo, bánh nƣớng của một tiệm Tầu nơi thành phố? Nhƣng vào mùa cƣới này, mùa của cốm thơm và hồng mềm nơi trần thế, các trẻ em vẫn dung dăng dung dẻ, họp đàn vui chơi hồn nhiên, chẳng cần biết khói lửa đang tràn ngập quê hƣơng. Mà trăng rằm tháng tám nhƣ những ngày xửa ngày xƣa, vẫn hiện ra thật tròn và tuyệt đẹp, đi lững thững trên bầu trời trong vắt, tỏa ánh sáng êm dịu tràn ngập không gian. Chú cuội còn ngồi thơ thẩn dƣới gốc đa, biết đâu chả đang mơ mộng đƣợc nhập đoàn với tuổi trẻ vô tƣ đất Việt, để rƣớc những đèn xếp, đèn kéo quân, đèn ông sao, đèn tầu bay và để ca những bài hát líu lo về chị Hằng?
Lớp đệ tam chuyên khoa chúng tôi gần năm chục học sinh. Tôi còn nhớ các bạn Phạm Công Lăng, Phạm Xuân My, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Xuân Soạn, Bình nhỏ, Bình lớn, Bá, Thơm, Tính, Tình, Quý, Triết...Bình nhỏ giỏi Pháp văn, chắc vì anh thông thạo tiếng La tinh. Chung thì học rất gạo, không bỏ sót một bài nào. Lăng thì tài tử, vừa học vừa chơi. Bá và Thơm trong giờ học còn liếc xuống lớp dƣới, vẽ chân dung các nữ sinh mình yêu trộm nhớ thầm. My là ngƣời bạn thân nhất của tôi thời đó, ngƣời nhỏ nhắn, trắng trẻo, tiếng nói rất thanh, khôn ngoan và từng trải việc đời. Sau này, về lại Hà Nội, My trở thành một sĩ quan quốc gia, thƣờng gửi cho tôi những bức ảnh mái tranh, thôn xóm, cây cỏ, sông lạch, chụp từ miền trăng nƣớc Ðồng Nai.
Cơm tại nhà trọ thật là thanh đạm. Thịt cá rất ít, thƣờng thịt heo thì già, dai và khó nuốt. Món ăn chỉ nhiều rau đậu, mà rau muống vùng này đỏ quạch, quả chấp đƣợc dùng thay chanh thì vị lại đắng. Vào những ngày sáng trăng, sau bữa tối, chúng tôi hay tản bộ ra phố phủ, để ăn xôi chè, uống cà phê, trứng đƣờng. Ở đây có một quán giải khát, nghe nói là nơi đã xẩy ra câu chuyện làm đề tài cho Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan. Phủ Thái Ninh, nếu nhƣ vậy, cũng là nơi có ông phủ cấm cô con gái yêu lấy ngƣời học trò nghèo con một bà góa bán xôi chè, đến nỗi nàng có mang với chàng mà còn bị ép uống thuốc phá thai rồi chết. Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực nổi danh thời tiền chiến, với Lệ Dung, Cô giáo Minh, Tắt lửa lòng, Thanh đạm..., ngƣời cùng quê với tôi ở Xuân Cầu. Ông là một ngƣời từng tham gia Quốc Dân Ðảng của Nguyễn Thái Học, rồi sau gia nhập cộng sản. Từ đó về sau, ông cũng chẳng sáng tác đƣợc gì hay ho trong một xã hội viết lách rập khuôn. Và hình nhƣ ngày xa xƣa, Thái Ninh còn có tên là Thanh Quan, mà bà Huyện đã để lại cho đời sau những bài thơ hoài cổ tuyệt tác?
Thời đó phố phủ có nhiều sinh hoạt văn nghệ. Ban Kim Chung với Phụng Khánh, Bích Hợp trình diễn thƣờng đêm, lúc nào rạp cũng chật ních khán giả. Cô Mai, em gái ông phán Phụng, mà tôi coi nhƣ một bà chị, hay phải đến lấy vé vào trƣớc để giữ cho tôi đƣợc chỗ ngồi tốt. Ngoài những kịch, tuồng, còn có những màn ca hát. Khán giả đặc biệt ƣa thích những bài hát trữ tình của Ngọc Bích nhƣ Mộng Chiều Xuân, của Phạm Duy nhƣ Bên Cầu Biên Giới, của Tô Hải nhƣ Nụ Cƣời Sơn Cƣớc, của Tô Vũ nhƣ Tạ Từ, Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mƣa, của Tử Phác nhƣ Tiếng Hát Quay Tơ, của Việt Lang nhƣ Tình Quê Hƣơng, Ðoàn Quân Ði... Nhất là đƣợc nghe Ngọc Dậu, một đào thƣơng tuổi chừng mƣời ba, mƣời bốn, hát lên những lời bay bƣớm sau đây:
Nhà em ở tận nẻo xa,
Có cây bên suối,
Có nhà sàn bương.
Quanh co độ mấy thôi đường,
Men rừng, men núi, men nương, men đồi...
Hôm qua anh đến nhà em,
Thấy đôi mắt đẹp,
Anh thèm muốn xin...
Hay là:
Ðêm qua gió lọt song đào
Ðể cho
Ðể cho hương ấm
Lọt vào phòng em...
Có một chiều chủ nhật, ngƣời ta xử bắn một tên Việt gian tại sân vận động phủ Thái Ninh. Vì tò mò, tôi cùng mấy ngƣời bạn rủ nhau đi xem. Dân chúng kéo đến đầy sân vận động, có chừng năm sáu trăm ngƣời. Nơi thƣờng dùng làm khán đài, đƣợc đặt một chiếc bàn với mấy cái ghế cho các viên chức xử án, xa xa là cây cột gỗ chôn xuống đất, cạnh bên một cái quan tài bằng gỗ mộc. Tội nhân, một thanh niên có vẻ trí thức, mặc áo khoác đen, đƣợc dẫn ra pháp trƣờng, bị bịt mắt và trói vào cột. Ông tòa đọc bản án qua chiếc loa phóng thanh. Rồi tiếng lên đạn của một tiểu đội hành quyết dàn hàng ngang, tiếp theo là những tiếng nổ chát chúa từ các khẩu súng trƣờng. Và ngƣời tử tội rùng mình, đầu nghẹo sang một bên. Sau tiếng súng đặc ân của ngƣời đội trƣởng, không hiểu vì lý do gì, đám ngƣời đi xem bỗng tràn lên phía trƣớc. Chúng tôi đang ngơ ngác không biết có nên theo lên xem không thì có một vài ngƣời hô to mấy tiếng máy bay, máy bay. Mọi ngƣời không ai bảo ai tranh nhau chạy thoát thân khỏi sân vận động. Thật là tài tình, nghe dọa, đám đông chƣa thấy máy bay đã tự giải tán dễ dàng vì sợ hãi. Nghe đâu theo yêu cầu, ngƣời tử tội đƣợc ăn một bữa cơm tầu và đƣợc nghe Bích Hợp hát trƣớc khi thọ hình. Thật là một câu chuyện quá buồn. Trở về một quán nƣớc để ăn xôi chè đêm đó, một anh học sinh cùng lớp đã nhận lời thách thức, dám ra sân vận động tìm mang về sợi dây thừng dùng để cột ngƣời tử tù cho chúng bạn xem. Ngƣời xƣa đã nói đúng, nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò.
Ôi, trong thời buổi loạn lạc và nhiễu nhƣơng hiện tại, những bản án tử hình nhƣ trên có sự có mặt của công lý hay không? Tôi không tin là có. Nhƣng hồi đó, luật sƣ Nguyễn Mạnh Tƣờng thƣờng xuất hiện để bào chữa cho bị can tại các phiên tòa dân sự Liên Khu Ba ở phủ Thái Ninh. Luật sƣ Tƣờng đã nổi danh trong nƣớc vì đậu cả hai bằng Tiến sĩ Luật lẫn Văn Chƣơng tại Pháp lúc mới 22 tuổi. Thông thƣờng nếu có dịp, chúng tôi cũng rủ nhau đi nghe những lời biện hộ của ông. Với những vụ án đủ loại, tôi lấy làm thích thú đƣợc nghe những lý luận đanh thép và tài hùng biện có một không hai của ông. Sau này, khi di cƣ vào Nam, tôi đƣợc biết ông liên hệ đến nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, và bài Những sai lầm trong chính sách cải cách ruộng đất đã làm tôi tâm phục ông hơn. Ông thật là một kẻ sĩ đáng kính trọng của Việt Nam. Gần đây, đọc quyển Un excommunié của ông, tôi còn cảm thấy xót xa cho một nhân vật sáng giá của đất nƣớc..
Tại Thƣợng Phú, tôi còn có một kỷ niệm thật đẹp, một chuyện kỳ ngộ. Tôi không hiểu tại sao, và vì lý do gì, tôi đƣợc quen thân với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Tôi đƣợc biết tiếng ông nhƣ một thủ lãnh của Thanh Niên Tiền Phong, một chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến Nam Bộ, hay một Bộ Trƣởng Y tế. Lúc đó, ông có nhiệm vụ giảng dậy về chính trị cho các sĩ quan cao cấp cộng sản tại đây. Ông thƣờng đi với bà vợ ngƣời Việt gốc Hoa, và một sĩ quan phụ tá mang quân hàm Trung tá. Ông coi tôi nhƣ một ngƣời bạn tuổi nhỏ, nhƣng gần nhƣ chƣa bao giờ chúng tôi bàn tán hay nói đến những chuyện về chính trị, hoặc về gia đình. Ông bà bác sĩ Thạch hay rủ tôi đi ăn chè, uống cà phê, xem kịch... Có lúc cả buổi chúng tôi ngồi nói chuyện trên trời dƣới biển, để quên đi những nỗi nhọc nhằn thời tao loạn, mà không một ai không bị ràng buộc vào. Tôi thì
gia đình nay phân tán ở nhiều nơi, lâu lắm mới có chút ít tin tức. Chị Xuân Nhân của tôi, một nữ sinh xuất sắc của trƣờng Ðồng Khánh Hà Nội, đã ra đi công tác ở Việt Bắc từ ngày đầu kháng chiến. Bố tôi còn làm việc tại Hƣng Yên, có hai đứa em trai đi theo. Mẹ tôi và bốn đứa em nhỏ tá túc nơi quê ngoại Kim Ngƣu, nay đã trở thành vùng bị tạm chiếm.
Bác sĩ Thạch một hôm nói với tôi:
-“Chú học giỏi thì chỉ nên chú tâm vào việc học, chuyện chính trị có nhiều điều bẩn lắm”.
Tôi không có khiếu mà cũng chẳng ƣa gì những công việc về chính trị. Tuy nhiên, từ hồi còn trẻ, tôi đã mê đọc loại sách tiểu thuyết lịch sử ký sự, nhƣ Ðông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, và các tài tử thƣ của Trung Hoa nhƣ Tam Quốc Chí, Thủy Hử.. để xem cách ngƣời xƣa xử thế ra sao với những sự biến chuyển khó lƣờng trƣớc đƣợc của dòng đời. Một đôi lần tôi đƣợc theo đi dự lớp bác sĩ Thạch giảng dậy. Tôi thực sự đã bị thu hút bởi tài diễn thuyết của ông, với lời nói tâm huyết và đanh thép, với lối lý luận khoa học, mang theo những ý tƣởng thật cao đẹp. Ðến bây giờ, tôi vẫn còn ngƣỡng mộ ông, một kẻ sĩ đáng kính mến và hiếm có của đất nƣớc. Vào tháng 11 năm 1968, trong khi đang đi thăm viếng các đại học Hoa Kỳ, tôi bàng hoàng và xúc động khi nghe tin ông bị tử nạn trên chiến trƣờng miền Nam vì B52. Một bác sĩ tài năng và đức độ của Việt Nam đã nằm xuống...
Trung tá phụ tá bác sĩ Thạch là một ngƣời ít nói. Ông còn trẻ mà tóc đã muối tiêu. Ông tâm sự với tôi ông là một đảng viên Quốc Dân Ðảng, từng mang tiền sang Tầu để tìm cách mua máy bay cho Vệ quốc quân. Ông có vợ và một đứa con nhỏ mà đã mấy năm không gặp mặt. Thỉnh thoảng, lúc buồn, ông lại ngâm cho tôi nghe vài câu thơ:
Cất bước ra đi chiều năm xưa,
Bụi đường trường chinh pha mái tóc...
Phải, trên đƣờng dài kháng chiến, nhiều ngƣời con dân đành quên cả đƣờng về... Mùa đông lại đến nơi này, đồng ruộng có chỗ đất khô nứt nẻ, đây đó còn trơ trọi một vài cọng rạ. Lác đác cũng có vài đám cỏ dại, bụi rau muối vị mặn, khóm rau khúc xanh để làm bánh. Thƣờng nhiều ngày đẹp, bầu trời trong nhẹ, điểm vài áng mây trắng nhƣ bông gòn bay lờ lững. Ðôi lúc trời mƣa phùn, có những làn gió lạnh buốt xƣơng chợt đến, nhẹ nhàng luồn qua các khóm cây im vắng bóng chim xanh và các rặng tre đầy cò trắng đậu ủ rũ. Có ngày mây đen kéo đến thật dầy đặc, phủ kín một vùng từ làn ngang thẳng tắp xuống tận chân trời nhƣ một trƣờng thành xám ngắt, làm bầu trời trông tƣởng nhƣ sa xuống thấp. Tin hay không thì mây thành đó đã báo hiệu những cảnh ly loạn liên tục sẽ lan đến vùng này. Bên Tầu, cộng sản mới thắng lợi, đẩy phe quốc gia ra khỏi lục địa. Có thể vì thế, Việt Nam hy vọng sắp sửa đƣợc Trung cộng tăng viện để đẩy kháng chiến đến thành công rồi chăng? Chúng tôi vừa thi xong đệ nhất lục cá nguyệt, và lớp học đã sửa soạn làm bích báo mùa xuân. Tôi có linh cảm tình hình không ổn, không khí chiến tranh nhƣ bao phủ nơi hậu phƣơng này, nên chẳng tha thiết gì đến việc thi cử. Tuy từng đậu thủ khoa kỳ thi Sơ học Bổ túc tỉnh Hải Dƣơng, thủ khoa kỳ thi Trung học Phổ thông tỉnh Hƣng Yên, tôi đã bỏ không thi rất nhiều môn học, mà chỉ thi có Pháp văn, Toán, Lý Hóa là những môn ƣa thích. Tôi không đƣợc xếp thứ hạng trong đệ nhất lục cá nguyệt, nhƣng định bụng rồi ra sẽ học hành cẩn thận. Nhà trƣờng thời gian này bỗng nhộn nhịp những sinh hoạt tuyên truyền của đoàn Văn công Hồng quân Trung Hoa, của đoàn Văn nghệ Liên Khu Ba. Tối nào cũng có trình diễn ca vũ nhạc kịch, và đôi khi chúng tôi cũng đƣợc hát những bản hợp ca ba bè nhƣ Trƣờng Ca Sông Lô của Văn Cao, Ngƣời Du Kích Sông Thao của Ðỗ Nhuận. Ðặc biệt là bài Tiến về Hà Nội mang theo bao ƣớc vọng:
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về,
Như loài hoa đón chào
Mà năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh.
Chúng ta ươm lại hoa,
Sắc không phai ngày xa,
Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu...
Mỗi đêm khi nghe bài Tiến quân ca sắt máu mở đầu buổi sinh hoạt văn nghệ, chúng tôi nhƣ bị kích động, lòng sôi sục muốn xông ngay ra xa trƣờng. Tin nhà trƣờng phải tạm đóng cửa, học sinh các lớp chuyên khoa sẽ đƣợc theo học lớp lục quân Trần Quốc Tuấn, đã đƣợc loan ra. Phong trào xung phong tòng quân đƣợc cổ võ và vận động từ đấy.
Là một học sinh nhỏ tuổi nhất trong lớp, tôi băn khoăn lo lắng làm sao đủ sức khỏe để học tập quân sự tại Việt Bắc. Tôi nên làm gì bây giờ? Tôi tìm gặp bác sĩ Thạch và ông bảo tôi:
-“Chú khỏi phải xin xung phong tòng quân. Ðể anh giới thiệu chú vào làm giáo sƣ trƣờng Thiếu sinh quân Liên Khu Ba, rồi ra chú có thì giờ học thêm”.
Trở về nhà trọ, Bình thấy tôi có giấy giới thiệu cũng muốn tôi xin cho anh đi cùng. Tôi lại đƣợc bác sĩ Thạch chấp thuận cho Bình cùng đi, để chúng tôi đỡ lẻ loi. Lúc này, ngƣời ta bắt đầu lập danh sách những học sinh xung phong tòng quân. Trong một buổi họp, vài ngƣời lớp tôi dơ tay xung phong, dần dần kéo theo cả lớp. Những học sinh ra đi chỉ có mấy ngày sửa soạn rồi phải lên đƣờng. Ai nấy sự âu lo hiện ra nét mặt. Phạm Gia Chung mà gia đình hình nhƣ đã hồi cƣ về Hà Nội, sợ đến mất ăn mất ngủ. Tôi đã gửi gấm mấy dân buôn lậu quen biết để dẫn Chung theo về tề. Chung vội vã ra đi ngay trong đêm, bỏ lại cả những sách vở mà anh thƣờng giữ nhƣ bảo vật. Rồi mấy hôm sau tới buổi lễ tiễn đƣa, mỗi chiến binh tƣơng lai mang theo một khăn tay do nữ sinh của trƣờng thêu tặng làm kỷ niệm. Tôi không dám đi dự cảnh chia tay bịn rịn này. Cảnh biệt ly mà từ đây kẻ ở lại buồn tủi, ngƣời ra đi có mong chi ngày về...
Trƣờng Thiếu sinh quân Liên Khu Ba nằm trong một làng cách Thƣợng Phú chừng hơn chục cây số. Vào một buổi chiều nhạt nắng, Bình và tôi đến trình diện vị chỉ huy là Trung tá Xuân, một sĩ quan cao, gầy, da ngăm ngăm đen. Chúng tôi đƣợc nhận làm giáo sƣ toán lý hóa, mang phù hiệu cấp úy, ngoài việc ăn mặc do trƣờng lo liệu, sẽ có tiền tiêu vặt hàng tháng. Rồi chúng tôi đƣợc Trung tá Xuân đƣa đi thăm trƣờng. Chỗ nào cũng ngăn nắp, trật tự, kỷ luật nhƣ một trại lính. Có cả ngàn thiếu sinh, nhiều em tuổi chắc không kém tôi là bao. Có lớp các em đang học, có lớp các em đang ca hát, có chỗ các em làm bếp, giặt giũ, vui vẻ chơi đùa nhộn nhịp. Tôi nhƣ đi lạc vào một thế giới khác lạ. Chúng tôi ra về, hẹn tuần sau sẽ đến nhận việc.
Ngày hẹn rồi cũng đến. Ba lô trên vai, Bình và tôi lặng lẽ đi bên nhau qua mấy cánh đồng để đến nơi nhận công tác. Sáng mùa đông hôm ấy còn đầy sƣơng móc ẩm ƣớt, nhƣng tới trƣa ánh nắng chiếu thẳng trên đỉnh đầu, trời trở nên oi bức khó chịu. Chúng tôi bảo nhau tạm nghỉ tại đầu làng, vì qua cổng là tới trƣờng Thiếu sinh quân. Chúng tôi nằm dƣới bóng mát cây đa cổ thụ, gối đầu lên những rễ cây chằng chịt bò lan mặt đất. Trời xanh trong vắt, không một đám mây, không một ngọn gió. Nhƣng sao tâm tƣ tôi thì đầy bâng khuâng lo lắng, bao xao xuyến ngổn ngang. Tƣơng lai mình sẽ ra sao khi bƣớc chân qua cổng làng này? Muốn suy nghĩ mà chẳng nghĩ đƣợc gì. Không biết tại sao, lòng thƣơng nhớ gia đình bỗng hiện ra hay là tinh thần tiểu tƣ sản chợt nổi dậy. Nhớ ông bố lúc nào cũng lo dậy dỗ cho tám anh chị em chúng tôi nên ngƣời. Nhớ bà mẹ
sớm ngày buôn bán tần tảo để gửi cho chồng con từng cái bút máy, đồng hồ đeo tay, chai dầu tây, đôi dép cao su con hổ, hay mấy thƣớc vải kaki. Mẹ tôi còn bắt tôi phải đeo chiếc nhẫn cƣới một chỉ vàng, mở ra bấm lại đƣợc, phòng khi cần thì bán đi mà sống.
Nhớ ngƣời chị còn phiêu bạt phƣơng xa, nhớ các em đã bao lâu không gặp. Nhớ bà ngoại thân thƣơng, nhớ họ hàng làng nƣớc tại Xuân Cầu, Kim Ngƣu...Tôi nói với Bình là muốn về gặp gia đình đã rồi sẽ tính sau. Bình cũng thổ lộ không muốn đi nữa, để tìm lại ngƣời nhà trƣớc. Không ai bảo ai mà ý nghĩ nhƣ nhau. Thế là chúng tôi chia tay ra về. Cho đến nay không biết Bình và những ngƣời bạn xung phong tòng quân thời ấy trôi dạt về phƣơng trời nào?
Tôi trở về đến Ðống Năm kiếm gia đình bác tôi là giáo sƣ Nguyễn Tƣờng Phƣợng, thì gặp đƣợc bố tôi và hai em tôi cũng vừa từ Hƣng Yên chạy sang. Hƣng Yên đang bị càn quét. Mấy gia đình chúng tôi thƣờng cùng chạy loạn từ những ngày đầu khói lửa, nay gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Thêm gia đình giáo sƣ Trần Mộng Chu nhập bọn. Bàn lên tán xuống, làm sao thoát ra khỏi Thái Bình đang bị bao vây? Thôi thì chạy vòng quanh, đàn chim đã bị vỡ tổ, về đâu mà chẳng đƣợc. Giáng sinh rồi tết Dƣơng lịch 1950 qua lâu rồi mà không một ai để ý tới. Muốn xuống phía nam thì mới chạy đến vùng Thần Ðầu Thần Huống huyện Tiền Hải đã gặp dân chúng từ Ninh Bình kéo ra. Giặc đã tới Khu Tƣ. Ðành phải quay trở lại phía bắc. Ði trong đêm qua những cầu khỉ, những cống nƣớc chảy ào ào nhƣ thác đổ của đập Trà Linh, bác Phƣợng gái sợ đến ríu chân bƣớc không nổi, phải bám chặt lấy tay tôi. Muốn trở lại Hƣng Yên, mà vừa tới huyện Quỳnh Côi đã bị nghẽn lối.
Lúc này xuân Canh Dần cũng mới đến, mang theo thời tiết ấm áp, và đàn chim ríu rít ca trong những khóm cây đâm chồi nẩy lộc. Lại thêm mấy gia đình quen cùng tụ lại ở làng Khuốc bên sông Luộc. Mồng một qua đi nhƣ một ngày cuối năm, lo ăn, lo uống, lo chạy loạn, không ai buồn nói chuyện tết nhất. Sáng ngày mồng hai, bố tôi phái tôi đi nghe ngóng khi có tin giặc về càn quét khu này. Tôi men theo ven đê sông Luộc, qua mấy làng kế cạnh nằm im lìm, không một bóng ngƣời. Ðến một mé thấp, vừa nhô đầu lên khỏi mặt đê, tôi đã thấy ca nô giặc đang chạy dọc trên sông, tiếng súng bắt đầu nổ từng loạt. Tôi lăn vội xuống chân đê, chiếc mũ bê rê đen rơi mất lúc nào không biết. Tôi chạy về làng Khuốc báo tin để cùng mọi gia đình lùi sâu vào phía trong. Phải nhiều ngày sau mới bắt liên lạc đƣợc với ngƣời dẫn đƣờng đƣa chúng tôi qua đò về địa phận tỉnh Hƣng Yên. Ðể khỏi bị bắn, hành khách đƣợc chở lặng lẽ qua sông trong đêm tối, vào khoảng giữa hai đồn giặc. Rồi loanh quanh mãi tại nơi đây chƣa tìm đƣợc lối chạy tiếp, thì một hôm giặc càn quét, bắt tất cả chúng tôi lên đồn bót. Thế là mộng lên Việt Bắc tiêu tan.
Rồi mấy gia đình đƣợc giấy thông hành tạm và xe cam nhông nhà binh chở lợn đã chở chúng tôi theo về thẳng Hà Nội và bỏ chúng tôi xuống phố Hàng Ðậu. Trời về tối đen nhƣ mực, nhƣng khi xe qua cầu Long Biên, muôn ánh đèn phía Hà Nội hiện ra lấp lánh nhƣ những vì sao đẹp giải Ngân Hà. Tôi bồi hồi nhớ lại cảnh Hà Nội rực cháy nhìn từ quê nội trong đêm 19 tháng 12 năm 1946...Rồi hình ảnh kiêu hãnh của những ngày theo kháng chiến nhạt phai dần với thời gian. Tôi miệt mài theo đời thi cử tuổi thanh xuân, trong cảnh phồn hoa đô hội đất Thăng Long. Ngay tháng 6 năm đó tôi đậu tú tài một, rồi vào học lớp đệ nhất trƣờng Nguyễn Trãi. Tôi gặp lại Phạm Gia Chung và quen thêm biết bao nhiêu bạn mới nhƣ Từ Uyên, Vũ Quí Ðài, Nguyễn Văn Phác, Tạ Văn Quang, Nguyễn Cao Ðằng...Tôi ngồi bàn nhất bên phải, cùng với Nguyễn Tuấn Ngọc, Lê Văn Kiên, Nguyễn Phú Duyệt. Bàn sau có Ðỗ Thị Nhuận, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Bùi Thị Nhu Thuận, Nguyễn Thị Hồng Loan... Tại đây, tôi cũng chỉ học đƣợc có đệ nhất lục cá nguyệt.
Sau tú tài hai, thì có lệnh động viên đi khóa sĩ quan Nam Ðịnh. Một số bạn lại xếp bút nghiên theo việc đao cung, và ngay sau khi 84 Tháng Ngày ở Thƣợng Phú tốt nghiệp sĩ quan, lớp tôi có Nguyễn Văn Ngọc tử trận, Nguyễn Tuấn Ngọc bị thƣơng.
Trên nửa thế kỷ đã qua đi, nên những hình ảnh ở Thƣợng Phú, tuy có nhiều nét còn rõ nhƣ mới xẩy ra, cũng có nét nhạt nhòa theo thời gian. Những bạn tôi có ngƣời xung phong tòng quân phía cộng sản, có ngƣời đƣợc gọi động viên lớp sĩ quan quốc gia. Ngƣời ta ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau, nhiều khi chỉ vì thời thế và cảnh ngộ chăng? Từ mùa thu năm 1962, tôi trở thành một giáo sƣ trƣờng Dƣợc của Sài Gòn hoa lệ, nhƣng nếu thời đó không gặp gỡ bác sĩ Thạch, không có cây đa ở một đầu làng tỉnh Thái Bình, hay không bị vụ càn quét ở Hƣng Yên, không biết tôi đã phiêu dạt về đâu?
Từ thời còn học trung học, chƣa bao giờ tôi tin đƣợc lý thuyết cộng sản là đúng đắn. Nhƣng tại sao Việt Nam lại trở thành cộng sản? Thôi cứ cho là vì sự thô bạo của thế giới sau thế chiến thứ hai, là tại ở gần một nƣớc cộng sản khổng lồ, hay tốt hơn hết, là tại vận nƣớc nhà đen tối. Tự nhiên, tôi bỗng thấy mơ nhƣ lúc còn ở Thƣợng Phú, tới một mùa thanh bình trên quê hƣơng yêu dấu, khi mà tự do, độc lập, hạnh phúc không phải chỉ là khẩu hiệu trống rỗng.
1 tháng 6, 2002
CHƢƠNG SÁU
Những năm học và mùa thi đã qua
Thế hệ tôi lớn lên trong những hoàn cảnh rất khó khăn và phức tạp của đất nƣớc, từ những ngày Pháp thuộc, Nhật xâm chiếm, cách mạng mùa thu, kháng chiến, tản cƣ, hồi cƣ, di cƣ.... đến biến cố tháng 4 năm 1975. Chúng tôi chắc khó là những học trò giỏi, vì không có những điều kiện học hành tốt lành, hay đúng ra là bình thƣờng. Nhƣng đã học thì phải thi, mà học tài thi phận, ai cũng có thể bị trƣợt dễ dàng. Thế mà tôi may mắn thi đâu đỗ đấy, dù là thi tuyển, thi lên lớp hay thi tốt nghiệp. Có thể vì tôi đƣợc gập những thầy hiền từ, khi mà quyền sinh sát, nhất là vào lúc vấn đáp, còn nằm trong tay các vị giám khảo. Hay vì tôi sinh ra dƣới một ngôi sao thi cử thật đẹp?
Những năm tiểu học
Lúc còn nhỏ, khi bố tôi làm Hiệu trƣởng trƣờng tiểu học tỉnh Hải Dƣơng, tôi theo học các lớp năm, lớp tƣ, lớp ba tại trƣờng này. Tôi chỉ còn nhớ tập đọc, tập viết, và học thuộc lòng dăm ba bài trong Quốc Văn Giáo Khoa Thƣ. Nhƣng tôi hình dung đƣợc mái trƣờng xƣa rất đẹp, với những lớp học khang trang, những bàn ghế tốt. Có cái trống trƣờng thật to. Có sân chơi rộng rãi. Có cây đa lấy bóng mát, búp đa để thổi, nhựa đa làm banh. Có cây bàng lá xanh mùa hạ, lá vàng mùa thu, trông xa nhƣ tán nhƣ dù. Thầy Trịnh Ðình Rƣ, hay cụ cử Rƣ dậy lớp tƣ. Chúng tôi sợ hãi vì giờ tập viết thầy thƣờng lấy thƣớc kẻ đánh vào lòng bàn tay học trò nếu chữ xấu hay nguệch ngoạc. Vết hằn đau rát và lâu lắm mới lành. Tôi chƣa học tới lớp nhất, lớp có thầy Nguyễn Văn Tạo cao lớn và đẹp trai. Những ngƣời bạn nhỏ thời đó có Lê Văn Kiên con bác sĩ Lê Văn Khải, Nguyễn Hoàng Lĩnh con thầy Nguyễn Hoàng Chừng, Vũ Xuân Châu và Lê Phụng... Khi đậu bằng Sơ Học Yếu Lƣợc vào năm 1941, tôi không nhớ nổi thi cử ra sao. Tuy
nhiên, những ngày theo Sói Con đã để lại cho tôi nhiều ấn tƣợng tuyệt đẹp, qua những buổi cắm trại tại đền Kiếp Bạc, động Kính Chủ, mả Táng Treo, rặng núi Vôi... của tỉnh Hải Dƣơng.
Từ lớp nhì năm thứ nhất, tôi sang trƣờng tiểu học tỉnh Hƣng Yên, vì lúc đó bố tôi đƣợc bổ nhiệm làm Huấn Ðạo tại đây. Ngƣời thầy cũ đã dậy dỗ tôi nên ngƣời là thầy Lê Văn Trọng, em bác sĩ Lê Văn Khải. Thầy đẹp trai, cao lớn, khỏe mạnh nhƣ một lực sĩ điền kinh. Ngoài việc dậy học, thầy còn trông coi việc thể dục thể thao cho nhiều lớp. Tôi là một trong số nhị thập bát tú của thầy, đƣợc sinh hoạt trong những buổi kể chuyện, ca hát, ngâm thơ, đóng kịch. Thầy đã mở mang kiến thức chúng tôi qua những chuyện cách trí, những tiểu thuyết trinh thám, những truyện đƣờng rừng. Lối bắt hổ tuyệt diệu của thợ săn dùng khói thuốc phiện. Trí nhớ siêu việt của loài voi khi đi tìm kẻ thù đã lẩn tránh sau nhiều năm. Cách nuốt thật kỳ lạ của loài trăn sau khi đã quật chết con mồi. Thầy đã dậy chúng tôi những bài hát về tuổi nhỏ, về quê hƣơng, về đất nƣớc, nhƣ Con Ðƣờng Vui, Quê Nhà Tôi, Bạch Ðằng Giang, Ải Chi Lăng, Hội Nghị Diên Hồng. Có lần chúng tôi trình diễn kịch thơ Trần Nguyên Hãn. Và mở màn là những lời thơ từ trong hậu trƣờng vang lên :
Tiếng ca âm thầm nhịp nhàng trong đêm tối,
Vang trong trời xa như dục lòng yêu nước non.
Quân Minh ác thay lầm than còn đâu đây,
Ai đi trên đường xa hãy quay về trông núi sông...
Trần Nguyên Hãn, gánh hai thùng dầu xuất hiện trên sân khấu, than van cảnh đất nƣớc lầm than dƣới ách giặc Minh:
Nay lòng ta đây quyết chí ra tay,
Thề thi gan huyết chiến cùng quân thù...
Rồi đƣợc một tiên ông mách bảo tìm về núi Lam mà phò Lê Lợi. Nhƣng đến khi thành công, Trần Nguyên Hãn bị vua Lê kết tội chết vì vua nghe bọn gian thần tố ông phản bội. Trần Nguyên Hãn đành phân trần:
Chúa công ơi sao đang tâm ngắt hái?
Một bông hoa không đượm chút héo hon,
Chúa công ơi sao lại nỡ giận hờn?
Một tôi trung không có lòng phản trắc.
Ðể rồi rút gƣơm tự sát, ghi một vết nhơ trong lịch sử:
Thần chỉ mong non nước được vẹn toàn,
Thời có chết cũng không hề oán thán...
Bạn bè tôi chỉ nhớ có Vũ Trùng Thân, và một anh bạn tên là Dũng. Cùng đánh khăng, đánh đáo, đánh bi trên những con đê đầy nhãn lồng nổi tiếng của Hƣng Yên. Dũng có biệt tài bắn ná cao su rất giỏi, anh thƣờng hạ đƣợc cả những cánh chim nhỏ đang bay. Anh còn vẽ rất nhanh những chàng hiệp sĩ quần áo võ lâm gọn gàng oai nghiêm, đánh kiếm, phi thân, trông thật là đẹp mắt. Nếu sinh trƣởng nơi trời Tây chắc hẳn anh phải thành công và giầu lớn.
Thời gian này của thế chiến thứ hai, có hai trƣờng trung học Hà Nội sơ tán về Hƣng Yên. Trƣờng Ðồng Khánh, tiền thân của trƣờng Trƣng Vƣơng, và trƣờng Ðỗ Hữu Vị, tiền thân của trƣờng Nguyễn Trãi. Tôi mong đƣợc học trung học tại Hƣng Yên, nhƣng mới lên đến lớp nhất đã xẩy ra
vụ Nhật đảo chính 9-3-1945. Rồi cách mạng tháng tám, rồi tuần lễ vàng với những đóng góp tự nguyện. Sau những ngày hoang mang của buổi giao thời, bố tôi xin trả lại công thự để trở về tỉnh Hải Dƣơng.
Gia đình tôi trở lại căn nhà cũ số 79 phố Ðông Giàng, rộng rãi và mát mẻ. Trừ các sách về khoa học, giáo dục, triết lý thì tôi chƣa hiểu gì nhiều, nay tôi đã có dịp để đọc những sách báo đủ loại trong tủ sách nhà. Các quyển Sách Hồng, tạp chí Nam Phong, tạp chí Tri Tân, các truyện của Tự Lực Văn Ðoàn.. Bố tôi lúc này cũng có ít thì giờ để kèm cho tôi học hành thêm. Về Toán với những bài tính căn bản về số học, số nguyên, phân số, bội số chung nhỏ nhất, mẫu số chung lớn nhất. Các cách vẽ một vật từ chính diện, tiền diện, thiết diện. Về Lý Hóa với những kiến thức sơ đẳng về áp suất, bình thông nhau, hợp lực, ngẫu lực. Và về Pháp văn, nhƣ chia động từ, học ngữ vựng, tập đọc, làm luận, viết chính tả. Việt văn thì có ông anh họ là Tô Tƣởng kèm. Anh cũng bắt tôi làm luận, viết chính tả, học thuộc lòng vài đoạn văn xuôi của Khái Hƣng, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, hay dăm ba bài thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, Tế Hanh. Tôi may đậu thủ khoa kỳ thi Sơ Học Bổ Túc kỳ đầu tiên khi nƣớc nhà mới đƣợc độc lập, tại hội đồng tỉnh Hải Dƣơng. Một vị thân hào đã tặng cho tôi bộ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thƣ của Ngô Sĩ Liên, tiếc rằng tôi không có dịp đọc kỹ và giữ gìn đƣợc quyển sách quý giá này.
Thời gian trung học
Lúc này, tình hình đất nƣớc càng ngày càng trở thành rối ren. Kể từ hơn một năm rồi, khi quân Quốc Dân Ðảng Trung Hoa của Lƣ Hán đến giải giới quân phiệt Nhật ở miền Bắc. Với những hoạt động sôi nổi và hỗn loạn của các tổ chức chính trị quốc cộng, để gây ra biết bao sự nhiễu nhƣơng cho dân lành. Thời gian này Quốc Hội đƣợc bầu cử, Chính Phủ Dân Chủ Cộng Hòa đƣợc thành lập. Nhiều tổ chức cứu quốc, phong trào nhân dân, ủy ban cách mạng, đƣợc xuất hiện gồm đủ cả nam phụ lão ấu. Và đến khi quân đội viễn chinh Pháp theo chân quân đội Anh vào miền Nam, rồi đổ bộ ra Hải Phòng mong tiến chiếm lại thuộc địa cũ, là ngƣời dân thành phố bắt đầu lục tục tản cƣ về miền đồng ruộng.
Sau tiểu học, tôi đậu kỳ thi tuyển vào năm thứ nhất Trung học công lập NGUYỄN BỈNH KHIÊM. Trƣờng tọa lạc trong một biệt thự tuyệt đẹp, mà những làn gió lùa làm sực nức mùi hoa Y lăng. Hiệu trƣởng có lẽ là giáo sƣ Nguyễn Đức Hiếu. Tôi đƣợc đại diện học sinh đọc bài cảm tƣởng nhân dịp lễ khai giảng. Tôi ƣớc mong thế hệ chúng tôi thành tài để đƣa nƣớc ta đến địa vị phú cƣờng, có thể quay mặt về biển đông mà hãnh diện với thế giới. Ai ngờ hơn ba mƣơi năm sau, thuyền nhân phải liều chết vƣợt biển này mà trốn chạy. Mới học đƣợc có hai ba tháng tại NGUYỄN BỈNH KHIÊM, thì gia đình tôi đã phải bỏ nhà bỏ của chạy loạn về quê nội tại Xuân Cầu, một làng sát đƣờng số 5 cách Hà Nội 21 cây số.
Ðây là một làng rất đẹp thuộc trấn Kinh Bắc, có tên trong Ðịa Dƣ Chí của Nguyễn Trãi. Phong dao có câu:
Ai về Ðồng Tỉnh Xuân Cầu
Ðể thương để nhớ, để sầu cho ai.
Còn nói về công việc làm ăn tại đây:
Ai về Ðồng Tỉnh Xuân Cầu
Ðồng Tỉnh bán thuốc, Xuân Cầu nhuộm thâm.
Trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, đứng từ làng trông về phía Hà Nội, tôi thấy cả một vùng trời cháy sáng đỏ lửa. Cuộc kháng chiến toàn quốc đã thực sự bắt đầu, nơi nơi chuẩn bị cảnh vƣờn không nhà trống để chống địch. Rồi một buổi sớm ngày giáp Tết năm ấy, làng tôi bị quân giặc tàn phá. Chúng tấn công gọng kìm hai mặt và bắn chết hơn mƣời ngƣời tự vệ làng. Gia đình tôi lại phải bỏ chạy về quê ngoại, làng Kim Ngƣu, tuy cùng huyện Văn Giang nhƣng xa đƣờng số 5 và an toàn hơn. Chúng tôi từ đó ở nhờ nhà bà ngoại, trong một dinh cơ rộng lớn, tạm thời vui hƣởng sự an bình nhƣ những ngày về quê nghỉ hè. Chúng tôi chỉ lo ăn chơi cùng mấy anh chị em bên ngoại, rồi đọc truyện, đọc thơ, xem kịch, xem sách, thôi thì tây ta tầu đủ loại. Những sách này hoặc của bố tôi mang theo từ thành phố về, hoặc của mấy anh chị lớn đang học trung học bỏ lại, sau khi đi theo trƣờng lên Ðào Giã, Phú Thọ, hay vào Phúc Nhạc, Ninh Bình.
Tại quê nhà, đôi khi tôi đƣợc mẹ tôi dậy truyền khẩu một vài bài thơ cách mạng, nhƣ những câu sau:
Á Tế Á năm châu là bậc nhất
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn..
Nghĩ lắm lúc căm gan tím ruột
Vạch trời cao mà tuốt gươm ra
Cùng xương, cùng thịt, cùng da
Cùng hòn máu đỏ, cùng nhà Lạc Long
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Sáu mươi năm nhơ nhuốc lầm than..
và những đoạn văn trong Kiều, Cung Oán, hay Chinh Phụ Ngâm:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã định chẳng dung giặc trời...
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai..
Còn có lần mẹ tôi đố tôi những bài toán nhỏ:
Vừa gà vừa chó ba mươi sáu con,
Trói lại cho tròn đếm đủ trăm chân.
Như vậy mấy gà mấy chó?
Hay là:
Một trăm con trâu, một trăm bó cỏ.
Con đứng ăn năm, con nằm ăn ba, ba con già ăn một.
Hỏi mấy trâu đứng, trâu nằm, trâu già?
Sau này, tôi dùng đại số để giải đáp thì còn dễ, nhƣng tôi không hiểu mẹ tôi lúc đó tính cách nào, có lẽ tính nhẩm chăng?
Từ khi bố tôi chạy xuống phủ Khoái Châu, tôi và hai đứa em trai đƣợc cho đi theo. Chỉ một vài lần khi bị giặc càn quét, ba anh em tôi mới phải chạy ngƣợc trở lại về quê mẹ trong ít lâu, vì lúc này làng Kim Ngƣu đã trở thành làng tề. Ở làng Ngọc Nha, ngày ngày tôi theo học chữ Nho của thầy Hoàng Văn Hòe. Thỉnh thoảng, có lẽ để cho qua thì giờ, bác Nguyễn Tƣờng Phƣợng dậy tôi chữ Việt, bố tôi dậy tôi chữ Pháp. Mãi gần hai năm sau, khi xuống làng Gạo Nam huyện Ân Thi, chúng tôi mới đƣợc ở riêng một căn nhà gianh ba gian, có vƣờn, có ao. Chủ nhà là anh Ðảo, một thanh niên đi bộ đội, đã giao nhà trống lại cho bố tôi. Thuở ấy, có ông giáo Thân, một ngƣời bạn rất trung thành với bố tôi, cùng ăn cùng ở. Tôi không hiểu sao ông lại một mình lƣu lạc nơi đây, vợ con còn sống bình yên mãi tận trong quê Thanh Hóa. Cứ một vài tháng, ông lại nhận đƣợc thƣ nhà. Ðó là những lúc ông vui vẻ và xúc động nhất, lời nói nghẹn ngào mà nƣớc mắt nhƣ muốn trào ra. Chúng tôi đƣợc ông đọc cho nghe các tin tức trong thƣ, nào là Tuấn đã học đến lớp mấy ban tú tài, nào là Tú đƣợc thầy giáo khen ngợi ra sao. Ông ấy khoe bao nhiêu thì tôi lại buồn tủi bấy nhiêu. Từ ngày kháng chiến, tôi đâu có điều kiện để đƣợc theo học ở trƣờng nào, chỉ lo ăn chơi và lo chạy giặc. Phải đợi đến đầu niên học 48-49, bố tôi mới nghĩ xin cho tôi đi học. Nếu lúc ấy xin vào trƣờng công Nguyễn Thiện Thuật làng Bích Tràng, tôi đành phải xuống một hai lớp dƣới. Chính vì quen với gia đình giáo sƣ Hiệu trƣởng Nguyễn Văn Ðỉnh, bố tôi bèn xin cho tôi vào trƣờng tƣ Tiền Phong làng Bình Lăng, để tôi đỡ bị thiệt mất năm học nào.
Lớp đệ tam năm đó có khoảng hai chục học sinh. Các anh Ngọc, Thúy, Sơn, Bân.. con cháu ông Nghị An thì có nhà riêng ở ngay làng này, có chị Ngân giúp việc thổi nấu cơm nƣớc, giặt giũ áo quần. Anh Bùi Xuân Lân là một học sinh đẹp trai, con nhà nền nếp, ở với gia đình trong một làng gần đấy. Chỉ có tôi ở Gạo Nam là xa nhất. Mỗi buổi sáng ra đi, tôi xách chiếc bị cói trong có vài quyển tập, cơm nắm, ít muối vừng hay ruốc bông để ăn trƣa, tay cầm gậy để phòng khi cần đánh chó. Rồi băng qua một cánh đồng bốn năm cây số mới đến lớp học. Mấy tuần lễ đầu, việc học đối với tôi thật là cực hình. Tôi nghe giảng mà nhƣ đi lạc vào một mê hồn trận, không biết đƣờng nào trở ra. Về Toán thì những định nghĩa, định lý, định đề, rồi điểm, đƣờng thẳng, mặt phẳng. Ðiểm, theo định nghĩa, là nơi mà hai đƣờng thẳng gập nhau. Nhƣng nếu không có đƣờng thẳng thì không có điểm sao? Lý Hóa thì hết gƣơng phẳng, gƣơng lồi, gƣơng lõm, lại lăng kính, thấu kính. Thầy Ðỉnh trẻ, trắng trẻo, đẹp trai, đã nổi danh giáo sƣ giỏi tại vùng này, học trò ai cũng say mê lời giảng, ghi chép bài vở dễ dàng. Tôi thèm thuồng đời sống vui vẻ nhẹ nhàng của họ, ăn ở gần trƣờng, học hành thoải mái. Thế mà tôi nghe những danh từ khoa học lạ hoắc ấy nhƣ vịt nghe sấm. Cũng buồn nhƣ khi ở quê ngoại, xem sách của Ngụy Nhƣ Kontum viết về Ðại Số mà thấy mình lạc lõng trên mây. Lúc đó, tôi thật quá chán nản, chỉ muốn thôi học. Ôi thiếu gì lý do. Hay là vì phải đi xa, hay là vì bỏ học lâu rồi nên làm biếng? Khi thầy Ðỉnh nói ý là nếu ai không theo nổi thì nên xuống lớp dƣới, đừng vì con ông này nọ mà chỉ muốn học lớp cao, trời nhƣ đổ sập trên tôi. Thầy Ðại, ngƣời chú ông Ðỉnh, chắc trông thấy tôi có vẻ khốn khổ và thiểu não lắm, nên an ủi tôi:
- “Anh cố gắng đi, rồi thế nào cũng theo kịp. Tất cả những môn khác, nhƣ Việt Văn, Pháp Văn, tôi thấy anh đâu có trở ngại gì”.
Tôi về nhà rồi nghỉ không đi học nữa. Bố tôi vẫn thƣờng dậy tôi đủ điều theo các sách Pháp, nên biết ngay lý do vì sao tôi muốn bỏ học. Liên tiếp hơn tuần lễ, bố tôi giảng cho tôi hiểu cách chuyển dịch những danh từ Toán Lý Hóa từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Nhờ sự khuyến khích của bố tôi, và nhất là nhớ tới lời an ủi của thầy Ðại, tôi lại hăng hái mang bị xách gậy tới trƣờng. Dần đà tôi bắt đầu lĩnh hội đƣợc những gì thầy Ðỉnh giảng, những quỹ tích, hằng đẳng thức, điều phải chứng minh. Vòng tròn chín điểm của Euler, đƣờng thẳng Simpson. Ảnh thực ảnh ảo của
thấu kính. Không có thầy Ðỉnh, tôi không thể qua đƣợc trung học phổ thông dễ dàng. Dù không nói ra, nhƣng trong thâm tâm, tôi vẫn nhớ công ơn ông. Ðến cuối đệ nhất lục cá nguyệt, tôi đã nhất hầu hết các môn. Tôi đƣợc anh em anh Ngọc mời cùng ăn bữa trƣa, cơm nƣớc nóng sốt ngon lành hơn, ăn uống có bầu bạn vui vẻ hơn. Thật là may mắn, từ nay hàng ngày đi học tôi đỡ phải mang theo thức ăn, mà lại còn có chỗ nghỉ ngơi thong thả lúc buổi trƣa.
Kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt đến rất nhanh, và tôi lại nhất hầu hết các môn. Lúc này tôi say mê học nhƣ tầm ăn rỗi. Tôi đã học xong hết cả một chƣơng trình lớp đệ tứ từ lúc nào mà không hay. Có thể nhiều phần nhờ bố tôi chỉ dẫn những chỗ không hiểu qua các sách tiếng Pháp. Thế là tôi đòi đi thi Trung học Phổ thông khóa một mở tại trƣờng trung học Lê Thiện Thuật làng Bích Tràng. Cố nhiên thầy Ðỉnh không cấp cho giấy chứng nhận vì trƣờng chƣa có lớp này. Tôi đành làm tờ khai danh dự đã học hết chƣơng trình, và may thay, gần đến ngày thi thì đơn tự do thí sinh đƣợc chấp thuận.
Trời về hè nắng sớm, tôi đầu đội nón lá, tay cầm guốc và bút mực đi thi. Tới đầu làng Bích Tràng, tôi dừng lại một cầu ao để rửa chân, mang guốc, rồi đi theo con đƣờng lát gạch tới trƣờng thi. Nơi đây có mặt chừng ba chục thí sinh. Ngày đầu thi Toán buổi sáng, thi Pháp văn và Việt văn buổi chiều. Ngay buổi sáng ngày hôm sau, lúc tôi ngồi vào bàn thi, vừa để phiếu báo danh trƣớc mặt, bà giám thị Nguyễn Thị Phú đã tới hỏi tôi:
- “Cậu có phải là cậu Tô Ðồng không?”
Tôi đáp:
- “Thƣa bà, chính là con ạ”.
Bà nói:
- “Sao cậu làm bài Toán giỏi quá. Lời giải hay hơn cả lời giải của ban giám khảo. Ngƣời ta đã ráp phách lại để xem ai làm bài này, nên tôi mới biết là bài của cậu. Thôi cậu cố đi nhé”.
Mừng quá, tôi chỉ còn biết nói lí nhí:
- “Thƣa bà vâng ạ”.
Từ lần đầu tiên này đƣợc biết bà Phú, bà Berthe, hay bà Toại, cho dù chƣa đƣợc học bà, tôi vẫn tự coi nhƣ học trò của bà. Khi hồi cƣ về Hà Nội, rồi di cƣ vào Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi lại đến nhà hay gọi dây nói thăm bà. Rồi bà làm Hiệu Trƣởng trƣờng Trƣng Vƣơng. Bà thƣờng gọi tôi bằng cậu, hay bằng tên, cho đến khi tôi dậy trƣờng Dƣợc thì bà gọi đổi ra là ông hay ông Tô Ðồng. Lúc nào thì tôi cũng thƣa bà và xƣng con. Cuối năm 1974, khi tôi Xử Lý Thƣờng Vụ Khoa Trƣởng, bà còn gọi dây nói vào trƣờng hàn huyên. Hết việc xƣa lại việc nay. Tiếc lắm thay, tết năm đó là lần cuối cùng tôi đƣợc hầu chuyện cùng bà.
Tôi đậu kỳ thi viết, rồi vấn đáp. Khi giáo sƣ Hiệu trƣởng Chu Duy Khánh tuyên bố kết quả tôi đậu nhất kỳ này, ông có ví tôi là Con công lạc giữa đàn gà. Ðúng là ông chỉ nói cho vui thôi. Sau đó ngƣời ta đồn tôi đậu nhất toàn quốc, và đƣợc giải cụ Hồ. Thực giả thời đó ai mà biết đƣợc? Nhƣng cũng có giáo sƣ ra đề luận Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh, trẻ mà đậu sớm là điều không tốt, có thể ông chê bai hay ngụ ý khuyên bảo tôi chăng? Tôi không mê mải ăn chơi, họa hoằn lắm mới theo mấy ngƣời bạn lớn tuổi đi uống cà phê, hút thuốc lá. Thế mà chẳng biết vì cớ gì, lúc phát phần thƣởng nhất toàn trƣờng Tiền Phong tại Bình Lăng, và lúc phát giải thƣởng nhất kỳ thi Trung học Phổ thông Hƣng Yên tại Bích Tràng, tôi đều vắng mặt. Ngƣời ta đã gửi hai giải thƣởng này đến cho tôi, gồm có bút máy, bút chì, mấy tập giấy viết, chiếc sơ mi vải phin trắng...
Từ đây, tôi không có dịp đƣợc nghe thƣ nhà của ông giáo Thân, mà cũng không biết ông đi đâu nữa. Cho đến khi ông bà Thân hồi cƣ, tôi mới rõ là Tuấn và Tú lúc ở Thanh Hóa, ngoài những việc đồng áng lặt vặt, chẳng đƣợc học hành gì. Thƣ nhà viết gửi ra chỉ mong làm sao ông yên tâm để vui sống trong cơn binh lửa mà thôi.
Tới kỳ thi Trung học Phổ thông khóa hai, rất nhiều bạn tôi ở Tiền Phong dự thi, sau lớp học nhẩy. Nguyễn Khắc Minh khi vào đƣợc vấn đáp thì bị đánh rớt chỉ vì không biết chữ diminutif của oiseau là oiselet. Anh nói với tôi “Vì me xừ Ðốc Khánh đấy!”. Có thể vì anh còn quá trẻ. Thời gian ấy, anh mất đi ngƣời mẹ hiền. Tôi nghe thấy nói anh hứa với mẹ là sẽ đậu đạt, và sẽ thành danh. Sau này quả đúng nhƣ vậy. Anh đã trở thành ngƣời bạn thân của tôi từ đó. Từ những ngày ăn châu chấu rang thay cho thịt cá. Tôi cảm phục anh vì nghị lực phi thƣờng trong mọi việc học tập, vì lý tƣởng phục vụ cả đời, dành riêng cho ngƣời bệnh. Tại làng Bích Tràng, tôi cũng đƣợc nghe tiếng mấy học sinh giỏi thời đó. Anh Trần Quí Nhu, anh Nguyễn Duy Sản, sau này đều đi theo Y khoa. Các chị nổi danh thì có Tố Dung, Ái Ðức.
Sau mấy tháng hè, tôi sang Thái Bình để theo học trƣờng trung học chuyên khoa Lê Quí Ðôn, làng Thƣợng Phú. Ðây là lần đầu tôi phải xa nhà, sống một mình tại nơi trọ học. Giáo sƣ Vũ Lai Chƣơng dậy Lý Hóa. Thầy Tăng Xuân An dậy Pháp Văn. Bạn bè có Phạm Công Lăng, Phạm Xuân My, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Xuân Soạn, Bình nhỏ, Bình lớn, Bá, Thơm, Tính, Tình, Quý, Triết... Thi xong đệ nhất lục cá nguyệt, thì nhà trƣờng tạm đóng cửa và hầu hết học sinh lớp tôi xung phong tòng quân vào trƣờng võ bị Trần Quốc Tuấn Việt Bắc. Tôi bỏ về gập đƣợc bố tôi và hai em trai tránh giặc từ Hƣng Yên chạy sang.
Ðầu năm 1950, chúng tôi liên tục chạy vòng loanh quanh mấy phủ huyện Thái Bình để tìm lối thoát. Rồi xuân Canh Dần đến trong khi giặc về càn quét khu này, chúng tôi đành qua đò từ huyện Quỳnh Côi quay trở lại Hƣng Yên. Ðể rồi một hôm bị giặc bắt lên đồn bót, đƣa về Hà Nội.
Trở lại thủ đô, tôi ngỡ ngàng trong cảnh phồn hoa náo nhiệt, nơi trai thanh gái lịch, và ngựa xe nhƣ nƣớc, áo quần nhƣ nêm. Thôi tạm quên đi nỗi hận thời chinh chiến, tạm quên đi cảnh khổ cực nơi hậu phƣơng. Hay bình thời giảng vũ, loạn thế độc thƣ chăng? Cũng không phải hẳn thế, tôi chỉ muốn từ nay vùi đầu vào công việc học hành. Nhƣng học ở đâu bây giờ? Ðã vào tháng 3 rồi, có trƣờng tây trƣờng ta nào còn nhận học sinh vô? Bố tôi đang bận thu xếp tiền nong, lo xin nhập lại ngạch cũ sau 5 năm trời ở hậu phƣơng. Ông bảo tôi có giáo sƣ Ngô Duy Cầu dậy Toán nổi tiếng đấy, con đến mà học. Rồi một buổi sáng đến trƣờng Văn Lang gần Cửa Nam, ngƣời thƣ ký văn phòng nói tôi hãy học thử một giờ đi, nếu thích thì xuống ghi tên nộp tiền. Tôi lên phòng học trên gác, đúng lúc thầy Cầu đang giảng bài. Thầy lấy thí dụ:
- “Biến số và hàm số giống nhƣ ông chủ và con chó. Ông chủ đi đâu, con chó theo đấy. Ðến khi ông chủ lên gác, con chó biến mất”.
Tôi không thấy hấp dẫn mấy, mà lớp học thì ồn ào, đông nghẹt học sinh. Tôi nghĩ bụng thôi đành về học lấy vậy.
Tôi mua đƣợc nhiều sách giáo khoa tiếng Pháp chƣơng trình Tú tài tại nhà sách Trƣờng Thi. Ôi những quyển sách quí giá. Xin cám ơn Trƣờng Thi nhiều, không có nhà sách này, làm sao tôi thành đạt? Lại nghe thấy chính phủ quốc gia mới mở kỳ thi Tú tài Việt Nam phần Một, khóa đầu tiên, tôi bèn làm tờ khai danh dự học hết chƣơng trình, ra tòa Ðốc Lý thị thực chữ ký, và nộp đơn
xin thi. Hết học ngồi, lại học nằm, nhƣng không dám học đêm. Lý Hóa có ngày học một chƣơng, chẳng bao lâu thì hết sách. Toán thì vừa đọc, vừa làm tính, vừa viết tóm tắt. Lạ thật, những điều mới học mà hình nhƣ đã đƣợc học từ lâu. Môn nào thì tôi cũng đọc sơ qua một lƣợt nhƣ cầy vỡ, rồi mới đọc kỹ lại nhƣ bừa đất. Mà học hành có khác gì cầy bừa?
Khi thuê đƣợc căn nhà số 88 phố Hòa Mã, bố tôi mới cho ngƣời đƣa mẹ tôi và mấy đứa em nhỏ ở quê ngoại ra. Từ nay, gia đình tôi may mắn đƣợc đoàn tụ, trừ chị tôi còn lƣu lạc phƣơng xa, mang tuổi xuân mà đánh đổi cho lý tƣởng xa vời. Tôi chờ đã lâu không có tin tức gì về đơn xin thi. Bỗng khoảng một tháng trƣớc kỳ thi, phiếu báo danh đƣợc gửi về nhà bác Úy là chỗ tôi ở tạm, số 191 phố Huế. Tôi thật mừng rỡ và định bụng sửa soạn học thi cẩn thận. Nhƣng sờ đến sách Lý Hóa, hai quyển này đã bị anh bạn nào tự tiện mƣợn mà quên không trả mất rồi. Lại phải tìm mua ngay hai quyển sách mới tại Trƣờng Thi. Rồi kỳ thi qua đi thật dễ dàng, tôi có tên trong số hơn hai chục ngƣời đậu. Tin đƣợc loan trên đài phát thanh, báo chí Hà Nội. Tôi không còn nhớ tên của các vị giám khảo, và thí sinh thì chỉ nhớ hình nhƣ có Nguyễn Quang Ðộng, vì cùng vần nên ngồi gần. Tôi lấy làm may mắn và lạ là không thấy giáo sƣ nào đối xử khác biệt giữa một thí sinh trƣờng công và một thí sinh tự do. Thời loạn mà chúng ta chỉ có toàn những lƣơng sƣ? Thế mà sao chuyện hƣng quốc thấy nhƣ quá xa xôi!.
Ðậu Tú tài Một, tôi đƣợc vào lớp đệ nhất trƣờng Nguyễn Trãi, vì chỉ trƣờng này mới có ban Toán hay Khoa Học B. Thầy Lộc dậy Anh văn, ôi những bài thơ cổ xƣa mà lãng mạn. Thầy Bửu Nghi dậy Pháp Văn, kể chuyện bên trời Tây nhiều hơn giảng về văn chƣơng. Giáo Sƣ Cƣơng, Giám Ðốc Nha Khí Tƣợng dậy Toán. Thầy thật hiền lành, đọc và giảng bài rất chậm, nên tôi khó chú tâm để ý nghe đƣợc, thành ra không lĩnh hội đƣợc mấy. Giáo Sƣ Trịnh Nhƣ Tiếp dậy Triết rất dễ hiểu. Về liên tƣởng, thầy thí dụ: “Ta thấy chị Nhuận thƣờng mặc áo đỏ, vậy gập ai mặc áo đỏ thì ta liên tƣởng đến chị”. Sau này vì phải nhận chức vụ Tỉnh trƣởng Quảng Yên, thầy đã hi sinh vì mìn tại đây. Chiến tranh đã làm mất mát thêm một nhân tài. Giáo sƣ Nguyễn Chung Tú dậy Lý Hóa. Thầy ngƣời tầm thƣớc, trắng trẻo, đẹp trai, mang kính cận, vẻ thông minh hiện ra nét mặt. Thầy thƣờng đứng cuối lớp, đọc bài thầy đã thuộc lòng cho học trò chép, rồi thỉnh thoảng tiến lên bảng đen vừa viết vừa giảng. Tôi mê những bài giảng này, lúc nào thầy đau phải bỏ dậy, thấy nhƣ thiếu vắng một cái gì.
Lớp đệ nhất niên khóa 1950-1951 gần năm chục học sinh. Tôi ngồi bàn thứ nhất bên phải, cạnh Nguyễn Tuấn Ngọc, và Lê Văn Kiên, Nguyễn Phú Duyệt, Nguyễn Cao Ðằng. Tuấn Ngọc là trƣởng lớp, và trƣởng tràng thời đó. Anh với tôi thật thân, cùng chọn may quần áo, cùng thửa giầy dép giống nhau. Bàn phía sau có Ðỗ Thị Nhuận, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Lê Hồng Loan, Bùi Thị Nhu Thuận... Có Từ Uyên, Vũ Quí Ðài, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Văn Phác, Tạ Văn Quang, Dƣơng Minh Quảng, Vũ Phạm Tiến, Vũ Gia Ân, Nguyễn Thoại, Nguyễn Tƣ Viêm, Ðặng Trần Lạc, Ðặng Trần Long, Ðinh Ðại Kha, Trần Bá Cơ, Ðặng Hữu Hiệp, Nguyễn Trọng Lƣơng, Trịnh Thế Vinh... Ôi, tuổi trẻ thần tiên, mỗi ngƣời mỗi vẻ. Về sau, một số bạn xin đổi sang ban Vạn Vật hay Khoa Học A, trƣờng Chu Văn An.
Tại đây, tôi cũng chỉ đƣợc học có một đệ nhất lục cá nguyệt. Tết ra, tôi phải xin nghỉ học vì bị sốt thƣơng hàn. Bác Sĩ Nguyễn Viêm Hải đã tận tâm chữa cho tôi, cũng may lúc đó mới có kháng sinh Tifomycin. Có lúc cơn sốt lên cao, tôi gần nhƣ mê man, đi tiểu có máu. Thật tội cho mẹ tôi. Có khi phải thức trắng đêm cho tôi uống nƣớc, cho tôi uống thuốc. Rồi cơn sốt lui dần, tôi không dám ăn đồ rắn, sợ thủng ruột, chỉ uống sữa và ăn bánh bích quy. Khoảng hơn hai tháng
sau tôi mới hồi phục, mới đƣợc ăn súp. Thật là hú vía. Tôi bắt đầu ăn trả bữa, rồi mang mấy quyển sách Pháp ra, học tiếp chƣơng trình Tú tài Hai. Tôi phải năn nỉ mãi mới đƣợc nhà trƣờng nộp đơn cho tôi thi, vì tôi không có học và thi một môn nào trong cả đệ nhị lục cá nguyệt. Học bạ còn để trắng. Thế mà may đƣợc chấp nhận, tôi không phải xin làm tự do thí sinh. Ðúng là ban giám đốc nhà trƣờng chỉ gồm những giáo sƣ phúc hậu và dễ dãi.
Ðến ngày thi, mấy bạn thân Tuấn Ngọc, Quang, Phú Duyệt đến nhà rủ tôi đi cùng. Ngọc cũng muốn nhân dịp trông nom tôi, vì tôi lái xe đạp còn loạng choạng, tóc vuốt mạnh còn rụng cả mảng. Mà nơi thi là trƣờng Chu Văn An, mãi tận đƣờng Quan Thánh, xa phố Hòa Mã nơi tôi ở. Mẹ tôi lo lắng bảo Ngọc Châm, cô em tôi, xem tôi ra ngõ gập trai hay gái. Ðúng khi tôi ra khỏi cửa thì gập bà gánh hàng rong, thế là cô em tôi nói nhƣ reo lên: “Anh Ðồng gập gái rồi!” Thôi, thế thì còn thi cử gì nữa. Tôi vội đạp xe đạp đi thẳng mà còn nghe tiếng mẹ tôi rầy la cô em gái quá thật thà.
Thi viết hai ngày môn nào tôi cũng làm trôi chảy. Rồi đƣợc vào vấn đáp. Toán thì rút ra bài Hình tứ giác nội tiếp, tôi lên bảng đen nói định nghĩa, các tính chất và định lý liên hệ. Giáo sƣ Khúc Ngọc Khảm gật gù một cách hài lòng. Chị Nhuận đi nghe bảo rằng sao tôi may đƣợc đề quá dễ, thế mà khi chị đi thi kỳ hai đƣợc đề đó thì nào thấy chị vui gì. Vật Lý thì rút đƣợc câu hỏi về Dây đàn, ống sáo. Thấy tôi trả lời đầy đủ, giáo sƣ Hoàng Cơ Nghị bèn vui vẻ hỏi thêm: “Anh có biết đàn tì bà nhƣ thế nào không?”. Cố nhiên là tôi không biết. Ðến môn Sinh Lý, tôi rút ra một đề mà tôi chƣa kịp học ôn tới, mặt mày ngây ra. Giáo sƣ cho rút đề khác, tôi thƣa đề nào chắc cũng không nói đƣợc. Ông ta bảo tôi:
- “Thế anh thi hú họa à ?”
Tôi trả lời:
- “Tại con đau, không có thì giờ ôn lại môn này. Nếu thầy không cho con điểm loại, chỉ cần nửa điểm, con chắc cũng đậu đƣợc”.
Ông ta chép miệng nhƣng không nói gì, tôi đành lui vội ra. Tôi nhẩm trong bụng thi Khoa Học B thì Lý Hóa, Toán đều hệ số ba bốn cả, còn Sinh Lý hệ số một hay hai, tôi thừa điểm để bù. Rồi tôi có tên trong danh sách gần hai mƣơi thí sinh trúng tuyển kỳ Tú Tài Toán này. Ðài phát thanh, báo chí Hà Nội đều loan tin. Ôi, thật là may mắn, tôi lại gập đƣợc một phúc tinh. Nếu gập vị giám khảo khó tính, tôi đã bị đánh rớt rồi.
Những năm đại học Hà Nội
Sau kỳ thi Tú tài Hai, nhiều bè bạn tôi nhận đƣợc giấy gọi nhập ngũ quân đội quốc gia, khóa đầu tiên ở Nam Ðịnh. Tôi chƣa phải lo bị động viên, nhƣng không biết lên đại học phải theo học ngành gì? Thôi thì nhận đƣợc đủ các ý kiến, đủ các lời khuyên. Bạn bè từ nay mỗi ngƣời một phận. Bố tôi nói thích gì thì cứ học cái nấy, nên tôi quyết định chọn môn Toán trƣớc.
Tôi học ban Toán Học Ðại Cƣơng niên khóa 1951-1952 tại Ðại Học Khoa Học Hà Nội. Giáo sƣ Robert Faure là giáo sƣ chính, mang kính cận dầy cộm, ngƣời thấp, mập, trắng trẻo, ăn mặc xuề xòa. Là một giáo sƣ rất giỏi, thầy dậy toán vi phân, tích phân, tập hợp số học, phân tích vectơ. Có những bài thầy giảng thật hay và không có trong sách. Nhƣng tính thầy láu táu, nói vội, viết vội, mà cũng xóa vội. Tay luôn phủi bụi phấn dây đầy trên khuôn mặt. Giáo sƣ Moliné phụ trách về hình học giải tích, ngƣời dong dỏng cao, ăn mặc chải chuốt, nói năng nhẹ nhàng. Là giám học của Albert Sarraut, thầy đúng là một nhà mô phạm, giảng bài chậm rãi, viết đẹp, vẽ đẹp. Giáo sƣ
Pouligo trẻ nhất. Thầy dậy về số học, nhƣng việc chính là lo về phần thực tập. Thầy tận tâm và chăm chỉ, nhƣng không có vẻ hào hoa của một giáo sƣ trẻ, nhiều khi cứng nhắc trông nhƣ ngƣời gỗ.
Lớp có gần ba chục sinh viên. Có Tạ Văn Quang, Vũ Quí Ðài, Lê Phụng, Nguyễn Trọng Khôi, Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Văn Phú, Lê Thành Trị, Nguyễn Quang Diệm, Vũ Xuân Châu, Vũ Quang Kính, Bùi Kim Bảng,... Giỏi nhất lớp phải kể Toàn, sinh tại Cao Miên, thƣờng có điểm cao nhất. Tôi phụ trách việc phân phát các đề bài tập trong tuần, thu các bài mới làm để nộp cho các giáo sƣ chấm và trả lại các bài đã đƣợc giáo sƣ chữa. Tôi quen thêm một số bạn ở Cao Ðẳng Sƣ Phạm, vì có một số giờ học chung, nhƣ Vũ Ngọc Khôi, Nguyễn Hữu Kế. Một năm học với nhiều kỷ niệm rất đẹp. Kỳ đầu chừng gần mƣời ngƣời đậu, có Toàn hạng Ƣu, rồi đến tôi, Khôi, Kính hạng Bình, Ðài hạng Bình Thứ, Quang, Phú...
Tôi thƣờng nhớ đến khóa 1951-1952, vì ba Khoa Trƣởng trong tám phân khoa Văn, Luật, Y, Nha, Dƣợc, Khoa Học, Sƣ Phạm, Kiến Trúc của Viện Ðại Học Sài Gòn vào năm 1975 đã là những sinh viên của lớp này: Lê Thành Trị, Vũ Quí Ðài, và tôi. Tại Khoa Học, sau năm đầu với những chứng chỉ chính nhƣ Toán Ðại Cƣơng, Toán Lý Hóa MPC, Lý Hóa Nhiên SPCN, sinh viên có thể tùy tiện chọn một hay hai chứng chỉ kế tiếp trong những năm học sau. Vì vậy có các chứng chỉ mà sinh viên tuy cùng lớp nhƣng lên đại học trƣớc sau một vài năm. Trừ có Lý Hóa Sinh PCB chỉ để vào Y hay Nha.
Sau Toán Ðại Cƣơng, Tạ Văn Quang mới quyết định trở lại học Dƣợc. Có thể vì sợ bị động viên chăng? Anh đã nộp đơn tại Ðại Học Y Dƣợc và xin làm tập sự tại Pharmacie Normale, phố hàng Gai của dƣợc sĩ Nghiêm Xuân Hàm. Năm Tập Sự là năm đầu tiên, phải đủ 12 tháng mới đƣợc thi. Sách Tập Sự đánh số trang, mỗi trang đều có chữ ký của Tổng Thƣ Ký Nguyễn Danh Sành. Giáo sƣ Pierre Huard là Khoa Trƣởng Y Dƣợc, và giáo sƣ Jean Lassus là Viện Trƣởng. Một tháng sau, do Quang thúc giục, tôi mới xin học Tập Sự Dƣợc. May mà xin đƣợc cùng chỗ, và đƣợc ghi nhƣ học từ đầu hè. Quang học giỏi, tính tình hòa nhã, thƣờng cùng tôi làm các bài tập ở nhà. Còn có Trần Trọng San, Nguyễn Thị Hiền. Anh San và chị Hiền học rất chăm chỉ. San ngƣời nhỏ bé, ít nói, rất dễ tính, đúng là một nhà nho. Chị Hiền nhanh nhẹn, hay sốt sắng giúp ngƣời, ƣa hoạt động từ thiện. Trong một năm, thầy Hàm dậy chúng tôi cách nhận mặt thuốc, pha chế thuốc, dán nhãn, và một số luật lệ hành nghề. Thầy ngƣời tầm thƣớc, giỏi và tận tâm. Thầy thƣờng đem các nguyên lý để giảng sự xung khắc trong việc bào chế cho chúng tôi. Tôi học đƣợc Dƣợc có lẽ vì ông tin tôi học đƣợc, vì ông chỉ cho tôi thấy ngành Dƣợc có nhiều quyến rũ, nhƣng nhiều phần vì ông có tính tài tử khác ngƣời làm tôi mến mộ.
Tuy nhiên, tôi vẫn coi Tập Sự Dƣợc Khoa là phụ, và còn chƣa muốn bỏ Khoa Học. Tôi bèn ghi tên vào lớp Vật Lý Ðại Cƣơng, một môn ít ra cũng hợp và ƣa thích hơn. Giáo sƣ chính của chứng chỉ này là Monod Herzen, cũng là Khoa Trƣởng Ðại Học Khoa Học. Thầy ngƣời tầm thƣớc, mặt trong sáng, tính tình nghiêm nghị, dậy về Ðộng Lực Học, Nhiệt Ðộng Lực Học, Ðiện Học. Một vài nguyên lý thầy giảng tƣởng nhƣ triết lý. Giáo sƣ Monod đôi khi nói chuyện về đạo Phật tại chùa Quán Sứ. Tôi mừng gập lại thầy Nguyễn Chung Tú, thầy làm Phụ Tá cho Giáo sƣ Monod và trông về Thực Tập. Thầy cũng đang sửa soạn mấy bằng Cao Học. Lớp Vật Lý còn có giáo sƣ Vũ Nhƣ Canh, em giáo sƣ Vũ Văn Mẫu, một Tiến Sĩ và Thạc Sĩ trẻ tuổi đẹp trai. Thầy Canh mới ở Pháp về, phụ trách môn Quang Học, Quang Học Tinh Thể. Những phản chiếu trên
bản mỏng, hiện tƣợng giao thoa, sự giao động của đá thạch anh. Thầy không giảng gì nhiều, nhƣng đọc giọng đều đều cho sinh viên chép những bài học thật hay.
Sinh Viên lớp Vật Lý Ðại Cƣơng hơn hai chục ngƣời. Ngoài Trần Ngọc Toàn, Vũ Quang Kính, Tạ Văn Quang, Bùi Kim Bảng, còn thêm Nguyễn Mạnh Hùng, Mai Xuân Kiệm, Bùi Ngoạn Lạc, Lƣơng Duyên Trinh, Ðặng Văn Nhân, Phan Huy Tùng, Phạm Mạnh Viện, Nguyễn Quang Côn. Hùng có chứng chỉ Toán Lý Hóa MPC, sinh viên Quân Dƣợc năm thứ nhất, quần áo sĩ quan đẹp đẽ, dáng dấp oai vệ. Nhƣng nhiều sinh viên học mà không thi. Kiệm ở Huế ra, cao ráo, dễ thƣơng. Trinh cao mà gầy, rất vui tính, chúng tôi thƣờng vui cƣời thoải mái lúc có dịp chụp ảnh hay trêu cợt các tiểu thƣ đi dạo trong những ngày chợ phiên Hà Nội.
Kỳ thi có giáo sƣ Cagnard từ Pháp qua. Thầy Canh chấm bài xong, yết thị kết qủa trên bảng cáo thị ngoài cửa lớp và không dự vào sự thảo luận của ban giám khảo. Nghe nói thầy không đƣợc hài lòng vì thái độ đối xử của các giáo sƣ ngƣời Pháp nên đã ở lại Hà Nội làm Khoa Trƣởng Khoa Học thay vì di cƣ vào Nam. Khóa một có mấy ngƣời đậu, Toàn hạng Bình, rồi đến tôi, Kính, Kiệm hạng Bình Thứ , đến Quang, Phụng, Lạc...
Cùng Toàn, Kính, Kiệm, chúng tôi ra Ðồ Sơn nghỉ mát một tuần. Trở về Hà Nội, ba tuần sau, tôi lại phải thi Tập Sự Dƣợc Khoa. Nhóm sinh viên của thầy Hàm, qua kỳ thi nhận mặt thuốc, rồi thực tập, chỉ có tôi may đƣợc vào vấn đáp. Gập giáo sƣ Deniel, mập mạp, nói nhƣ nuốt lƣỡi. Ông nguyên là một Thiếu Tƣớng Quân Dƣợc. Ông hỏi tôi qua loa rồi xoay ra hỏi tôi đậu Vật Lý Ðại Cƣơng ra sao, hỏi tôi ăn bao nhiêu bát cơm mỗi bữa mà gầy thế. Ông nói chuyện nhiều hơn hỏi thi, coi nhƣ tôi đã học đủ. Với giáo sƣ Foucault, tôi trả lời tạm đƣợc. Nhƣng đến giám khảo thứ ba là giáo sƣ Sollier, ông hỏi về anthelmintiques thì tôi đang nghĩ đi đâu đâu, không biết ông hỏi gì thì sao trả lời. Nếu tôi biết là thuốc trị giun sán thì đâu đến nỗi khổ vậy. Ông ta mời tôi ra cửa, và nói : “Thôi anh đậu khóa hai vậy”. Thế thì khóa một này chúng tôi sẽ không ai đậu cả, buồn ơi là buồn. Tôi biết ăn nói làm sao với thầy Hàm đây? Quanh quẩn nơi trƣờng thi thì lại gập giáo sƣ Deniel. Ông hỏi tôi làm sao mà mặt mày tái xanh dễ sợ thế? Tôi rầu rĩ trả lời vì vừa bị giáo sƣ Sollier đánh rớt rồi. Ông bảo không sao đâu, cứ yên tâm, ông sẽ nói hộ cho. Ấy thế mà tôi đỗ thật, đúng là tại ông giúp chứ đâu phải tại số? Tuần sau, tôi dự kỳ Thi Tuyển vào năm thứ nhất Quân Dƣợc. Chƣơng trình giống nhƣ thi Tập Sự. Sẵn kinh nghiệm mới thi xong, tôi đậu không khó khăn gì.
Trần Trọng San học chăm nhƣng không có duyên với ngành Dƣợc. Có thể vì vậy sau này anh mới trở thành một giáo sƣ giỏi của Ðại Học Văn Khoa. Và để tôi học đƣợc của anh biết bao thơ Ðƣờng và chữ nghĩa qua các tác phẩm dịch từ Hán Văn.
Sau năm Tập Sự, tôi vẫn còn phàn nàn tại sao lại chui vào nghề này, học những môn khó nhớ và chẳng có gì hấp dẫn. Nhƣng phàn nàn mãi cũng chẳng ích chi. Bây giờ đã là một sinh viên quân dƣợc, tôi chỉ còn biết hết lo học lại lo thi, cốt để cho xong bổn phận.
Trong năm thứ nhất của Dƣợc, ngoài giáo sƣ Deniel về Hóa Học với những bài giảng về lịch sử của môn này chẳng có chút gì hấp dẫn và về đại cƣơng đúng là qua loa, giáo sƣ Foucault về Thực Vật Học đọc bài đều đặn nhƣ đọc kinh, giáo sƣ Brumpt, nổi danh quốc tế về Ký Sinh Trùng, còn có giáo sƣ Vũ Ngọc Trân, giáo sƣ Nguyễn Ðức Trang, giáo sƣ Vũ Văn Chuyên... Bạn bè thân nhất có Bùi Ðình Nam, rồi Ðào Hữu Giao, Phạm Kỳ, Vũ Khánh, Bùi Tá Hoan, Tôn Nữ Mộng Hoa, Nguyễn Thị Lƣơng Trân...Năm đó, tôi theo học thêm Hóa Học Ðại Cƣơng bên Ðại Học Khoa Học. Giáo sƣ Hatem dậy Hóa Vô Cơ, giáo sƣ Laurent dậy Hóa Hữu Cơ. Khoa Học tôi phải đi thi khóa hai, vì khóa một còn để thi Dƣợc. Thi xong Dƣợc năm thứ nhất, tôi theo trƣờng Quân Y vào trƣờng Liên Quân Ðà Lạt tập quân sự một tháng hè, bằng máy bay của hãng Cosara ngày 12 tháng 7 năm 1954. Trên chuyến bay này, tôi ngẫu nhiên gập Lê Phụng và ông anh tôi là Vũ Nhân, đang đƣờng đi Sài Gòn để sang Pháp theo học trƣờng Hải Quân tại Brest. Rồi Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nƣớc đƣợc ký kết vào ngày 20 tháng 7, để không biết bao giờ tôi mới có dịp trở lại mái trƣờng thân yêu của thủ đô.
*
Những năm đại học Sài Gòn
Hà Nội đã thực sự mất trong tôi. Từ nay, đâu còn những cánh hoa phƣợng đỏ thắm rực rỡ trong nắng hè, đâu còn gia đình để yểm trợ hay khích lệ tôi trong những mùa thi cử. Tôi đã ra đi một mình, bố mẹ anh chị em bỏ lại Hà Nội. Việc học sẽ dần dà trở thành tẻ nhạt, nếu không có các bạn tri kỷ, về ngành bào chế là Bùi Ðình Nam, và ở nơi trƣờng ốc là Nguyễn Văn Thiệu, Trịnh Ðình Thiện. Cùng biết bao nhiêu bạn bè thật thân tại Ðại Học Xá Chợ Lớn. Và những thầy mới bạn mới của miền Nam mƣa nắng hai mùa. Trƣờng Dƣợc lúc đó có giáo sƣ Guichard miền Nam thế chỗ giáo sƣ Deniel miền Bắc. Ngoài một số giáo sƣ Pháp sang giảng dậy, còn có nhiều giáo sƣ Việt phụ trách thực tập. Có giáo sƣ Rivoalen dậy Sinh Lý, giáo sƣ Nguyễn Văn Ái dậy Vi Trùng Học, giáo sƣ Vũ Ngọc Trân dậy Dƣợc Học Ga-Liêng và Dƣợc Lực Học, giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm dậy Sinh Hóa Học. Có giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên, giáo sƣ Nguyễn Hùng Chất, giáo sƣ Nguyễn Kim Chƣơng. Giáo sƣ Nguyễn Văn Trang tốt và hiền nhƣ con nhà Phật. Giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu vui vẻ trẻ trung nhƣ sinh viên. Bạn bè cùng học có thêm Nguyễn Tấn Dƣợc, Phạm Ðăng Lý, Bùi Ðức Phƣơng, Nguyễn Ngọc Sƣơng, Nguyễn Thu Kỳ, Võ Ðăng Ðài, Phan Thế Trân, Trần Thị Hạnh, Trƣơng Thị Hồng Hạnh, Lƣu Hữu Tuyến, Lƣu Sơn, Khƣơng Hữu Hội, Nguyễn Thanh Nhàn, Bùi Thị Nhạn... Cũng có ngƣời sau đi sang Pháp, và có ngƣời từ Pháp trở về, để tiếp tục việc học. Kỳ đầu thi Dƣợc xong, tôi lên Ðà Lạt tập quân sự. Kỳ hai năm 1955, tôi thi Hóa Ðại Cƣơng ở Sài Gòn. Qua kỳ thi viết, trƣa hôm thi thực tập, tôi tìm mãi mới thấy đƣợc phòng thi nên đến rất muộn. Rồi lúng túng không biết các thuốc thử trong phòng thí nghiệm của giáo sƣ Ðặng quốc Quân để ở chỗ nào mà tìm. Vấn đáp có giáo sƣ Nguyễn Quang Trình hỏi về
Hóa Học Ðại Cƣơng, giáo sƣ Hagenmuller về Hóa Học Vô Cơ, và một giáo sƣ mà tôi quên tên, về Hóa Học Hữu Cơ. Nguyễn Phú Lịch và tôi đậu chính thức, cùng với hai giảng nghiệm viên đậu với sự khoan hồng của ban giám khảo.
Rồi những mùa thi kế tiếp và ngày tháng qua đi nhƣ làn gió êm đềm. Văn phòng nhà trƣờng hoạt động thật vui vẻ nhờ cụ Nguyễn Danh Sành, ông Trịnh Ngọc Thâm, cô Trần Thị Viên.... Tôi may đậu thủ khoa kỳ thi Dƣợc Sĩ Quốc Gia cuối tháng 6 năm 1957. Trở thành một Trung Úy Dƣợc Sĩ Hiện Dịch, tôi đƣợc bổ nhiệm coi Kho Y Dƣợc 21 Ðà Nẵng, yểm trợ thuốc men y cụ cho Quân Khu II và Quân Ðoàn I. Ðúng lúc tốt nghiệp, Chánh chủ khảo là Khoa Trƣởng Phạm Biểu Tâm đã cho tôi biết từ nay trƣờng sẽ tổ chức các kỳ thi tuyển lựa nhân viên giảng huấn đại học, để đáp ứng nhu cầu phát triển trong rất nhiều bộ môn. Thí sinh trúng tuyển sẽ đƣợc gửi đi tu nghiệp dài hạn tại Pháp hay Mỹ, trƣớc khi về phục vụ cho trƣờng Y Nha Dƣợc Khoa Sài Gòn. Câu chuyện tƣởng nhƣ trong mộng, tôi kể lại với bè bạn, ít ai tin là có thể xẩy ra. Nhƣng rồi sắc lệnh cũng đƣợc ban hành, nếu đậu thì sĩ quan trƣng tập sẽ đƣợc giải ngũ, sĩ quan hiện dịch sẽ đƣợc nghỉ dài hạn không lƣơng. Ði Pháp có học bổng của Viện Trợ Kỹ Thuật Pháp, đi Mỹ có học bổng của Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế.
Mấy tháng sau, qua kỳ thi chức tƣớc, tôi về Sài Gòn dự thi môn Sinh Hóa Học, Nguyễn Phú Lịch môn Ðộc Dƣợc Học, Nguyễn Mạnh Hùng môn Hóa Hữu Cơ. Sau kỳ thi viết và thực tập, đến kỳ thi về khả năng sƣ phạm, tôi đƣợc lên giảng về đề tài „Sự biến dƣỡng của các chất béo‟ trong hai mƣơi phút, trƣớc một số giáo sƣ Việt, Pháp, và sinh viên Y Dƣợc mới ra trƣờng. Gần nửa thế kỷ sau, bác sĩ Bùi Ðồng tại Quận Cam, còn nhớ ngày ấy tôi thắt cà vạt mầu gì và nói những gì. Trí nhớ của ông bạn tôi thật tuyệt hảo. Thi xong phần này, giáo sƣ Damiens của Dƣợc Khoa Paris và Khoa Trƣởng Phạm Biểu Tâm cho hay là tôi đƣợc tuyển chọn. Thực ra tôi không có ý định học Sinh Hóa, vì trƣờng đã có giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm giảng dậy môn này rồi. Tôi trình bày điều này với giáo sƣ Damiens, ông nói tôi cứ yên tâm, sang đƣợc Pháp tôi có thể theo môn Hóa Dƣợc Học của ông. Tiếc thay, khi tôi sang đƣợc Paris một năm sau thì ông đã ra ngƣời thiên cổ vì chứng ung thƣ máu. Nguyễn Phú Lịch cũng đậu kỳ này, nhƣng Nguyễn Mạnh Hùng không may bị rớt lại. Nhƣng kỳ sau anh Hùng thi đậu, và thật xuất sắc, anh chỉ cần hai năm đã làm xong luận án tại Pháp để về nƣớc phục vụ sớm nhất, trong khi bình thƣờng phải mất bốn năm.
Từ lúc đậu cho đến khi đƣợc nghị định xuất ngoại du học, tôi mất hơn một năm chờ đợi. Thủ tục thật phức tạp rƣờm rà. Từ Ðà Nẵng, tôi đi đi về về Sài Gòn nhiều lần làm giấy tờ. Khoa Trƣởng Phạm Biểu Tâm nói sẽ có lý do can thiệp nếu tôi chịu cảnh đói rách, ăn chực nằm chờ. Tôi đành xin nghỉ dài hạn không lƣơng, chỉ mong sao cho chóng đƣợc phép du học. Lúc quá chán nản, vào đầu niên khóa 1958-1959, tôi xin dậy Lý Hóa lớp Ðệ Nhị trƣờng Chu Văn An. Giáo sƣ Hiệu trƣởng Trần Văn Việt đã nhận tôi dậy tạm thời trong khi chờ đợi. Ðƣợc hơn tháng, bỗng một hôm, có anh học sinh nói cho tôi hay là tôi đƣợc xuất ngoại rồi. Thân phụ anh làm trong dinh Tổng Thống đã đánh máy nghị định này do Tổng Nha Kế Hoạch đệ trình lên. Bản soạn thảo có thủ bút của ông Cố Vấn chấp thuận, ký bằng bút mực xanh. Tôi xin từ biệt Chu Văn An, và may có đƣợc ngay giáo sƣ Nguyễn Văn Vỹ thế chỗ.
Thời gian hậu đại học
Bốn năm trời làm khảo cứu tại trƣờng Dƣợc Paris qua đi nhanh chóng. Tôi đã học hỏi đƣợc không biết bao nhiêu là kỹ thuật sinh hóa. Tôi chuyên về các chất đƣờng và phân hóa tố liên hệ.
Luận án Tiến Sĩ Dƣợc Khoa Quốc Gia của tôi đƣợc chấm hạng tối danh dự, với lời khen của ban giám khảo. Ông thầy Jean Émile Courtois cũng muốn tôi ở lại làm việc, vì lúc này tôi đƣợc bổ nhiệm làm Chargé de Recherches của Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học CNRS sau mấy năm làm việc tại đây. Vài tháng sau, tôi đƣợc tặng huy chƣơng vàng của Hàn Lâm Viện Dƣợc Khoa Paris. Nhƣng tôi đã về Sài Gòn lập gia đình và bắt đầu giảng dậy Hóa Học Vô Cơ tại trƣờng Dƣợc Sài Gòn.
Vào năm 1965, các giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên, Phan Thế Trân và tôi đƣợc Viện Ðại Học và Bộ Quốc Gia Giáo Dục đề cử sang Pháp thi bằng Thạc Sĩ. Giấy tờ gần nhƣ xong hết, gồm cả thủ tục qua Bộ Ngoại Giao với thƣ giới thiệu riêng của ông Tổng Trƣởng. Tôi tƣởng sẽ có dịp gập lại thầy và bạn cũ tại phòng Sinh Hóa Dƣợc Khoa Paris. Thầy Courtois là chánh chủ khảo các kỳ thi Thạc Sĩ Sinh Hóa của Dƣợc Khoa thời đó, đã chấm thi giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm năm 1961. Nhƣng rồi gặp lúc Việt Pháp đoạn giao. Giáo sƣ Bùi Tƣờng Huân mới lên Bộ Trƣởng Giáo Dục có nói với tôi là khỏi phải đi thi nữa, chúng ta đâu cần ngƣời Pháp tấn phong. Thôi thế cũng phải. Năm 1968 tôi đƣợc bổ nhiệm giáo sƣ thực thụ. Cuối năm ấy, tôi đƣợc đại diện trƣờng đi thăm viếng gần hai chục Ðại Học danh tiếng của Hoa Kỳ trong gần bẩy tuần lễ. Cũng đƣợc phát bằng Quản Trị Ðại Học tại Bộ Ngoại Giao ở Hoa Thịnh Ðốn. Nghĩ bụng từ nay tôi chẳng còn phải thi gì nữa, thỉnh thoảng chỉ xin đi tu nghiệp hay quan sát để cập nhật hóa kiến thức mà thôi. Hay để nhận những bằng thật đẹp cho vui, đâu cần thiết và cũng chắc gì đã sử dụng đƣợc. Ấy thế mà tôi đã lầm đấy.
Những năm tại Hoa Kỳ
Biến cố tháng 4 năm 1975 làm đảo lộn cuộc sống mọi ngƣời dân Việt. Tôi định thôi quên đi câu chuyện Việt Nam, và từ nay chỉ chuyên tâm lo về khảo cứu khoa học. Tuy bấy giờ tôi vẫn còn mê đời sống văn minh êm đềm, không quá máy móc tại Paris, tôi đã không xin trở lại Pháp. Vì sợ phải di tản lần nữa, vì từ lâu tôi vẫn thán phục nền khoa học kỹ thuật của Mỹ, và vì muốn thành dân một nƣớc hợp chủng, bác ái và hùng mạnh nhất thế giới. Tôi quyết định xin định cƣ tại Hoa Kỳ, nơi không thiếu gì các khoa học gia ngoại quốc tài ba. Nhƣng khi làm về kỹ thuật cao
trong các Cơ Quan Khảo Cứu, trực thuộc Kỹ Nghệ hay liên hệ với Ðại Học, ngƣời ta cũng phải học và thi thƣờng xuyên.
Nhƣng thi những trắc nghiệm dễ thôi, theo sự đòi hỏi của pháp luật. Ðể đến khi về hƣu, ngƣời ta có cả chục chứng chỉ đủ loại. Lần đầu, tại Oklahoma, sau một khóa học hai ba chục giờ, tôi phải thi về sự sử dụng nhiều loại chất phóng xạ. Có mƣời câu hỏi, trả lời trong 4 tiếng đồng hồ. Chỉ cần có đƣợc 70 trong 100 điểm là đủ qua. Tôi nghĩ bụng cố trả lời bẩy câu cho đủ đậu, nhƣng tay viết bắt đầu thấy run run. Tôi cố trấn tĩnh lại, vì cứ từ từ rồi sẽ trả lời hết. Kết quả, tôi đƣợc 100 điểm cộng thêm một lời khen! Mấy nhân viên làm với tôi đã khao tôi và hỏi tại sao tôi không đi dậy mà đi thi làm chi. Nhƣng đi dậy làm chi mới phải, tiếng Mỹ của tôi lúc đó, may ra chỉ giảng đƣợc một nửa điều mình muốn nói. Tôi kể lại việc này vì liên tƣởng đến một câu chuyện cũ.
Cuối năm 1958, tôi đƣợc giáo sƣ Nguyễn Ðạt Xƣờng tại Paris mời nói về sự đóng góp của chuyên viên khi về nƣớc, với các hội viên Hội Khoa Học Kỹ Thuật, tại một nhà hàng ăn khu La Tinh. Tôi có trình bày là chúng ta thiếu quá nhiều phƣơng tiện, nếu về nƣớc thì phải cố tạo ra hoàn cảnh mà làm việc. Giáo sƣ Xƣờng đã đào tạo bao chuyên viên cao cấp cho Lò Nguyên Tử Ðà Lạt, cố nhiên biết điều này rõ hơn ai hết. Dịp đó, tôi nghe riêng một anh bạn kể lại, hình nhƣ giáo sƣ Hoàng Xuân Hãn có than là vì về nƣớc phục vụ mà khi trở lại Pháp, đã hơn 40 tuổi rồi mà còn phải đi học lại về Vật Lý Hạch Nhân. Nếu kể về sự đóng góp căn bản cho nền Trung học và Ðại học Việt Nam, chắc chắn không ai sánh kịp ông. Ông mà còn than, thì chẳng ai còn dám phàn nàn. Thế mà sau ngày di tản, mọi chuyên viên kể cả giới Y Nha Dƣợc của chúng ta, thiếu gì ngƣời phải xin tái huấn luyện ở những tuổi bốn năm sáu chục hay hơn nữa. Thuở ấy, có thể vì lý do kia khác, biết bao nhân tài đã chọn lập nghiệp ở ngoại quốc. Ðể ít phải buồn phiền cảnh nƣớc mất nhà tan, nhƣng chắc còn tiếc không có dịp đóng góp cho quê hƣơng. Xin tạm kể một vài ngƣời thời tôi cho vui thôi, vì nghĩ chúng ta không thiếu gì nhân tài. Về Toán có Trần Ngọc Toàn, Vũ Xuân Chi, Bạch Lý Từ, về Dƣợc có Nguyễn Phú Lịch, Nguyễn Ngọc Trâm, về Y có Nguyễn Văn Ba, Phan Ngọc Anh, Phạm Văn Biểu, Phạm Gia Chung, về Lý Hóa có Vũ Quang Kính, Phạm Xuân Yêm, Phạm Ngũ Tùng... Chƣa tính các ngành chuyên môn khác.
Tôi may mắn đƣợc làm trong ngành khảo cứu nhƣ ý muốn, liên tục từ khi di tản cho đến khi về hƣu. Nhƣng đâu có thoát đƣợc nghiệp thi cử. Gần mƣời năm vận động xin hành nghề trở lại của giới Dƣợc sĩ tị nạn đều thất bại, trừ trƣờng hợp cá biệt, hay đƣợc nhận đi học lại một vài năm. Vì so sánh bằng Việt với bằng Mỹ khác nào so sánh cam với táo. Các bạn Lê Phục Thủy, Bùi Quang Tiến, Trần Ðức Hiếu, Vũ Huy Ðạo, Huỳnh Phƣớc Toàn, Tôn Nữ Tâm Thƣờng, Nguyễn Xuân Lan, Ngô Anh Phƣơng, Bùi Quốc Quang, Trần Năng Ðại, Nguyễn Ðức Năng, Trần Bình Nhung... chắc còn nhớ nhiều hơn tôi.
Phải đợi đến năm 1984, nhờ sự trợ giúp của Ðại Học Dƣợc Khoa San Francisco, Dƣợc sĩ Sài Gòn mới đƣợc tái huấn luyện và dự thi Bằng Tƣơng đƣơng. Tôi cũng đi học, cũng đậu thi Tƣơng đƣơng. Những kỳ thi không thấy mặt giám khảo, những bài thi abc khoanh. Hôm thi bằng hành nghề là lúc tôi bị cảm cúm, cơn sốt tƣởng chừng phải bỏ dở cuộc thi, thế mà cũng thoát. Tại số chăng? Hay là tại chị Phạm Thị Nghi chỉ cho những câu tủ.
Tôi đã về hƣu mấy năm, nên muốn đi thi chơi thôi cũng không còn dịp. Hay là có lúc thấy thi trong giấc mộng, đậu hay rớt đâu thành vấn đề? Ðể khi tỉnh dậy, mình vẫn chỉ là mình. Nhƣng trong cuộc sống, học và thi là những mốc thời gian thật nhiều hi vọng và đầy ắp kỷ niệm. Có nghĩa thầy trò, có tình bè bạn. Tôi cảm thấy bồi hồi nhớ tới bao công lao dậy dỗ của bố mẹ và các thầy cô, khi ghi lại mấy dòng về những năm học và mùa phƣợng vĩ xa xƣa này.
Trong một khung trời quê hƣơng và dƣới những mái trƣờng yêu dấu. Tuy một vài sự kiện đã đi vào quên lãng, nhƣng ký ức tôi còn hiện y nguyên tình thƣơng mến của nhiều bè bạn, đã từng chia sẻ với nhau nỗi vui buồn của tuổi thanh xuân. Và cũng để riêng tặng những học trò thân quen ngày cũ, nay thành danh và hữu dụng trên rất nhiều địa hạt, hiện ở tản mác khắp bốn phƣơng trời.
Ngày Lễ Tạ Ơn, 2002
CHƢƠNG BẢY
Những Cƣ Xá Sinh Viên Của Chúng Tôi
Trƣờng Quân Y Hà Nội
Sau khi đậu kỳ thi Vật Lý Ðại Cƣơng khóa đầu năm 1952-1953 tại đại học Khoa Học Hà Nội, thì một tháng sau, tôi qua đƣợc kỳ thi Tập Sự Dƣợc Khoa của đại học Y Dƣợc. Ngay tuần kế tiếp, sẵn kinh nghiệm mới thi xong, tôi đậu kỳ Thi Tuyển vào năm thứ nhất Quân Dƣợc. Thi cùng khóa với tôi còn có Đào Hữu Giao, nhƣng anh đã từ chối không vô, vì biết khi ra trƣờng sẽ không đƣợc làm thêm nghề tƣ. Những tháng hè trôi qua rất nhanh, rồi sau khi khám sức khỏe, tôi đƣợc nhập học trƣờng Quân Y Trung Ƣơng Việt Nam đầu niên học 1953-1954. Tuy cùng học cùng thi với bên dân sự, nhƣng khoảng năm sáu chục sinh viên quân y chúng tôi thuộc đủ mọi lớp phải ăn ở sinh hoạt trong khuôn viên nhà trƣờng, nguyên là nhà thƣơng Paterson phố hàng Chuối. Quần áo nhà binh, phù hiệu trƣờng quân y đeo bên túi. Lon kiểu Pháp, gắn trên cầu vai có nền nhung đỏ cho bên y, nhung xanh cho bên dƣợc. Ngoài lon cấp bậc chính còn có thêm một lon vàng có vân óng ánh tƣợng trƣng cho nhà trƣờng. Y sĩ Trung Tá Nguyễn Đình Hào là Giám Đốc, Y sĩ Đại Úy Nguyễn Thìn là Giám Học. Trƣờng Quân Y có nhiều phòng lớn nhỏ cho sinh viên. Phòng rộng nhất năm ngƣời. Tôi ở phòng này, có lan can nhìn ra đƣờng Trần Hƣng Đạo. Từ cửa phòng đi vào bên trái theo chiều dọc là hai giƣờng sắt của Nguyễn Khắc Minh rồi tới tôi, bên phải là ba giƣờng của Phạm Viết Tú, Ngô Văn Nhâm, và Bùi Duy Tâm.
Giữa phòng có hai bàn viết vuông vắn và năm sáu chiếc ghế. Phòng nhỏ nhất hai ngƣời, dành cho Nguyễn Thế Minh và Nguyễn Mạnh Hùng. Các cửa phòng đều mở ra một hành lang rộng rãi. Cƣ xá có sân thƣợng trông xuống hai mặt đƣờng, liền với một căn nhà nhỏ dùng làm phòng kỷ luật để giam giữ những sinh viên bị trọng cấm, vì học hành lƣời biếng hay thái độ cẩu thả. Thƣ viện ở tầng dƣới đầy đủ sách có thể mƣợn về tham khảo và mỗi tầng đều có phòng đọc sách nhỏ. Chính giữa sân trƣờng có dựng một cột cờ. Học hành dễ dàng nhƣng phải thi liên tục những kỳ khảo hạch tại trƣờng. Ai ít điểm thì bị phạt không đƣợc xuất trại ngày nghỉ, ai dở quá thì bị giam một hai ngày ở phòng kỷ luật. Ăn uống đƣợc đầy đủ cả về phẩm lẫn lƣợng, nhà bếp có xe Dodge đi chợ Đồng Xuân mỗi ngày, có một sinh viên sĩ quan đi theo giám thị. Hội đồng ẩm thực gồm sáu ngƣời, bên dƣợc có Dƣơng Văn Duy và tôi, bên y có Nguyễn Tấn Chức và ba sinh viên nữa. Mỗi tháng một ngƣời lãnh trách nhiệm lo kiểm soát biên lai tiền bạc, ngày ngày giao cho đầu bếp khoảng 2500 đồng để đi chợ. Nhƣng khó khăn nhất là chọn các món ăn. Mấy anh Bắc thì không ƣa gà xé phay, anh Nam thì chê giò lụa.
Chỉ mấy ngày tết là dễ chịu vì anh Bắc thì về ăn tết cùng gia đình, anh Nam ở lại tha hồ quyết định món ăn khoái khẩu với nhà bếp. Nhƣng lâu dần thì vui vẻ cả làng. Bè bạn biết hay thân nhau vì chỉ trên dƣới một vài lớp mà cũng có những môn phải học chung. Mỗi buổi sáng, sinh viên phải tập hợp ở sân trƣờng để điểm danh và chào cờ. Gần lễ Hƣng Quốc Khánh Niệm ngày 2 tháng 5 âm lịch, chúng tôi đƣợc tập tành mấy buổi để đi điểm binh. Thƣờng thì có Nguyễn Phú Lịch và Nguyễn Hiệp đứng ra điều khiển, vì mấy anh đã có ít nhiều kinh nghiệm ở quân đội khi bị gọi động viên Sĩ Quan Thủ Đức. Vào ngày lễ vua Gia Long lên ngôi này, các sinh viên quân y đi diễn hành qua khán đài thiết lập ngay trƣớc Tòa Thị Chính bên hồ Gƣơm Hà Nội và đƣợc dân chúng đứng hai bên đƣờng hoan hô nhiệt liệt. Vì lễ phục sĩ quan trắng tinh đẹp đẽ, hay vì đi đứng oai nghiêm. Có lẽ cả hai. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối sinh viên quân y tham dự cuộc duyệt binh ở Hà Nội. Rồi thề trung thành với Quốc Trƣởng Bảo Đại, dƣới sự lãnh đạo của Tƣớng Nguyễn Văn Vận. Hôm đó sinh viên còn đƣợc vô biệt điện gần vƣờn Bách Thảo dự cuộc tiếp tân của Quốc Trƣởng.
Tôi nhớ Bùi Nghĩa Bỉnh mặc bộ đồ trận, lúc ra về anh còn thủ một chai whiskey trong túi làm vui.
Trƣờng quân y có nhiều sinh viên cao ráo đẹp trai nhƣ Nguyễn Kiển Ngọc, Nguyễn Tú, Nguyễn Thế Minh, Phạm Văn Biểu, Bùi Quốc Trụ, Dƣơng Quang Hiển, Nguyễn Phú Lịch, Nguyễn Hiệp. To lớn khỏe mạnh có Hoàng Cơ Lân, Trịnh Cao Hải. Hầu hết đều rất tốt tính nhƣ Nguyễn Khái, Nguyễn Đức Tiến, Mai Văn Đồng, Chu Tất Đắc, Nguyễn Đình Lợi, Trƣơng Quí Lâm, Bùi Văn Đoàn, Võ Tam Anh, Nguyễn Phú Duyệt, Nguyễn Quang Đình, Nguyễn Duy Sản, Nguyễn Thanh Giá, Dƣơng Văn Duy, Cao Thiện Chánh và hai anh em họ Dƣơng Minh Quảng, Dƣơng Minh Châu. Còn nhiều bạn tôi không thể nhớ hết. Mỗi ngƣời một vẻ. Thẳng thắn cƣơng trực có Lân, thông minh nhanh nhẹn có Biểu. Hiểu rộng biết nhiều có Nguyễn Đức Hạnh, Nghiêm Xuân Húc.
Văn hoa tài tử có Nguyễn Thế Minh, Nguyễn Kiển Ngọc, Vũ Phạm Tiến, Hồ Văn Châm. Hiền lành dễ dàng có Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Đức Tiến, Ngô Yên Quế. Chăm chỉ chịu khó có Nguyễn Đình Phác, Vũ Quí Đài, Nguyễn Khắc Minh. Giao thiệp khéo léo có Nguyễn Phúc Bửu Tập. Biệt lập và can trƣờng có Bùi Duy Tâm. Kể dí dỏm các chuyện tiếu lâm có Trƣơng Quí Lâm. Tôi không biết gì nhiều về những sinh viên đàn anh sắp ra trƣờng, nhƣng có thể kể Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Quang Huấn, Trần Văn Kính, Đặng Trần Lợi, Nguyễn Sơn, Phạm Hà Thanh, Phạm Ngọc Tỏa, Trần Kim Tuyến, Nguyễn Hữu Vị. Những sinh viên này về sau đã có thời đảm nhiệm những trọng trách lớn lao của ngành Quân Y. Cao Thiện Chánh cũng lên tới hàng Dƣợc sĩ Đại Tá. Riêng bác sĩ Trần Kim Tuyến, một nhân vật quan trọng của đệ nhất Cộng Hòa, không hành nghề y và trở thành Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Cũng một phần nhờ có ông mà các quân y hiện dịch không bị thiệt thòi so với đồng nghiệp bên ngành trừ bị.
Tôi hay cùng Bùi Duy Tâm đi thuyền buồm trên hồ Tây, đi đánh tennis ở sân Septo có các huấn luyện viên Xuân và Tịch chỉ dẫn. Thƣờng thƣờng đi ăn phở sáng, đi dạo chơi với Nguyễn Duy Sản. Chụp ảnh đẹp phải nhờ đến Dƣơng Minh Châu. Cũng có khi xem những phim giải trí cùng Hồ Văn Châm, Võ Tam Anh, Nguyễn Phú Duyệt. Duyệt còn mang bộ bài mạt chƣợc vào trƣờng Quân Y dậy cho tôi cách chơi. Nhiều khi muốn ra phố chúng tôi mặc quần áo dân sự sẵn, rồi khoác ngoài một chiếc áo mƣa và đội mũ nhà binh để trốn qua cổng gác. Sinh viên thời đó thƣờng chỉ có xe đạp hay xe gắn máy. Trừ Nguyễn Hiệp và Chu Tất Đắc có Vespa cũng hay chở tôi đi lòng vòng đủ mọi chỗ. Buồng tôi có Nguyễn Khắc Minh và Ngô Văn Nhâm là hai kiện tƣớng đã tập tành Bắp Thịt Trƣớc Đã của Phạm Văn Tƣơi thật đều đặn và thành công. Tôi quá dở, quyển dậy thể dục giản dị nhƣ vậy mà muốn theo cũng không nổi! Tennis vô địch sinh viên có Trần Văn Khoan. Nhƣng nhà trƣờng chƣa thấy có một đội cầu thủ sáng giá nào, về quần vợt, bóng rổ, bóng truyền hay bóng bàn.
Gần kỳ thi cuối năm thì Y sĩ Thiếu Tá Đinh Văn Thắng lên thay Y sĩ Trung Tá Nguyễn Đình Hào làm Giám Đốc. Ông có dành một buổi nói chuyện với các anh em về tình hình đất nƣớc. Nhƣng ông, Y sĩ Đại Úy Nguyễn Thìn, và một số ít sinh viên quân y đã ở lại không di cƣ vào Nam.
Theo thông lệ, sinh viên quân y phải đi tập quân sự một tháng hè trong hai năm liên tiếp, rồi năm sau mới tới phần tập sự tại các đơn vị liên hệ. Ngày 12 tháng 7 năm 1954, chúng tôi lên máy bay Cosara vô trƣờng Liên quân Đà Lạt EMIAD. Khi ấy, Đại Tá Nguyễn Văn Chuân làm chỉ huy trƣởng. Đại Úy Nguyễn Ngọc Khôi phụ trách chƣơng trình huấn luyện cho Quân Y cùng một số sĩ quan Pháp đang dậy quân sự tại đây.
Có lần chúng tôi đƣợc đi du ngọan thác Pongour, và leo lên đỉnh núi Langbian. Ban đêm chúng tôi đeo súng đi men đƣờng rừng và leo đèo. Lại sợ bắn nhầm nhau thay vì bắn cọp, tuy đã nhắc nhau nhiều lần khi đi đƣờng thì súng phải cài chốt an toàn mà vẫn có anh quên. Kể khi hiệp định ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève ký kết, anh em chúng tôi ai cũng có mối lo nghĩ riêng. Nếu gia đình vô Nam thì ở đâu? Mà gia đình ở lại Bắc thì rồi sẽ ra sao? Tôi may có anh Ngô Yên Quế, con cụ Ngô Dự Trƣơng, thƣờng chuyển thƣ nhà từ Hà Nội gửi vào Nam cho tôi trong mấy tháng trời đầy giao động này. Tại Đà Lạt, vào dịp mãn khóa, trƣờng Quân Y phải tổ chức một buổi văn nghệ cho công chúng xem ở một hí viện thành phố. Chúng tôi có dịp tập hát tập kịch nên cũng quên đi phần nào câu chuyện thời sự. Hôm trình diễn, Bùi Quốc Trụ đại diện trƣờng đọc diễn văn và giới thiệu các tiết mục. Ban đồng ca trong có Vũ Quí Đài trình bầy bài Tình Quê, lời của Hồ Đình Phƣơng, nhạc của Châu Kỳ. Ban kịch trình diễn vở Sang Sông của Hoàng Ngọc Khôi. Khôi về sau trở thành một bác sĩ kiêm nhà văn nhà thơ và định cƣ ở Canada. Nguyễn Thế Minh trong vai ông đồ đang ngồi ngất ngƣởng uống rƣợu ngâm thơ, để xem hoa nở và chờ trăng lên. Anh xuất sắc trong đủ bộ môn văn nghệ. Nguyễn Khái trong vai bà đồ hiền lành chịu khó. Hồ Văn Châm đóng vai cô gái yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Tôi thủ vai một chàng trai vui chơi, đang rƣợu chè say sƣa. Nhƣng đến màn cuối, lúc mọi ngƣời thức tỉnh thì tất cả cùng kéo nhau sang sông về Nam. Về miền tự do.
Hết hè, Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Duy Sản và tôi rủ nhau đi thăm Huế. Phải cám ơn hai bạn Hồ Văn Châm và Võ Tam Anh đã hƣớng đạo, chỉ dẫn cho chúng tôi thấy sự thơ mộng nơi sông Hƣơng núi Ngự, cùng các nét kiều diễm của giai nhân đất thần kinh này. Những ngày đẹp trời, chúng tôi đi thăm viếng các lăng tẩm nhà Nguyễn, chùa Thiên Mụ, chợ Đông Ba, thôn Vĩ Dạ, khu Gia Hội. Đƣợc gập ca sĩ trẻ tuổi nổi danh Kim Tƣớc. Tôi cũng nhân dịp thăm hỏi các bạn Nguyễn Phúc Bửu Tập, Phạm Thị Mộng Thu, Vĩnh Đằng.
Hè năm sau khi chúng tôi lên EMIAD để tập quân sự thì Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu làm chỉ huy trƣởng. Bạn bè quân y có thêm nhiều ngƣời, Phùng Quốc Anh, Chu Bá Bằng, Bùi Thế Cầu, Trịnh Văn Chính, Nguyễn Hùng Tín, Bạch Đình Minh, Phạm Ngọc Tùng, Bạch Toàn Vinh, Tạ Văn Quang, Phạm Kỳ. Toàn những anh hùng hảo hớn, về sau có thời đã đảm nhận các chức vụ chỉ huy quan trọng. Tạ Văn Quang Viện Bào Chế Quân Đội, Phùng Quốc Anh Bệnh Viện Nha Trang, Chu Bá Bằng Bệnh Viện Hồng Bàng, Bạch Đình Minh Bệnh Viện Nguyễn Văn Học, Bùi Thế Cầu Tỉnh Trƣởng Gia Định, Trịnh Văn Chính Trung Tâm Tiếp Huyết, Bạch Toàn Vinh Viện Thí Nghiệm Trung Ƣơng. Nhƣng vì không ăn ở cùng nhƣ ngoài Bắc, nên ít kỷ niệm về trƣờng để viết hơn.
Vào Sài Gòn, cơ sở tạm của trƣờng Quân Y gần cầu chữ Y trong Chợ Lớn không đủ chỗ cho sinh viên mà cũng không có lấy đủ tiện nghi nhƣ ở Hà Nội. Lúc này quyền Chỉ Huy Trƣởng là giáo sƣ Y khoa Trần Anh, rồi tiếp đến Y sĩ Thiếu Tá Nguyễn Hữu Thƣ làm Giám Đốc. Lon đƣợc đổi lại theo kiểu Mỹ, hoa mai vàng gắn trên cổ áo. Sinh viên quân y nhiều ngƣời có thể về sống với gia đình. Nguyễn Văn Chất và tôi ở trọ học cùng chỗ với Nguyễn Văn Phác, anh của Chất, tại một căn nhà đƣờng Ngô Tùng Châu, trông sang một vƣờn hoa nhỏ. Anh Phác, một kỹ sƣ rất giỏi tốt nghiệp Cao Đẳng Công Chánh, mấy tháng sau sang Pháp du học về Khí Tƣợng. Chúng tôi ngủ trên một căn gác xép, nhà trọ còn có Nguyễn Văn Sáu làm kế toán cho Comptoir des Produits Chimiques đƣờng Bonard. Cũng có dạo Nguyễn Hiệp đến đây ở cùng chúng tôi, vì gia đình anh lúc đó còn tính ở lại Hà Nội. Rồi con bà chủ nhà là anh Robert bị thủy đậu. Tôi sợ lây bệnh nên tạm ra ở cùng Bùi Đình Nam trong Khu Lều của sinh viên Đại Học Hà Nội. Những dẫy lều nhà binh thật lớn cất liền sát nhau trên nền khám lớn cũ đƣờng Gia Long. Mỗi lều trong có kê những phản gỗ dài và chừa lối đi ở giữa, có thể chứa chừng 20 sinh viên. Trời nóng nực nhƣ thiêu đốt lúc ban ngày, nhƣng buổi tối có gió mát từ phía sông Sài Gòn thổi vào. Tôi đƣợc gập lại đa số bè bạn từ các phân khoa đại học miền Bắc. Vào khoảng giữa năm 1955, Nam và tôi về ở Đại Học Xá Chợ Lớn mới đƣợc xây cất xong cho tiện việc đi lại học hành.
*
Đại Học Xá Chợ Lớn
Tại sao nhiều bè bạn của tôi hay viết lại kể lại về Đại Học Xá Minh Mạng Chợ Lớn?
Vì một thời sinh viên sống động? Hay vì đang tuổi thanh xuân với những chuỗi ngày đầy vui buồn? Không, theo tôi, có lẽ đúng hơn là vì một nơi mà sự chung đụng đã làm tình bè bạn trở thành có thật, rất nhiều sinh viên đối với nhau thân thiết không kém gì anh em ruột thịt. Nhất là trong cảnh huống của những ngày mới di cƣ vào Nam đầy hoang mang lo lắng. Thời của một số sinh viên đƣợc làm convoyeur theo tầu chở đồng bào di cƣ từ Bắc vô Nam, đƣợc đi những hội nghị Bandung ở Mã Lai Á, Birmingham ở Anh, đƣợc tham dự những Work camp tại Nhật. Đi họp hội nghị Bandung có Trần Thanh Hiệp, Birmingham có Huỳnh Ngọc Thiện, Bùi Minh Đức và Nguyễn Văn Thành. Dự trại hè bên Nhật kỳ đầu có Hà Thị Phấn, Lƣu Bội Chu, rồi tới Nguyễn Tuyết Bích, Bùi Minh Đức.
Đại Học Xá nằm trên một khu đất rộng cuối đƣờng Minh Mạng số 230, chung quanh có hàng rào cây thƣa. Từ ngã sáu Chợ Lớn đi qua khu Cƣ Xá giáo sƣ và nhân viên làm cho đại học thì tới khu Cƣ Xá sinh viên. Đại Học Xá trông sang hông nhà thờ ngã sáu cổ kính. Cổng vào xây gạch trên có bảng tên lớn, có hai cánh cửa rộng mở sang hai bên. Đƣờng chính trải nhựa chạy thẳng
qua hai dẫy nhà sinh viên nằm thẳng góc, dẫy nhà đánh số chẵn 2, 4, 6, 8 bên tay phải, dẫy số lẻ 1, 3, 5, 7 bên tay trái. Mỗi dẫy có nhiều phòng trông ngay sang phòng của dẫy đối diện, và cách nhau bằng con đƣờng đất rộng trồng nhiều cây trứng cá. Cửa phòng mở ra một vỉa hè xi măng dài có rãnh nƣớc, và các phòng cùng trong một dẫy tựa lƣng vào nhau, phòng phía đầu đánh số 1. Mỗi phòng có sáu giƣờng ghép từng đôi một, có tủ hai cánh ngăn giữa, có bàn học chạy theo chiều dài và kê sát một hàng cửa sổ nhỏ, đủ chỗ cho sáu sinh viên độc thân. Tƣờng thấp, mái lợp fibrociment nhƣng có trần bằng carton, nên nhà ở cũng thoáng và mát. Ngoài các vòi nƣớc phía trƣớc phòng, cuối mỗi dẫy có các phòng vệ sinh, phòng tắm.
Theo con đƣờng chính, qua khu sinh viên tới khu đất trung tâm có dựng một cột cờ. Rẽ sâu phía tay trái có nơi đặt bàn ping-pong, chỗ để xe máy, chỗ dành cho thợ hớt tóc, rồi tới khu nhà ăn nhà bếp. Câu lạc bộ sinh viên gồm một quán ăn có quầy bán hàng, với nhiều dẫy bàn ăn có ghế dài hai bên. Rẽ chếch phía tay phải là Ty Y tế sinh viên. Thời tôi ở có các bác sĩ Bùi Quốc Hƣơng, Thái Minh Bạch dễ dàng nhanh nhẹn trông coi. Cùng với các y tá thật là hiền hậu vui tính, nhƣ bà Hiền, bà Tích, có bà Hồng phụ y tá rất siêng năng. Bà Tích, phu nhân của tƣớng Phạm Hữu Nhơn, có tài chích gân thật giỏi ít ai bì. Bùi Đình Nam và tôi thƣờng nhờ bà chích cho mỗi ngày Bévitine và Vitascorbol của Spécia, hai thứ sinh tố B1 25mg và C 500mg trộn lẫn, để lấy sức vào dịp học thi.
Hai dẫy phía ngoài, cả chẵn và lẻ, dành cho sinh viên đã lập gia đình, các anh chị Ngô Văn Hiếu, Quan quang Hoa, Bùi Xuân Hòa, Phạm Hy Khang, Đỗ Nhƣ Kim, Nguyễn Tƣ Mô, Võ Tƣ Nhƣợng, Tạ Văn Quang, Doãn Quốc Sĩ, Uông Ngọc Thạch. Rồi tới nhiều dẫy số chẵn dành cho các sinh viên độc thân miền Trung. Bên dẫy số lẻ có nhiều sinh viên độc thân miền Bắc, nhƣng cũng có ngƣời chỉ ở tạm một thời gian ngắn. Chúng tôi ở dẫy 7. Dẫy 7 phòng 1 có Võ Đạm, Nguyễn Tiến Đạt, Đặng Quốc Phú. Dẫy 7 phòng 2 có Đào Quốc Anh, Bùi Thế Cầu, Nghiêm Hữu Đôn, Trịnh Đình Thiện, Nguyễn Hùng Tín, Vƣơng Tú Toàn, Nguyễn Đình Thông, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Vinh. Dẫy 7 phòng 3 có Phùng Quốc Anh, Chu Bá Bằng, Trƣơng Sĩ
Lãng, Nguyễn Khắc Minh, Bùi Đình Nam, Nguyễn Xuân Nghiên, Trần Nhƣ Nguyên, Bùi Đức Phƣơng, Nguyễn Văn Thiệu và tôi. Dẫy 7 phòng 4 có Đàm quang Hƣng, Nguyễn Bích Nhƣ.
Sinh viên tại đại học xá thuộc đủ thành phần Y Nha Dƣợc, Quốc Gia Hành Chánh, Sƣ Phạm, Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa. Nhiều sinh viên đẹp trai, học giỏi, nhƣng ít con nhà giầu. Chúng tôi thƣờng gọi nhau bằng những biệt danh rất là tếu. Gì cũng cƣời nhƣ T. toét, Ph. toét. Điệu bộ kiểu cách nhƣ T. lọ. Ít vẻ sáng sủa nhƣ T. tịt, T. xỉn. Cao lớn khỏe mạnh nhƣ V. tồ, Đ. cồ. To con lực lƣỡng thì lấy tên chàng Vọi trong chuyện Trống Mái của Khái Hƣng làm hình dung từ nhƣ Th. Vọi. Hùng dũng anh chị nhƣ C. xế, K. xế. Mập mạp nhƣ Th. béo. Bụng bự nhƣ K. phệ. Tƣơi trẻ nhƣ M. con. Đứng tuổi nhƣ H. già. Có khi lấy hình dạng đầu tóc để gọi tên nhƣ T. sọ dừa, T. đầu xù, B. xoăn, H. hói. Cận nặng nhƣ Q. mờ. Răng đƣa ra nhƣ N. vẩu. Khôn ngoan nhƣ Th. hạm. Hiền lành thật thà là T. thầy, nhƣng nếu thật quá lành nhƣ ông thủ từ giữ chùa thì biến thành thủ Đ., thủ Ph. Tên ngƣời ta đem ghép thêm chữ để cố cho thành nghĩa nhƣ N. mực, Tô mì. Đẹp trai nhƣng hay ngạc nhiên ngây thơ là Phùng Há. Tính giống cậu ấm, đƣợc quá nuông chiều coi nhƣ ấm đã sứt vòi rồi, thì gọi là T. sứt. Còn có biệt danh không ra đâu vào đâu cả, vì chẳng biết xuất xứ ra sao, nhƣ Kèo, Cột. Thật ra gọi tên nhƣ vậy để cho thân mật hay muốn trêu nhau cho vui mà thôi. Cũng để phân biệt những bạn cùng tên, nhƣ nếu hỏi đến T. thì là T. nào? T. lọ, T. lác, hay T. thầy? Chúng tôi còn dùng chữ phó cạo để chỉ ngƣời có tài khen nịnh, dễ làm ngƣời nghe khoái chí, và lâu dần trở thành nghiền. Thiên hạ ai cũng có ít nhiều tài này cả, thích khen mà cũng thích đƣợc khen. Phó cạo cao cấp nhất có lẽ là Ng. V. H.
Về giảng hay thì đại học xá có nhiều ngƣời lắm, sinh viên đều thi nhau chức phó giảng cả. Nhƣng giỏi nhất trong bè bạn phải kể V. V. Tr, việc gì dù khó đến đâu anh cũng giảng thành dễ hiểu. Không hiểu tài này anh học trƣờng nào hay là thiên phú? Minh và Bằng tuy ở nhà với gia đình nhƣng hay đến ở phòng 3 để cùng học. Một cập bài trùng. Minh thú đọc tiểu thuyết nhật báo Trăng Nƣớc Đồng Nai của Nguyễn Hoạt, không hiểu có phải vì anh có ít nhiều cảm tình với một cô bạn học miền Nam hay không? Nghiên thì thỉnh thoảng mới đến đại học xá chơi. Lúc này anh đã nổi danh với những lớp luyện thi tú tài tại Sài Gòn và kiếm rất nhiều tiền. Trung kiên nhất có Nam, Thiệu, Phùng Quốc Anh và tôi. Chúng tôi thích đọc các truyện của nhóm Sáng Tạo, Tự Do, Văn Nghệ Tiền Phong. Bạn bè ở phòng 2 và 3 có lệ thƣờng đi ăn chơi cùng, lúc về thì chung
tiền đều nhau. Lối đóng góp này đƣợc gọi theo tên một thần ái tình của Ấn Độ là KAMA, hay không ai mời ai. Chúng tôi cũng sinh hoạt trong Đoàn Sinh Viên Đại Học Hà Nội rồi.
Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia mà chủ tịch đầu tiên là Nguyễn Tấn Chức, nhƣ đi dự lể tiếp thu Trƣờng Luật từ giáo sƣ ngƣời Pháp, đi phản đối Uỷ Hội Quốc Tế Đình Chiến tiếp tƣớng Văn Tiến Dũng ở Catinat. Phải đọc Những Gì Còn Nhớ của bác sĩ Từ Uyên viết, mới thấy rõ các hoạt động của sinh viên thời ấy. Nam có lần đứng ra tổ chức các lớp hè bổ túc cho học sinh trung học tại trƣờng tiểu học Cầu Kho Chợ Lớn. Tôi có tham dự vào ban giáo sƣ tình nguyện. Anh nhờ tôi viết một diễn văn cho ngày khai mạc, mà phải làm sao ghi vào một câu anh ƣa thích nhất: ”các em là hình ảnh chúng tôi năm mƣời năm về trƣớc...”. Bây giờ, giả dụ có viết lại, tôi phải đổi thành năm sáu mƣơi năm về trƣớc! Khi sinh viên tổ chức tết, có lần Nguyễn Tiến Đạt và tôi nhận đóng vở kịch Tuyển Phu. Đạt đóng vai tráng sĩ to lớn khỏe mạnh, tôi vai văn nhân chân yếu tay mềm. Nhƣng vào lúc cuối tôi bị cảm cúm phải có ngƣời thế. Cảm thật chứ không vì cô gái tuyển phu hiện ra quá xấu nên hai chàng hỏi vợ đều sợ đến té xỉu!
Tại đây môn ping-pong là môn vui nhộn nhất. Ai thắng một ván thì đƣợc chơi tiếp ván sau. Có nhiều cầu thủ giỏi nên ở lại mãi. Tôi chỉ chơi tàm tạm, thƣờng đánh cùng Nguyễn Hữu Bao, Nguyễn Thế Minh, Từ Ngọc Quang. Có lần tổ chức giải Bóng bàn Sinh viên mới thấy nhiều nhân tài, mà Hà Xuân Du là một. Âm nhạc thì chỉ thấy Phạm Văn Ngọc chơi Violon.
Nhân viên làm tại đại học xá có ông Bƣởi coi việc thƣ từ, ông Chánh coi xe cộ của viện. Những ngƣời bản chất rất trung hậu. Còn có ông phó cạo vui tính đến hớt tóc cho inh viên, vừa cắt khéo vừa nói chuyện hay. Và ông thợ giặt hiền lành thƣờng xuyên đến tận phòng nhận quần áo đem về giặt ủi.Có dạo Sài Gòn chiếu phim Vacances Romaines. Một câu chuyện tình tuyệt đẹp tại Rome giữa công chúa và nhiếp ảnh gia, đóng bởi hai tài tử gạo cội Audrey Hepburn và Grégory Peck. Chúng tôi thƣờng đi Mobylette nay đua nhau mua Vespa thấy trong phim ảnh. Lúc đầu chỉ có Vespa 125 của Pháp, sau mới xuất hiện Vespa 175 của Ý đẹp, mạnh và tốt hơn. Cũng có các bạn Ban, Vinh chơi xe Lambretta. Nhiều chủ nhật cả nhóm rủ nhau đi năm bẩy chiếc xe sang nhà Bè hóng gió mát.
Sinh viên lúc này đã nhiều ngƣời mua xe hơi loại nhỏ nhƣ Fiat 1100, Citroen 2CV, Renault 4 CV.
Một hai năm đầu anh Bùi Đình Nam trông nom câu lạc bộ. Rồi xẩy ra sự xích mích với một số sinh viên, nên quán cơm đƣợc giao lại cho một ủy ban quản trị gồm 6 ngƣời, trong đó có Võ Đạm. Tôi vì mua chung chiếc xe Peugeot 203 với Nam lúc đó để cùng đi cùng về các lớp học và phòng thực tập, cũng cảm thấy bquán cơm này. Bạn bè dẫy 7 phòng ất tiện nếu tiếp tục ăn ở, 2 và bèn rủ nhau đi ăn cơm tháng ở tiệm Sinh Ký, một nh à hàng nổi danh vì món vịt quay ở ngay gần đại học xá. Chúng tôi quen ông chủ tiệm này, nhƣng ông có nói là không ăn đƣợc đâu. Mà quả thật nhƣvậy, cho dù ông đã làm riêng thực đơn riêng cho chúng tôi mà ăn cơm tầu đến ngày thứ ba thì chán ngấy chịu không nổi. Nhân viên nhà hàng thì khác, vì họ ăn uống rất giản dị nhƣ các ngƣời trong nhà bếp. May mắn ngay sau đó chúng tôi có bà Hồng cho ăn cơm tháng trong ít lâu!
Ngại nhất là những ngày tết. Đƣờng Trần Hƣng Đạo có hiệu Quốc Hƣơng bán đủ các món Bắc chính hiệu rất ngon, giò chả, bánh chƣng, thịt đông dƣa chua, nhƣng lại không mở vào ngày tết.
Có lần Nam và tôi lái xe lòng vòng quanh Sài Gòn Chợ Lớn mà mãi mới tìm đƣợc một hàng ăn tầu ở chợ cũ mở cửa ngày mồng một. Nhƣng món ăn tầm thƣờng. Năm sau thử đi ăn tết tại nhà anh của Nguyễn Văn Thiệu, ông Thiện ấy dành riêng cho ba chúng tôi một mâm thịnh soạn. Nhƣng cũng không phải là giải pháp tốt, vì ăn mà cảm thấy quá phiền phức cho ngƣời chủ nhà. Tới khi ra trƣờng rồi thì có chuyện khác để lo, nên ăn uống tết nhất không còn là vấn đề nữa.
Hầu hết sinh viên ở đại học xá sau này thành danh và giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền quốc gia. Phải kể vài nhân vật trong những dòng sau, là những gì chƣa quên. Giáo sƣ có Vũ Xuân Châu, Kiều Quang Đạo, Đàm Quang Hƣng, Lƣu Trung Khảo, Đinh Tiến Lãng, Nguyễn Bích Nhƣ, Doãn Quốc Sĩ, Lê Thuần Vinh. Bác sĩ có Đào Quốc Anh, Phùng Quốc Anh, Vũ Ban, Chu Bá Bằng, Nguyễn Hữu Bao, Bùi Thế Cầu, Võ Đạm, Phạm Quí Điểu, Nghiêm Hữu Đôn, Ngô Văn Hiếu, Quan Quang Hoa, Vũ Lan, Nguyễn Khắc Minh, Phạm Văn Ngọc, Võ Tƣ Nhƣợng, Đặng Quốc Phú, Uông Ngọc Thạch, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hùng Tín, Vƣơng Tú Toàn, Trịnh Quang Vinh. Nha sĩ có Phạm Hy Khang, Đỗ Nhƣ Kim, Nguyễn Tƣ Mô, Lê Xuân Chân.
Dƣợc sĩ có Bùi Xuân Hòa, Phạm Song Nam, Bùi Đình Nam, Trần Nhƣ Nguyên, Tạ Văn Quang, Trần Cẩn Thành và tôi. Đốc sự hành chánh có Lê Văn Kim, Trịnh Đình Thiện, Nguyễn Đình Thông. Kỹ sƣ có Hoàng Hồng, Hà Quang Thuấn, Nguyễn Thanh Hùng. Luật sƣ có Nguyễn Tiến Đạt, Vũ Văn Huấn, Nguyễn Duy Nguyên, Lý Quốc Sỉnh, Trần Cự Uông, Nguyễn Văn Vinh. Vinh sau làm cho Quân Pháp. Hà Quang Thuấn và Hoàng Hồng du học về khí tƣợng tại Pháp. Nguyễn Bích Nhƣ du học về Nguyên Tử Lực tại Bỉ, sau làm Giám Đốc Nguyên Tử Lực Cuộc Đà Lạt. Nguyễn Văn Cơ đi Tân Tây Lan sau về dậy cho hội Việt Mỹ. Nguyễn Văn Tuấn sang Pháp học nha sĩ rồi ở lại Lille hành nghề tƣ. Tôi trở lại đại học xá vào cuối năm 1958. Trong lúc chờ đợi giấy tờ đi Pháp, tôi tạm nhận dậy toán lý hóa tại trƣờng Chu Văn An, và kèm thêm Trần Nhƣ Nguyên học thi dƣợc khóa hai. Vào chiều tối ngày 4 tháng 12, Võ Huỳnh lái chiếc xe Ford Fairlane 500 đến chở tôi ra phi trƣờng, cùng với Võ Đạm, cô Minh. Theo sau là chiếc xe Chevrolet Bel Air của Bùi Đình Nam do ông Hồ lái, có thêm Nguyễn Văn Thiệu, Trịnh Đình Thiện. Tôi luôn luôn nhớ những ngƣời bạn trung kiên này, Nam quí trọng bè bạn, Thiệu có khiếu tổ chức, Thiện rất biết cách sống. Tôi vẫy tay chào từ biệt đại học xá Minh Mạng và ông Bƣởi, ngƣời đã mở hai cánh cổng thật rộng để tiễn tôi tới một phƣơng trời khác lạ xa xôi.
*
Nhà Đông Dƣơng Paris
Chiếc Super Constellation của Air France chở Nguyễn Phú Lịch và tôi dừng ở Rome khoảng một tiếng đồng hồ. Phi cảng ban tối thật đẹp đầy ánh đèn mầu rực rở, có nhiều quầy bán đồ kỷ niệm và xa xỉ phẩm. Tiếng nhạc phát thanh rất êm dịu với bài Bambibo lãng mạn quen thuộc. Rồi máy bay đáp xuống phi trƣờng Orly vào đêm tối mịt ngày thứ bẩy. Thật là mừng vì chờ đợi mãi cũng sẽ có lúc tới đƣợc kinh thành ánh sáng nổi danh trên thế giới! Nhƣng khi qua quầy xét thông hành thì chúng tôi bị giữ lại vì không có chiếu khán vô Pháp. Trƣớc đây, tòa Lãnh Sự Pháp đƣờng Hồng Thập Tự có cho biết không cần chiếu khán xuất nhập giữa hai nƣớc. Bất ngờ đúng vào lúc đó, Việt Nam bắt ngƣời Pháp vô Sài Gòn phải xin chiếu khán nên ngƣợc lại họ trả đũa nhƣ vậy. Chiêu đãi viên Air France đã lấy chăn gối cho chúng tôi nằm nghỉ tạm tại phi cảng chờ Cảnh Sát giải quyết.
Tôi mệt quá nằm lăn ra ngủ, để mặc Lịch lo canh chừng hành lý. Sáng hôm sau chủ nhật, họ đành cho nhập cảnh tạm 48 tiếng. Chúng tôi lên một chiếc xe taxi DS19 còn mới, chạy thẳng về Nhà Đông Dƣơng, hay Maison de l‟Indochine, số 59B Blvd Jourdan, Paris 14è. Tới nơi may mắn gập ngay đƣợc ông Giám Đốc Masson. Ông tỏ vẻ vui mừng vì đã hai năm nay không thấy có sinh viên Việt nào đƣợc sang du học cả, nên chấp thuận để chúng tôi ở ngay. Ông cho kê thêm một chiếc giƣờng mới vào buồng 46 cho chúng tôi ở cùng. Vì trên nguyên tắc, năm đầu tiên hai ngƣời chia nhau một phòng. Năm sau Lịch ở lại, tôi sang buồng 38, có cửa sổ trông ra một vƣờn nhỏ, mà mỗi mùa xuân lại đỏ rực ánh hoa đào. Nhiều sinh viên ở đây là bạn học cũ, gập nhau tay bắt mặt mừng. Rồi Vũ Quang Kính và Nguyễn Hoàng Nghị mời chúng tôi sang quán Babel trƣớc khu Cité Universitaire ăn trƣa. Lần đầu tôi đƣợc biết hƣơng vị escargot de Bourgogne, trong cái rét mƣớt của mùa đông Paris!
Trên mạng lƣới toàn cầu hiện nay, tìm một tài liệu về nơi nào cũng dễ dàng, kể cả những sự đổi thay theo thời gian. Vì vậy tôi chỉ xin kể sơ qua về cảnh, mà chú ý đến con ngƣời, tâm trạng cùng các sự việc xẩy ra trong ngày tháng đó. Cité Internationale Universitaire de Paris đƣợc thành lập vào năm 1925 và tọa lạc trên một khu vƣờn rộng 34 mẫu tây. Tòa nhà Maison Internationale dành cho những sinh hoạt chung của sinh viên đƣợc xây cất theo kiểu lâu đài Fontainebleau nằm ở khu giữa. Nơi đây có hí viện, các phòng giải trí, quán ăn sinh viên với món ăn đặc biệt ngon lành và giá rẻ cho sinh viên. Nhà hàng phục vụ mỗi bữa đƣợc khoảng 4000 thực khách. Và có đủ các tổ chức cho sinh viên về văn hóa, về nghệ thuật, về thể dục thể thao. Trong thành phố đại học đặc biệt này có tất cả 37 cƣ xá có thể nhận 5000 sinh viên thuộc hơn 120 quốc gia trên thế giới.
Có nhà của Nhật Maison du Japon, của Cam bốt Maison du Cambodge, của Ý Maison de l‟Italie, của Na Uy Maison de Norvège, của Hòa Lan Collège Néerlandais, của Hi Lạp Fondation Hellénique. Mổi nhà đƣợc xây cất theo kiểu đặc trƣng của nƣớc đó, và cũng biểu tƣợng cho kiến trúc của thế kỷ thứ 20. Thời tôi số sinh viên mỗi nhà trên nguyên tắc có một nửa là sinh viên của nƣớc đó, còn một nửa là sinh viên Pháp hay ngoại quốc. Nhƣ vậy sự giao lƣu văn hóa thật dễ dàng. Ngƣời ta đã cổ võ cho sự hợp quần, tính hiếu khách, sự tôn trọng cá nhân và tính nhân nhƣợng. Chúng tôi thƣờng ăn sáng tại Maison des Provinces de France và ăn trƣa ở quán ăn France d‟Outre Mer FOM, hay tại Maison Internationale. Nhà hàng FOM cơm ngon và tiện lợi vì gần nhà Đông Dƣơng. Tuy vậy nhiều khi sinh viên phải xếp hàng dài, và vào những ngày có tuyết rơi mà chờ đợi quá lâu thì thật là chán ngán. Đƣợc ở ngay nhà Đông Dƣơng là một sự may mắn lớn lao khi chúng tôi chân ƣớt chân ráo tới Paris. Nhất là đã nghe danh của bao nhiêu nhân tài Việt từng ăn học tại đây. Thời chúng tôi ở chỉ còn sinh viên Pháp, Việt và Lào, ngƣời Miên đã có nhà riêng từ năm 1957 do ông Hoàng Sihanuk vận động xây cất. Maison de l‟ Indochine đƣợc khánh thành vào năm 1930, với lối kiến trúc á đông mái ngói góc cong. Không kể từng dƣới cùng có nhà bếp, thì 4 tầng chính có các phòng cho sinh viên. Tầng thứ 5 có phòng đặt bàn ping-pong. Kiểu nhà đặc biệt này cũng nổi bật trong số các nhà tại thành phố đại học. Đƣờng vô thềm nhà phải đi lên tám chín bậc đá lớn, hai bên có tạc sƣ tử rất đẹp đang há miệng. Cửa vào trông thẳng tới quầy phòng của gác dan, rẽ sang phía trái qua một cầu thang lên các tầng lầu trên là hành lang dẫn tới ác phòng sinh viên. Nằm phía thấp đối diện cầu thang là một phòng khách rộng rãi, có thể chứa trên dƣới hai trăm ngƣời trong các dịp lễ tết. Có chỗ để chiếc giá treo một cái trống vỉ đại, có góc đặt chiếc đại dƣơng cầm cũ rích, và một khu dành riêng cho máy truyền hình với nhiều dẫy ghế để ngồi coi. Mấy ngày sau chúng tôi đến thăm chị bạn học cũ Nguyễn Hạc
Hƣơng Thƣ. Chị đang làm luận án tại đại học Paris và ở một apartement trên tầng cao đƣờng Vavin với chị Hồ Đắc Hƣơng. Dƣới nhà là một hộp đêm khách khứa ra vào tấp nập. Thế mà các chị học hành đƣợc thì thật là quá giỏi. Thỉnh thoảng có dịp chúng tôi cũng đến trò chuyện và nấu ăn cùng. Chúng tôi còn hay đến chơi nhà anh chị Nguyễn Đức Hạnh, lúc đó mới có cháu gái đầu lòng. Anh Hạnh đang tu nghiệp ở Viện Pasteur Paris, chị Nghi là bạn học cùng lớp với Lịch. Bạn bè cũ sang du học tại đây rất đông, sinh hoạt giống nhƣ xƣa nên chúng tôi không thấy xa nhà lạ nƣớc. Riêng việc học hành thì không thành vấn đề để lo lắng cho lắm, vì là hệ thống vốn quen thuộc. Học bổng 45 ngàn quan Pháp một tháng thời đó cũng đủ xài. Từ nhà Đông Dƣơng tới trƣờng đại học Dƣợc Khoa Paris số 4 Avenue de l‟Obseratoire rất gần, có thể đi bằng bus số 38 hay métro từ Porte d‟Orléans rồi xuống Port Royal. Trƣờng Dƣợc trông sang phía nam vƣờn Luxembourg, buổi trƣa chúng tôi rủ nhau đi qua vƣờn sang khu Latin ăn uống rồi trở lại làm việc. Lịch về phòng thí nghiệm độc chất học ở tầng trệt, tôi lên phòng thí nghiệm sinh hóa lầu bốn. Ít lâu sau tôi đã quen đƣợc với công việc nơi đây, nhƣng đồng thời phải đi tập sự tại nhiều nhà thƣơng ở Paris để biết thêm những cách phân tích định bệnh. Giáo sƣ Malangeau có khuyên tôi là nên để tâm học hỏi về văn hóa và phong tục tập quán tại Pháp, chứ việc làm luận án thì dần dần rồi sẽ xong. Và đúng thật, phải ở lâu mới thấy đƣợc những vẻ đẹp và nét hay của thủ đô này, cũng nhƣ sự văn minh lịch sự của dân Paris.
Hai ba tháng sau có các bác sĩ trong đợt đầu đi tu nghiệp về ngành giảng huấn đại học, trƣớc hết là Mai Văn Đồng và Nguyễn Thế Minh, rồi đến Phan Ngọc Anh và Nguyễn Văn Ba. Dần dà, ai cũng đƣợc vào ở nhà Đông Dƣơng. Năm sau nữa tới lƣợt dƣợc sĩ Nguyễn Mạnh Hùng và bác sĩ Phạm Văn Biểu sang Pháp. Chúng tôi quen biết nhau từ bên nhà, nên thƣờng đi ăn uống cùng. Lúc tôi mới sang có một chủ tịch sinh viên nhà Đông Dƣơng ngƣời nhỏ nhắn nhã nhặn. Từ nay nhóm chúng tôi trở thành đông và bắt đầu tham gia các sinh hoạt tại đây. Sáu hay tám anh em đã vận động để Mai Văn Đồng trở thành chủ tịch sinh viên nhà Đông Dƣơng. Năm sau Nguyễn Văn Ba lên làm chủ tịch. Cũng vì làm nhiệm vụ chủ tịch, các anh ấy đƣợc phép cƣ ngụ thêm một năm tại đây, thay vì bình thƣờng sinh viên chỉ ƣợc phép ở có ba năm. Phan Ngọc Anh là một bác sĩ xuất sắc, có gì học nấy, anh học và đậu đủ các thứ bằng hậu đại học. Anh nói với tôi anh còn có cả bằng y học không gian. Ít lâu sau anh mang đƣợc vợ con sang nên tôi đoán chắc anh không tính trở về Việt Nam nữa. Nguyễn Văn Ba giỏi về nhãn khoa, có ai cần anh cũng đem vào nhà thƣơng chữa trị ngay. Nguyễn Thế Minh ƣa làm thí nghiệm, và anh nhờ tôi pha chế nhiều thứ thuốc thử. Nguyễn Phú Lịch hiền hậu, hiểu biết rất rộng và học hành rất nhiều. Anh đúng là một ngƣời mẫu mực. Nguyễn Mạnh Hùng thì lúc nào cũng ƣa lý luận, thật ồn ào vui tính.
Lúc đầu chúng tôi ai cũng muốn xong việc tu nghiệp hay luận án thì về nƣớc. Có thể sau hai ba năm, sau bốn năm năm. Minh, Hùng và Biểu đều muốn về sớm. Rồi có lúc hai giáo sƣ Trần Anh và Nguyễn Ngọc Huy sang tu nghiệp trƣớc khi thi Thạc sĩ cũng ở trong Cité Universitaire. Còn khi các giáo sƣ Đặng Vũ Biền, Nguyễn Thị Lâu, Nguyễn Đức Trang sang làm luận án thì cƣ ngụ ở Institut Franco-Vietnamien. Tôi cũng gập những bạn không ở khu học xá nhƣ Nguyễn Đình Ngọc, Trần Ngọc Toàn về Toán, Tăng Hồng về Kinh Tế, Nguyễn Văn Thành về Canh Nông. Có dịp ăn Giáng sinh tại nhà anh chị Ngọc, khi đó mới có cháu bé xinh đẹp nhƣ búp bê. Và đƣợc tập dƣợt bóng bàn tại nhà Đông Dƣơng cùng cao thủ Toàn, một kỳ tài về toán học. Tuy nhiên, kể từ khi sang Pháp, chúng tôi không có tin tức gì về các bạn Nguyễn Kim Thƣờng, Hoàng Ngọc Minh, rồi Bùi Duy Tâm, Vũ Quí Đài, Đào Hữu Anh, Nguyễn Khắc Minh đi về ngành giảng huấn theo học bổng Hoa Kỳ.
Nhà Đông Dƣơng có nhiều sinh viên giỏi đang học tại các trƣờng Cao Đẳng hay Đại Học của Pháp. Tôn Thất Ngọ, Nguyễn Chí Thành, Trần Tiến, Nguyễn Văn Tƣờng về Viễn Thông, Nguyễn Kim Cƣơng, Vũ Quang Kính về Hóa Học, Nguyễn Phúc Châu, Nguyễn Văn Cƣờng, Nguyễn Văn Thịnh về Cơ Khí, Nguyễn Trọng Kha về Kiến Trúc, Phạm Xuân Yêm về Vật Lý, Vũ Xuân Chi, Bạch Lý Từ về Toán, Nguyễn Văn Nhã về Thƣơng Mại, Đỗ Mạnh Hùng về Ngân Hàng, Ánh về Canh Nông. Thành thì tôi đã gập cùng với gia đình trong thời ly loạn tại làng Khuốc bên sông Luộc vào dịp tết năm 1950 trƣớc khi về Hà Nội. Kha thì sau trở về làm giáo sƣ đại học Kiến Trúc Sài Gòn, tính nhận làm Thứ Trƣởng cho Tỗng Trƣởng Giáo Dục Nguyễn Duy Xuân vào những ngày cuối cùng của đệ nhị Cộng Hòa.
Tôi muốn dành đôi dòng riêng về một ngƣời bạn thân anh Phạm Văn Biểu. Khi mới lên đại học, tôi thoáng thấy anh vào lớp Toán Đại Cƣơng, nhƣng rồi lại sang Lý Hóa Sinh để theo Y Khoa. Đƣợc nghe danh anh giỏi toán, tú tài hạng Bình của Albert Sarraut. Tôi sau sau đổi sang học Dƣợc, thành thử tuy cùng trƣờng nhƣng không cùng ngành. Học Y anh vẫn rất xuất sắc, ngoại trú nội trú rồi đậu ngành giảng huấn. Tại nhà Đông Dƣơng, chúng tôi có dịp thân nhau hơn, cũng hay bàn luận về nhân tình thế thái, về cuộc chiến Việt Nam, về thời đại phức tạp. Biểu bản chất tốt và rộng rãi với bè bạn lý tƣởng với công việc. Anh còn có tài tổ chức.
Nhƣng cũng dễ phản ứng với những sự tầm thƣờng hoặc trái tai gai mắt. Anh là một bác sĩ giỏi, thấy đƣợc sự giới hạn của kỹ thuật và kiến thức trong việc chữa trị bệnh nhân, nên mất dần hứng thú trong nghề Y. Cũng nhƣ tôi, thƣờng bất bình khi gập ngƣời và việc không ƣng ý trong ngành khảo cứu thuốc men. Môn Toán là tháp ngà trong khoa học sẽ gần với anh và tôi hơn, dễ biện minh, đỡ phải giải thích nhiều. Kể từ khi có anh sang Pháp du học, nhóm chúng tôi trở nên vui nhộn hơn. Nhiều lúc cùng chơi mạt chƣợc cho thì giờ qua vui, với những con bạc đều ít máu ăn thua. Có Nguyễn Đức Hạnh, Nguyễn Bá Mƣời, Nguyễn Phú Lịch, Nguyễn Thế Minh, Nguyễn Mạnh Hùng, Vũ Ngọc Can. Lịch đánh cao, Mƣời vui tính, Hùng loại chuyên nghiệp. Cũng có khi tổ chức ăn uống ngay tại phòng để mời bạn bè tụ họp, làm cỗ, sào miến, thổi xôi, đúc thạch. Hoặc nấu phở ăn thay cơm tại bếp của nhà Đông Dƣơng. Hay đi coi tuồng kịch hát múa với bạn bè, thỉnh thoảng cùng cô Mai con bác sĩ Vũ Ngọc Hùynh, và cô Thu cô Liên em của Y sĩ Thiếu Tƣớng Vũ Ngọc Hoàn cục Quân Y.
Những ngày hội thƣờng niên Fête des Nations mà sinh viên mỗi nhà trƣng bầy văn hóa của nƣớc mình trong khuôn viên thành phố đại học Paris. Những dịp nghỉ cuối tuần tại Palais de Chaillot.
Còn có khi rủ nhau đi ăn cơm Việt Nam ở quán ăn cụ Hồ hay cụ Diệm ở phố Monge. Cũng nhàn đàm với lý thuyết gia cộng sản là bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, chỉ một lần để rồi thôi. Vì tôi nhận thấy ngay cách trồng ngƣời nhƣ trồng cây của ông có tính máy móc hơn là nhân bản. Nhóm chúng tôi phải cám ơn Biểu, vì có anh mà tuổi thanh xuân nơi đất khách đƣợc tô thêm nhiều nét đẹp riêng. Cũng nhƣ Lịch, vì tình yêu và gia đình bên vợ, anh ở lại Paris lập gia đình. Nếu có về nƣớc, anh đã là một giáo sƣ tài ba và danh tiếng. Tại Pháp, sinh viên sinh hoạt công khai theo hai phe, phe quốc gia và phe cộng sản hoặc thân cộng sản. Mỗi năm, thƣờng có hội tết do hai bên tổ chức tại cùng một rạp Maubert Mutualité nhƣng khác ngày. Nhiều ngƣời Việt Nam vui vẻ đi dự cả hai buổi, có lẽ để gập đồng hƣơng và để quên nỗi sầu xa xứ. Nhƣng tết tại nhà Đông Dƣơng thì do sinh viên phe quốc gia tổ chức. Có một năm chủ tịch Mai Văn Đồng lên đọc diễn văn chúc mừng quan khách. Nguyễn Thế Minh với chiếc guitare đơn ca rất hay bản Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn. Vũ Quang Kính cùng bè bạn trình bầy đồng ca và biểu diễn hòa đàn mandoline. Nhƣng hay nhất phải kể cô ca sĩ trẻ và duyên dáng Thiên Hƣơng. Cô hát bài Chiều Mƣa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông, với tiếng đệm của một ban nhạc ngƣời Pháp. Tiếp theo là dạ vũ đầu xuân từ buổi tối tới rạng đông, máy móc âm nhạc do tôi cho mƣợn. Cũng có khi Tòa Đại Sứ tổ chức tiếp tân nhân dịp tết nhất.
Lúc đó, bác sĩ Phạm Khắc Hy làm đại sứ, ông Chƣơng Văn Định làm đệ nhất Tham vụ, và anh bạn Nguyễn Bá Mƣời làm tùy viên quân sự. Phe quốc gia ta đã thật vui nhƣ tết. Nói đến phe phái, tôi lại nghĩ đến chuyện Cam bốt tuy có nhà riêng tại khu đại học mà vì xung đột nội bộ đã phải đóng cửa liền 30 năm trời, từ 1973 đến 2003. Thật là kinh hoàng! Cũng may mà ta chƣa có đƣợc nhà Việt Nam ở Cité Universitaire? Nói đến ở Pháp, không ai có thể quên chuyện du lịch đƣợc. Thời bấy giờ, có nhiều sinh viên đi du lịch theo nhóm của cha Giảng, tổ chức rẻ và chu đáo. Trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh thứ nhì, Nguyễn Phú Lịch và tôi đi chơi cùng anh Sơn, các chị Hƣơng Thƣ, Xuân Hƣơng, Ngọc Trâm và các bạn sinh viên Pháp theo tổ chức Office Touristique Universitaire OTU. Trƣợt tuyết vùng Haute Savoie, hay đi quanh hồ Lehman ngắm bạch nga và thăm các thành phố sạch sẽ không một hạt bụi của Thụy Sĩ. Chúng tôi còn có dịp đi chơi vùng Đức và Áo cả tháng hè. Xem các viện bảo tàng, các kinh thành đẹp, các lâu đài đầy cổ tích. Cũng có hè Vũ Quang Kính, Phan Quốc Lũy, Nguyễn Kim Cƣơng và tôi đi cắm trại vùng Bắc Âu, qua rất nhiều nƣớc trên chiếc xe Simca. Đoạn đƣờng dài, có tối ngủ lại các quán Auberge de Jeunesse. Và đi xe qua thăm cả khu vực cộng sản Đông Bá Linh, nơi ăn uống rẻ rúng nhƣng phải có dân sở tại giới thiệu. Để rồi khi về từ Bá Linh qua xa lộ Đông Đức bị công an khám xét hạch hỏi thật là dễ sợ.
Cả tiếng đồng hồ trong một khu nhà xe đóng kín, đèn đóm bật sáng chƣng. Có lần cùng Phạm Văn Biểu, Nguyễn Thế Minh trên đƣờng tới Chamonix Mont Blanc, chiều xuống tuyết đổ xe Dauphine muốn lăn xuống vực thẳm, may nhờ gốc cây bên lề chặn lại đƣợc. Chúng tôi phải để xe ở thành phố Mâcon, ăn tối xong mới lấy vé xe hỏa đi lên Chamonix. Cũng có dịp đi Tây Ban Nha xem đấu bò rừng ở Barcelone, lặn ngầm dƣới biển coi cá tại Costa Brava với Tăng Hồng và Vũ Văn Huấn. Hay đi Dauville với Nguyễn Trọng Kha để nghe Dalida hát trong sòng bài. Hoặc lái xe đi thăm các Châteaux de la Loire cùng Vũ Văn Huấn. Hay sang Luân Đôn cùng Charles Meyer thuê boarding house gần Picadilly Circus nghỉ ngơi mấy tuần lễ trƣớc khi trở về nƣớc.
Rồi ngày ra về Việt Nam đã đến, một buổi sáng hè năm 1962. Sau buổi tiệc tiễn tại khách sạn, và đi xem trình diễn ở hí viện Lido tình cờ gập ông Đặng là Maître d‟ Hôtel tiếp đón thật niềm nở. Tôi phải từ giã Paris, kinh thành ánh sáng tuyệt đẹp của nhân loại này. Với bao nỗi vui buồn lẫn lộn. Và hi vọng có một ngày trở lại. Tôi còn giữ đƣợc vài tấm ảnh kỷ niệm chụp tại phi trƣờng Orly cùng mấy bạn thân đi tiễn. Có Nguyễn Phú Lịch, Phạm Văn Biểu, Bạch Lý Từ, Vũ Quang Kính, Nguyễn Kim Cƣơng, Phan Quốc Lũy, Vũ Xuân Chi, Vũ Văn Huấn, Phạm Ngũ Tùng, Mai Văn Đồng, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Phúc Châu, Nguyễn Văn Cƣờng.
Lại nghĩ đến nhà văn Alphonse Daudet viết về nỗi nhớ trại của chú lính kèn trong Nostalgie de caserne của Les Lettres de mon Moulin, rồi tƣởng tƣợng ra tất cả Paris đang diễn hành qua những rặng thông... Ah! Paris…Paris. Toujours Paris. Nhƣng riêng với tôi, trên đƣờng trở lại đất nƣớc thân yêu, từ nay Paris đã nhƣờng chỗ cho Sài Gòn.
Tết Giáp Thân, 2004
CHƢƠNG TÁM
Trƣờng Dƣợc Saigon và tôi
Từ sau cuối tháng tƣ 1975, giới Dƣợc sĩ tị nạn thƣờng có dịp ôn lại đôi ba câu chuyện về trƣờng Dƣợc xƣa. Nhiều bài rất hay và trung thực đã đƣợc đăng trong những số báo của các Hội Dƣợc sĩ. Câu chuyện thƣờng đƣợc kể theo nhãn quan, sự hiểu biết và kinh nghiệm của ngƣời viết, nhằm ghi lại kỷ niệm hay dữ kiện của một thời đã qua. Tôi không có khả năng hoặc ý định phê bình hay chỉ trích, về chính sách giáo dục hay nhân vật. Nhƣng nếu cho rằng lúc đó chƣơng trình học không thực tế, quá chú trọng vào khoa học căn bản hơn về dƣợc khoa thực hành, thì vì vậy dƣợc lực học đã đƣợc giảng dậy ngày càng nhiều hơn trong các sửa đổi kế tiếp. Hay lối học còn nặng về từ chƣơng khoa cử, nhƣng trƣờng có thiết lập đƣợc các chứng chỉ cao học thực dụng với bằng Tiến sĩ đệ tam cấp, và thi cử bớt nặng nề dần vì đã có nhiều hội đồng giám khảo khác nhau cho cùng một kỳ thi. Hoặc giả nói chƣơng trình Pháp ít hay nhiều hợp với xã hội ta hơn chƣơng trình Mỹ, hay bằng cấp Mỹ có giá trị hơn hay kém bằng cấp Pháp, thì sự so sánh đúng ra chỉ là tƣơng đối thôi. Và ai cũng thấy hay dở còn tùy thuộc nhiều phần vào nơi cấp phát và con ngƣời. Tôi cũng không có tham vọng viết về những quan điểm thời thƣợng và nhận xét thực tế cho tƣơng lai ngành Dƣợc nƣớc nhà, vì vấn đề này tùy thuộc thời thế và cảnh ngộ. Nhất là ở thời điểm này, nhân tài Việt rải rác khắp nơi nhiều nhƣ lá mùa xuân. Nếu có nêu lên đƣợc một vài điểm căn bản từ những dữ kiện cũ, hoặc cố ghi lại đôi điều suy nghĩ chƣa quên trong mƣời ba năm tôi liên tục phục vụ tại trƣờng Dƣợc, thì tính cách cần thiết đã mất đi vì năm tháng. Vậy tôi kể những dòng sau đây làm chi? Để đóng góp đôi chút kỷ niệm riêng tƣ cùng bè bạn xa gần cho vui? Dù sao thì vào lúc bình tâm cũng nhƣ khi đắc ý, chúng ta chắc không ai phủ nhận có nhiều dƣợc sĩ tốt nghiệp đã tạo thành quả khích lệ cho giới chúng ta và không hiếm giáo sƣ trẻ đã đem lại iềm hi vọng lớn lao cho thời buổi ấy.
Một chút riêng tƣ
Cuối năm 1958, tôi đƣợc sang Paris du học với học bổng của Viện Trợ Kỹ Thuật Pháp. Tôi rời Sài Gòn vào buổi tối. Có các bạn Võ Huỳnh, Võ Đạm, Bùi Đình Nam, Trịnh Đình Thiện, Nguyễn Văn Thiệu... đi tiễn từ Đại Học Xá Chợ Lớn. Tại phi trƣờng Tân Sơn Nhất, tôi gập anh Nguyễn Phú Lịch và gia đình. Cụ kỹ sƣ Thọ, thân sinh anh Lịch, dặn dò chúng tôi nếu ra đi có nhau thì hãy sớm trở về cùng nhau. Tôi chào từ biệt cô chú Khoa, chú thím Can, các em Nghiên, Hằng, và bè bạn thân quen... rồi cùng bạn Lịch lên chiếc phi cơ lóng lánh ánh bạc Super Constellation để sang Pháp du học. Chuyến bay của hãng Air France đi mất 33 giờ mới tới Paris, sau khi ghé qua Bangkok, Karachi, Téhéran, Ankara và Rome. Con đƣờng trải dài trƣớc mặt, đến đâu hay đó, suy tính mà làm chi? Mà thƣờng cũng phải bốn năm ăn học tại thành phố Ánh Sáng mới xong đƣợc luận án Tiến sĩ.
Khi giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm sang Paris thi Thạc sĩ về Sinh Hóa vào cuối năm 1961, thì thầy đỡ đầu của tôi là giáo sƣ Jean Emile Courtois, làm chánh chủ khảo. Thời đó, theo tôi hiểu thì sau khi qua khảo hạch về tƣớc vị và công trình nghiên cứu, thí sinh phải giảng hai bài học. Một bài học về đề tài căn bản sau khi sửa soạn 4 tiếng đồng hồ. Và một bài học về đề tài thời thƣợng khi sửa soạn 24 tiếng đồng hồ có ngƣời giúp đỡ. Giáo sƣ Chôm nhờ tôi ở lại phòng thí nghiệm đêm hôm đó để kiếm tài liệu giùm ông, nhƣng rồi cũng không cần thiết. Nhân dịp này ông cho biết trƣờng Dƣợc đã tách ra khỏi trƣờng Y Dƣợc để thành một phân khoa độc lập, và rất mong tôi sớm trở về. Tôi thật ra cũng đã có quyết định sẽ về nƣớc vào năm tới.
Sau khi trình luận án Tiến sĩ về Sinh Hóa ngày 18 tháng 5 năm 1962, tôi sang Luân Đôn nghỉ xả hơi cùng với một anh bạn Mỹ khá thân, Charles Meyer, Ph. D. Biết tôi sắp về Sài Gòn, anh tặng
tôi một quyển tự điển danh-từ hóa-học Pháp Mỹ làm kỷ niệm. Tôi rời Paris từ phi trƣờng Orly vào một buổi sáng tháng 7 năm 1962. Trời trong xanh ngắt, có mây trắng trôi lờ lững và nắng ấm tuyệt đẹp. Nhiều bạn bè đƣa tiễn, có Nguyễn Phú Lịch, Phạm Văn Biểu, Mai Văn Đồng, Vũ Quang Kính, Vũ Xuân Chi, Phạm Ngũ Tùng, Bạch Lý Từ.... Phi cơ phản lực Boeing 707 của hãng Air France bay gần 20 tiếng đồng hồ rồi đáp xuống phi đạo Sài Gòn lúc giữa trƣa. Trời oi bức, ẩm thấp, không có lấy một làn gió nhẹ. Thủ tục quan thuế lại chậm chạp rƣờm rà. May mà đƣợc các bạn thân Nam, Thiện, Thiệu...ra phi cảng chờ đón. Sự vui mừng gặp gỡ làm tôi tạm quên cái nóng và nắng ngày hè, để trò chuyện đủ thứ. Tôi trở về nƣớc để lập gia đình, và cũng vì muốn đóng góp ít nhiều vào ngành Giáo Dục Đại Học còn phôi thai của Việt Nam.
Tôi nhận làm Giảng Sƣ môn Hóa Vô Cơ cho năm thứ nhất trƣờng Đại Học Dƣợc Khoa. Đa số sinh viên học thành tài hay chuyên viên sau khi tu nghiệp nhƣ tôi, ai mà không muốn về phục vụ cho quê hƣơng! Nhƣng nhiều khi lần lữa mãi chẳng quyết định đƣợc. Nhƣ trƣờng hợp anh bạn Nguyễn Bình Thành, con ông Chánh Án Lâm, ở trƣớc cửa buồng tôi trong nhà Đông Dƣơng của Thành Phố Đại Học Paris. Anh tốt nghiệp Cao Đẳng Viễn Thông và đã bán hết đồ đạc để về nƣớc. Thế mà mấy tháng sau anh mua lại, để cuối cùng không rời khỏi nƣớc Pháp. Trƣờng hợp anh kỹ sƣ Cƣờng thì đi về đến nửa đƣờng lại lấy máy bay bay trở lại, có lẽ vì cô vợ đầm chỉ muốn sống bên mẫu quốc? Riêng anh Nguyễn Phú Lịch, ngƣời bạn đồng hành thân thiết của tôi, ở lại lập nghiệp bên trời Tây, có thể nhiều phần tại gia đình.
Nhƣng chính vì vậy mà giáo sƣ Lịch đã giúp đƣợc bao nhiêu dƣợc sĩ Việt Nam tị nạn trở lại nghề cũ.
Trƣờng Dƣợc thời đệ nhất cộng hòa
Trƣờng Y Dƣợc trƣớc kia ở số 28 Trần Quý Cáp. Nay phân khoa Dƣợc tách riêng và dọn về trƣờng sở mới tại số 169 Công Lý, góc đƣờng Hiền Vƣơng. Tuy là một biệt thự cũ sửa lại, nhƣng khang trang, rộng rãi, tƣơng đối đủ tiện nghi. Có một số phòng thí nghiệm và mấy phòng học. Có giảng đƣờng lớn chứa cả 500 sinh viên. Nhân viên giảng huấn tuy còn thiếu, nhƣng đƣợc nhiều phụ tá lâu năm thật tận tâm. Nhƣ bà Thoa phòng Ký Sinh Trùng, ông Thiện phòng Vật Lý. Văn phòng có tạm đủ nhân viên, Tổng Thƣ Ký là giáo sƣ Phạm Đình Ái. Thƣ Ký là ông Vũ Ngọc Oánh. Từ trƣớc, chƣơng trình theo nhƣ của Pháp gồm 5 năm học. Lúc tôi về dậy thì chƣơng trình đã đƣợc đổi mới lần thứ nhất, dựa vào lý do là năm tập sự cũ, nay gọi là năm thứ nhất, có quá ít môn học, nhất là phần lý thuyết. Chuyển ngữ vẫn là tiếng Pháp. Hai môn Hóa Hữu Cơ và Hóa Vô Cơ nay đem xuống năm thứ nhất và năm thứ hai trong chƣơng trình mới. Tuy nhiên, nhiều môn học vẫn đƣợc giảng dậy trong hai năm liên tiếp nhƣ thƣờng lệ, thành thử còn phải có chƣơng trình chuyển tiếp cho các sinh viên đang theo học chƣơng trình cũ. Giáo sƣ Nguyễn Mạnh Hùng dậy Hóa Hữu Cơ. Ông yêu nghề, giỏi và rất tận tâm. Ông đến sớm, viết dàn bài trên bảng, và giảng đủ loại cơ chế phản ứng. Tôi dậy Hóa Vô Cơ, phần đầu có Hóa Đại Cƣơng, phần cuối có các Tinh Thể Chất Khoáng. Nhƣng gập nhiều khó khăn. Thứ nhất là sĩ số năm thứ nhất quá đông, cả ngàn sinh viên, nên phải chia lớp làm hai nhóm. Nhƣ vậy, mỗi bài học tôi phải nhắc lại hai lần. Thứ hai là giảng bằng tiếng Pháp thì các sinh viên theo chƣơng trình Việt khó ghi chép đƣợc, mà giảng bằng tiếng Việt thì các sinh viên theo chƣơng trình Pháp không hiểu.
Tôi đành phải soạn bài học bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt, rồi cho đánh máy trƣớc. Sinh viên khỏi cần ghi chép, khỏi lo chữ tác đánh chữ tộ, đến lớp chỉ để nghe lời giảng bằng tiếng Pháp
thôi. Nhƣng tôi đâu có thể nói thao thao bất tuyệt cả giờ đƣợc nên mang tiếng là hay đến trễ, về sớm. Trong môn Hóa Vô Cơ, rất nhiều điều học chỉ để biết, lúc cần thì tra cứu chứ không phải thuộc lòng. Riêng năm thứ hai chƣơng trình cũ vì có quá nhiều môn, nên trong kỳ thi giữa năm, tôi đã cho đề tài thi giới hạn. Lại thêm một việc làm để bị chê trách, nhƣng nếu giáo sƣ "tây" cho đƣợc thì "ta" cũng cho đƣợc chứ sao? Đến lúc chấm thi năm thứ nhất thì quả là cực hình, hơn một ngàn bài ít nhất cũng mất cả tháng trời. Trong thời gian này, tôi còn phải dậy Toán, về Xác Suất và Thống Kê cho năm thứ hai Dƣợc Khoa, và phụ trách Hóa Học cho năm thứ nhất trƣờng Nông Lâm Súc. Có nhiều khi cũng phải chấm kỳ thi tuyển vô Quân Dƣợc. Mấy năm sau sĩ số trƣờng Dƣợc mới tạm xuống mức giảng dậy đƣợc, vì lâu dần, nhiều sinh viên bị loại hay thấy không hợp với ngành này nên tự động chuyển sang ngành khác. Từ niên khóa 1965-1966, khi trƣờng áp dụng thi tuyển chỉ lấy 400 sinh viên mỗi năm, và tới niên khóa 1972-1973 lấy xuống còn 200 một năm, thì số sinh viên mới tiến dần tới mức ổn định. Nghĩa là mỗi lớp có khoảng 200 tới 300 sinh viên. Các sinh viên trƣờng Dƣợc ngoài chuyện học, còn có ngƣời có tài về nhiều bộ môn thi ca nhạc kịch. Có báo Đất Sống vào năm 1963 với các anh Vũ Văn Tùng, Nguyễn Ngọc Bình, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Thu Giao, Bùi Khiết, Lê Phục Thủy, Châu Thanh Thủy, Lƣu Văn Vịnh, Lê Thanh Nam, Nguyễn Đức Vinh...
Chị Hà Dƣơng Thị Quyên có nhờ tôi viết một bài "Đi tìm những chất kháng sinh" cho số ra mắt. Tôi đã mô tả những nguyên lý về sự tìm tòi và khảo sát các chất này. Đa số các bạn viết cho Đất Sống sau đã thành danh. Tôi cũng đƣợc nghe tiếng hát truyền cảm của Quốc Thắng với bài "Tôi đi giữa hoàng hôn", và gập Mã Gia Minh đàn hay thơ giỏi, phu quân của ca sĩ nổi danh Hoàng Oanh. Sinh viên thƣờng tổ chức các Đại hội mừng Xuân, những Lễ Tốt Nghiệp, các buổi ra mắt Ban Đại Diện thật vui vẻ thoải mái. Tôi còn nhớ một bài viết thật hay và cảm động của chị Ngô Tiên Dung đọc trong ngày ra trƣờng khóa 1961-1966. Và biết bao nhân tài của trƣờng Dƣợc kể sao cho hết.
Đầu năm 1963, giáo sƣ Lê Văn Thới của trƣờng Khoa Học lên làm Viện Trƣởng thay giáo sƣ Nguyễn Quang Trình, nay chỉ còn giữ một chức vụ Bộ Trƣởng Giáo Dục. Ông Thới cổ võ việc hiện đại hóa nền đại học, và khuyến khích các giáo sƣ đặt trọng tâm vào khảo cứu. Và ngƣời ta bắt đầu để tâm đến tác phong nhà giáo. Khoa trƣởng Trƣơng Văn Chôm lúc đó kiêm Chủ tịch Tổng Hội Giáo Giới, cũng bận tâm muốn lành mạnh hóa ngành giảng huấn. Tôi có dịp gập ông đi dạo chơi cùng bà vợ và con cái trên đƣờng Nguyễn Huệ. Ông yêu cầu tôi nhận dậy thêm Thực Tập Vật Lý cho lớp Dƣợc Khoa năm cuối, thay thế giáo sƣ Hùng, tại Bệnh Viện Đô Thành, gần Bùng Binh. Lại một trách nhiệm mới mà tôi phải tạm giữ cho đến khi giáo sƣ Đặng Vũ Biền về nƣớc.
Thời gian này, chính trƣờng miền Nam sôi động với phong trào đấu tranh của Phật giáo. Nhƣ các công chức khác của Đệ nhất Cộng Hòa, giáo chức đại học cũng đƣợc đi hay phải đi học tập lớp Ấp Chiến Lƣợc. Chiến dịch lập Ấp này qui mô hơn việc tạo lập các Khu Trù Mật trƣớc kia. Chúng tôi ăn ở trong trại tại Suối Lồ Ồ gần Biên Hòa khoảng một hai tuần lễ. Trại đƣợc thiết lập trên một mảnh đất rộng, gồm nhiều dẫy lều với giƣờng vải, và đủ các hàng quán ăn uống. Tôi nằm gần giáo sƣ Chôm, cùng với các Đổng lý, Chánh Văn Phòng bộ Giáo Dục... Lúc học về quốc sách Ấp Chiến Lƣợc, tôi thƣờng ngồi cùng các giáo sƣ Nguyễn Thế Minh, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê thành Trị,... Nhiều nhân viên cao cấp của chính phủ đã đến lớp giảng dậy, và dùng những danh từ thật độc đáo. Bộ trƣởng Nguyễn Quang Trình nói về chiến lƣợc hóa ngành giáo
dục. Đề tài khó mà hiểu đƣợc đến nơi. Trung tƣớng Trần Ngọc Tám nói về du kích chiến. Ông rất am tƣờng đề tài nên bài giảng của ông rất hay.
Chỉ tiếc rằng lúc này ông đang mắc vào vụ Cẩm Nhung bị tạt acid nên cử chỉ của ông không đƣợc tự nhiên cho lắm. Bộ trƣởng Công Dân Vụ Trƣơng Công Cừu nói về tự túc tự cƣờng. Là một nhà văn tài ba lỗi lạc, ông đƣa ra những khẩu hiệu nhƣ "Tam túc, tam giác, tam nhân". Đại khái ngƣời ta chỉ cần ba điều cho có đủ, ba điều đã hiểu biết đến nơi, là thành ngƣời công dân ích lợi cho xã hội bấy giờ. Ông mô tả thật hay những đứa trẻ lem luốc nhƣng vui chơi hồn nhiên nơi bùn lầy nƣớc đọng, mong hình ảnh này làm ngƣời nghe tin tƣởng ở sức sống và tƣơng lai dân tộc Việt. Nhiều buổi học còn có sự hiện diện của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Ông Nhu thỉnh thoảng tới góp ý kiến hay cho chỉ thị. Có lúc ông nói rất nhiều, nhƣng thật chúng tôi chẳng lĩnh hội đƣợc bao nhiêu. Một lần ông nói sấm sét trên trời chứa biết bao nhiêu là điện lực, nếu ta biết cách thu giữ lại thì dùng sao cho hết?
Ai nấy chú tâm ghi chép, nhƣng có lẽ chỉ làm ra vẻ ghi chép thôi. Giáo sƣ Minh, Hùng và tôi thƣờng kháo nhau không hiểu mấy vị cao cấp ngồi dẫy đầu ghi lại đƣợc những chữ gì trên mặt giấy? Khi trực thăng đƣa ông Cố Vấn ra về còn lùa bụi lên mù mịt, những vị này thƣờng đứng đợi cho đến lúc ông khuất bóng mới trở lại giảng đƣờng. Dẫu sao chúng tôi hiểu lờ mờ rằng không có viện trợ Mỹ thì nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn có thể tự túc để tồn tại đƣợc. Giáo sƣ Hùng là ngƣời có ý thức chính trị sắc bén nhất trong nhóm chúng tôi, nói là tình hình nghiêm trọng lắm rồi. Một hai tuần trƣớc có việc cấm treo cờ Phật giáo nhân ngày Phật Đản tại Huế, rồi các phong trào tranh đấu chống chính phủ gia tăng nhanh chóng. Một hôm đang học tập thì các giáo sƣ đại học đƣợc yêu cầu ra thông cáo ủng hộ đƣờng lối chính phủ trong vụ Phật giáo. Lại họp hành, thảo luận, rồi đi tới việc bỏ phiếu kín nên hay không nên ra thông cáo này.
Giáo sƣ Nguyễn Đăng Thục, nguyên Khoa Trƣởng Văn Khoa có đề nghị rằng phiếu sẽ đƣợc đốt ngay sau khi kiểm để tránh việc truy tầm ai bỏ thuận ai bỏ chống. Lúc này không ai bàn với ai cả, và tự tìm hiểu lấy. Mấy vị kiểm phiếu viên đƣợc bầu ra, và cuối cùng phe chống ra thông cáo ủng hộ chính phủ may mắn hơn đƣợc có một phiếu. Lớp học đƣợc bế mạc sau đó, và chiều ngày 5 tháng 6 tôi ra về thì nhà tôi sinh cháu trai đầu lòng tại Bệnh Viện St Paul. Từ đó, việc giảng dậy thêm một phần khó khăn. Rồi tới vụ tự thiêu của Hòa Thƣợng Thích Quảng Đức, các vụ tăng ni phật tử xuống đƣờng. Gần đến ngày cách mạng, sinh viên các trƣờng bãi khóa không vào lớp học. Năm thứ ba Dƣợc có chị Bùi thị Hậu Phúc tức bà dƣợc sĩ Bùi Hồng đứng lên yêu cầu nghỉ học, trong giờ học của giáo sƣ Vũ Ngọc Trân. Mấy hôm sau có tin chị ấy bị bắt. Tôi tới trƣờng sợ vào lớp dậy chắc cũng bị ném đá, nên ra ngồi dƣới gốc cây. Có sinh viên yêu cầu tôi từ chức và cho tôi biết là các giáo sƣ Phạm Biểu Tâm, Vũ Văn Mẫu đã từ chức cả rồi. Riêng Ngoại trƣởng Mẫu còn cạo trọc đầu phản đối.
Cách Mạng 1/11/1963 khởi đầu lúc 1 giờ trƣa và tôi không nhớ rõ đang ở đâu và làm gì. Chỉ biết có theo dõi tin tức qua đài phát thanh. Vào ngày hôm sau, lúc gần trƣa, đài loan tin cách mạng thành công. Ngƣời dân tràn ra đƣờng phố đông nghẹt, vì hiếu kỳ cũng có và vì thấy mọi chuyện yên ổn rồi cũng có. Chúng tôi đang lái xe về hƣớng chợ Bến Thành để thăm thú tình hình thì đƣợc tin đài phát thanh cho biết Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã chết ngay trên xe đƣa các ông về Tổng Tham Mƣu. Nền Đệ nhất Cộng hòa với bao hi vọng ban đầu nay đã chấm dứt quá bi thảm.
*
Trƣờng Dƣợc thời hậu cách mạng 1/11/1963
Ngay ngày sau tới trƣờng, tôi thấy cả một bầu không khí tƣng bừng mừng cách mạng thành công. Tại văn phòng, ngƣời ta nói Khoa Trƣởng Chôm cùng một vài vị liên hệ với Cần Lao nhƣ dân biểu Trần Tấn Thông, giáo sƣ Đào Hữu Giao đã bị bắt... Các giáo sƣ Vũ Ngọc Trân, Nguyễn Vĩnh Niên, Trần Ngọc Tiếng, Nguyễn Mạnh Hùng, Phan Thế Trân và tôi đang ở trong phòng Khoa Trƣởng thì nhân viên báo là có hai Tƣớng Dƣơng Văn Minh và Lê Văn Kim tới thăm. Tƣớng Minh nói là muốn lấy lại trƣờng sở 169 Công Lý này, và sẽ cho tu sửa thành Cộng Hòa số 41 Cƣờng Để làm trƣờng sở mới cho Dƣợc Khoa. Đây là lần đầu tiên tôi đƣợc diện kiến với Tƣớng Minh, ông nói chúng tôi muốn gì cũng đƣợc, rồi Công Binh sẽ thực hiện. Tƣớng Kim nhỏ nhắn trông học thức hơn, nhƣng ông không nói câu nào. Sau khi thăm các phòng thí nghiệm, hai ông lên chiếc xe Citroen đen ra về. Cũng có ngƣời nói trƣờng Dƣợc là nhà cũ của tƣớng Salan, tiện đƣờng ra phi trƣờng, điện thoại liên lạc rất tinh vi, nên các ông muốn lấy lại. Lúc này, Chuẩn tƣớng Công Binh Phạm Đăng Lân còn đang theo học Dƣợc, nên sự tu bổ trƣờng sở mới có phần dễ dàng hơn.... Chính phủ lâm thời với Thủ Tƣớng Nguyễn Ngọc Thơ và giáo sƣ Phạm Hoàng Hộ làm Tổng Trƣởng Giáo Dục, đã bổ nhiệm giáo sƣ Niên làm Khoa Trƣởng. Vì việc này trái với quy tắc tự trị đại học, nên hội đồng khoa phải nhóm họp gấp để chính thức bầu hai giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên và Trần Ngọc Tiếng trong chức vụ Khoa Trƣởng và Phó Khoa Trƣởng. Riêng giáo sƣ Hùng đã buộc giáo sƣ Niên hứa sẽ giữ ông lại giảng dậy mới chịu ký vào biên bản.
Câu chuyện trên bắt đầu từ lúc giáo sƣ Chôm không ở về trƣờng nữa. Khi bác sĩ Vƣơng Quang Trƣờng lên làm Tổng Trƣởng Y Tế, thì giáo sƣ Nguyễn Mạnh Hùng đƣợc yêu cầu trở lại quân đội, vì ông nguyên là Dƣợc Sĩ Trung Úy hiện dịch. Lý do chính là sinh viên không mấy ƣa thích lối giảng dậy và hỏi thi của ông. Nhƣng cũng có nhiều sinh viên ký kiến nghị giữ ông ở lại. Rút cục nhóm yêu cầu ngƣng chức ông thắng thế và quân cảnh đã dẫn độ ông về quân y. Ông phải đi phục vụ tại vùng Bến Hải, rồi sau đƣợc Tƣớng Nguyễn Chánh Thi đƣa về làm giáo sƣ của Đại Học Huế. Giáo sƣ Chu Phạm Ngọc Sơn của trƣờng Khoa Học đã thay thế ông giảng dậy môn Hóa Học Hữu Cơ cho Dƣợc Khoa.
Chính trị đã đƣa giáo sƣ Chôm lên đỉnh danh vọng, nhƣng rồi chính trị lại mang ông xuống đất đen. Nghĩ mà buồn cho cuộc thế. Ông sinh năm 1923 tại Phan Thiết, nguyên là Tổng Thƣ Ký Hiệp Hội Sản Xuất Nƣớc Mắm Bình Thuận. Làm luận án Khảo Cứu về Nƣớc Mắm với giáo sƣ Dumazert, ông nghiên cứu các cơ chế phản ứng và thành phần sinh hóa của nƣớc mắm bởi sự phân giải cá nục, cá mòi, cá cơm. Ông còn có mục đích khuyến khích ngành tiểu công nghệ này trở thành công kỹ nghệ. Ông đậu Tiến Sĩ Quốc Gia Dƣợc Khoa tại trƣờng Y Dƣợc Marseille vào năm 1954. Về nƣớc, giáo sƣ Chôm nhận làm Giảng Sƣ trƣờng Y Dƣợc Sài Gòn và là chủ nhân Viện Bào Chế Vanco. Ông có tƣớng ngũ đoản, rất hoạt bát, vui vẻ phúc hậu, có tài tổ chức và điều khiển. Ông rộng rãi với nhân viên và rất tốt với đồng nghiệp. Khi giáo sƣ Nguyễn Phú Lịch về thăm nhà vào năm 1963, giáo sƣ Chôm đã không ngần ngại ký giấy bảo lãnh để giáo sƣ Lịch có thể đƣợc phép trở lại Pháp trình luận án. Ngoài chức vụ Khoa Trƣởng trƣờng Dƣợc, ông còn là Chủ Tịch Tổng Giám Đốc Công Ty Vinaspecia và Chủ Tịch Tổng Hội Giáo Giới. Không có giáo sƣ Chôm, chắc còn lâu trƣờng Dƣợc mới trở thành một phân khoa độc lập.
Ông thật xứng đáng với danh vị Khoa Trƣởng đầu tiên, công của ông chắc không ai phủ nhận. Mấy năm sau ông có trở lại dậy tại trƣờng, kể cả dậy chứng chỉ đệ tam cấp Kỹ Thuật Lý Hóa cùng với giáo sƣ Biền và tôi, nhƣng có lẽ ông không còn nhiều hứng thú trong ngành giảng huấn.
Sau cách mạng, tôi trở lại giảng dậy Sinh Hóa thay giáo sƣ Chôm, và giáo sƣ Phạm Văn Tất thay tôi trong môn Hóa Vô Cơ. Tôi còn dậy thêm môn Hóa Dƣợc, cùng với giáo sƣ Hồ Đắc Ân. Nội tình miền Nam hỗn loạn với những chỉnh lý, đảo chánh, biểu dƣơng lực lƣợng, cho đến việc thành lập chính phủ quân nhân 1965. Về sau mới thấy hai giáo sƣ Niên và Tiếng khó làm việc chung vì không hợp tính nhau. Giáo sƣ Tiếng trở thành ông bầu về Thể Thao cho sinh viên. Bóng bàn, bóng rổ, quần vợt. Có lần tôi tham dự giải bóng bàn giữa các giáo sƣ Dƣợc và Khoa Học do ông tổ chức tại trƣờng. Giáo sƣ Thái Tƣờng đoạt giải đánh đơn, nhƣng các giáo sƣ Khoa Học thắng giải toàn đội. Khi những phòng thí nghiệm mới, các giảng đƣờng lớn, thƣ viện, vƣờn dƣợc thảo, phòng sinh hoạt sinh viên đƣợc xây cất ngay trong khuôn viên đại học, thì một số giáo sƣ tu nghiệp hay tốt nghiệp từ Pháp cũng lần hồi trở về. Giáo sƣ Đặng Vũ Biền dậy Vật Lý và phụ trách phòng thực tập tại lầu hai. Giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu dậy về Thực Vật và Ẩn Hoa học. Giáo sƣ Nguyễn Văn Hƣợt chia với tôi giảng dậy môn Sinh Hóa. Những năm sau có giáo sƣ Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ giảng dậy môn Dƣợc Lực Học, giáo sƣ Trƣơng Mạnh Khải giảng dậy môn Sinh Lý Học. Và giáo sƣ Nguyễn Hiệp cùng giảng dậy Dƣợc Liệu Học với giáo sƣ Nguyễn Văn Dƣơng. Từ nay, trƣờng có tuyển thêm giảng nghiệm trƣởng, giảng nghiệm viên, giảng nghiệm viên dậy giờ nên nhân viên giảng huấn cũng tạm đủ cho một số ban đã đƣợc thiết lập.
Là trƣởng ban Sinh Hóa, tôi coi thêm phần thực tập cho năm cuối. Thật may vì tôi đƣợc các giáo sƣ Quản Trọng Lạng và Phạm Huy Chƣơng, và vào năm 1967, có thêm giáo sƣ Nguyễn Lê Thi phụ tá cho tôi. Phòng thí nghiệm này gồm Sinh Hóa Học, Thủy Học, Độc Chất Học và Thực Phẩm Học. Giáo sƣ Lạng hòa nhã và có tài tổ chức, giáo sƣ Chƣơng giỏi và chăm chỉ. Giáo sƣ Lê Thi tuy mới ra trƣờng nhƣng rất xuất sắc, về sau còn phụ trách giảng dậy thêm phần lý thuyết Sinh Hóa. Riêng ông Huỳnh Văn Tƣ nghiệm chế viên cũng đắc lực từ khi phòng đƣợc thành lập cho tới khi trƣờng cho ông nghỉ việc năm 1973 vì có liên hệ với cộng sản. Vào năm 1966, hội đồng khoa bầu giáo sƣ Niên làm Khoa Trƣởng và giáo sƣ Biền làm Phó Khoa Trƣởng. Hai ông đƣợc bầu lại trong chức vụ nhiều lần cho tới đầu năm 1975. Giáo sƣ Niên hiền hậu, siêng năng, cẩn thận và ƣa việc hành chánh. Cuối năm 1974, ông đƣợc bổ nhiệm Phó Viện Trƣởng Học Vụ Viện Đại Học Sài Gòn, với giáo sƣ Viện Trƣởng Nguyễn Ngọc Huy. Giáo sƣ Biền nhiều tài ba và sáng kiến, ƣa hoạt động xã hội từ khi ông còn là sinh viên Hà Nội. Ông là Chủ Tịch Dƣợc sĩ Đoàn trong nhiều nhiệm kỳ, và năm 1968 làm Đổng Lý Văn Phòng Bộ Quốc Gia Giáo Dục thời Tổng Trƣởng Nguyễn Văn Thơ. Từ sau cách mạng, văn phòng nhà trƣờng đƣợc Tổng Thƣ Ký Huỳnh Văn Quí điều hành hoàn hảo và liên tục cho đến ngày Sài Gòn đổi chủ. Ông Vƣơng Trọng Tị coi Thƣ Viện, ông Oánh, bà Tiền,... phòng Học Vụ, ông Đát các giảng đƣờng.
Trƣớc tết Mậu Thân 1968, trƣờng có ý định thêm vào chƣơng trình dƣợc khoa các chứng chỉ đệ tam cấp đƣa đến việc làm khảo cứu và luận án Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp. Sau khi chờ đợi mãi, có lẽ dự thảo nghị định thiết lập đã bị bỏ quên tại một ngăn tủ nào đó, tôi phải đích thân lên Bộ để xin ban hành. Tôi muốn kể lại một chuyện bên lề ở thời điểm này. Đang lúc tôi chấm thi khóa hai năm 1968, thì giáo sƣ Niên đƣa cho nghị định của Viện hủy bỏ tên tôi trong phái đoàn đi quan sát nền giáo dục đại học Hoa Kỳ của Viện Đại Học Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Đà Lạt và Vạn Hạnh. Thật là quá chán ngán. Lên Bộ thì nói tùy Viện, xuống Viện thì bảo tùy Bộ. Lý do là không có tiền Viện Trợ Mỹ! Thế mà ngƣời tôi chƣa từng quen biết, ông Hoàng Sĩ Bình, phụ tá cho cố vấn Hoshall, nói hộ giùm tôi thì việc lại xong. Tuy đại học đƣợc tự trị, nhƣng nhiều thủ tục hành chánh quả là lỗi thời. Nhất là về vấn đề xuất ngoại du học hay tu nghiệp. Đƣợc trƣờng chấp thuận hay đề cử chỉ là bƣớc nhỏ ban đầu. Trở lại chƣơng trình đệ tam cấp. Chứng chỉ đầu tiên là Kỹ Thuật Lý Hóa. Sự thành công của chƣơng trình này do một số giáo sƣ tại trƣờng đã
không ngần ngại ghi danh theo học: các giáo sƣ Nguyễn Đại Dzƣơng, Huỳnh Hữu Tạo, Quản Trọng Lạng, Phạm Huy Chƣơng, và một số dƣợc sĩ xuất sắc lúc đó: Lê Phục Thủy, Hoàng Ngọc Giao. Chúng tôi đã nhiều lần cùng học tập trong khi Sài Gòn còn đang bị pháo kích! Chứng chỉ thứ hai là Sinh Học Cao Cấp do các giáo sƣ Phan Thế Trân, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Nguyễn Vĩnh Niên có thêm các giáo sƣ tại trƣờng theo học nhƣ Nguyễn Lê Thi, Đỗ Thị Thuần Bích. Chứng chỉ thứ ba là Vi Trùng Học Thâm Cứu có các giáo sƣ Trần Ngọc Tiếng, Trƣơng Mạnh Khải, Nguyễn Hiệp phụ trách. Các bạn Dzƣơng, Tạo, Lê Thi, Thuần Bích, Lý Công Tuấn... sau này đã hoàn tất luận án Tiến Sĩ Dƣợc Khoa Đệ Tam Cấp.
Trƣờng Dƣợc thời đệ nhị cộng hòa
Thời đó nam sinh viên, nếu không đậu vào đại học y nha dƣợc khoa, thƣờng bị gọi đi quân dịch. Tôi chắc cógiáo sƣ và sinh viên còn ít nhiều kỷ niệm khó quên về kỳ thi nhập học dƣợc khoa. Các sinh viên có bằng tú tài hai, Pháp hay Việt, đều đƣợc phép dự thi tuyển. Thông thƣờng, mỗi kỳ thi có cả năm bảy ngàn thí sinh. Ba bài thi là Lý Hóa, Vạn vật, và Sinh Ngữ. Thi kiểu trắc nghiệm, gồm mƣời câu hỏi ngắn. Lý Hóa, Vạn Vật hệ số hai. Sinh Ngữ, có thể chọn hoặc Anh hoặc Pháp, hệ số một. Chính vì số lấy đậu rất ít nên điều tiếng về việc ăn tiền, gian lận trở thành rất nhiều. Tôi không phải muốn trần tình cho trƣờng, nhƣng nhân đây kể lại một hai câu chuyện liên hệ đến thi tuyển. Chuyện thứ nhất vào năm 1972 là một chuyện buồn. Tôi lúc đó làm chánh chủ khảo, nhƣng thƣờng chỉ trông coi ban Lý Hóa mà thôi. Buổi sáng hôm thi tuyển, ban Lý Hóa chúng tôi mỗi ngƣời ngồi lựa một hay hai trong mƣời câu hỏi để buổi trƣa đánh máy rồi in ra đề cho thí sinh thi buổi chiều. Nhƣ vậy đề thi khó có thể bị tiết lộ. Giáo sƣ Nguyễn Bỉnh Tiên ngồi bên tôi bỗng nghẹn ngào nói nhƣ khóc là chúng tôi rất bất nhẫn khi bắt ông phải chấm kỳ thi tuyển này. Ông trách chúng tôi không giúp đỡ một ai nên cậu con trai ông kỳ trƣớc không đậu, phải đi quân dịch. Ông vừa đƣợc tin con bị mất tích hay đã trở thành tù binh cộng sản tại Quảng Trị. Ai nấy đều bàng hoàng. Tôi chỉ còn cách xin ông cứ về nghỉ ngơi, miễn phải chấm kỳ này, và cầu chúc con ông sớm đƣợc yên ổn trở về. Ông ở trong ban giám khảo mà cũng không giúp đƣợc con mình thi đậu. Chính vì việc này mà về sau hội đồng khoa đặc cách chấp thuận cho giáo sƣ có thể xin một chỗ cho con học để sau tiếp nối trông coi dƣợc phòng của mình. Con số này sẽ không tính vào số sinh viên đƣợc phép tuyển lựa. Nhƣng chƣa thấy đã có trƣờng hợp ngoại lệ nào nhƣ vậy.
Chuyện thứ hai là những việc vui. Trƣờng thƣờng phải mƣợn thêm nhiều trung tâm giáo dục để tổ chức kỳ thi tuyển. Khi phong trào tranh đấu sôi sục, chúng tôi lo sợ nhất là ngày thi bị ngƣời ta quấy phá. Năm tôi trông các phòng thi tại trƣờng Văn Khoa, giáo sƣ Niên cho biết có thể không thi đƣợc vì sẽ bị ném đá. May có giáo sƣ Nguyễn Cộng Hòa phụ tá tôi đã rất đắc lực trong việc điều hành. Và với sự tích cực của toàn thể nhân viên giảng huấn, chƣa hề có lần nào trƣờng phải cho thi tuyển lại. Cũng thời gian ấy, giáo sƣ Đào Hữu Giao có nói với tôi là chuyện ăn tiền trong kỳ thi tuyển chắc chắn có đấy. Vì ông lúc ấy còn là Dân Biểu nên rõ hơn tôi Giáo sƣ Nguyễn Ngọc Sƣơng bên Khoa Học cũng thắc mắc về vấn đề này. Tôi có mời cả hai giáo sƣ làm việc trong ban Lý Hóa và dự chấm kỳ thi tuyển, từ lúc lựa đề thi, làm bảng chấm điểm, cho đến lúc tuyên bố kết quả. Sau đó cả hai giáo sƣ đều công nhận tổ chức thi chặt chẽ nhƣ vậy thì khó gian lận lắm. Nhƣng nếu có chuyện ăn chặn hay ăn có, thì thật không cách nào tránh cho hết đƣợc. Vào năm 1972, trƣờng Dƣợc nhận thấy cần phải đào tạo những dƣợc sĩ sao cho theo kịp đà tiến triển của ngành Dƣợc trên thế giới, cùng đáp ứng đƣợc nhu cầu của cộng đồng và xã hội lúc đó. Muốn đạt mục tiêu này, những ngày Hội Thảo Dƣợc Khoa đã đƣợc tổ chức tại trƣờng. Việc
ẩm thực cho các hội thảo viên có sự giúp đỡ của các bà trong Hội Phụ Nữ Thiện Chí. Cuộc hội thảo nhiều ngày quy tụ rất nhiều dƣợc sĩ đại diện đủ mọi ngành. Ngoài các giáo sƣ trƣờng Dƣợc còn có nhiều dƣợc sĩ uy tín trong ngành Quân Y và Bộ Y Tế. Và các dƣợc sĩ tên tuổi của ngành bào chế Việt Nam nhƣ Nguyễn Thị Hai, Dƣơng Thành Quới, Nguyễn Chí Nhiều, Nguyễn Phạm Ấn, Bùi Đình Nam.
Trƣớc hết là xem xét lại khả năng của các dƣợc sĩ do trƣờng đào tạo có thích hợp với các nhu cầu dân sự và quân sự thời điểm đó không. Những khuyết điểm nào cần huấn luyện bổ túc? Làm thế nào cập nhật hóa kiến thức? Hiện đại hóa việc giáo dục dƣợc khoa cách nào? Cuộc hội thảo đƣợc chia làm nhiều khu vực mà ngƣời dƣợc sĩ hoạt động hay phục vụ, mỗi khu vực có một chủ tọa và hai ba điều hợp viên. Thuyết trình, thảo luận rồi đúc kết. Trong chƣơng trình còn có các cuộc thăm viếng một số cơ sở y tế và viện sản xuất dƣợc phẩm. Bộ Y tế có Đổng Lý Trần Văn Nhiều, Giám Đốc Nha Dƣợc Khoa Nguyễn Đức Trang, Quân Đội có Dƣợc sĩ Trung Tá Cao Thiện Chánh, các Dƣợc sĩ Thiếu Tá Nguyễn Phúc Bửu Tập, Phạm Kỳ, Thí Nghiệm có giáo sƣ Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Bán Lẻ có giáo sƣ Thái Tƣờng, Nhập Cảng có các dƣợc sĩ Phan Nhàn, Lâm Xuân Quang. Tôi đƣợc yêu cầu điều khiển phần hội thảo về ngành Sản Xuất, đồng chủ tọa với dƣợc sĩ Dƣơng Thành Quới, Chủ Tịch Nghiệp Đoàn này. Tôi cảm thấy phấn khởi vì sự góp mặt cùng tài năng của các dƣợc sĩ Bộ Y tế nhƣ Dƣơng Quang Nhàn, Phạm Doãn Huề, Nguyễn Tiến Đức, Mai Duy Cát...
Nhất là trong việc điều hành và ghi ác đề mục, các thảo luận, các biên bản. Ngƣời ta nhận thấy ngay sự cần thiết của môn quản trị và kỹ thuật trong ngành bào chế, của ngành thí nghiệm trong các viện khảo cứu hay nhà thƣơng, của việc bảo trì trong các cơ quan tiếp liệu quân và dân y, và kiến thức dƣợc học trong việc phục vụ cộng đồng. Thêm vào đó là nâng cao trình độ sinh ngữ để ngƣời dƣợc sĩ có thể dễ dàng giao dịch với các hãng ngoại quốc. Bản đúc kết từng phần rồi tổng kết những ngày Hội Thảo Dƣợc Khoa đã đƣợc in ra. Không hiểu tài liệu quí giá này bây giờ còn không và ở đâu? Một số các điều đƣợc mọi giới khuyến khích từ ngày đó đã dần dần đƣợc áp dụng. Quyển chƣơng trình Dƣợc Khoa đầu tiên với chi tiết của từng môn học đã do các giáo sƣ viết lại. Nếu phải tóm lƣợc về chƣơng trình thì trƣớc 1962 theo chƣơng trình Pháp, sau đó thay đổi nhiều lần. Vào thời gian 1962-1969 có thêm môn Toán Xác Suất và Thống Kê, với những năm 1969-74 thì các môn tập sự/thực tập đều thực hiện ngay tại nhà trƣờng kể cả việc bào chế tại Dƣợc phòng lẻ, và từ niên khóa 1974 năm cuối Dƣợc khoa đƣợc chia làm ba ngành Thí Nghiệm, Cộng Đồng, Kỹ Nghệ. Ngành Thí Nghiệm đƣợc sự hỗ trợ của nhiều giáo sƣ thỉnh giảng từ Viện Thí Nghiệm Trung Ƣơng, Trung Tâm Tiếp Huyết, Nhà Thƣơng Nguyễn Văn Học, Viện Pasteur, Trƣờng Y Khoa Sài Gòn và Minh Đức: các bác sĩ Bạch Toàn Vinh, Trịnh Văn Chính, Cao Xuân An, Nguyễn Đức Hạnh, các giáo sƣ Lê Phục Thủy, Nguyễn Tiến Đức...
Riêng ngành Dƣợc Khoa Kỹ Nghệ chỉ nhận chừng 40 sinh viên mỗi năm, trƣờng đã xây phòng thực tập và mua dụng cụ thí nghiệm mới. Giáo sƣ Nguyễn Hiệp làm trƣởng ban, với một giảng nghiệm viên rất tài ba vừa đƣợc tuyển chọn là giáo sƣ Phạm Ngọc Lân.
*
Trƣờng Dƣợc những tháng cuối của đệ nhị cộng hòa
Vào mùa đông năm 1974, rất nhiều giáo sƣ trƣờng Dƣợc đƣợc cử đi tu nghiệp từ ba tới sáu tháng tại Pháp, kể cả Khoa Trƣởng Niên và Phó Khoa Trƣởng Biền. Lúc đó giáo sƣ Niên còn kiêm nhiệm Phó Viện Trƣởng Học Vụ tại Viện Đại Học Sài Gòn.
Tình hình đất nƣớc bấy giờ rất đen tối, ai cũng lo lắng không biết tƣơng lai rồi sẽ ra sao. Tôi đƣợc bổ nhiệm làm Xử Lý Thƣờng Vụ Khoa Trƣởng, công việc không có gì bận rộn, ngoài những chuyện xã giao nhƣ nhận sách giáo khoa do Pháp viện trợ, tiếp đón phái đoàn Pháp về điện toán trong việc ghi danh sinh viên, hay thỉnh thoảng họp hành tại Viện hay tại Bộ. Nhƣng gần nhƣ tôi không dùng công xa, một chiếc Ford Falcon đen cũ kỹ. Ngƣời tài xế của trƣờng nặng gánh gia đình với chín đứa con đã có thì giờ chạy taxi kiếm thêm. Tuy vậy, thời gian này cũng có một vài tin đồn vui vui. Đất nƣớc rồi sẽ hòa bình trở lại, và có nhiều quốc gia sẽ viện trợ tái thiết.
Viện Trƣởng Nguyễn Ngọc Huy lúc đó hay rủ tôi và một vài Khoa Trƣởng, thƣờng là giáo sƣ Lê Thành Trị, cùng đi với ông thăm viếng các trại gia binh vì một mai những trại này sẽ đƣợc biến cải thành Khu Đại Học, có cả nơi ăn chốn ở cho sinh viên. Gia đình binh sĩ sẽ rời ra ngoại ô thành phố, trong các chung cƣ mới. Trƣờng Dƣợc Khoa có thể đƣợc Đan Mạch viện trợ cả chục triệu mỹ kim để xây trƣờng sở, giảng đƣờng, phòng thí nghiệm, cƣ xá sinh viên. Nhƣng nhiều tin thật thì rất xấu. Khi Phƣớc Long là tỉnh đầu tiên bị mất hồi đầu năm 1975, nhà trƣờng có làm lễ truy điệu những dân quân cán chính vị nƣớc vong thân. Bàn thờ tổ quốc đƣợc bầy ngay tại giảng đƣờng lớn. Tôi làm chủ tế và đọc bài văn do Tổng Thƣ Ký Huỳnh Văn Quí soạn trƣớc. Có hai giáo sƣ Tần Ngọc Tiếng và Phan Thế Trân phụ tế. Buổi lễ đơn giản mà cảm động, tuy chỉ có một số nhân viên, giáo sƣ và sinh viên đến dự.
Tết năm đó, trƣờng tổ chức mừng tân niên theo thông lệ, có cây Mùa Xuân, diễn văn chúc tụng, lì xì, nhân viên và ban giảng huấn cùng ăn uống buổi trƣa. Tôi còn đƣợc dự tết cùng ban Vi Trùng của giáo sƣ Tiếng, và đƣợc nghe lần đầu tiếng đàn guitar điêu luyện của giáo sƣ Phạm Ngọc Lân. Ban Sinh Hóa do giáo sƣ Lạng tổ chức tại một nhà hàng cũng vui nhộn không kém, có đến hơn hai chục ngƣời tham dự. Nhiều ban khác đều tổ chức riêng mừng Xuân, tuy không khí chiến tranh vẫn lảng vảng đâu đây.
Từ cuối 1974 trƣờng đã có nhu cầu bầu một ban lãnh đạo mới. Nhƣng bầu theo thể thức nào? Mỗi phân khoa của Viện Đại Học đều có lề lối riêng, mỗi trƣờng một luật lệ. rƣờng Dƣợc muốn tránh việc ứng cử bất ngờ, việc đề cử bị ép buộc, hay cuộc bầu cử không đƣợc chuẩn bị chu đáo từ trƣớc. Vấn đề này phải đợi tới khi các giáo sƣ Niên, Biền, Thái Tƣờng và Hƣơng Thƣ đang tu nghiệp hay công cán tại Paris trở về. Riêng giáo sƣ La Thành Trung vì bận chức vụ Chủ Tịch Hội Hồng Thập Tự Việt Nam, và giáo sƣ Nguyễn Đại Dzƣơng đang làm luận án với giáo sƣ Dumazert tại Marseille nên không có mặt trong hội đồng khoa. Sau mấy tháng thảo luận và hội ý rộng rãi với tất cả nhân viên giảng huấn, một thể thức đã đƣợc chấp thuận. Hội đồng khoa sẽ bầu ra Khoa Trƣởng, và hai Phó Khoa Trƣởng, một về Học Vụ, một về Kế Hoạch và Phát Triển. Nhiệm kỳ là ba năm. Hội đồng khoa gồm tất cả các giáo sƣ, và đại diện các ngành giảng nghiệm trƣởng, giảng nghiệm viên. Tùy theo số ngƣời, mỗi ngành này có thể cử ra một số đại diện. Danh sách ứng cử viên phải đƣợc phổ biến và báo lên viện một tháng trƣớc khi bầu cử. Và không chấp nhận bầu liên danh.
Biên bản số 5/75 của Hội Đồng Khoa có chữ ký của giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên chủ tọa và giáo sƣ Đặng Vũ Biền thƣ ký ghi lại phiên họp Hội Đồng Khoa ngày 4 tháng 4 năm 1975. Có 19 vị giáo chức tới dự phiên họp: Nguyễn Vĩnh Niên, Đặng Vũ Biền, Tô Đồng, Trần Ngọc Tiếng,
Phan Thế Trân, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Nguyễn Thị Lâu, Trƣơng Mạnh Khải, Nguyễn Hiệp, Võ Phi Hùng, Nguyễn Văn Trang, Nguyễn Bỉnh Tiên, Châu Thanh Thủy, Huỳnh Hữu Tạo, Nguyễn Lê Thi, Đỗ Thị Thuần Bích, Nguyễn Văn Dƣơng, Trƣơng Bá Trƣớc, Lý Công Tuấn. Hai giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu và Nguyễn Bỉnh Tiên đƣợc đề cử làm kiểm soát viên kiểm phiếu. Tôi đắc cử Khoa Trƣởng, giáo sƣ Võ Phi Hùng và giáo sƣ Phan Thế Trân đắc cử Phó Khoa Trƣởng, tất cả đều đƣợc đắc cử trong vòng đầu với đa số tuyệt đối.
Trong thâm tâm tôi không có ý định ứng cử Khoa Trƣởng. Ngƣời mà tôi nghĩ rằng ở vị thế thuận lợi hơn tôi và sẽ làm cho trƣờng phát triển mạnh mẽ là giáo sƣ Võ Phi Hùng, trƣởng ban Hóa Dƣợc Học. Ông yêu nghề, có tài tổ chức, nhiều nhiệt tâm, tính tình nghiêm cẩn. Với giáo sƣ Phan Thế Trân thông minh, quảng giao và nhiều sáng kiến, việc Kế Hoạch và Phát Triển sẽ tiến hành dễ dàng. Tiếc rằng chúng tôi không có cơ hội làm việc chung. Chƣơng trình dài hạn thì nhiều tuy chƣa chắc thực hiện đƣợc. Cần kiện toàn phòng học vụ, in lại học bạ. Cố tuyển đƣợc nhân viên giảng huấn giỏi, và kiếm hết cách cho giáo sƣ đƣợc đi tu nghiệp. Cần xác định ngay danh từ khoa học dƣợc khoa của từng bộ môn, tuy đã có sẵn Ủy Ban Soạn Thảo Danh Từ Khoa Học. Khuyến khích việc viết và ấn hành các sách giáo khoa tiếng Việt. Nên tăng cƣờng sự liên hệ giữa nhà trƣờng và kỹ nghệ dƣợc phẩm. Vân vân và vân vân... Nhƣng việc trƣớc mắt ũng thôi đành chịu. Muốn tổ chức gấp rút kỳ thi tốt nghiệp cho năm cuối, để sinh viên sau 5 năm học đỡ thiệt thòi mà không kịp. Muốn tìm phƣơng tiện để cùng tránh cơn binh lửa cũng không xong. May mắn là giáo sƣ Lý Công Tuấn sau mấy năm tôi hƣớng dẫn đã trình xong luận án Tiến sĩ đệ tam cấp Sinh Hóa vào ngày gần chót, báo Chính Luận còn đăng đƣợc tin này. Chính Phủ thay đổi đột ngột, giáo sƣ Nguyễn Duy Xuân lên làm Bộ Trƣởng Giáo Dục thay dƣợc sĩ Ngô Khắc Tỉnh. Sài Gòn Chợ Lớn đang dần trở thành một thành phố chết. Tin tức loan báo khi mất Huế, Đà Nẵng rồi Nha Trang và lối bình luận một chiều của đài BBC làm tan rã cả một chế độ. Làm sao ra khỏi Sài Gòn bây giờ? Mạnh ai nấy chạy, tìm cách thoát thân. Cuối cùng do Khoa Trƣởng Y Khoa Vũ Quí Đài giới thiệu, chúng tôi còn hi vọng Tiến sĩ Ira Singer, cố vấn cho Y Khoa Sài Gòn, có thể giúp một số nhân viên trƣờng Dƣợc muốn đi di tản.
Vào ngày 16 tháng 4, tôi và giáo sƣ Trần Ngọc Tiếng đánh máy danh sách, xé bỏ giấy carbon, đƣa ông Ira Singer một bản, tôi giữ một bản. Ông Singer có hứa sẽ nhờ tòa đại sứ Mỹ lo, nhƣng có lẽ đã quá trễ. Phần tôi cũng tìm thêm nhiều đƣờng. Nghĩ bụng phải thoát khỏi Việt Nam đã, khi đất nƣớc tự do thật sự mình còn có cơ trở về. Dƣợc sĩ Dƣơng Thị Đây tức bà Nguyễn Chí Nhiều nói chúng tôi có thể vô nhà bác sĩ Dƣơng Quỳnh Hoa ở tạm tránh lúc giao thời. Giáo sƣ Huỳnh Hữu Tạo tính cho cùng trốn xuống miền Hậu Giang, chờ đến khi có dịp ra ngoại quốc. Chúng tôi cũng có thể đi với ông anh là Trung Tá Vũ Nhân bằng tầu Hải quân, chạy với dƣợc sĩ Bùi Đình Nam bằng phƣơng tiện Bộ Quốc Phòng, hay nhờ giáo sƣ Nguyễn Tiến Đức theo Bệnh Viện Cơ Đốc. Nhƣng tôi vẫn có linh tính sẽ chạy đƣợc dù không biết cách nào và lúc nào. Tại vì ông Minh Lộc đƣờng Trần Quý Cáp đã bảo thế! Tôi thƣờng hỏi ông về tử vi hoặc nhờ ông gieo quẻ dịch mỗi khi có việc thắc mắc, mà việc nào cũng thấy nghiệm đúng. Tin nhƣ vậy, nên vào tối ngày 22 tháng 4, tôi và nhà tôi có tới nhà ông bà giáo sƣ Võ Phi Hùng ở 210 Yên Đổ Quận Ba để từ biệt trƣớc. Tôi buồn rầu nói là chúng tôi không có duyên làm việc cùng với nhau, chỉ cầu mong rồi ra mọi sự đƣợc bình an. Câu chuyện có vẻ nhƣ trong tiểu thuyết. Chiều ngày 23 tôi còn đi tìm giáo sƣ Trƣơng Bá Trƣớc tại dƣợc phòng ông, để bàn tính đôi điều về sinh hoạt sinh viên nhƣng không gập. Giáo sƣ Trƣớc, vui vẻ, cởi mở, tuy là một đệ tử của Lƣu Linh nhƣng rất đƣợc sự ƣu ái của sinh viên. Bất ngờ tôi gập dƣợc sĩ Nghiêm Xuân Hàm trên đƣờng Đinh Tiên Hoàng.
Ông Hàm nhờ tôi kiếm một dƣợc sĩ để ông giao cho điều hành viện bào chế của ông, vì ông đang tìm cách ra đi. Nhƣng tìm đâu ra ngƣời trong lúc dầu sôi lửa bỏng bấy giờ? Tôi về nhà thì nhận đƣợc điện thoại nói phải đi ngay. Ông Phạm Quang Toàn, anh cột chèo của tôi vì làm cho Cơ Quan Quân Sự Hoa Kỳ, đã xin dần đƣợc đủ chỗ cho cả nhà di tản rồi. Mấy anh chị em đã vô ở nhờ nhà kỹ sƣ Cung Tiến Công trong cƣ xá hàng không dân sự từ hôm trƣớc. Tôi chở gia đình vào Tân Sơn Nhất thì thấy chỉ có ông Toàn làm cho DAO đƣợc vô trong, bà Toàn cùng hai cụ thân sinh bị giữ lại ở cổng. Tôi vội vàng đi tìm Đại Tá Đặng Hữu Hiệp coi An Ninh Không Quân, bà vợ và các con ông đã ra đi từ trƣớc, nhƣng ông phải ở lại với nhiệm vụ cho tới lúc chót. Ông ở nhà đang tắm, xong đã đích thân ra lệnh để lính cho vô. Thật là hú vía, nếu không có ngƣời bạn tốt này thì chúng tôi sẽ ra sao? Rồi tối hôm đó chúng tôi đƣợc chở vô phi đạo trên những xe bus quân sự mầu vàng. Và những ngƣời lính Mỹ trẻ, rất tử tế, đã kéo chúng tôi lên ngồi sàn của những chiếc C130 nổ máy sẵn. Và máy bay vụt ra khỏi vùng trời Sài Gòn đang lấp lóa ánh đèn phố lẫn ánh hỏa châu.
Dƣợc sĩ trên đƣờng xa, xứ lạ
Kể từ đó, ngƣời may mắn tha phƣơng trên con đƣờng xa, cố nhập dòng với cuộc sống mới nơi xứ lạ. Kẻ không may kẹt lại rồi học tập cải tạo, hoặc vài năm sau đó liều mạng tìm cách vƣợt biên, cả đƣờng bộ lẫn đƣờng biển. Một số thoát đƣợc nhƣ thuyền nhân, nhƣng cũng có giáo sƣ không may đã yên nghỉ trong lòng biển Thái Bình. Cùng thời gian, các nhân viên giảng huấn cũ đã ra đi gần hết, dùng đủ diện xuất ngoại. Chỉ còn rất ít giáo sƣ kỳ cựu ở lại với trƣờng. Tại các nƣớc ngụ cƣ, ngay lúc khởi đầu, giới dƣợc sĩ đã cùng nhau tìm cách trở lại nghề cũ. Chỗ dễ chỗ khó. Vào năm 1980, nhiều hội đoàn đƣợc thành lập. Hội Ái Hữu Dƣợc Sĩ Ngƣời Việt Hải Ngoại tại Paris với giáo sƣ Đặng Vũ Biền làm Chủ tịch, giáo sƣ Thái Tƣờng làm Tổng thƣ ký. Hội Ái Hữu Dƣợc Sĩ Canada với dƣợc sĩ Lâm Xuân Quang Chủ tịch và dƣợc sĩ Mai Tâm Tổng thƣ ký. Hội Dƣợc Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ với tôi làm Chủ tịch và dƣợc sĩ Trần Đức Hiếu Tổng thƣ ký. Kể từ đó có thêm nhiều hội ở mọi nơi, đƣa đến những Đại hội Quốc Tế Dƣợc sĩ và các sinh hoạt Liên Hội trong thế giới tự do. Tôi còn nhớ một phát biểu nhiệt tình về Voeux et Espérances của giáo sƣ Nguyễn Lê Thi tại Paris vào năm 1992. Dƣợc sĩ thuộc đủ lớp tuổi, ai cũng mong đóng góp cho tập thể và quê hƣơng. Câu chuyện trở thành bất tận. Và riêng tôi thật sự cảm phục sự cố gắng bền bỉ của giáo sƣ Đặng Vũ Biền và các dƣợc sĩ Đỗ Thị Kim, Trần Đức Hiếu. Qua những tin tức mà bè bạn kể lại, tôi cũng biết qua loa những chuyện xẩy ra tại Sài Gòn thời đó. Nhà tôi số 3 Trần Doãn Khanh, đƣợc vị tân Khoa Trƣởng là giáo sƣ Nguyễn Kim Hùng tiếp thu. Trƣờng Dƣợc nằm trong cơn gió lốc, với chính sách hồng hơn chuyên. Chính trị đã xen lấn thô bạo vào ngành giáo dục, và nền Đại Học đã mất đi tƣ thế tự trị.
Mục tiêu chân thiện mỹ khó mà đạt đƣợc, và tính cách nhân bản, khoa học, đại chúng của một bộ môn bỗng nhiên mang thêm vẻ giáo điều. Làm sao giữ đƣợc sự tự do trong ngành giảng huấn, gây đƣợc tinh thần cầu tiến và thể thao cho tất cả giáo sƣ sinh viên? Đƣợc nhƣ vậy thì học lối tuyển lựa hay theo hệ tín chỉ đều khả thi, mà chƣơng trình còn có thể cập nhật hóa dễ dàng theo những kiến thức mới và những đòi hỏi thời trang của cộng đồng và xã hội. Viết về một thời loạn lạc xa xôi, việc xƣa cảnh cũ nhƣ bao phủ trong một màn sƣơng. Hình và bóng đều phai mờ, ai nói hay cũng đƣợc, mà nói dở có sao đâu! Chuyện có ngƣời mới thấy là phải đã có ngƣời cho ngay là trái. Tuy nhiên tại những miền đất hứa bốn phƣơng, nghĩa thầy trò rồi đồng nghiệp theo lề cũ lối xƣa, vẫn kết tụ thành tình bằng hữu. Tôi làm sao nhớ hết kể hết đƣợc những ngƣời bạn
thân mến này, mà tôi đã may mắn gập từ khung trời Trƣờng Dƣợc Sài Gòn. Có lẽ tôi phải hỏi lại các dƣợc sĩ Mai Văn Thông, Vƣơng Lan Hƣơng, Phan Lƣơng Quới, Nguyễn Xuân Lâm, Trịnh Thị Ngọc Lang, Đào Diệp Khanh, Tôn Nữ Chi Đính, Phùng Thị Khánh Ngọc, Đỗ Thị Nguyệt Minh, Nguyễn Đức Năng, Mai Tâm, Hồ Duy Thiện, Nguyễn Thúc Mẫn,... rồi mới viết tiếp đƣợc. Để hình bóng sáng trở lại khi màn sƣơng tan dần, vì vật nào có ảnh ấy, cơ duyên nào sinh hiện tƣợng ấy. Với những tin tức đan chen thật nhiều niềm vui trên xứ lạ đƣờng xa.
30 tháng 4 năm 2003
CHƢƠNG CHÍN
Một Kỷ Niệm Về Ngành Bào Chế
Lời nói đầu
Mỗi lần nói đến Viện Bào Chế Tenamyd, tôi lại nhớ đến một ngƣời bạn thân, anh Bùi Đình Nam. Nam là sinh viên của dƣợc phòng Chƣơng Văn Vĩnh, tôi học tập sự với dƣợc sĩ Nghiêm Xuân Hàm, nên chúng tôi biết nhau từ kỳ thi Tập Sự Dƣợc Khoa khóa 52-53 của trƣờng Y Dƣợc Đại Học Hà Nội. Từ năm thứ nhất Dƣợc Khoa, vì cùng học một lớp, chúng tôi bắt đầu thân nhau hơn. Nam thƣờng lại nhà tôi ôn bài, hay cùng ra vƣờn dƣợc thảo trong khuôn viên đại học để thực học về cây cỏ. Vào lúc có hiệp định Genève năm 1954, tôi theo trƣờng Quân Y Trung Ƣơng vô Sài Gòn trƣớc, Nam ra đi sau, cả hai đều bỏ lại bố mẹ anh chị em ở Hà Nội. Từ cuộc di cƣ này, chúng tôi cùng ăn, cùng ở, cùng học, tại Đại Học Xá Chợ Lớn. Và vì vậy, chúng tôi có chung bao nhiêu là bè bạn và kỷ niệm, khi tuổi còn xanh, môi còn hồng. Biết làm sao kể lại cho đƣợc! Khi ra trƣờng năm 1957, Nam đƣợc trƣng dụng về Quân Y Viện Cần Thơ rồi mở Nhà Thuốc tại đây với ông Quang, tôi ra Đà Nẵng coi Kho Y Dƣợc 21 cho tới khi đi Pháp vào cuối năm 1958. Chúng tôi thƣ từ liên lạc thƣờng xuyên, nên biết Nam đã mở Viện Bào Chế Tenamyd và rất thành công với các thuốc sirô trị sán lải Telmin, thuốc gói trị ban nóng trẻ em hiệu chuông vàng Mékomin. Tên Viện Bào Chế có lẽ ám chỉ Trân Nam Y Dƣợc, Trân là tên ngƣời bạn gái cùng lớp. Nguyễn Lƣơng Trân là cô gái yểu điệu xứ Huế, ngƣời nhỏ nhắn xinh xắn nhƣ một con búp bê. Cô ăn nói dịu dàng nhỏ nhẹ, đi đứng từ tốn khoan thai, lúc nào cũng nhƣ mơ nhƣ mộng. Cô chơi thân với một bạn học là Đoàn Thị Ninh. Nam có vẻ đẹp của một chàng trai đất Bắc, cao ráo sáng sủa, mày rậm, mắt tinh. Anh rất tháo vát, nhanh nhẹn, tốt tính, có biệt tài kinh doanh. Bạn bè ai cũng đinh ninh rồi hai ngƣời sẽ lấy nhau, tuy vẫn cho rằng hai ngƣời tính tình khác biệt nhƣ vậy chắc khó mà hòa hợp, và nếu lấy nhau chƣa chắc gì đã có hạnh phúc.
Mỗi tết tôi lại đƣợc Nam gửi sang các báo Xuân, có Sáng Tạo, Tự Do, Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong. Thỉnh thoảng tôi cũng gửi về vài ba mẫu thuốc hay hóa chất để Nam làm thử một vài công thức đặc chế. Bỗng một hôm anh báo tin sẽ lập gia đình với cô Đào Ngọc Khánh mới gập gần đây ở Đà Lạt. Cô là cháu xinh đẹp và rất trẻ của một ngƣời bạn cũng là ngƣời mai mối, anh Nam Anh. Tôi nghĩ con ngƣời ta có số mệnh. Sau này, chính cô Khánh là một nhân vật quan trọng nhất để đƣa Tenamyd lên hàng cơ sở bào chế có tầm vóc quốc tế thời đó. Gia đình bên vợ cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công này, trong đó phải kể song thân của chị Nam là ông bà tham Miện. Ông tính giản dị chịu khó, bà thì mẫu mực và hiền hậu.
Khi biết tôi sẽ về Sài Gòn nhận làm Giảng Sƣ tại Dƣợc khoa và để lập gia đình, Nam có viết thƣ sang Paris mời tôi hợp tác với Tenamyd. Tôi nhận lời làm cùng, lo về kỹ thuật, nhƣ bè bạn thân quen giúp đỡ lẫn nhau. Tôi không hề nghĩ đến điều kiện hay biết tính toán hơn thiệt. Bây giờ, nếu có thể đi ngƣợc trở lại thời đó, chắc tôi cũng xử sự nhƣ vậy. Vào cuối tháng 7 năm 1962, Nam đón tôi ở phi trƣờng Tân Sơn Nhất, rồi đƣa tôi về ngôi biệt thự anh chị đang thuê ở đƣờng Hồng Thập Tự. Anh dành cho tôi một căn phòng riêng biệt trên gác, có máy lạnh và đầy đủ tiện nghi, thƣờng ngày có hoa tƣơi đẹp bầy trong bình pha lê. Tôi ăn ở với gia đình anh cả tháng trời, cho đến khi thuê đƣợc căn nhà số 62/4 đƣờng Duy Tân. Tôi rất ngạc nhiên vì thấy chị Nam tuy rất trẻ nhƣng đã giỏi về nhiều phƣơng diện, nhất là điều hành, giao thiệp và đặc biệt là có khiếu về thẩm mỹ. Tôi mừng đƣợc chứng kiến cảnh hạnh phúc của anh chị, trai tài gái sắc, con trai đầu lòng kháu khỉnh. Tôi không nhắc lại những sự đối đãi đặc biệt của anh chị với tôi ngày ấy, vì e rằng có nói ra cũng sẽ không hết.
Cơ sở tại đƣờng Nguyễn Thái Học
Ngay buổi trƣa hôm tôi về nƣớc, Nam đã bàn luận với tôi những tài liệu nói về cách bọc đƣờng các thuốc viên. Tôi đến thăm Tenamyd vào buổi chiều, trƣớc khi đi qua thăm làng đại học Thủ Đức và đi ăn tối tại nhà cô chú Khoa. Cơ sở là một nhà lầu hai tầng ở góc đƣờng Nguyễn Thái Học, trong khu chợ Cầu Ông Lãnh. Tầng trệt có nhà thuốc bán lẻ. Bên hông có gác đi thẳng lên khu bào chế. Tầng một gồm một phòng nhỏ có mấy dụng cụ kiểm phẩm, một phòng rộng để gói thuốc bột, vô chai thuốc nƣớc, rồi dán nhãn, vô bao vô hộp. Tầng hai có phòng nấu si rô, phòng làm thuốc viên có máy trộn, máy sấy, máy dập viên, chảo bọc đƣờng.
Máy móc còn thô sơ, kỹ thuật bọc đƣờng các viên Multivitamin còn yếu kém. Bà Miện trông coi thợ làm việc tại đây. Tôi có bàn giấy làm việc ở ngay phòng kiểm phẩm cho tới khi Tenamyd đƣợc tập trung về cơ sở sản xuất Thủ Đức vào năm 1967. Từ khi còn đi học, điều mà tôi lo sợ nhất là hữu danh vô thực. Với Tenamyd, tôi có đất dụng võ, nghĩa là áp dụng đƣợc ít nhiều sở học của mình. Đối với tôi, nhƣ vậy là quá đủ. Còn Nam thì lúc nào cũng tin tƣởng ở khả năng của tôi, có lẽ vì thế việc điều hành kỹ thuật trở thành dễ dàng. Nhƣng sự thành công của Tenamyd là do tài tổ chức, điều khiển, giao tế và kinh doanh của anh chị Nam. Tôi không biết nhiều để ghi lại khía cạnh này, do đó tôi chỉ xin kể lại đôi dòng kỷ niệm về cơ sở, sản phẩm, nhân vật trong thời điểm đó.
Tôi thấy ngay việc mình phải làm tại Tenamyd. Cần mua gấp hay mua dài hạn, đủ các sách về kỹ nghệ dƣợc phẩm mỹ phẩm, về Chế Dƣợc Thƣ và Dƣợc Thƣ của tây phƣơng. Ngoài các sách thông dụng quen thuộc nhƣ tự điển đặc chế Vidal, Pharmacopée Française của Pháp, British Pharmacopoeia của Anh, The Pharmacopoeia of Japan của Nhật, các tài liệu Mỹ phải đƣợc coi là nòng cốt. Thí dụ Remington‟s Practice of Pharmacy, Journal of Pharmaceutical Sciences của APhA, The National Formulary NF, The US Pharmacopeia USP, New Drug Applications NDA, Physicians‟ Desk Reference PDR, Merck Index... Thời đó, PDR còn chƣa liệt kê các chất phụ dƣợc đƣợc dùng cho những đặc chế đƣợc lƣu hành của Hoa Kỳ. Cần xin nhập cảng ngay những thuốc thử và dụng cụ kiểm phẩm tối thiểu cho phòng thí nghiệm. Các máy định phân, các quang phổ kế, các máy thử độ ẩm, độ cứng, độ tan rã. Khi Nam gập vấn đề gì khó khăn về kỹ thuật thì tôi lại tra cứu sách vở, rồi chúng tôi bàn tính với nhau để cùng thực hành. Tại hãng tôi thấy ai cũng vui vẻ hăng say làm việc. Anh chị Jean Damasse là những trình dƣợc viên đầu tiên, vừa lo quảng cáo vừa lo bán thuốc cho các dƣợc phòng lẻ. Tài xế Uẩn, một ngƣời tin cẩn và điềm đạm
thƣờng đƣa đón tôi đi mọi công việc. Anh Bẩy, ngƣời thợ chạy máy nhỏ nhƣng tài ba, hỏi han bàn cãi với tôi đủ điều. Chị Loan, ngƣời phụ dọn dẹp phòng thí nghiệm thật hiền lành chăm chỉ. Lúc đầu có Nam và tôi là dƣợc sĩ, rồi thêm Trần Nhƣ Nguyên. Nam là Tổng Giám Đốc Tenamyd, tôi làm Phó Tổng Giám Đốc. Nguyên trông coi thợ làm thuốc theo đúng phƣơng thức cân đo ghi trong phiếu sản xuất, và giao dịch với giới chức y tế bên ngoài. Anh là một ngƣời bạn tốt, dễ tính, nhƣng dù có làm đúng mà cũng chẳng cần biết hoặc tin là đúng hay sai. Coi nhƣ mình không liên can, ai bảo đâu làm vậy. Nhƣng xét cho cùng thì sự ƣa đùa rởn của anh cũng cần thiết cho thời buổi đó, và đã làm cho cuộc sống đỡ phần nào tẻ nhạt. Tôi hệ thống hóa những tài liệu bào chế từng thứ thuốc. Mỗi phiếu sản xuất ghi chép các giai đoạn liên tiếp, từ nguyên liệu qua các sản phẩm trung gian tới thuốc đặc chế hoàn bị. Mỗi giai đoạn có kèm theo sự kiểm phẩm liên hệ. Nhƣ vậy phải làm hồ sơ ghi rõ các phần đƣợc kiểm soát, cách lấy mẫu thử, cách định tính, và kết quả định phân. Hai năm sau, dƣợc sĩ Hà Dƣơng Thị Quyên ra trƣờng 1964 có đến phụ tôi phần kiểm phẩm. Chị Quyên hiểu việc, thông minh nhanh nhẹn. Rồi tới dƣợc sĩ Nguyễn Bích Ngọc bắt đầu làm kiểm phẩm từ cuối năm 1965. Chị Ngọc giỏi giang, chăm chỉ, nhƣng cũng thƣờng hay thắc mắc. Chị phụ tá trực tiếp cho tôi đến khi tôi rời Tenamyd. Tôi có đề nghị chị thay thế cho tôi, nhƣng không biết vì sao chị lại xin thôi ngay sau đó. Giáo sƣ Võ Đăng Đài sau này cũng có thời làm việc với Tenamyd. Thời gian đầu cần phát triển thêm nhiều thứ thuốc mới. Tôi kiếm phƣơng thức bào chế, làm hồ sơ phân tích, viết toa nhãn hộp cho các thuốc này. Chị Nam lo trình bầy cùng một họa sĩ. Anh Nam lo đặt tên. Anh Nguyên lo chạy giấy má bộ Y tế. Làm ve chai có hãng Đại Thành. Đồ nhựa dẻo có hãng Phƣớc Lợi. In trên bìa giấy có hãng Cẩm Phát. Chúng tôi thƣờng có dịp thảo luận về nhiều khía cạnh mỗi khi đƣợc phép ra một thuốc mới. Mỗi tháng trung bình Tenamyd có thêm vài ba đặc chế chữa đủ thứ bệnh đƣờng hô hấp, bộ máy tiêu hóa, bệnh tai mắt mũi họng, bệnh ngoài da. Và đủ loại thuốc bổ, thuốc kháng sinh, thuốc trụ sinh, thuốc an thần.
Cơ sở tại đƣờng Cách Mạng
Lúc này Tenamyd đã mua thêm một biệt thự trong hẻm đƣờng Cách Mạng để sửa thành cơ sở sản xuất rộng rãi tiện nghi hơn. Với rất nhiễu máy móc tự động tối tân làm thuốc gói, thuốc viên, thuốc viên bọc đƣờng, thuốc con nhộng mua từ Pháp, Mỹ, Nhật và Ý. Sự sản xuất gia tăng từng năm, mỗi năm lại gấp bội năm trƣớc, nên nhiều cơ sở mới về hành chánh, phát hành, quảng cáo, thăm dò thị trƣờng đã đƣợc thành lập thêm. Số nhân viên mọi ngành tăng lên. Ông Miện trông coi thợ bào chế, Kỹ sƣ Nguyễn Văn Ba lo việc bảo trì máy móc. Dƣợc sĩ Đào Diệp Khanh, chị của chị Nam, là Tổng Giám Đốc Tenamyd vào cuối năm 1965. Chị Khanh trung thực, nhanh nhẹn, ƣa hoạt động, có tài điều hành. Công Ty Tƣờng Nhật tại Hồng Thập Tự lo việc phát hành có thêm các dƣợc sĩ Hà Thị Phấn, Vũ Thị Mỹ Châu, Nguyễn Thị Hải, Nguyễn Đỗ Thúy Hƣơng. Chị Phấn giỏi giao thiệp, lúc nào cũng vui vẻ dễ dàng. Chị trông coi các hoạt động của trình dƣợc viên, lúc đó có nhiều cô nhiều bà, có cả những mệnh phụ phu nhân. Chị Châu thì trầm tĩnh hiền hòa. Chị Hải, chị Hƣơng, đều rất nhanh nhẹn vui tính. Cơ sở đƣờng Nguyễn Thái Học quá nhỏ và đi lại bất tiện vì gần khu chợ đông đúc ồn ào, cơ sở đƣờng Cách Mạng nguyên là biệt thự đổi thành viện bào chế, nên còn luộm thuộm. Cả hai nơi gồm lại cũng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển nhanh chóng của Tenamyd. Nam có bàn với tôi là làm sao tập trung cả về một chỗ cho dễ làm việc, rồi sau anh mua đƣợc hai khu đất trống tiếp giáp làng đại học Thủ Đức. Khu đất rộng mấy mẫu làm cơ sở bào chế. Khu đất nhỏ hơn có ao thả cá, dự tính sẽ xây nhà nghỉ mát cuối tuần để xả hơi, và sân quần vợt.
Cơ sở tại Thủ Đức
Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu đồ án xây cất cơ sở Tenamyd ở Thủ Đức, nhất là lo việc thực hiện khu bào chế riêng biệt có thể vô chai thuốc trụ sinh chích. Nhƣ vậy phải kiến tạo một khu vực vô trùng đúng theo tiêu chuẩn của Mỹ. Nhƣ tiền phòng là khóa khí air lock cho nhân viên sau khi đã khử trùng phải đi qua trƣớc khi vào khu vô trùng, nơi đặt giàn máy tự động vô thuốc tối tân của Đức. Và các cửa riêng biệt đƣa bột thuốc, ve chai, nút nhựa, riềng nhôm đi vô, với cửa đƣa chai thuốc hoàn bị đi ra. Trong phòng vô thuốc, áp xuất phải lớn hơn bên ngoài, có các máy tạo nhiều lớp gió phẳng laminar flow, thành một luồng hay một dòng cuốn đẩy các hạt bụi ra phía ngoài. Sau cùng, chai thuốc sẽ qua phòng dán nhãn, vô hộp với toa chỉ dẫn. Vật liệu đặc biệt và sơ đồ xây cất đƣợc tính toán để giải quyết thích hợp vấn đề nhiệt độ và độ ẩm mong muốn. Sơn nƣớc đƣợc dùng cho tất cả các phòng, để có thể lau chùi và khử trùng dễ dàng. Ngoài ra, cơ sở này còn gồm các khu bào chế tất cả các loại thuốc thông thƣờng mà Tenamyd hiện đang sản xuất tại Nguyễn Thái Học và Cách Mạng. Và một khu kiểm phẩm, có phòng nghiên cứu, phòng họp, phòng khách. Cơ sở có giếng nƣớc riêng, tháp chứa nƣớc, máy làm hơi nƣớc, máy làm nƣớc cất dùng cho tất cả các khu bào chế, và máy điện riêng. Vấn đề đào giếng và phân tích nƣớc đƣợc sự cố vấn giá trị của giáo sƣ Nguyễn An Cƣ, một giáo sƣ nổi danh về thủy học và đang làm cho Viện Pasteur. Các kỹ sƣ Vũ Hữu Doanh, Nguyễn Văn Thành lo việc ráp máy, cho máy chạy, và bảo trì. Anh Doanh là kỹ sƣ rất giỏi giang, việc gì cũng hiểu rõ và làm ến nơi đến chốn. Anh Thành vui tính và chịu khó nghiên cứu đủ thứ chuyện, kể cả chữ nho. Chị Hà Dƣơng Thị Duyên quản trị thợ thuyền. Chị sinh hoạt dễ dàng với nhân viên, sau này sang Canada theo chồng. Chồng chị, Tiến sĩ Điện học kỹ thuật Lê Phụng, là một ngƣời bạn học với tôi từ nhỏ.
Từ xa lộ rẽ vào chừng vài trăm thƣớc, qua hãng kem sữa Foremost thì tới Tenamyd. Bộ trƣởng Kinh Tế Âu Ngọc Hồ có lúc làm Giám Đốc Thƣơng Mại cho sở làm kem phục vụ quân đội Mỹ này. Khi có dịp thăm hàng xóm Foremost, chúng tôi lại đƣợc tặng ít hộp kem thật ngon. Cơ sở Tenamyd rộng lớn có tƣờng cao bao quanh, đƣờng ở trong đều trải nhựa, vƣờn trồng hoa mọi chỗ, có cột đèn điện đêm. Từ cổng đi thẳng vào phía tay phải có hồ thả cá vàng, có hoa súng, trên xây một chiếc cầu nhỏ dẫn tới dẫy nhà khách, thƣ viện và các phòng của khu kiểm phẩm, phòng phân tích lý hóa rồi tới phòng thử nghiệm vi sinh vật. Phía sau có các dẫy nhà bào chế sắp xếp theo các loại máy, khu nấu sirô, khu trộn và xấy thuốc, khu dập thuốc viên. Giữa những dẫy nhà có thảm cỏ trồng các cây móng bò, lá xanh tƣơi mát và hoa đỏ hồng thật đẹp. Bên tay trái có khu vô trùng riêng biệt để vô chai thuốc chích bột trụ sinh. Vào phía sâu trong cùng có nhà máy làm nƣớc nóng và hơi nƣớc, nhà máy điều hòa không khí, nhà máy điện, tháp nƣớc ăn. Các nhà máy này có năng xuất cao, đáp ứng đƣợc nhu cầu của toàn thể cơ sở. Tenamyd-Unitex tại Thủ Đức bắt đầu hoạt động khoảng năm 1967. Dƣợc sĩ Vũ Thị Ngọc Diệp làm Tổng Giám Đốc Unitex. Chị Diệp tính tình tốt, cẩn thận và tin cậy đƣợc. Nhà tôi là dƣợc sĩ Nguyễn Loan cũng bắt đầu hợp tác với Tenamyd từ lúc đó. Tất cả các máy móc nhân viên hiện đang làm việc tại Nguyễn Thái Học và Cách Mạng đều đƣợc chuyển dần về nơi đây. Dƣợc sĩ Phùng Thị Khánh Ngọc tuy là Tổng Giám Đốc Công Ty Tƣờng Nhật nhƣng làm việc tại cơ sở Thủ Đức. Chị Khánh Ngọc vui vẻ, chăm làm, trọng tình nghĩa. Unitex là tên viện bào chế các thuốc chích gồm những trụ sinh loại penicillin, streptomycin, dihydrostreptomycin. Chất sau cùng sau này bị loại khỏi Dƣợc Thƣ vì độc tính. Nguyên liệu lúc đầu mua của hãng Yaron. Tôi cũng tìm phƣơng thức bào chế, cách định tính chất thuốc và định lƣợng đơn vị theo đúng USP và Code of Federal Regulations, CFR Title 21, viết toa nhãn hộp cho các thuốc trụ sinh này. Đại để các dƣợc sĩ Đào Diệp Khanh, Vũ Thị Ngọc Diệp, Phùng Thị Khánh Ngọc, Tôn Nữ Chi Đính, Đỗ Gia Huấn phụ
trách việc bào chế. Các dƣợc sĩ Nguyễn Loan, Bích Ngọc, Hà Dƣơng Thị Quyên phụ trách kiểm phẩm. Phần thuốc chích có giáo sƣ Nguyễn Hiệp và hai dƣợc sĩ Phạm Thế Biểu, Phạm Thế Gia coi việc sản xuất, các dƣợc sĩ Võ Thị Phƣớc, Nguyễn Thị Kim Thƣ, Nguyễn Hữu Huệ lo việc phân chất. Chị Chi Đính hiền hậu dịu dàng. Chị Kim Thƣ vui vẻ trẻ trung. Tất cả các dƣợc sĩ đều làm việc trong tinh thần đồng đội thoải mái. Họ có xe đƣa rƣớc, và ăn trƣa tại phòng ăn tại đây. Đầu năm 1968, xẩy ra vụ tấn công tết Mậu Thân. May mắn là Tenamyd-Unitex Thủ Đức không bị thiệt hại gì, tuy khu Hàng Xanh gần xa lộ bị tàn phá. Công việc ngƣng trệ ít lâu rồi lại tiếp tục. Về loại thuốc chích, dàn máy tự động vô chai bột trụ sinh gồm nhiều máy ráp liên tiếp. Có máy rửa chai, rửa nút, máy xấy khô và tráng silicon, máy vô thuốc, đóng nút, đóng riềng nhôm. Dàn máy này có năng xuất một giờ khoảng 6 tới 8 ngàn chai, mỗi ngày làm 2 hay 3 ca, trung bình mỗi tháng sản xuất từ 2 tới 3 triệu chai. Về loại thuốc uống, các máy của Nhật, của Ý, của Mỹ để làm thuốc gói, thuốc viên hay thuốc nƣớc sản xuất gần trăm đặc chế đủ loại, có thứ cả chục triệu đơn vị một tháng. Phải kể thêm rất nhiều loại thực phẩm gia súc. Tenamyd-Unitex trở thành một viện bào chế tầm cỡ lớn của Đông Nam Á. Tổ hợp này khánh thành vào giữa năm, có cả một số phóng viên Việt Pháp Mỹ phỏng vấn. Từ đó, cơ sở đƣợc nhiều sinh viên dƣợc khoa, dƣợc sĩ, bác sĩ, thƣơng gia và khách ngoại quốc tới thăm viếng. Toàn thể nhân viên trên dƣới 500 ngƣời. Số thƣơng vụ mỗi năm lên đến cả một hai tỷ bạc, tƣơng đƣơng với hai ba triệu Mỹ Kim thời đó. Điều mà Tenamyd có thể hãnh diện là tất cả công việc bào chế đều do dƣợc sĩ kỹ sƣ đƣợc đào tạo trong nƣớc điều khiển, cùng với những bàn tay khéo léo và óc sáng kiến của công nhân Việt Nam. Số đặc chế dùng bản quyền ngoại quốc gần nhƣ không có, trừ thuốc erythromycin stearate của Abbott. Số chuyên viên ngọai quốc để tham khảo cũng rất ít. Đôi khi trong lúc hội họp và bàn luận, còn có sự hiện diện của kỹ sƣ Võ Đức Diễn, một giáo sƣ đại học kỹ thuật, nhiều kiến thức và giỏi về ngoại ngữ. Một số tài liệu giao dịch bằng tiếng Mỹ đã đƣợc dƣợc sĩ Nguyễn Khánh Tƣờng phụ trách. Năm 1969, Tenamyd gửi hai dƣợc sĩ Nguyễn Loan và Vũ Thị Mỹ Châu đi nghiên cứu thị trƣờng tại Hồng Kông và Nhật Bản. Đó là thời cực thịnh của Tenamyd.
Cố nhiên một khi cây đơm hoa kết quả thì nhiều ngƣời có thể nhận là mình đã vun trồng. Nhƣng có lẽ phải lấy sự thành công của Tenamyd để đánh giá trị tập thể chuyên viên thì đúng hơn. Những dƣợc sĩ kỹ sƣ tài năng và thân thiết tại đây, lâu dần đã đƣơng nhiên trở thành nhóm Tenamyd. Đƣợc tạo nên theo tình đồng đội trong công việc, và sự thủy chung trong tình nghĩa. Sau này tuy phân tán vì đủ mọi duyên cớ, nhƣng mỗi khi gập nhau, nhóm nòng cốt của Tenamyd luôn luôn giữ đƣợc thực thể thuần nhất. Ít lâu sau anh Nam mang gia đình sang Canada lập nghiệp. Trƣớc khi đi, anh nhắc nhở tôi là ở nhà lo trông nom cho phẩm chất của các thuốc Tenamyd. Anh có than là nơi chốn này có làm nhiều rồi nƣớc lã cũng trôi ra sông biển. Nhƣng tôi không hỏi và không muốn biết lý do vì sao anh ra đi. Ở nhà có chị Nam lo liệu đủ công việc, có dƣợc sĩ Nguyễn Thanh Nhàn phụ giúp. Nhàn cùng lớp với Nam và tôi, thƣờng hay kể cùng tôi về sự thủy chung bè bạn trong cuộc sống. Vào những năm đó, cơ sở sản xuất còn có thêm nhiều nhân vật mới, giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu, các dƣợc sĩ Dƣơng Thị Quỳnh, Ngô Thị Ngà. Chị Quỳnh là phu nhân của dƣợc sĩ Đào Trọng Hiếu. Tôi sẽ không kể những dƣợc sĩ làm ngắn hạn với tôi nhƣ Nguyễn Hồng Loan, sau ra làm cho công ty nhập cảng IPC của dƣợc sĩ Đặng Quốc Cơ. Tới khi anh Nam về lại Sài Gòn vào cuối năm 1972, thì giáo sƣ Nguyễn Hiệp ra cộng tác với dƣợc sĩ Phạm Hy Tân rồi mở riêng viện bào chế Biothera, dƣợc sĩ Hà Dƣơng Thị Quyên đi lập công ty mỹ phẩm Lan Sơn. Lúc này, dƣợc sĩ Nguyễn Tuyết Bích, phu nhân của bác sĩ Nguyễn Văn Thiệu, bắt đầu gia nhập Tenamyd, mà nhiệm vụ là sắp xếp công việc bào chế mỹ phẩm, dự trù hợp tác với công ty Coty của Pháp.
Thời gian anh Nam đi sang Canada, tôi dần dà mất đi ứng thú làm việc tại Tenamyd. Nhiều lý do đƣa chúng tôi đến việc quyết định ra mở viện bào chế Pharmekon vào đầu năm 1972. Vì cơ sở đƣờng Tự Đức đƣợc dƣợc sỉ Nguyễn Chí Nhiều cho mƣợn không điều kiện? Vì sự chung vốn góp sức của dƣợc sĩ Tạ Văn Quang, ngƣời bạn thân và hiền hậu từ thuở trung học? Vì chị Quang là Đặng Thị Hòa, một giáo sƣ mẫu mực của trƣờng trung học Lê Văn Duyệt? Còn bao lý do khác nhƣng tiếc rằng chúng tôi đều không có tài quản trị điều hành. Những khó khăn xuất hiện vì thời buổi buôn bán không còn dễ dàng, vì luật pháp ngày một thêm phức tạp rắc rối. Mà xƣa nay cũng đâu có thấy sự kết nghĩa vƣờn đào trong lãnh vực kinh doanh? Tôi còn nhớ những ngƣời thợ đầu tiên, anh Loong, chị Sánh, chị Chín, cô thƣ ký Ánh. Ít lâu sau, một việc mới lại bắt đầu đến với tôi kể từ khi Pharmekon đƣợc mở rộng mà dƣợc sĩ Nguyễn Loan là Tổng Giám Đốc. Với trên sáu chục cổ đông tên tuổi, tổ chức và điều hành theo một khuôn mẫu mới, có sự hỗ trợ của Tổng Giám Đốc Dƣơng Ngọc Xuân trong Phƣơng Nam Ngân Hàng. Tổ hợp này có các bác sĩ Lƣơng Trọng Cửu lý tƣởng, Nguyễn Đức Liên nhiều tài vận động tổ chức, Nguyễn Ngọc Kỳ có đầu óc xã hội, Vỏ Thƣơng rắn giỏi đầy nam tính. Có các bác sĩ Phạm Ngọc Tỏa, Tạ Thúc Phú, Đặng Ngọc Thuận, Đặng Huy Lƣu, Tô Văn Nghiễn, Hoàng Quý Kế, Phạm Ngọc Giao, và Trần Văn Khang trắng trẻo đẹp trai, Nguyễn Hoàng Hải hay cả y khoa lẫn tử vi. Còn phải kể các dƣợc sĩ Tạ Văn Quang, Nguyễn Thị Ngọc Trâm, Trần Ngọc Du, và Nguyễn Tiến Đức vui vẻ hoạt bát, Vƣơng Lan Hƣơng nhanh nhẹn quán xuyến. Có luật sƣ Tạ Văn Tài thông minh và nổi danh. Và còn nhiều các bạn khác mà tôi không thể kể hết ở đây. Đại hội cổ đông mới họp mặt và ăn tết vui vẻ đƣợc một lần đầu năm 1975. Nhƣng cơ sở này thƣơng vụ chƣa thật tốt đẹp để đánh giá phƣơng cách tổ chức mới, sản phẩm còn ít sản xuất chƣa nhiều để kể lại, thì Sài Gòn đã thất thủ. Từ đó, nhóm Pharmekon đa số bỏ của chạy lấy ngƣời và thoát dần ra ngoại quốc, rồi đều an cƣ lạc nghiệp. Và thế hệ thứ hai đã thành công trong nhiều lãnh vực ở xứ ngƣời, mang lại niềm kiêu hãnh cho dòng Việt ly hƣơng.
Chuyện xƣa chuyện nay
Nhiều tài liệu giá trị về dƣợc khoa thời Cộng Hòa có thể tìm thấy trong các bản phúc trình tại Hiệp Hội Dƣợc Sĩ Á Châu vào năm 1974. Về Kỹ nghệ dƣợc phẩm của dƣợc sĩ Nguyễn Phạm Ấn, về Dƣợc Phòng lẻ của dƣợc sĩ Lâm Xuân Quang. Sau năm 1975, các dƣợc sĩ Nguyễn Phạm Ấn của Viện Bào Chế TVT và Phạm Gia Uy của Viện Bào Chế OPV đã viết lại về ngành sản xuất trong các tập san ở hải ngoại. Những dƣợc sỉ phụ trách kỹ thuật thời đó còn có Ngô Ngọc Anh, Vũ Ngọc Phách của Roussel, Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Quý Thái của Vanco, Từ Viêm Đại của Biofarmo. Dân Y phải kể dƣợc sỉ Vũ Văn Hiến, Quân Y cũng có dƣợc sỉ Tạ Văn Quang. Phần tôi cũng có vài dịp để mô tả sơ lƣợc về vấn đề này trong cuộc Hội Thảo Dƣợc Khoa Sài Gòn năm 1972, trong Đại Hội Quân Y Toàn Quốc tại Cần Thơ cuối năm 1973. Phải nói ngành bào chế tại Việt Nam đã phát triển mau lẹ và mang lại niềm hãnh diện cho giới chúng ta. Nhờ các dƣợc sĩ tiên phong tài ba Nguyễn Thị Hai, Nguyễn Cao Thăng, Bùi Đình Nam. Và các dƣợc sĩ Dƣơng Thành Quới, Trƣơng Văn Chôm, Đặng Quốc Cơ, La Thành Trung, Phan Nhàn, Chƣơng Văn Vĩnh, Nguyễn Chí Nhìêu, Thái Tƣờng, Hà Ngọc Hải, Nguyễn Xuân Duyệt, Phan Huy Sáng. Những năm gần cuối thì OPV thiết lập đƣợc dàn máy tối tân sản xuất chai huyết thanh sinh lý tại cơ sở vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Riêng viện bào chế Trang Hai có tổng hợp đƣợc chloramphenicol, chừng 40 tấn mỗi năm. Tuy nhiên, chúng ta còn luôn luôn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập cảng. Sau năm 1975, tình trạng ngành bào chế trong Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã đƣợc giáo sƣ Đặng Vũ Biền tóm tắt sơ lƣợc. Bài này đăng ở nội san của Aphavina vào năm 1995. Tenamyd trở thành Xí Nghiệp Dƣợc Phẩm 23.
Trƣớc tết Mậu Thân 1968, Nam có bàn với tôi là tại sao giới chúng ta lại không mở rộng lãnh vực hoạt động sang một vài ngành công kỹ nghệ khác? Anh lúc nào cũng tính toán làm thêm một chuyện gì, nhƣ hóa phẩm, mỹ phẩm. Tôi nghĩ vấn đề không phải vì tiền, mà vì anh là con ngƣời rất hiếu động. Anh cho rằng nếu lập cơ sở chế tạo bột giặt, thì có thể dễ thành công. Lúc đó nhu cầu thì nhiều, bột giặt Vifon mà hoa kiều làm chủ không có đƣợc phẩm chất nhƣ Tide. Anh nhờ tôi viết dự án tổng hợp chất bột giặt từ các tài liệu ngoại quốc, rồi nộp cho cơ quan Phát Triển Kỹ Nghệ Sofidi của bộ Tài Chánh xin cho vay tiền đầu tƣ 24 triệu đồng, lúc đó bộ trƣởng là Trần Văn Kiện. Chúng tôi sẽ áp dụng kỹ thuật của Ý trong việc sản xuất. Kỹ thuật này độc đáo, vì dùng phản ứng sulfon hóa trực tiếp các hydrocarbure đặc bởi hơi SO3 thay vì acid sulfuric. Nghĩa là chỉ cần hai nguyên liệu là dầu cặn và lƣu hoàng. Tiếc rằng dự án đó đã không đƣợc chấp thuận. Khi Tenamyd đã nổi tiếng, thôi thì đủ chuyện thị phi. Và chuyện kiện cáo cũng khó thể tránh đƣợc, nhƣng giải quyết xong thì vui vẻ cả làng. Có lần hãng Pfizer vì tranh dành thị trƣờng, đã kiện Tenamyd khi bào chế Tetramycin là mạo thuốc Terramycin của họ. Thật ra hai đặc chế khác nhau rất nhiều. Thứ nhất vì khác thuốc, Tetramycin là tetracyclin trong khi Terramycin là oxytetracyclin. Thứ hai vì khác cách trình bầy, Tetramycin ở dạng thuốc viên bọc đƣờng mà Terramycin có dạng thuốc con nhộng. Thứ ba là sự chỉ dẫn trong toa thuốc khác nhau. Và vân vân. Chúng tôi phải đích thân trình bầy những lý do này với Luật Sƣ Vƣơng Văn Bắc để ông lo bào chữa. Kết cục Tenamyd đƣợc vô can. Nếu chúng tôi thỉnh thoảng có chuyện lo nghĩ chung về công việc, thì cũng có lúc chúng tôi cùng tìm cách xả hơi, hay ăn chơi vui vẻ. Khi Nam từ Canada trở về cuối năm 1972, chúng tôi nhiều lần hàn huyên và đứng uống nƣớc dừa của ngƣời bán rong trƣớc cửa công ty Tƣờng Nhật, đi đánh tennis tại Câu lạc bộ Thể Thao Sài Gòn, hay đi trƣợt nƣớc trên sông Sài Gòn. Anh Võ Đức Diễn, phu quân của chị dƣợc sĩ Đào Diệp Khanh, đã dậy chúng tôi đi monoski này. Trƣợt nƣớc và cắt sóng có lẽ là môn thể thao chúng tôi ƣa thích nhất, vì sau khi đi về thấy gân cốt thƣ giãn nhƣ đƣợc tẩm quất. Nam thƣờng hay đi qua đón tôi tại căn nhà đƣờng Trần Dõan Khanh. Nhiều khi chúng tôi đang trƣợt sóng trên sông thì gập tầu của Tổng Thống Thiệu và đoàn Giang Cảnh cũng tới. Nam phải sang đi với ông Thiệu, còn tôi tiếp tục lộ trình của mình. Di tản sang Mỹ, tôi vẫn tiếc không có dịp trƣợt nƣớc nữa. Muốn kiểm lại dung nhan ngày ấy, mà ảnh cũ cũng không còn. Kể cả chiếc xe Peugeot 304 Tenamyd tặng cho tôi thời ấy!
Sau 1975, nhóm Tenamyd đã mỗi ngƣời một ngả. Có lần dƣợc sĩ Khánh Ngọc đến thăm chúng tôi tại tƣ gia ở San Diego. Chị bị kẹt lại ở Sài Gòn mấy năm sau tháng tƣ đen. Chị cũng kể sơ qua những sự việc tại Tenamyd thời đó. Có lúc chị bị khám xét, bị tố cáo, bị bắt giam. Nghe thấy chán nản và sợ hãi. Những sự đối xử tệ hại nhƣ vậy sao lại có thể xẩy ra giữa nhân viên trong cùng một hãng? Hay là vì hoàn cảnh, vì chế độ, con ngƣời ta đã đánh mất đi bản năng lƣơng thiện của mình? Cho đến nay, có nhiều dân Tenamyd và thân hữu định cƣ ở hải ngọai. Đông nhất ở Mỹ, rồi đến Canada. California có Tô Đồng & Nguyễn Loan ở San Diego, Nguyễn Văn Thiệu & Nguyễn Tuyết Bích và Hà Dƣơng Thị Quyên ở Quận Cam, Nguyễn Thị Kim Thƣ ở San Francisco. Texas có Phùng Thị Khánh Ngọc, Nguyễn Bích Ngọc, Phạm Thế Biểu, Nguyễn Khánh Tƣờng. Florida có Võ Thị Phứơc. Kansas có Nguyễn Đỗ Thúy Hƣơng. Maryland có Vũ Thị Ngọc Diệp. Chị Diệp trở thành một khoa học gia làm việc cho cơ quan Y Tế Quốc Gia NIH. Chị vẫn cho rằng những tháng ngày làm cho Tenamyd là đẹp nhất. Tuy không phải là nghị gật, tôi cũng hoàn toàn đồng ý với chị. Montréal, Canada có Võ Đức Diễn & Đào Diệp Khanh, Tôn Nữ Chi Đính, Trịnh Đình Thiện & Hà Thị Phấn, Vũ Thị Hải, Ngô Thị Ngà. Paris có Trần Nhƣ Nguyên. Riêng Bùi Đình Nam & Đào Ngọc Khánh, hai nhân vật quan trọng nhất của Tenamyd
thì trở về lại Hà Nội-Sài Gòn! Ôi, mỗi ngƣời một phận. Nhƣng thật là may mắn, mỗi khi chúng tôi có dịp gập lại nhau, là nhóm Tenamyd đi ăn uống cùng, đi du lịch cùng, hay kể lại những kỷ niệm thật là vui nhộn. Chúng tôi vẫn đặc biệt giữ đƣợc tình thân ái ngày cũ, cho dù không gian nay cách trở và năm tháng qua nhanh nhƣ bóng câu. Tin tƣởng nhƣ vậy, và quên đi sự thành bại xƣa nay, tôi đã viết lại những dòng trong bài này.
19 tháng 11, 2003
CHƢƠNG MƢỜI
Đƣờng về quê mẹ
Cuối năm 1994, đúng vào ngày sinh nhật thứ sáu mƣơi mốt, tôi nhận đƣợc thƣ của cháu gái Xuân Dung, con đầu lòng của bà chị ruột tôi. Trong thƣ có những đoạn nhƣ sau: "Chú có biết không, cháu vẫn còn nhớ lần đầu tiên khi mẹ cháu nói cháu biên thƣ cho chú, hồi đó cháu còn bé lắm, mới đi học cấp một. Mẹ cháu cho cháu xem tập ảnh gia đình, chỉ ảnh chú cho cháu xem và khen chú hết lời. Dù chƣa hề gặp mặt chú, nhƣng cho đến nay cháu vẫn giữ nguyên những tình cảm từ buổi đó đối với chú. Cháu thấy chú gần gũi và đáng tự hào và cháu đã ao ƣớc thật sự để đƣợc khoe chú với bè bạn cháu. Kỷ niệm tuổi thơ là nhƣ vậy đấy chú ạ...Bây giờ cháu cũng rất mong chú về, mong da diết, nhƣng không phải là mong cho bản thân cháu nữa. Giờ đây cháu ao ƣớc chú về đƣợc để gập bà ngoại cháu. Bà không nói ra nhƣng bà đang mong gặp chú từng ngày, từng ngày một. Mắt bà đang kém dần nhƣng bà vẫn còn nhìn thấy, không biết còn nhìn đƣợc bao lâu nữa. Năm nay cháu đã ngoài bốn mƣơi, thời gian bà xa cách chú còn dài hơn thế nữa. Cháu chỉ mong cuối năm nay chú đƣợc gặp bà, để bà toại nguyện và chú cũng đƣợc thảnh thơi nhẹ nhõm trong lòng,... Cháu gửi tặng cô chú tấm ảnh bà vào chơi Sài Gòn và chụp ảnh chung với mẹ cháu và chúng cháu hồi năm kia. Lúc đó bà còn khỏe nhiều, và trông bà rất đẹp lão. Bây giờ bà yếu đi nhiều, mắt mờ rồi, nhƣng vẫn còn minh mẫn chú ạ,... Và cũng một lần nữa, cháu mong mỏi chú thu xếp về thăm bà sớm, vì bà đang mong chờ chú, từng ngày, từng ngày một."
Lá thƣ của cháu Dung đã làm cho tôi mất ăn mất ngủ nhiều ngày. Cũng không phải đây là lần đầu tôi phải ray rứt về một bổn phận mà tôi cố tình lần lữa. Tuy tôi hằng mơ ƣớc đến ngày đƣợc gập lại mẹ, chị em, cùng các cháu mà tôi chƣa hề quen mặt nhớ tên, và tất cả bà con trong họ qua bao năm xa cách. Vào ngày Giáng sinh năm trƣớc, một bạn thân tại Hà Nội, anh Bùi Đình Nam, sau khi đến thăm mẹ tôi, có gọi điện thoại nhắc nhở tôi phải về ngay, vì mẹ tôi đã yếu lắm rồi, không về e không kịp. Vả lại, tôi đã mang tội bất hiếu khi phải vắng mặt lúc bố tôi mất, hơn mƣời bốn năm về trƣớc rồi. Nhƣng chả hiểu tôi trả lời lúng túng ra sao để anh cúp máy đến rụp. Anh ấy cũng có nỗi khổ tâm, vì khi về đƣợc nhà thì chỉ gập lại ông bố, và bà mẹ đã không còn nữa. Các em tôi cũng nhiều lần nhắc nhở bây giờ có thể về dễ dàng, cho rằng chỉ là chuyện viển vông nếu tôi nghĩ sớm muộn sẽ đƣợc gập mẹ, thí dụ ở một thế giới nào khác. Riêng mẹ tôi bảo là tôi nhát nhƣ cáy nên cố kiếm cớ thoái thác. Và những hình ảnh cũ của ngày 12 tháng 7 năm 1954 lại hiện ra nhƣ mới ngày hôm qua. Hà Nội đang đi vào giữa mùa hoa phƣợng, khi những kỳ thi cuối năm của khóa thứ nhất đã chấm dứt. Chúng tôi, những sinh viên sĩ quan của trƣờng Quân Y Trung Ƣơng Việt Nam, theo thƣờng lệ, phải đi Đà Lạt học tập quân sự một tháng hè. Sáng hôm đó nắng chói chang, trời oi bức, không có lấy một làn gió nhẹ. Chúng tôi leo lên mấy chiếc quân xa để sang phi trƣờng Gia Lâm, lấy máy bay dân sự của hãng Cosara đi Đà Lạt. Chiếc GMC vừa vƣợt qua cổng trƣờng phố hàng Chuối, thì ngay tại góc đƣờng Trần Hƣng Đạo, tôi đã bắt gặp
những cái vẫy tay của bố mẹ tôi và hai bác Nguyễn Tƣờng Phƣợng. Ôi một cảnh biệt ly nhung nhớ, tôi vẫy vẫy tay nhƣ cố gửi lại một cữ chỉ từ biệt. Một anh bạn ngồi cạnh lấy làm ngạc nhiên sao bố mẹ à hai bác tôi lại bầy vẽ chuyện tiễn đƣa. Vì chúng tôi chỉ phải đi Đà Lạt có một tháng hè, rồi sau đó sẽ trở về Hà Nội để tiếp tục học chữ. Nhƣng sự thực dạo ấy đã có quá nhiều tin đồn về việc chia cắt đất nƣớc làm hai, nên gia đình tôi có lẽ linh cảm rằng tôi sẽ phải đi biền biệt không biết ngày nào trở lại. Trƣớc đó mấy hôm, anh bạn thân Dƣơng Minh Châu có chụp cho bố mẹ và anh em tôi một số ảnh mới. Tôi vội vã đem đi rửa tại một hiệu ảnh ở phố nhà thờ mỗi cảnh lấy hai tấm, một để lại và một mang theo. Tôi còn lựa thêm một số ảnh cũ của gia đình, kể từ lúc tôi mới một vài tuổi, và của bè bạn thời niên thiếu.
Thế mà quả thật chỉ tám ngày sau, Hiệp Định Genève chia đôi đất nƣớc đƣợc ký kết, để không biết đến bao giờ tôi mới có dịp về lại mái ấm gia đình thân yêu tại Hà Nội. Thấm thoát mới đó mà đã hơn 40 năm. Bây giờ, tôi phải cố trở về bằng mọi giá, dù đã có lúc nghĩ rằng sẽ phải về một mình, để nhà tôi ở lại Hoa Kỳ cùng với các con. Thật là may mắn, vào dịp đó, tôi đƣợc biết chị Khánh Hoài, một ngƣời học trò thân cũ, đứng ra tổ chức chuyến du lịch đầu tiên về thăm Việt Nam. Sau khi bè bạn đã có dịp về nƣớc trƣớc đó đoan chắc là sẽ không gặp khó khăn gì, tôi và nhà tôi bèn hăng hái ghi tên. Tôi vội điện về gia đình cho chị em biết chƣơng trình du lịch và ngày giờ chúng tôi sẽ về thăm nhà. Để có thể khởi hành vào giáp ngày Giáng sinh, chúng tôi đã mở quà tối hôm trƣớc, ăn bánh Noel của tiệm Pierre và chụp mấy tấm hình kỷ niệm. Tôi đem theo máy hình mới đƣợc thay pin, và cả chục cuộn phim. Sáng sớm hôm sau, sửa soạn lại hành lý xong, hai cháu Bảo Châu và Hoàng đƣa bố mẹ ra phi trƣờng San Diego. Trời lâm râm mƣa. Khi đến quầy American Airlines, máy bay chuyển hoán nhỏ đã bán lố 2, 3 vé, nên phải chờ đến gần 8 giờ mới chắc là có chỗ ngồi để lên Los Angeles. Tới đây, cháu Huy và vợ Cara đón ở phi trƣờng rồi cùng đi sang ga chót Bradley.
Đến 9 giờ 30 mới thấy chị Khánh Hoài ra tới, và giới thiệu những ngƣời trong chuyến du lịch. Tất cả hơn mƣời ngƣời, có cụ Huỳnh Bân, cô Nguyễn Ánh Tuyết em Khánh Hoài, anh chị Pierre Paul Dansoreau và Ngô Phi Bằng, các chị Koster Ngô Phi Phụng, Thanh Vân, Thị Nhiễu,Yvonne Lê Hồng và anh Victor Marcel. Chuyến bay của Thái International rất êm với Boeing 747, và phải mất 13 giờ 30 mới tới Seoul. Lúc đó, vì có một vụ lộn xộn xẩy ra giữa Bắc và Nam Hàn, nên ngay khi xuống phi trƣờng trong ngày Noel, chúng tôi đã bị giữ tại một khu riêng biệt, để chờ tiếp tục chuyến bay dài 5 giờ 15 đi Bangkok. Tới phi trƣờng nơi đây vào lúc 11 giờ đêm. Cả nhóm lấy hành lý rồi làm thủ tục nhập cảnh tạm cho ba đêm. Về khách sạn Mandarin, 662 Rama IV, Bangkok, phòng khách chăng đèn kết hoa rực rỡ mừng mùa Giáng sinh. Một không khí tƣng bừng nhƣ đón chào khách du lịch từ thập phƣơng. Không hiểu sao tôi cả đêm trằn trọc, dù đã uống thuốc ngủ mà vẫn chợt thức dậy từ lúc 4 giờ sớm. Theo chƣơng trình, chúng tôi đƣợc thăm viếng Thái Lan mấy ngày trƣớc khi về Hà Nội. Xuống khách sạn ăn điểm tâm, rồi ra xe đi thăm cung điện Grand Palace và chùa Emerald Buddha. Sau khi đi xem nữ trang tại Intar International Center, chúng tôi ăn bữa trƣa muộn với các món ăn đồ biển thật tƣơi ngon, rồi về lại khách sạn nghỉ chừng 1-2 giờ. Chiều đến lại đi xem "Phật bốn mặt". Đến bữa cơm tối, chúng tôi lại chọn đồ biển với tôm, cua còn thật tƣơi, giá khoảng $12-15 một phần.
Sáng ngày hôm sau, 27 tháng chạp, theo chƣơng trình, cả nhóm đi thăm viếng nền văn hóa và coi ca múa của xứ này tại Làng Thái. Chúng tôi ra đi từ lúc 7 giờ sáng cùng cô hƣớng dẫn Sunee Gabbua, trên một chiếc xe Van lớn đầy đủ tiện nghi. Hai bên đƣờng xuyên qua các ruộng muối, có đầy hoa râm bụt, hoa bông xứ đủ mầu, với những cây bàng, cây bông giấy. Phong cảnh tựa
nhƣ một miền quê Việt Nam với rất nhiều sông lạch và các rặng dừa. Đi ăn trƣa, kiểu nhiều ít tùy theo sở thích, món ăn thật ngon và có những trái cây tráng miệng miền nhiệt đới đủ loại nhƣ dừa, măng cụt, doi, chôm chôm, ổi xá lị. Tại "chợ nổi", từng cặp hai ngƣời đƣợc ngồi trên một con thuyền đuôi tôm, để chú tài rồ ga phóng theo các con lạch ngoằn ngoèo của đồng ruộng, làm nƣớc bắn lên tung tóe. Trên bờ, thợ ảnh chụp sẵn cảnh đi thuyền này, rồi dán hình trên đĩa sứ, kỳ kèo giá cả từng đồng khi bán cho khách hàng làm kỷ niệm. Bữa trƣa chúng tôi ăn ở làng Thái, rồi quan sát các tiểu công nghệ về đồ mộc, sơn mài, lụa Thái. Xem trình diễn múa sạp, lễ cƣới, múa các ngón hay móng tay ở vƣờn Hồng. Lúc về, tối đi ăn đồ biển vừa rẻ vừa ngon, uống nƣớc dừa tƣơi mát, tại một hàng ăn ở ngay gần khách sạn Mandarin.
Sáng ngày 28, đoàn chúng tôi ra phi trƣờng để đi Nội Bài. Trong lúc ngồi chờ máy bay từ Bangkok, thấy một vài ngƣời Việt về nƣớc cùng chuyến này. Họ nói đúng giọng Bắc, nhƣng chẳng ai trong nhóm chúng tôi muốn bắt chuyện. Chờ đợi một lúc lâu ở cổng số 6, cuối cùng nhân viên hãng máy bay đột ngột cho đổi chúng tôi sang cổng số 2 để lấy Airbus đi Hà Nội. Chuyến bay rất êm, và trời hôm đó trong sáng thật đẹp. Tôi ngồi ghế sát phía cửa sổ, lơ đãng nhìn những cuộn mây trắng bồng bềnh trải dài trên bầu trời xanh lơ. Lúc phi cơ xuống thấp và sắp hạ cánh, tôi nhoài ngƣời ra ô cửa để ngắm cảnh Việt Nam từ trên cao. Nhiều vùng cây xanh thẫm phía dƣới đan chen với những mảnh đồng ruộng xanh nhạt. Và kià dòng sông Hồng đỏ quạch đất phù sa, đang uốn khúc chảy lững lờ. Quê hƣơng tôi đó. Quê hƣơng thƣơng mến của tôi còn đó. Lòng tôi bỗng nôn nao hồi hộp, một cảm giác khó tả nên lời của ngày trở về. Tôi sẽ đƣợc gập lại mẹ và chị em sau bao năm xa cách, và nhà tôi sẽ gập gia đình bên chồng lần đầu tiên. Rồi tới lúc viết giấy má khai báo.
Khi máy bay đáp xuống phi đạo thật êm, rẽ vào con đƣờng nhỏ để tiến dần về nơi nhà ga. Trong khi tôi còn đang mải quan sát sự quá thô sơ của phi trƣờng Nội Bài, thì phi cảng đã hiện ra sừng sững trƣớc mắt. Chúng tôi xếp hàng để làm thủ tục nhập cảnh. Chị Khánh Hoài đi trƣớc rồi đến cụ Bân. Chỉ tƣơng đối vui vẻ thoải mái thôi. Công an Hải quan tuy không hạch hỏi nhiều, nhƣng lời lẽ và lối xƣng hô không lịch sự cho lắm. Còn có một vài rắc rối nhỏ nhƣ thiếu ảnh, visa không đủ số, thành thử những ngƣời xếp hàng phía sau nhƣ chị Sáu, các anh Victor và Pierre Paul đâm ra lo lắng. Sau cùng cũng yên ổn, cô Vân không bị bắt phải chụp ảnh thêm. Rồi kiếm hành lý, đem ra quầy để công an kiểm soát... Nhƣng nói thế nào thì những tình cảm hân hoan về thăm quê nhà sau bao năm xa cách cũng bị giảm đi rất nhiều khi qua phi cảng này. Ra phía ngoài, xe đủ loại và ngƣời đón đƣa mời chào tấp nập. Có nhiều du khách ngoại quốc, các ông tây balô. Chúng tôi mang hành lý lên xe minibus và xe chạy thẳng ra vịnh Hạ Long. Trên xe, tôi gập chị Nhân là chị chồng của Khánh Hoài, và là ngƣời hƣớng dẫn chuyến du ngoạn này. Chị hiện làm việc cho Bộ Ngoại Thƣơng, em chị là chị Niệm, bạn học của chị tôi khi gia đình tôi còn cƣ ngụ ở tỉnh Hải Dƣơng. Ăn trƣa qua loa trên đƣờng đi. Tới gần tỉnh Hải Dƣơng, xe qua cầu Phú Lƣơng bắc ngang sông Thái Bình. Rồi qua hai phà, phà thứ nhất ngắn, phà thứ hai qua Bạch Đằng Giang lúc chập tối thì dài hơn. Đến Hạ Long gần 9 giờ khuya, đi ăn tại một nhà hàng trƣớc khi về ngủ tại khách sạn Vƣờn Đào khu Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh. Phía bên kia là Hòn Gay.
Sáng hôm sau, 29 tháng chạp, tôi gọi cho cô em gái hay là tối nay chúng tôi sẽ về ăn cơm với gia đình. Chúng tôi đã không vội vã về nhà ngay khi xuống phi trƣờng Nội Bài, cốt để giữ cho lòng mình bình thản, bớt đƣợc nỗi xúc động, nhƣ thể vừa vắng nhà mới đây thôi. Sau bữa sáng ăn bún gà tại Vƣờn Đào, cả nhóm đi thuyền dạo thăm vịnh Hạ Long, thắng cảnh đẹp nhất của Việt Nam. Nƣớc biển trong xanh biếc, núi lớn núi nhỏ mọc lên sừng sững từ lòng vịnh, nhiều hang động
nay thành thần thoại. Hòn Trống Mái, hòn Oản, hòn Ấu. Hang Dấu Gỗ, hang Bƣớm. Cảnh thần tiên này đã có biết bao nhiêu văn nhân mô tả. Chúng tôi chụp ảnh liên miên, thăm viếng nhiều nơi. Rồi cùng ăn uống vui vẻ trên thuyền, cho tới trƣa mới lên xe để trở về Hà Nội, sau khi qua thăm nơi biệt thự mà Catherine Deneuve đã đóng phim Indochine. Xe tạt qua tỉnh lỵ Hải Dƣơng, nơi tôi đã học nhiều năm tiểu học. Chỉ thấy nhà cửa lớn nhỏ xây cất nhƣ đan chen, xe cộ đông nghẹt và bụi bậm khắp nơi. Những ngƣời lại ngƣời. Đƣờng về lối cầu Chƣơng Dƣơng, một cây cầu mới xây trên sông Hồng, khá xa cầu Long Biên cũ. Tới Hà Nội, chúng tôi ghi tên ở khách sạn Thắng Lợi, do Cuba viện trợ xây cất. Căn phòng chúng tôi ở đầy đủ tiện nghi, trông ra hồ Tây. Trời giá lạnh nhƣng máy sƣởi ấm áp. Tắm rửa xong, xuống phòng khách, chúng tôi gập lại anh Nam sau hai mƣơi năm xa cách. Cũng là một chuyện lạ, vì không thiếu gì dịp nơi xứ ngƣời kể từ năm 1975, mà đến nay mới gập nhau. Anh đến để đƣa chúng tôi về với gia đình, rồi sẽ cùng nhóm du lịch đi ăn chả cá Lã Vọng, trên một chiếc xe ca nhỏ của Hanoi Tourism.
Từ nay, chúng tôi tạm thời tách ra khỏi nhóm. Hà Nội đã lên đèn, nhƣng trời vẫn nhá nhem tối. Xe vừa đậu phía đối diện gần nhà số 46 phố Thợ Nhuộm, tôi thấy lố nhố các em tôi đứng đón tại cổng. Nhƣng đƣờng phố còn nhiều xe máy, xe đạp chạy nhƣ mắc cửi, chúng tôi thật khó khăn mới dắt nhau qua đƣợc an toàn. Anh em gập nhau tay bắt mặt mừng, vui nhƣ chợt thấy lại cả quãng đời niên thiếu. Đi vào tới sân, có các em dâu em rể, các cháu đông đủ chào đón. Căn nhà cũ bây giờ đƣợc xây cất thêm nhiều gian, có đến ba gia đình các em tôi ở đấy. Chúng tôi bƣớc vào chào mẹ tôi. Cụ đứng đợi trong phòng, đang nao nức gập chúng tôi tối nay. Mẹ tôi 89 tuổi rồi, tuy còn minh mẫn nhƣng đã già yếu. Từ nhiều năm qua các chị em phải khuyến khích cụ cố gắng ăn uống, giữ gìn sức khỏe, để còn mong có dịp này. Gập lại tôi là con trƣởng, thất lạc đã hơn 40 năm. Và gập nhà tôi là con dâu trƣởng, lần đầu tiên sau hơn 32 năm chúng tôi lấy nhau. Tôi ôm lấy mẹ tôi, thƣa mẹ rằng chúng con đã về đây. Vâng chúng con đã về đây. Cả nhà mừng vui nhƣ chúng tôi mới vừa đi du ngoạn trở về. Mà không một ai để nƣớc mắt trào ra. Mẹ tôi cố ngăn sự xúc động, bình thản bảo tôi xoay mặt về phía đèn sáng để cụ dễ nhận. Rồi cụ thoáng vui lên, sai tôi thắp hƣơng lên bàn thờ, để lễ cụ Đốc Đông Tô Huân, lễ bố, lễ em Đang.
Sau đó, tất cả chúng tôi xuống nhà cô em Ngọc Loan để ăn tối. Bữa cơm thịnh soạn, có vài món nấu, có nem chua, chả cua bể, gà rán, giò lụa. Mẹ tôi ngồi giữa tôi và nhà tôi. Chú Đằng nói mấy
câu chúc mừng chúng tôi đã về đƣợc thăm mẹ và cả nhà, rồi lần lƣợt giới thiệu các em dâu em rể, các cháu. Tất cả nâng ly mừng cho ngày gập mặt tƣơi đẹp này. Chúng tôi ăn uống vui vẻ thoải mái, bất kể rau sống quả xanh. Rồi chụp ảnh. Mẹ tôi nói đủ chuyện, những việc gia đình, những ngày sơ tán chạy bom đạn. Và cũng hỏi đủ chuyện, nhƣng không hề phàn nàn hay trách móc điều gì. Mẹ tôi dặn khi nào chúng tôi thấy mệt thì cứ việc về khách sạn mà nghỉ, tới lúc đó mẹ mới lên phòng mình để ngủ.
Tôi hỏi mẹ:
-"Mẹ có điều gì dậy bảo con dâu trƣởng không?"
Mẹ tôi trả lời:
-"Cô ấy giữ đƣợc anh là giỏi rồi."
Tôi tiếp:
-"Ở nhà đã có em Đằng lo mọi công chuyện rồi, nên tuy ở xa con cũng không lấy gì làm lo lắng cho lắm."
Mẹ tôi nói:
-"Anh là trƣởng nhƣng là trƣởng giả, em nó là thứ nhƣng là thứ thiệt đấy."
Rồi mẹ tôi bảo:
-"Anh hay đƣợc cái giỏi nói thôi, lúc nào cũng căn dặn các em đẻ ít. Các em ai cũng chỉ có hai con, mà anh thì có những ba đứa."
Mẹ tôi còn nói vui đùa là có ba điều ƣng ý: thiếu vi quan nữ, trƣởng vi quan phụ, lão vi quan mẫu. Lúc nhỏ là con quan, lúc lớn lấy chồng quan, lúc già là mẹ quan. Nhƣng có lẽ chỉ thời nhỏ mẹ tôi mới sung sƣớng nhất thôi, vì là con gái một, nên đƣợc ông bà ngoại nuông chiều. Từ lúc lập gia đình trong một thời đại nhiễu nhƣơng, mẹ tôi đã phải cùng chồng lo toan biết bao nhiêu công việc. Cho một gia đình đông con với bốn trai bốn gái. Sáng hôm sau, anh Chu Thế Nhƣơng đạp xe đạp lại thăm chúng tôi. Gập lại anh, tự nhiên nƣớc mắt tôi chạy vòng quanh. Chúng tôi ôm lấy nhau, lời nói nghẹn ngào nhƣ kể lể cho chính mình. Hai chúng tôi bỗng nhớ tiếc thời học trò, thời mới tản cƣ về quê. Anh học trung học Đỗ Hữu Vị trên tôi hai lớp, và là học sinh giỏi thời đó. Sau anh theo trƣờng lên Đào Giã Phú Thọ, đi tòng quân và nay là một tƣớng lãnh hồi hƣu. Anh nói với tôi là lúc nhỏ, ông ngoại xem số đã nói rồi anh sẽ theo binh nghiệp. Trong kháng chiến, thỉnh thoảng khi anh có dịp về thăm nhà, tôi còn đƣợc xem nhật ký của anh. Những cảnh nhà sàn, những con suối nƣớc độc đầy lá mục rữa. Và các con vắt bám lấy ngƣời để hút máu, các con chim hót "bắt cô trói cột" trong rừng già Việt Bắc. Anh qua khỏi những cơn sốt rét thập tử nhất sinh là nhờ bàn tay giúp đỡ của các cô gái miền sơn cƣớc. Anh ghi vội cảm xúc vào ngày cuối năm tây này khi đƣợc gập lại tôi, là ngƣời em và ngƣời bạn tuổi niên thiếu, qua mấy câu thơ sau:
Nửa thế kỷ, nửa vòng trái đất,
Đến hôm nay gập mặt mừng vui
Suy trong cuộc sống mỗi người,
Mối tình cốt nhục, suốt đời ghi sâu.
Buổi trƣa hôm đó, mấy anh chị em chúng tôi ăn tại nhà cô em Ngọc Châm. Còn có thêm anh Đại, anh ruột nhà tôi. Có món bánh chƣng luộc nóng thật ngon. Chúng tôi uống bia, riêng ly của mẹ tôi có pha thêm một chút bột ngọt.
Tôi cảm thấy sảng khoái, và nói với mẹ:
-"Nếu xa nhà mà con thành hƣ hỏng thì mẹ nghĩ sao?"
Mẹ tôi bỗng nghiêm nét mặt lại, và bảo:
-"Con không có quyền nói rỡn với mẹ, con mẹ không thể thành ngƣời vô dụng đƣợc."
Tôi hỏi tiếp:
-"Nếu phân tán vì loạn lạc rồi anh chị em chia rẽ và oán ghét lẫn nhau thì mẹ tính sao?"
Mẹ tôi đáp ngay:
-"Thôi anh lại say rồi chăng?"
Sau bữa ăn trƣa, em Đằng, anh Nhƣơng vừa nằm xuống giƣờng mẹ tôi nghỉ là ngủ đƣợc ngay. Tôi nằm cạnh, không chợp mắt đƣợc lấy dăm ba phút. Lại ngồi dậy nói chuyện với mẹ tôi. Cụ thƣờng không nghỉ trƣa, và đang ngồi ghế kế bên. Cụ bảo tôi đi xa rồi thì ở nhà chán lắm, không có ngƣời nghe mẹ trò chuyện. Chắc các em tôi mải lo bao công việc khác. Còn tôi thì từ lúc nhỏ, tôi đã biết chia sẻ nỗi lo lắng hoặc mừng vui với mẹ. Tôi hỏi mẹ có nhớ thơ của ông ngoại làm không? Mẹ tôi liền đọc cho tôi chép bài thơ sau đây về chùa Yên Tử:
Tục niệm trần tâm tiếu tuyết thu
Vị tăng bán vũ khấu la phù
Sơ hoài nhân tự đăng kiều nhạc
Kế mộ gia đình bộ thắng du
Đan quế phương lan thành quán diện
Thuần lan tuấn lĩnh tẩn hanh cù
Nhị tôn tràng tử sinh dân thập
Đại đại nhai nhai kỷ ngã chu
Rồi đọc tiếp lời dịch, vì biết rằng tôi đã quên hết chữ nho:
Thuở trước đường tu rộng xiết bao,
Núi Yên mấy bận đứng non cao
Thẻ hương tay thắp, nam mô Phật,
Lá sớ đầu dâng, kính lễ sao.
Lội suối trèo non đâu dám quản,
Nâng công giúp quả biết nhường nào.
Con con cháu cháu nên ghi lấy,
Bia tạc chùa đồng thích chữ tao.
Buổi trƣa hôm sau, anh chị Nam mời chúng tôi và cả nhóm du lịch ăn tại khách sạn Sofitel Métropole. Đƣợc nghe các bạn vui kể lại chuyện các thắng cảnh đã xem, rồi hẹn gập nhau tại Sài Gòn để trở về Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Pháp hay Đức.
Trong mấy ngày ở Hà Nội, chúng tôi có xe hơi của chú Đằng mƣớn, đƣa đi mọi chỗ. Hồ Hoàn Kiếm không thay đổi mấy và vẫn đẹp nhƣ xƣa. Vào đền Ngọc Sơn lễ Phật, chụp ảnh trên cầu Thê Húc. Hàng Trống, hàng Đào, hàng Bạc, phố xá nhƣ chật hẹp hơn ngày trƣớc, vì quá đông ngƣời và có nhiều quán bán tạp hóa tràn ra lề đƣờng. Nhà hát lớn cũ còn đang tu sửa. Viện bảo
tàng xƣa vẫn nằm im lìm. Chúng tôi cũng có dịp nhìn ngắm ngôi nhà 151B phố Huế của nhà tôi xƣa, và đi thăm bà con phía nhà tôi. Có hôm chúng tôi đi lễ chùa Trấn Quốc, thắp hƣơng khấn vái. Rồi vào một tiệm ăn ở đƣờng Cổ Ngƣ, cùng mấy anh chị em thƣởng thức món bánh tôm đặc biệt tại đây. Vừa ăn uống vừa nói chuyện vui nhƣ pháo ran. Có bia Tiger, nƣớc ngọt Coca Cola. Tuy nhiên, hƣơng vị bánh tôm không đƣợc nhƣ ngày cũ. Gần khu đê Yên Phụ nay có những quán bán thịt chó nối tiếp nhau từ đầu phố đến cuối phố. Đầy biển quảng cáo đủ loại, trông không mấy hấp dẫn. Nơi phủ Tây Hồ, vẫn còn những vƣờn trồng đầy đào, cây và cành có hoa nở tƣơi thắm để bán vào ngày tết.
Nhân dịp chúng tôi về thăm nhà, mẹ tôi mời bà con trong họ dùng cơm trƣa tại hiệu Maria phố Huế. Mẹ tôi tay vịn cầu thang, tay nắm tay tôi, còn từ từ leo lên đƣợc tới lầu hai. Có khoảng sáu chục ngƣời. Tôi gập lại bác Úy, chị Mai Quý Hiên, các chị Toàn, Dung, Kha, Phú, Lê, Yến, các anh Phiến, Long, Hồng, Tộ, Vũ Oánh, Thảo, Tuấn, các em Sửu, Toán, các cháu Tô Tần, Tô Hùng, Nguyễn Hà Hoạt... Em Đằng thay mặt mẹ tôi đứng lên cám ơn mọi ngƣời có mặt. Mẹ tôi thật vui vẻ, phần vì tôi về đƣợc, phần vì hãnh diện với họ hàng có cô con dâu trƣởng hiền thục. Rồi tất cả ăn uống rất thoải mái, chụp ảnh lƣu niệm và kể mọi chuyện xƣa nay. Anh Nhƣơng mừng mẹ tôi bài thơ sau:
Mừng bà 89 tuổi xuân,
Đông vui con cháu quây quần bên nhau.
Nghĩa tình trọn vẹn bền lâu,
Đó là phúc lớn Xuân Cầu-Kim Ngưu.
*
Anh Phiến có tặng chúng tôi một cuốn sách về thân phụ anh, một nhà văn xã hội tiểu thuyết sớm nhất của nƣớc ta: Văn thơ Đặng Trần Phất. Về thăm nhà tôi mới biết là ngƣời em trai út của tôi cũng hay làm thơ. Lúc tôi rời Hà Nội, "bé" Đang mới 12 tuổi. Bây giờ, khi tôi về, Đang đã mất từ mƣời năm trƣớc vì ung thƣ gan, để lại ngƣời vợ trẻ, và hai con nhỏ. Thơ của Đang nhƣ quá mong manh. Đây là bài "Đẹp", 1966:
Suối chảy hoài chảy hủy,
Mây bay miệt bay mài,
Gió vít cành cuốn lá,
Đi về đâu? Tìm ai?
Mây bay qua lưng đèo
Ôm quanh người em gái,
Bộ ngực căng nhựa đời
Làm xanh nương xanh bãi.
Gió tìm lên đỉnh núi
Nơi tiếng hát tươi vui,
Tự lòng người em gái
Ấm tình đời, sinh sôi.
Suối chảy xuống chân đồi
Nơi người em gái tắm,
Tóc mềm như suối trôi
Da hồng như sắc nắng.
Suối mây và gió ơi
Người đi tìm cái đẹp,
Có biết điều hay nhất
Nàng sống đời thủy chung.
Bài “Anh viết", 1971:
Xa em, xa thị xã
Anh nhớ tháng, nhớ ngày.
Bây giờ anh về đây
Lại giữa lòng thị xã.
Giữa ba bề lối nhỏ
Vài bước là đến em
Hết ngày rồi hết đêm
Nhà em, anh chẳng đến.
Anh viết về ngày tháng,
Xa thị xã, xa em.
Căn phòng con rủ kín
Suy nghĩ và nhớ mong.
Ngoài phố người có đông?
Bước chân em có đợi.
Cơn gió đông tìm thổi
Ánh đèn không đứng yên.
Anh viết, rồi viết thêm,
Về nỗi mong gập lại.
Thơ dẫn anh đi mãi,
Hết tháng lại hết mùa.
Đông đi tự bao giờ,
Mùa Xuân choàng áo mới.
Hoa xuân choàng xe cưới,
Đón em đi, em đi.
Trang giấy và dòng Thơ,
Không rời căn phòng nhỏ.
Tình anh và tình Thơ,
Vẫn như nguồn tuôn đổ
Anh viết và viết nữa,
Hết ngày rồi hết đêm.
Và "Dâng mẹ", 1973:
Tròn ba mươi tuổi xuân đầy,
Con dâng lên Mẹ tháng ngày.
Khúc ca!
Dãi dầu tháng hạ, con qua
Gió thu se...
Đến mặn mà chất quê!
Khúc ca kia...
Khúc ca kia...
Đã nồng lối nắng con đi,
Đã tanh quãng rét, đã ghê gió lồng,
Đã như quê
Đến cháy lòng,
Đất trùm bom lửa suốt vòng tuổi xuân.
Ấy mà, con đã lớn lên!
Ấy mà, Đất Mẹ bình yên đã về!
Tối hôm đó, chúng tôi đƣợc ăn ở nhà bác Úy, một nhà báo tên tuổi của Hà Nội, gần hồ Thiền Cuông. Tôi từng đạp xe đạp dọc bên hồ mỗi buổi trƣa để đến học dƣơng cầm với cụ Duyệt tại Âm Nhạc Học Xá. Hồ này còn là nơi xƣa tôi thƣờng bơi thuyền vào những sáng mùa hè. Lúc ra về nhà, chúng tôi dắt nhau rảo bƣớc qua những con phố im vắng, trong cái se lạnh của ngày cuối năm. Nửa đêm về khách sạn, cây cối chung quanh đƣợc chăng đèn kết hoa sáng rực, tất cả nhƣ chào mừng tết Dƣơng lịch mới đến.
Sáng mồng một, chúng tôi lên hai chiếc xe ca cùng gần ba chục anh chị em bà con ở Hà Nội để về làng Xuân Cầu. Trời mƣa phùn gió bấc từ đêm hôm trƣớc, khi mƣa khi tạnh. Tại nhà thờ tổ, xây dựng lại trên nền đất nhỏ của hậu cung cũ đƣợc gập bà con nơi quê nội. Em Tô Thế, em Sửu, em Khánh, cháu Tô Sách,... Chúng tôi lễ cụ cố Tô Huân, rồi ra nghĩa trang của làng thăm mộ bố, em Đang, chú Mỹ, em Phục,... Mƣa vẫn còn sùi sụt, trời giá lạnh. Chỉ qua một cánh đồng là tới làng Kim Ngƣu quê ngoại, mà chúng tôi đành chờ dịp khác về thăm. Vì có ít thì giờ, và cũng vì anh em bên ngoại lúc đó còn đang phải tìm kiếm phần mộ của ông bà đã bị dời đi đâu mất trong thời cải cách. Tối hôm ấy, mấy anh em chúng tôi đi lễ tại chùa Quán Sứ, lâm râm khấn vái. Cảnh tƣợng trang nghiêm từ bao năm, với khói nhang nghi ngút.
Sáng 3 tháng 1, 1995, chúng tôi về xin phép từ biệt mẹ, chào các em các cháu, rồi ra phi trƣờng Nội Bài lấy Airbus của Việt Nam Airlines đi vào Sài Gòn. Chuyến bay thật êm. Tới Tân Sơn Nhất lúc 3 giờ chiều. Phi cảng không khác xƣa mấy, vẫn còn cảnh nghèo nàn, nhƣng hành khách có đông đảo hơn. Chị em và mấy cháu ra đón chúng tôi tại phi cảng, nỗi mừng vui gập lại nhau không nói hết lời. Lần cuối gập chị Xuân Nhân trong thời kháng chiến vào năm 1949, nay đã hơn 45 năm. Xa em Hoa, em Hoàn từ ngày rời Hà Nội năm 1954, cũng đã hơn 40 năm. Ôi thời gian qua nhanh với bao nhiêu vật đổi sao dời. Về tới khách sạn Saigon Lodge Hotel 215 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, chúng tôi đƣợc gập hai giáo sƣ Vũ Khánh và Nguyễn Vĩnh Niên. Tay bắt
mặt mừng. Giáo sƣ Khánh nay là Khoa Trƣởng, vừa là bà con, vừa là bạn học cũ. Giáo sƣ Niên tuy tôi đã đƣợc gập lại tại Pháp vào năm 1992 ở nhà giáo sƣ Đặng Vũ Biền, mà lạ thay, thấy nhƣ đã xa từ lâu lắm. Dƣợc sĩ Phạm Hữu Hiền cũng có đến thăm và mang cho ít cà phê Đà Lạt.
Tối chúng tôi đến nhà chị Nhân ăn cơm chiều cùng các em các cháu trong Nam. Em "bé" Hoa lúc tôi rời Hà Nội còn nhỏ xíu, nay đã có chồng và hai cháu, hiền lành nhƣ hồi còn nhỏ. Cũng nhƣ bé Hoa, chị Cảnh nay thành ngƣời lớn, nhà cửa yên vui. Chị Nhân có bốn cháu gái duyên dáng và nhanh nhẹn, đều có gia đình con cái ấm cúng. Tôi tiếc không đƣợc gập ông anh rể, đã mất mấy năm trƣớc vì đau yếu. Và cháu Thanh Bình, con giai lớn của chị, đã hy sinh tại Huế vào những ngày đen tối năm 1975. Chúng tôi nói không dứt chuyện cho đến nửa khuya.
Sáng hôm sau đi thăm Sài Gòn, nơi đã cho chúng tôi biết bao kỷ niệm êm đềm. Nhà thờ Đức Bà, nhà Bƣu Điện. Đƣờng Tự Do, Quốc Hội, nhà hàng Continental cũ. Sở Thú, viện Bảo Tàng xƣa. Em Đằng lại bay từ Hà Nội vô đây để đƣa đi thăm tiếp mọi nơi. Cũng xem Múa Rối Nƣớc. Trƣa ăn cơm nhà Hoàn, tại hiệu thuốc Yến Hƣơng. Hoàn là một dƣợc sĩ, chồng là bác sĩ Liệu. Gập lại cháu Trung cũng từ đại học Berkeley về chơi.
Buổi chiều mồng 4, có xe trƣờng Dƣợc đến đón đi với hai giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên và Vũ Khánh. Tôi đến trƣờng cũ đƣợc gập ban lãnh đạo mới, và giáo sƣ Trần Ngọc Tiếng thân quen. Giáo sƣ Vũ Khánh và toàn ban giảng huấn tiếp tôi thật ân cần, nói chuyện cởi mở. Trƣờng có xây cất thêm, nhƣng nhiều dụng cụ đã hƣ hao và các hóa chất còn thiếu thốn. Sau đó, tôi xin đến thăm giáo sƣ Nguyễn An Cƣ tại nhà riêng đƣờng Sƣơng Nguyệt Ánh.
Ông đang ngồi ngoài vƣờn đọc chữ nho, trong một cái am nhỏ. Thật là một ngƣời thoát tục, không vƣớng bụi trần. Rồi ông đƣa chúng tôi đến thăm cô em ông là giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu. Nhanh thật, thấm thoát đã hơn hai mƣơi năm xa cách. Chuyện trò đủ thứ, thăm hỏi đủ ngƣời. Cô Lâu tuy đã phải dùng nhiều loại thuốc, nhƣng tinh thần còn rất trẻ trung. Buổi tối, hai giáo sƣ Khánh và Niên mời tôi và nhà tôi dùng cơm tại nhà hàng Thanh Trà, 12 Nguyễn Trãi, quận 5. Một bữa ăn thật ngon miệng, nhiều món quê hƣơng đặc biệt, nhất là món ếch chiên bơ. Khu này
ban đêm, ngƣời đông nhƣ mở hội. Đâu đây thỉnh thoảng từng tràng pháo nổ vang liên hồi, dù lệnh cấm đốt đã ban hành.
Sáng mồng 5, chúng tôi lại có dịp đi thăm mọi nơi, ở Sài Gòn rồi Chợ Lớn. Đƣờng Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi cũ. Rạp Rex, tòa Đô Sảnh xƣa. Chợ Bến Thành, chợ Bình Tây. Nhà cửa bên đƣờng Lục Tỉnh chạy dài ra tận miền ruộng Phú Lâm. Ngƣời đi đông nghẹt phố. Xe đủ loại chạy nhƣ mắc cửi. Bụi bậm và ồn ào. Nhƣng đô thị có mở rộng, nhiều khu mới mọc ra nhƣ nấm. Trƣa đến ăn nhà chị Cảnh, đƣợc ăn món canh rau rút khoai sọ. Mùa thu đã qua lâu rồi, nhƣng thú quê thuần húc bén mùi vẫn còn đó. Buổi chiều chúng tôi đi thăm khu giải trí thiếu nhi Đầm Sen, có sân khấu ca nhạc, chỗ nuôi cá sấu, thủy cung. Trong hồ rộng sen còn nở bông, lá xanh tƣơi tốt. Có một cây phƣợng vĩ hoa còn nở muộn lẻ loi, cố khoe sắc đỏ thắm ngày hè. Buổi tối, chúng tôi gập tất cả họ hàng đến ăn cơm tại nhà em Hoa. Có các em con chú Du, cháu Hòa con anh Tảo. Vui nhƣ một ngày tết xƣa. Chuyện cũ chuyện mới, hết đông lại tây. Cũng chụp ảnh, đàn địch, video kỷ niệm. Rồi chia tay trong niềm hân hoan hội ngộ. Lúc ra về, xe chạy lòng vòng qua bến Bạch Đằng rồi đi sâu vào trong lòng thành phố đã lên đèn, để xem qua cảnh sinh hoạt Sài Gòn ban đêm.
Sáng 6 tháng giêng, gập lại cả nhóm du lịch. Cùng ăn sáng tại khách sạn, ai nấy đều vui vẻ trong chuyến đi đầy kỷ niệm. Lúc 11 giờ ra phi trƣờng Tân Sơn Nhất để đi Bangkok. Rồi hôm sau trở lại Los Angeles. Tới nơi, trời đổ mƣa tầm tã. Vợ chồng cháu Huy ra đón tại phi trƣờng, đƣa đi ăn trƣa ở Tiểu Sài Gòn. Chúng tôi đành bỏ chuyến bay nối tiếp về San Diego, tạm ở lại nhà anh chị Nguyễn Đức Hạnh tại Irvine, để buổi tối còn ăn cƣới cháu Tâm con anh chị Trang Kiên tại quận Cam. Cháu Bảo Châu lái xe lên đón chúng tôi đi. Dạ tiệc tổ chức thật đẹp, quan khách bè bạn đông vui. Mãi 1 giờ đêm mới về tới nhà ở San Diego.
Từ nay, tôi khỏi ân hận sao đất nƣớc đã thống nhất mà vẫn không tìm về gập mẹ lúc sinh thời. Khi chia tay, mẹ tôi nói một lần về cũng thỏa nỗi nhớ mong, con khỏi phải lo trở lại nữa. Trong suốt thời gian ở nhà, tôi chƣa hề thấy mẹ tôi trách móc các con cháu. Hoặc than vãn lấy một câu về sự đau yếu hay buồn chán lúc tuổi già. Có lẽ tinh thần khí khái ấy, xƣa nay đã giúp tôi thêm nghị lực để phấn đấu với đời. Trở lại Hoa Kỳ, tôi tiếp tục công việc khảo cứu khoa học thƣờng ngày. Sự bận rộn trong cuộc sống đã làm tôi chậm trễ viết thƣ về nhà. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận đƣợc một số thƣ từ của chị em bà con, nhân cuộc thăm viếng này.
Thơ chị tôi có đoạn sau:
Các em đã về đây, người em trai của chị.
Các em đã về đây, Loan, em như người em gái chị thân thương...
Thăm được mẹ rồi, suốt cuộc đời thanh thản,
Gập chị em rồi, tình cảm khỏi khát khao...
Thƣ một cô em có những câu viết về nhà tôi:
Em gập chị có ít ngày... nhưng những ấn tượng tốt đẹp về chị không bao giờ em quên. Em đã có một người chị dâu cả yêu quí chồng con và gia đình chồng... Chị tuy nhiều tuổi nhưng vẫn giữ được nét đẹp thời con gái. Chị là tấm gương cho chúng em về đức tính nhanh nhẹn tháo vát, nhưng lại nhẹ nhàng hiền dịu...
Bao nhiêu lần tôi cầm bút định viết rồi lại thôi. Hay tại lúc này liên lạc thƣ từ điện thoại đã thƣờng xuyên dễ dàng. Không nhƣ thời di cƣ vào Nam, chỉ có thể viết vài dòng trên một tờ bƣu thiếp nhỏ bé và bỏ ngỏ, hay là hồi mới di tản sang Mỹ, có lá thƣ đi mất mấy tháng mới tới nhà. Nhƣng vào tháng 4, 1995, tôi gửi về lá thƣ, xin đƣợc trích ra mấy dòng dƣới đây:
Thưa mẹ,
Chúng con đã trở về San Diego được mấy tháng, nay mới viết thư về thăm nhà được. Thật là chúng con đã may mắn có được những ngày vui bên mẹ, chị Nhân, các em, các cháu.. và với tất cả bà con họ hàng mà đã bao năm không có cơ hội gặp gỡ. Ngồi bên mẹ, con vẫn có cảm nghĩ như hồi còn nhỏ, được che chở và bảo vệ. Chúng con có được phúc đức của nhà nhiều lắm...
Em Đằng,
Lúc nào anh cũng nghĩ rằng anh được yên tâm vì có Đằng ở nhà, thật là anh không lầm. Đằng có đến mười hoa tay mà anh chỉ có một. Giang vẫn vui tính như ngày nào. Các cô con dâu nhà họ Tô đảm đang và tài ba cả. Các em Châm, em Loan, anh chị thấy được hạnh phúc trong sự giản dị. Nhưng tất cả các em đã làm cho anh chị ngạc nhiên và vui sướng, đó là thấy các cháu đều học giỏi, đẹp đẽ, sáng sủa, và nhất là dễ thương. Phải kể cả các cháu dâu cháu rể... Cũng như các con chị Nhân, các con cô chú Hoa Thọ trong Nam. Có một điều đáng tiếc là anh chị có quá ít thì giờ nói chuyện với các cháu. Tất cả các quà của mẹ, các em, các cháu, anh chị đều rất quí vì rất đẹp hay hữu dụng. Một vài ngày vui đã mang lại biết bao giá trị cho cuộc đời. Đằng cho anh chị cám ơn tất cả. Hai bác Úy vẫn giữ được phong độ thuở nào.
Cũng xin gửi lời thăm Tô Tần, Tô Hùng, Nguyễn Hà Hoạt, Tô Sách, em Thạch, em Toán, em Sửu, em Thế, em Khánh.. và các ông chồng, bà xã. Qua những nhân vật trong họ, anh chị còn thấy được vượng khí của chúng ta. Cho dù cuộc đời dâu biển. Cho anh chị cám ơn chị Mai Quí Hiên, và chúc mọi tốt lành.
Chị Nhân,
Chúng em xin gửi lời thăm chị, cô chú Hoa Thọ, cô chú Hoàn Liệu, chị Cảnh, cháu Hòa và tất cả các cháu. Chị cũng cho chúng em gửi lời thăm các em con chú Du, Hoàng và Nguyệt và gia đình. Chị đã viết thư cho em nhiều lần, mà em thật là bận rộn, mãi không viết ra lời. Em đã nhận được video cháu Trung mang sang. Bé Hoa vẫn thanh thản như hồi nhỏ, thật là tốt. Cháu Diệu Vân có tài đàn đấy... Trong những năm qua, và cả bây giờ, bao giờ em cũng hãnh diện về chị. Em chỉ không nói ra mà thôi. Chị là người có lý tưởng. Em chỉ có được sự may mắn, được bố dậy bảo lúc nhỏ, được mẹ cho thêm trí nhớ. Trong nhiều năm xa nhà, ở những nơi phong tục tập quán và lối suy tư khác biệt, em
cũng e rằng không giữ được như xưa. Nếu có sai lầm điều gì thì mẹ chắc cũng bỏ qua cho....
Bình an thư,
Tôi có ý định ghi lại những kỷ niệm trên đường về quê mẹ từ lâu nay, mà sự bận rộn trong cuộc sống đã làm tôi chậm trễ mãi. Chúng tôi phải cám ơn chị Khánh Hoài, cụ Bân cùng tất cả các bạn đồng hành trong chuyến đi kỳ thú này. Chị Hoài thật tháo vát. Cụ Bân hơn 80 tuổi còn tráng kiện tinh tường. Anh Victor hoạt bát dễ tính. Các anh các chị đều nhanh nhẹn vui vẻ. Con đường dài hầu như ngắn lại, sự xét hỏi khó chịu nơi phi cảng trở thành thoáng qua, và cuộc du ngoạn rất vui càng thấy vui hơn. Tuy có bao nhiêu sự việc xẩy ra trong tám năm qua, nhưng kỷ niệm ngày ấy thật quá đẹp đối với chúng tôi. Mà đã là kỷ niệm, chỉ e để lâu sẽ quên mất, chứ lúc
nào kể lại mà chẳng được. Thời gian đâu có thể làm giảm bớt đi những nỗi vui ngày ấy. Và thấy như viết đã tạm đủ, sợ thêm nữa sẽ thành nhàm chán, nên tôi vội ngừng bút nơi đây.
Mùa Giáng Sinh 2002
CHƢƠNG MƢỜI MỘT
Ngành Khảo Cứu Y Dƣợc Tại Hoa Kỳ
Lời nói đầu
Tại Đại Hội Y Nha Dƣợc Việt Nam Tự Do kỳ 3 tại Paris năm 2000, tôi đã trình bày “Những cảm nghĩ về ngành khảo cứu Y Dƣợc tại Hoa Kỳ”, nhƣ một đóng góp nhỏ nhoi trong phần Dƣợc Khoa. Đề tài là một câu chuyện liên hệ đến khoa học, văn hóa và xã hội. Tôi đã kể lại một vài kỷ niệm vui buồn, một số kinh nghiệm nghề nghiệp, ít nhiều nhận xét và suy tƣ về ảnh hƣởng của môi trƣờng và xã hội, đối với công việc khảo cứu. Tại Hoa Kỳ, liên tục từ một phần tƣ thế kỷ qua, tôi đã làm những khảo cứu khoa học căn bản tại các trung tâm đại-học hay liên hệ, cùng những dự án tìm tòi thuốc mới dùng cho khoa trị liệu và chẩn đoán căn bệnh tại một số cơ sở kỹ nghệ. Một vài công việc đã đƣợc mô tả trong câu chuyện thật sơ lƣợc theo thứ tự thời gian, nhƣ những bối cảnh mang lại đôi dòng tâm tƣ của diễn giả. Tôi cũng trình bày một số giải pháp đối với các vấn đề đƣợc nêu ra, cho hợp với tƣ tƣởng của ngƣời Mỹ, chỉ ƣa nghe cách giải quyết hơn phải nghe lời chỉ trích. Nhƣ muốn môi trƣờng sinh sống trong sạch thì cần cập nhật hóa vấn đề trách nhiệm của các cơ sở kỹ nghệ và gia tăng sự tìm kiếm các nguồn gây ô nhiễm cùng phƣơng pháp giải độc. Muốn tránh phải hành hạ hoặc hy sinh các sinh vật thí nghiệm thì nên dùng những họa kiểu chính xác cần ít sinh vật hơn hay khai triển các phƣơng thức khảo cứu sinh học khác. Tôi cũng đề cập đến tính cách thực dụng trong các công trình khoa học, ảnh hƣởng của môi trƣờng và xã hội, cùng khía cạnh nghệ thuật và khoa học trong các thử nghiệm. Và cho rằng những điều nói ra thƣờng có tính cách chủ quan, đúng hay trật xin tùy thuộc sự lƣợng định của quí vị thính giả. Hơn nữa, tôi cũng đã xin sự miễn thứ, nếu có nói điều gì về riêng tôi, vì tuy nói về mình là chuyện thông thƣờng ở nƣớc Mỹ, nhƣng đối với ngƣời Việt húng ta, hay kể cả ngƣời Pháp, thì cái tôi là điều đáng ghét. Nay có thì giờ, tôi xin viết lại thêm vào đôi điều nói trong dịp ấy, đã đƣợc trình bày sơ lƣợc trong giới hạn 20 phút với một dàn bài quá ngắn.
Nhƣ những ngƣời Việt di tản sau biến cố tháng 4 năm 1975 tới Hoa Kỳ, chúng tôi phải cố gắng để gia đình sớm tự túc tại đây, mà càng sớm càng tốt. Thật ra, ở đâu cũng vậy, không tự túc đƣợc thì không có tự do! Cho dù ta có đƣợc một gia đình bảo trợ thật tốt.Tôi tự nhủ thôi hãy tạm quên Việt Nam, nay quê hƣơng đã cách xa ngàn dậm, và hãy cố thích ứng với cuộc sống mới nơi đất hứa đầy cơ hội này. Ra đi với hai bàn tay trắng, chúng tôi chỉ còn trông cậy vào vốn liếng kỹ thuật sẵn có. Nhƣng tìm đƣợc một việc gì thích hợp là điều vô cùng khó khăn, nhất là lúc tuổi không còn trẻ, thân thì nhỏ, sức thì yếu so với ngƣời bản xứ. Và tiếng Mỹ nói còn chƣa đúng giọng, nghe còn chửa thông. Tôi cũng định tâm làm tạm bất cứ việc gì mà không sao xin đƣợc. Một số bạn bè và đồng nghiệp sau khi liên lạc đƣợc đều cho rằng nếu tìm kiếm ra một lý tƣởng để phục vụ thì đời sống mới hiện nay, may còn có ý nghĩa. Thí dụ làm về Khảo Cứu Khoa Học. Lúc đó, tôi cũng tƣởng rằng nghề này sẽ ít phải nói năng, giao thiệp và tiếp xúc với nhiều ngƣời. Hơn nũa, vì đối tƣợng của khoa học không có biên giới, một chuyên gia nào mà không có thể tự hào đã từng đóng góp công trình với nhân loại, dù cho rằng đó chỉ là một hạt cát trong sa mạc,
hay một giọt nƣớc trong biển cả. Nhƣng rồi duyên may đƣa tôi trở lại việc Khảo Cứu Khoa Học, một ngành mà tôi ƣa thích khi còn làm việc tại thủ đô Paris vào cuối thập niên 50.
Một năm ở Stevens Point, WI
Ông Bà B.W. Eagon bảo trợ gia đình Tô Đồng
Đầu tháng 6 năm 1975, gia đình tôi rời trại tỵ nạn Camp Pendleton tới Stevens Point, WI. Chúng tôi ở với gia đình ngƣời bảo trợ là giáo sƣ B.W. Eagon, một Khoa Trƣởng đã từng làm cố vấn về Giáo Dục Đại Học Việt Nam trong Phái Đoàn của Đại Học Wisconsin. Lý do giản dị vì tôi có quen biết một số giáo sƣ ở đây khi đi du hành quan sát ngành quản trị Đại Học vào năm 1968. Stevens Point là một thành phố đại-học nhỏ và rất đẹp, có chừng 7 tới 8 ngàn sinh viên, dân chúng vui vẻ hiền hòa. Nhƣng rất khó kiếm việc nơi đây, kể cả việc làm chân tay. Đến tháng 7, tôi đƣợc giáo sƣ Nguyễn Thế Anh cho biết trong lúc này có thể xin grant của Ford Foundation, và giáo sƣ Nguyễn Bích Thoa gửi cho danh sách thƣ mục điện toán liên hệ. Tôi đã viết dự án khảo cứu về ảnh hƣởng của các chất diệt cỏ phenoxyherbicides đƣợc dùng tại Golden Sands, một vùng trung tâm tiểu bang Wisconsin. Các chất này có tên là 2,4-D và 2,4,5-T, đƣợc biết nhƣ những chất khai quang mầu cam thƣờng dùng trong chiến tranh Việt Nam, có một phó sản rất độc là dioxin. Dự án cũng đƣợc các giáo sƣ R. K. Anderson, B. H. Shaw, J. G. Newman của phân khoa Tài Nguyên Thiên Nhiên đại học Wisconsin-Stevens Point giới thiệu, cố vấn và hỗ trợ. May mắn đã đến ngay với tôi, khi dự án khảo cứu đƣợc Ford Foundation chấp nhận tài trợ trong niên khóa này.
Tờ báo địa phƣơng Stevens Point Daily Journal 9/19/75 có tƣờng thuật việc này, dƣới tiêu đề “Viet refugee gets foundation grant”. Họ ghi lại những điều tôi trả lời trong cuộc phỏng vấn về dự án này, và viết thêm về hiện trạng của chúng tôi khi ở với gia đình giáo sƣ Eagon. Ít lâu sau, tờ Pointer của Đại Học đăng bài họ phỏng vấn tôi, “Viet refugee begins investigation”, cùng những quan điểm của tôi về việc bảo vệ môi sinh trong thời đại mới. Trong khi làm tại đây, tôi cũng nhận đƣợc sự lƣu tâm của một số chuyên gia của cơ quan Bảo Vệ Môi Trƣờng EPA, của L. A. Norris, Research project leader tại Forestry Sciences Laboratory, OR 97331, và mẫu chất dioxin của Dow Chemical USA, Agricultural Product Dept, từ giáo sƣ Hinsdill ở Madison.
Trong mấy tháng đầu, tôi kiếm cách ly trích, tinh chế các chất diệt trùng từ các mẫu thử nghiệm, rồi định lƣợng chúng. Tôi cũng tìm ra phƣơng thức riêng và giản dị để định tính đƣợc những chất độc bằng máy sắc ký Gas Chromatograph Packard 7300, 63-Ni Electron Capture Detector. Tôi đã phân tích đƣợc cả trăm mẫu lấy từ da, thịt, mỡ, tim, gan, óc của hƣơu nai. Các mẫu thử nghiệm này đƣợc thu thập bởi các sinh viên trong mùa săn bắn tại 19 quận hạt của tiểu bang. Khi công việc hoàn tất, tôi có làm tờ trình về Ford Foundation kết quả của dự án cùng những bàn luận liên hệ. Theo tôi thì không có gì đáng quan ngại cho các sinh vật ăn cỏ trong vùng Wisconsin, khi ngƣời ta dùng chất diệt cỏ phenoxyherbicides. Sẵn có phƣơng tiện phân chất trong tay, tôi tìm hiểu thêm về 29 chất diệt trùng thuộc 11 loại, từ phenoxyherbicides tới benzene hexachlorides, đến các nhóm chlordane, aldrin, Mirex, DDT, PCB. Vài vấn đề đột nhiên xuất hiện. Tại sao ngƣời ta có thể cho phép dùng Mirex, một độc chất chỉ bị hủy diệt khi đem nung nóng trên 485°C? Và nhƣ vậy chất này sau khi bị phế thải sẽ còn hiện diện ở trong môi trƣờng mãi mãi! Quả nhiên ít lâu sau chất này bị cấm bán. Chất DDT dẫn tới một chất an định nhất là DDE, vậy muốn tìm chất cặn của thuốc diệt trừ muỗi sốt rét DDT thì chỉ việc tìm DDE. Đặc biệt là các chất trong nhóm PCB, thƣờng đƣợc dùng trong công kỹ nghệ kể từ 1930 vì tính cách điện, dẫn nhiệt, khó dẫn hỏa, có nhiều chất rất khó bị hƣ biến hay hủy hoại dù ở nhiệt độ cao 300°C. Và nhƣ thế, những chất này sẽ tác hại trong một thời gian dài tại môi trƣờng thiên nhiên, nhƣ lắng xuống bùn lầy nƣớc đọng nơi sông hồ. Cũng có thể nƣơng theo thời tiết xông lên khí quyển, bám vào mây gió, làm nhiễm độc nhiều nguồn nƣớc ở xa. Chúng tác hại trên nhiều vi sinh vật, và vì con ngƣời ở chặng cuối cùng của chuỗi thực phẩm, sẽ phải lãnh hậu quả trầm trọng nhất!
Nhƣng câu chuyện không đơn giản nhƣ vậy. Làm thế nào phát hiện đƣợc các sinh vật trong thức ăn bị nhiễm độc? Tôi có quen mấy ngƣời bạn thƣờng câu cá ở vùng Đại Hồ. Có lần họ cho chúng tôi làm quà, những con cá thu nặng cả gần chục kí. Thịt cá tƣơi ăn rất thơm ngon. Tôi vì hiếu kỳ đã lấy trứng, mỡ, thịt từ những con cá này đem đi phân tích. Thật là bất ngờ, những mẫu thử này đều chứa PCB ở nồng độ nguy hiểm, và ít nhiều DDE. Nếu so sánh với một mẫu cá ở hồ nuôi cá Lake Mills, thì trái lại tôi không tìm thấy một chút cặn dƣ hóa chất nào. Tôi làm thêm tờ trình thứ hai về Ford Foundation cho biết kết quả của sự tìm kiếm bất ngờ này với những bàn luận liên hệ, cùng thông báo cho các giáo sƣ của phân khoa Tài Nguyên Thiên Nhiên biết. Phải nhiều năm sau tôi mới thấy có các mẻ cá vùng này bị thu hồi, và thỉnh thoảng cũng thấy có giải pháp loại bỏ chất PCB đƣợc áp dụng. Thế mà mới vừa tháng 8 năm nay, tôi còn nhận đƣợc thƣ của Khoa
Trƣởng B.W. Eagon với những câu “Chắc anh còn để ý đến việc này. Bao lâu nay rồi mới thấy ngƣời ta lo liệu đến các độc chất thải vào hồ Michigan”. Kèm theo thƣ là bài báo Stevens Point ra ngày 7/29/2003 có mục nói về kế họach làm sạch PCB trong sông Fox River, với tổng số kinh phí là 400 triệu Mỹ Kim. Vấn đề ô nhiễm do hóa chất nhƣ vẫn còn đó, dù đã trải qua 28 năm.
Biết bao nhiêu hóa chất cũ mới đƣợc tổng hợp hàng năm để sử dụng, nên không thiếu các chất độc đƣợc thải ra rồi luân lƣu trong môi trƣờng thiên nhiên. Chƣa kể đến các chất độc sinh-học thiên nhiên hay từ tế bào ung thƣ, vi khuẩn. Chƣa kể các chất phóng xạ dùng trong kỹ nghệ hay thí nghiệm, nhƣ 14C và 3H mà nửa thời-gian-sống rất dài theo thứ tự là 5730 và 12 năm. Muốn giải quyết vấn đề, cần đặt nặng trách nhiệm làm trong sạch môi trƣờng của các cơ sở kỹ nghệ, phát triển thêm ngành độc chất học, gia tăng sự tìm kiếm các nguồn gây ô nhiễm và sớm áp dụng những phƣơng pháp giải độc hiệu quả.
*
Bốn năm ở Oklahoma City, OK
Tô Đồng và Lê Phục Thủy
Vào tháng 7, 1976, giáo sƣ Lê Phục Thủy cho biết chỗ ông đang làm việc tại Oklahoma Medical Research Foundation OMRF, Oklahoma City, ngƣời ta cần tuyển một nhân viên làm khảo cứu. Tôi đƣợc mời từ Wisconsin xuống để lần lƣợt mấy vị giáo sƣ, giám đốc cơ quan phỏng vấn trong suốt một ngày. Rồi nhận đƣợc giấy cho việc, theo khế ƣớc từng năm. Và tôi nhận việc bắt đầu tháng 9, trong nhóm khảo cứu sinh hóa về Biomembrane với giáo sƣ Thủy. Chúng tôi ở hàng professional staff, có chung một bà xếp là giáo sƣM. Carpenter, làm chung một đề tài Prostaglandins, tuy mục đích nghiên cứu có khác nhau. OMRF có chừng mƣời nhóm khảo cứu về những phản ứng trong sinh-học phân tử liên hệ đến các loại ung thƣ, về các gốc tự do free radicals làm hƣ hại tới chức năng của tế bào, về các chất dinh dƣỡng.
Theo cam kết khi nhận việc, tôi sẽ khảo sát các diễn biến sinh hóa dẫn tế bào đến chức năng trở thành chuyên biệt. Tạm tin là prostaglandin F gây ra hay có liên hệ. Chức năng thứ hai của tế bào là sự sinh sôi nẩy nở, coi nhƣ vì prostaglandin E. Chúng tôi thƣờng bàn tính nếu xác định đƣợc
tình trạng của tế bào ngay trƣớc khi chúng trở thành ung thƣ, may ra có phƣơng cách ngăn chặn tiến trình này.
Hay ít ít nhất cũng chẩn đoán đƣợc căn bệnh. Tôi nghiên cứu chuỗi phản ứng tổng hợp từ arachidonic acid sinh ra prostaglandin bởi prostaglandin synthetase. Nhƣ vậy phải đo nhiều loại phân hóa tố từ phosphodiesterase, cyclooxygenase, reductase, xét các thành phần sinh-học ly trích từ màng, nhân và các cơ cấu tế bào, tìm đủ chất cản phân hóa tố cyclooxygenase nhƣ aspirin, indomethacin, NSAID để gia thêm vào phản ứng. Một ngày tôi có thể đo prostagladin E và F của vài trăm mẫu thử, bằng phép phân tích miễn nhiễm phóng xạ RIA. Lƣợng đo đƣợc tuy chính các nhƣng thƣờng rất nhỏ, từ vài chục phần tỷ của gram hay picogram!
Dr. M. Carpenter, SV tập sự , Tô Đồng
Các tế bào thử nghiệm đƣợc đặc biệt lấy từ hòn dái chuột đực hay vú chuột cái. Một con chuột bạch Sprague Dawley nặng khoảng 300 tới 400 gm, giá tiền đắt gấp ba bốn lần giá một con gà. Trong hòn dái chuột đực, tế bào Sertoli sinh sản những tinh trùng, tế bào Leydig tạo kích thích tố đực testosteron. Dùng các phƣơng pháp vi phẫu và sinh-học tách riêng rồi biến chế các tế bào này để đo lƣợng prostaglandin synthetase. Tùy theo các nhóm chuột đã đƣợc nuôi bằng thức ăn mà thành phần xác định sẵn, hoặc theo một họa kiểu và thời biểu tính trƣớc, ta có thể xét sự liên hệ giữa prostagladin và chức năng chuyên biệt hoặc tăng trƣởng. Với chuột cái, ngƣời ta chỉ cần bơm một lần vào dạ dầy mỗi con một liều 10 mg chất dimethylbenzatracene DMBA, thì ít lâu sau, tất cả đều bị ung thƣ vú. Có những con mang bƣớu quá lớn, di chuyển thật nặng nề và khó khăn. Lấy những tế bào ung thƣ trong bƣớu rồi đo lƣợng prostagladin. Tùy theo các nhóm chuột đã đƣợc ăn một thực phẩm có hay không có chất chống oxid hóa nhƣ sinh tố E, có hay không có những chất béo đặc biệt, ta có thể kết luận về tác dụng của các chất này. Mỗi lần thử nghiệm phải giết từ vài con tới vài chục con chuột. Muốn vậy, ngƣời ta thƣờng dùng một máy chém nhỏ. Nhƣng sau khi một con chuột đã bị giết thì đem chuột khác vào máy rất khó. Có lẽ các chuột trong lồng bị kích động vì thấy đồng loại bị hy sinh hay máy có vị máu. Tôi đã học đƣợc một phƣơng pháp giết chuột thật nhẹ nhàng từ một ngƣời bạn, anh B. L. Magnum. Anh cầm đuôi cho chuột bò nhởn nhơ trên mặt bàn, rồi dùng bàn tay đeo găng ôm gần trọn mình chuột. Lấy bàn tay kia vỗ về hay cù vào gáy cho chuột cảm thấy an toàn và thích thú. Rồi với động tác nhanh nhẹn, anh đƣa đầu chuột vào máy và giật sập lƣỡi dao. Chuột bị giết mà không kịp có phản ứng!
Nhƣng có một lần mà tôi nhớ mãi. Vì phải dùng mấy chục con chuột, tôi giết chúng trong phòng riêng để mổ thú vật. Bỗng có một con giẫy dụa mạnh đến nỗi khi bị chặt cổ, đầu nó văng lên đến trần. Thật là thảm. Đành phải nghĩ là mình hóa kiếp cho chúng để chúng sinh sang kiếp khác tốt hơn. Tôi cũng từng thấy cảnh đàn chó sợ hãi tru tréo khi thấy có con bị ngƣời ta mang đi đặt một ống nhựa xuyên qua cổ vô cuống họng. Rồi cứ mấy hôm, ngƣời ta lại mang chó lên bàn để hút đờm ra định phân. Con nào kháng cự ít thì còn đỡ khổ. Mà lâu dần gần nhƣ chúng cũng mất hết cả phản ứng, nhƣ thể đành cam phận chịu đựng. Tôi thấy chán ngán cái cảnh phải dùng những con vật thí nghiệm trong ngành khảo cứu, và bỗng thấy sự hiện diện của các tổ chức bảo vệ súc vật là chuyện cần thiết. Cuối thập niên 80, nơi tôi làm việc cho hãng Hybritech, thay vì phải giết cả hàng chục ngàn con chuột nhắt mỗi lần để bào chế cho đủ lƣợng kháng thể chuyên biệt, chúng tôi đã biết dùng môi trƣờng nhân tạo cấy các tế bào tạo ra kháng thể này.
Vậy muốn tránh hay giảm thiểu sự hành hạ súc vật, gƣời ta cần sử dụng những họa kiểu chính xác chỉ dùng một số tối thiểu sinh vật thí nghiệm. Và cần khai triển các phƣơng thức khảo cứu sinh-học mới, có thể thực hiện trên các vi sinh vật, các thành phần của tế bào hay các mô, lấy từ các môi trƣờng cấy hay nuôi dƣỡng nhân tạo.
Trong bốn năm tại OMRF, tôi có không biết bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn. Nơi đây phƣơng tiện rồi rào, máy móc tối tân, phòng ốc sang trọng. Thời gian để làm thí nghiệm, đọc sách, họp hành, báo cáo kết quả trong nhóm, huấn luyện sinh viên xuất sắc, tham khảo tài liệu tại thƣ viện, nghe các chuyên gia diễn thuyết mỗi buổi trƣa, tất cả mọi việc đƣợc thực hiện đều đều theo một lịch trình định sẵn. Nhƣ một cái máy. Bạn bè đủ cấp bậc ở sở lâu dần cũng thành thân quen. Năm nào tôi cũng đƣợc đi dự một vài hội nghị, có khi chỉ để trình bày sơ lƣợc một công trình khảo cứu. Cũng là những lúc giải trí và quan sát xem thiên hạ hoạt động thế nào. Tuy chúng tôi đã làm theo các dự án mình viết đi viết lại cho đầy đủ chi tiết và dẫn chứng, với những phần lý luận chặt chẽ, những tiên đoán hi vọng, thế mà có việc thí nghiệm cho kết quả tốt, nhƣng cũng nhiều việc không ra làm sao cả. Cũng nhƣ nhiều khoa học gia khác, dù cân nhắc, tính toán đủ mọi cách, giả thiết để làm việc có khi khó chứng minh hoàn toàn trắng đen đƣợc. Để rồi đành kết luận là kết quả có lẽ là, nhƣ thể rõ ràng là, có nhiều phần đúng là, nghĩa là ngƣời ta còn có nỗi ngờ sai lầm! Nhƣng hẳn là làm mãi thì không ra ngô cũng ra khoai. Cũng viết lách đăng báo. Lúc rời nơi đây, tôi mang theo 17 tập vở học trò ghi đủ những thí nghiệm đã làm, định bụng có ngày mang ra nghiền ngẫm lại, may ra nhận thấy đƣợc điều gì hay ho chăng? Thôi hãy tạm giã từ tế bào, các nhóm acid béo, prostaglandins, leukotrienes
Xin nói qua vấn đề thời đại. Cách sinh hoạt lúc này khác xa thời tôi làm việc tại Paris vào cuối thập niên 1950. Lúc đó còn ít máy móc tối tân, ít dụng cụ và hóa chất tiêu chuẩn, ít phƣơng tiện tiền chế, và không có đồ khử trùng dùng xong một lần thì vất bỏ. Khoa học còn dựa nhiều vào tài năng và nghệ thuật của nhân viên, nhƣ tự điều chỉnh máy phân tích, ráp nối lấy hệ thống làm tổng hợp một hóa chất, uốn nắn các ống thủy tinh bằng lửa, cân đo pha chế chính sác các chất phản ứng. Nghĩa là thử nghiệm còn mang mầu sắc dấu ấn con ngƣời. Công việc tƣơng đối tự do hơn, họp hành ít, báo cáo ít. Phòng thí nghiệm chúng tôi trông ra vƣờn Luxembourg, mỗi xế trƣa chúng tôi thƣờng nghỉ ngơi thƣ giãn, pha trà để uống và nói chuyện tào lao. Mỗi lần đến làm việc là một lần cảm thấy vui thích. Có lẽ việc làm nhẹ nhàng, tùy mình quyết định, không bị gò bó căng thẳng, không bị ai thúc giục. Ngƣời ta không mấy khi hỏi tại sao làm việc đó, làm thế để làm gì, mất bao nhiêu thì giờ, mất bao nhiêu tiền bạc, có ích lợi cho ai? Hay là làm khoa học vì khoa học? Nhƣng tại Mỹ, tôi không thấy sự thú vị ấy, mà chỉ có đƣợc cảm giác an toàn khi ngồi
tại sở. Tại sao lạ vậy? Hay vì thời buổi bây giờ mới, vì văn hóa Pháp Mỹ không giống nhau? Nhớ lại ngày còn đi tham quan các Đại Học ở Mỹ vào cuối năm 1968, tôi đã gập một số khoa học gia và đƣợc họ giới thiệu nơi làm thí nghiệm. Tôi thấy họ dƣờng nhƣ có vẻ say mê với công việc, sống trong một xã hội xa lạ, thật riêng biệt. Họ hài lòng với môi trƣờng công việc, mà không thực sự chú ý đến cảnh bên ngoài. Tâm trí họ chắc còn lo việc khảo cứu và viết dự án, tìm đề tài thời thƣợng và dễ đƣợc tài trợ nhất. Hết dự án này tới dự án khác. Phải làm việc thật nhiều tính toán thật nhanh, lâu dần ngƣời ta mất đi sự sống hồn nhiên. Nhƣ những con ngƣời cần phải ẩn mình trong khung cảnh riêng của một nôi an bình. Có thể vì lúc đó i là một ngƣời ngoài cuộc, ở một tình trạng khác biệt, nên nhìn vào mới thấy rõ điều này. Ngƣời trong cuộc không mấy khi nhận thấy. Phản xạ có điều kiện chăng? Có phải tƣơng tự nhƣ vậy mà theo thời gian, với hoàn cảnh, bây giờ tôi đã trở thành một con ngƣời chỉ thấy sự bình an khi ngồi tại bàn giấy làm việc! Còn cách viết dự án? Ôi thiếu gì cách viết! Có lớp dậy viết, có cơ quan cố vấn. Đề tài hay dở cũng có thể tìm ra tài liệu tra cứu. Dự án tài trợ nhiều ít cũng có thể đƣợc thông báo trƣớc. Nhƣng nhiều khoa học gia Mỹ thật đáng phục, vì đặc biệt họ viết bài rất hay, lý luận rất khoa học, câu cú rất văn chƣơng. Họ viết đi viết lại, sửa đi sửa lại. Họ viết trong khách sạn, trên máy bay khi đi hội nghị. Nhƣng điều khó nhất là phải có thành tích, có quen rộng biết nhiều, có gửi gấm, thì dự án mới dễ dàng đƣợc chấp nhận.
Và vấn đề quan trọng nhất là làm sao đo đƣợc kết quả khảo cứu sinh-học? Thật ra không dễ dàng gì. Xƣa kia vấn đề ít chuyên biệt và thí nghiệm chƣa đi tới các thành phần cực nhỏ trong các phân tử sinh-học nên còn duyệt xét lại đƣợc. Nay thì chính ngƣời tìm tòi nhiều khi thấy sự kiện khó thực hiện rồi, công việc đâu có dễ kiểm chứng nữa! Vì vậy mà một dự án có khi cần đƣợc giao cho hai nhóm khác biệt hay đối lập nhau thực hiện, đƣợc theo dõi từng giai đoạn, đƣợc đem ra mổ xẻ mỗi kết quả từng phần, để xét xem có nên thay đổi hay tiếp tục không. Tại thành phố Oklahoma City còn có một số nhân vật trong giới Y Nha Dƣợc Việt Nam đang theo các lớp tái huấn luyện của trƣờng Đại Học Oklahoma. Gia đình chúng tôi trở nên bận rộn vui nhộn hơn vì gập nhiều bạn cũ, có thêm nhiều bạn mới. Cuộc sống tạm ổn định đã làm giảm đi vẻ tị nạn. Con cái đƣợc tiếp tục học đàn dƣơng cầm với một giáo sƣ giỏi ở đây. Có những canh mạt chƣợc cuối tuần hoặc vào dịp lễ cùng các bác sĩ Nông Thế Anh, Tôn Thất Niệm, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Hải, Bùi Xuân Mẫn, Nguyễn Ý Đức. Cùng đại tá Ngô Văn Lợi, các giáo sƣ Lê Phục Thủy,
Trần Quang Hải, Nguyễn Ngọc Hƣớng. Có các buổi họp hành mạn đàm cùng các bác sĩ Lê Quốc Hanh, Dƣơng Minh Châu, Nghiêm Xuân Húc, Tôn Thất Chiểu. Có những lần ăn uống linh đình với các gia đình thiếu tƣớng Từ Văn Bê, đại tá Nguyễn Tú, các bác sĩ Đào Thế Xƣơng, Trần Quốc Toản, nha sĩ Phạm Đình Tuân, các giáo sƣ Phạm Hữu Tích, Lê Ngọc Sanh. Cũng có dịp lên Tulsa thăm hỏi các bạn dƣợc sĩ Nguyễn Thị Nghi, Vũ Ngọc Phách, Nguyễn Thị Sửu. Và thỉnh thoảng vào buổi trƣa, còn đƣợc bác sĩ Nguyễn Lƣu Viên ghé qua nơi tôi làm việc để trò chuyện trƣớc khi đi nghe thuyết trình. Chƣa kể đến những sinh hoạt cùng một số bạn bè trong Hội Việt Mỹ!
Khoảng giữa năm 1980, chúng tôi thấy cần phải đƣa gia đình về California, vì các cháu sắp sửa lên Đại Học, nếu đã cƣ trú tại tiểu bang này thì học phí đỡ nặng nề. Và nơi đây có nhiều đồng bào, bè bạn, khí hậu lại ôn hòa dễ chịu. Tôi bắt đầu nộp đơn xin việc tại các Đại Học và cơ sở kỹ nghệ ở vùng đất hứa này. Nhân dịp đi dự một hội nghị trong khu Disneyland, Annaheim, tôi có rẽ xuống San Diego thăm các bạn dƣợc sĩ Lê Phục Thủy, Trang Kiên, Bùi Quang Tiến, Lâm
Bàng. Và tôi đƣợc biết có giáo sƣ Nguyễn Hữu Xƣơng đang dậy tại Đại Học nơi đây. Thấy thành phố San Diego khí hậu mát mẻ, phong cảnh hữu tình, biển cả xanh lơ tiếp liền với đồì núi chập chùng, tôi tính sẽ xin làm việc tại đây. Nhƣng mải đánh bài và trò chuyện, về Oklahoma tôi mới vội gửi đơn xin việc tại Phân khoa Y Khoa Đại Học San Diego qua giáo sƣ Xƣơng. Ông nói cần có các giáo sƣ trƣởng khu hậu thuẫn mới dễ dàng hơn. Các giáo sƣ trƣởng khu P. B. McCay, Johnson tại nơi tôi làm việc đã vui vẻ nhận lời viết thêm giấy giới thiệu ngay. Rồi một buổi tối, tôi nhận đƣợc giáo sƣ J. Mendelsohn, M.D. gọi dây nói phỏng vấn. Ít ngày sau, ông báo cho tôi biết là Khu Hematology/Oncology chấp nhận tôi làm việc từ tháng 8 nhƣ một postdoctoral fellow, theo một chƣơng trình huấn luyện của các Cơ quan Y tế Quốc Gia NIH-NCI. Ông trở thành giám đốc Trung Tâm Ung Thƣ tại San Diego, và hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong cả chục năm sau. Tôi làm đơn xin nghỉ việc tại Oklahoma City, với đôi chút luyến tiếc. Tuy công việc tôi làm ở đây không mấy kết quả, nhƣng dẫu sao cũng đƣa đƣợc tôi lên ngạch Staff Scientist. Khí hậu tuy nóng lạnh thất thƣờng, băng tuyết vào mùa đông, nắng cháy vào mùa hè, và nhiều khi có những cơn hậu gió lốc khủng khiếp, nhƣng dân chúng đa số hiền hòa thật thà đời sống mộc mạc. Giáo sƣ William G. Thurman, một bác sĩ tài ba lỗi lạc, nguyên Viện Trƣởng Đại Học Oklahoma, nay làm President, OMRF, có mời tôi vào văn phòng thăm hỏi. Ông tin rằng tôi sẽ vui với công việc mới, và chúc tôi may mắn trong tƣơng lai. Sau đây là hai đoạn trong lá thƣ ông viết ngày 7/25/1980, phản ảnh đôi điều ông ta nhận xét về tôi, cùng tỏ ý tiếc khi thấy tôi rời khỏi nơi đây:
I have received your letter of resignation effective August 2, 1980 , with regret. Let me take this opportunity on behalf of the Oklahoma Medical Research Foundation to express our appreciation to you for your significant contributions of time and personal energy. Coming to us as you did from a most uncomfortable experience, one might have anticipated less productivity than you provided. You certainly have been a real strength for your entire stay here, and we see you leave with regret.
Our best wishes go with you and your family in your new endeavors. As they were described to me over the telephone by Dr. Mendelsohn, I know that you will be entering a field of activity in which you will be very happy, and we wish you well, both there and personally in the future.
Tôi bắt đầu nhận đƣợc những thiệp từ biệt của một số đồng nghiệp tại sở. Gia đình chúng tôi rời Oklahoma City, sau bữa tiệc giã từ của giáo sƣ M. Carpenter cùng các cộng sự viên F. L. Smith, D. Cooper, L. M. Manning, G. Simpson, G. Wallis. Rồi đƣợc tặng vài tập nhạc làm kỷ niệm, có ghi dấu một vài bài ƣa thích, nhƣ Feelings, The shadow of your smile, The impossible dream, Bye Bye Love, để khi chúng tôi có dịp dạo đàn dƣơng cầm còn nhớ đến thời gian sống động nơi đây. Cô G. Simpson, ngƣời đã phụ giúp tôi biết bao nhiêu việc nặng nhọc trong phòng thí nghiệm, đã ghi bên cạnh một bản nhạc những dòng chữ này: “Dr. To: Of all the people leaving here, I‟m going to miss you most of all. You will always have a special place in my heart. Remember me always. Love from a friend. Gwen.” Tôi tin chắc đó là những lời chân tình. Và sau nhiều buổi họp mặt, những lời chúc tụng của biết bao nhiêu bè bạn, chúng tôi tạm chia tay lên đƣờng, mang theo hình ảnh đậm nét của bốn năm cƣ ngụ ở tiểu bang Oklahoma.
*
Những năm ở San Diego, CA - Công việc tại Phân khoa Y Khoa, UCSD
Trung Tâm Khảo Cứu Ung Thư,UCSD
Nơi tôi đi làm ở trong Khu giảng dậy về Lâm Sàng CTF, gần Bệnh Viện Đại Học. Công việc khảo cứu ở đây cũng có lúc bận bịu nhƣng dễ dàng, vì thiên về khoa học ứng dụng, khác với khi tôi làm ở Oklahoma mà nhiều phần liên hệ đến khoa học cơ bản. Tôi học đƣợc những kỹ thuật ly trích các tế bào lành mạnh hay ung thƣ, các bạch huyết cầu đủ loại, các tiểu huyết cầu, lấy từ máu và tủy sống. Rồi cấy các tế bào này trong những môi trƣờng nhân tạo đặc biệt, mềm hay lỏng, và xem khả năng sinh sôi nẩy nở thành tộc đoàn của chúng. Có khi đo tính nhậy cảm của chúng đối với các thuốc trị ung thƣ và kích thích tố. Có khi phải xác định các yếu tố dinh dƣỡng cần thiết. Có khi tìm các thành phần trong tế bào để có thể dễ dàng định tính chúng. Cùng khảo sát các chất chúng tạo sinh ra, nhƣ interferons, interleukines, cytokines.
Ngành Miễn Nhiễm Học đã tăng trƣởng quá nhanh trong những thập niên vừa qua. Ngƣời ta đã biết cơ cấu của những kháng thể do lymphocytes B sinh ra, các chức năng đặc biệt của đủ loại lymphocytes T. Thêm vào đó, các máy móc vô cùng tinh sảo đƣợc các kỹ sƣ sáng chế có thể cho ta cách ly trích, phân loại các tế bào tùy theo thể tích, tỷ trọng, hay theo dấu vết hấp thu phát quang xanh đỏ riêng biệt. Tôi làm việc dƣới quyền các giáo sƣ J. Mendelsohn, I. Royston và R. Taetle. Các cộng sự viên của các giáo sƣ này cũng chỉ cho tôi một số kỹ thuật sinh học mới. Tôi cũng đƣợc gửi đi học những khóa huấn luyện về phƣơng pháp khảo cứu các loại ung thƣ. Chúng tôi đã tách bạch huyết cầu T ra thành hai nhóm T4 và T8 để nghiên cứu khả năng sinh ra tộc đoàn của chúng. Chúng tôi cũng tổng hợp một chất protein cực độc là ricin với một kháng thể đơn bản T101 để xem xét tính ngăn chặn sự tăng trƣởng các tế bào ung thƣ máu, một thí nghiệm cần thiết cho các cuộc ghép tủy sống dùng bạch huyết cầu của chính bệnh nhân. Chúng tôi cũng tìm hiểu sự liên hệ giữa các transferrin receptors của màng với ferritin trong các tế bào HL60. Đa số các khảo cứu đều đƣợc thực hiện trên các tế bào ung thƣ của máu nhƣ lymphoma, myloid leukemia, chronic lymphocytic leukemia, theo các quan niệm mới mẻ về tế bào gốc, về sự tự sinh.
Tại nơi làm việc, tôi gập lại bác sĩ Cao Xuân An, một ngƣời học rộng biết nhiều. Chúng tôi có dịp cùng ăn trƣa, nói chuyện dƣới một gốc cây bồ đề lá xanh hoa đỏ. San Diego còn có mấy bạn cũ, các bác sĩ Trần Văn Khang, Trần Duy Tôn. Trong thời gian này, tôi có đƣợc một số bè bạn
mới, những giáo sƣ từ Phi Luật Tân, Trung Hoa, Ý Đại Lợi, Thụy Sĩ tới đây tu nghiệp về khảo cứu sinh học. Vì làm việc chung nên lâu dần thành thân thiết. Phải kể các bác sĩ A. Caviles, L. Shao, K. Rhyner, các Tiến sĩ M. Pellegrino, R. Fagnani. Và nhiều gia đình các vị đó cũng rất thân với gia đình chúng tôi. Đặc biệt là giáo sƣ Rhyner, một bác sĩ có tiếng trong khoa huyết học và từng ở Việt Nam. Tôi cũng có dịp gập gỡ một số giáo sƣ Dƣợc Khoa của Đại Học San Francisco, những ngƣời đã tận tình giúp đỡ giới dƣợc sĩ tị nạn.
Công việc tại Hybritech
Một Mùa Giáng Sinh - R&D Group
Sau hơn ba năm làm việc tại Trung Tâm Ung Thƣ Đại Học San Diego, tôi thấy cần phải tìm một việc làm vững chắc hơn, mà không cần phải dựa vào tiền tài trợ của dự án. Nhƣng nơi đây hiện không có hãng bào chế và rất ít cơ sở kỹ nghệ về sinh học. Trong thời gian gần đây, một ngành sinh học kỹ thuật đã đƣợc khai sinh nhờ những tiến bộ quan trọng của một số bộ môn nhƣ sinh học phân tử, sinh hóa học, miễn nhiễm học, di truyền học. Ngành này đã ảnh hƣởng rất lớn trong khoa bào chế hai loại thuốc trọng yếu, một để định bệnh, một để trị bệnh. Dựa trên những phát minh vỉ đại của G. Kohler và C. Milstein năm 1975, hãng Hybritech đƣợc thành lập cuối năm 1978 tại San Diego để tìm cách dùng những kháng thể đơn bản nhƣ những loại thuốc vừa kể trên.
Tôi may mắn vì có làm việc cùng một số khoa học gia của hãng Hybritech nhƣ các Tiến sĩ Pellegrino, Fagnani, nhất là giáo sƣ Royston, một trong những sáng lập viên, nên tôi đƣợc tuyển làm việc cho hãng từ tháng 1 năm 1985. Lúc này hãng đã nổi danh, với thử nghiệm đầu tiên về ung thƣ nhiếp hộ tuyến bằng cách đo lƣợng sinh kháng thể PSA. Có chừng năm trăm chuyên viên làm trong hai phân khu chính, Diagnostics tìm kiếm trắc nghiệm định bệnh, và Therapeutics khám phá thuốc trị bệnh. Tôi trở thành một Senior scientist phụ trách Pilot Plant, cơ sở bào chế các thuốc trị ung thƣ từ các loại kháng thể đơn bản. Tôi trông coi một nhóm bẩy tám ngƣời, đa số có bằng BS và có kinh nghiệm bào chế trong môi trƣờng vô trùng. Tôi trực thuộc một ông giám đốc hiền hậu, Tiến sĩ K. Poggenburg, và phải tƣờng trình công việc hàng tháng với ông phó tổng giám đốc linh hoạt D. Carlos. Đƣợc các nhóm nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật về các thuốc mà
nhóm này chứng minh là có giá trị, chúng tôi phải chịu trách nhiệm tinh chế một lƣợng thuốc đủ lớn để thực hiện các thí nghiệm trên thú vật và các thử nghiệm lâm sàng. Tôi đi họp thƣờng xuyên với các khoa học gia này, theo dõi các dự án tìm kiếm kháng thể mới về ung thƣ vú, ruột già, phổi, da. Chúng tôi cắt xén, ghép nối các kháng thể này với chất kháng sinh hay phóng xạ, tạo các kháng thể gốc ngƣời, kháng thể nửa chuột nửa ngƣời, kháng thể đa hiệu. Những chƣơng trình nghiên cứu đều dựa trên các lý luận thuần lý và khả tín. Các kháng thể đơn bản đặc biệt đƣợc coi nhƣ chất dẫn thuốc, đƣa thuốc đến các trung tâm tác động, để chữa trị những bệnh về mạch máu và về ung thƣ. Công việc rất phức tạp và đầy thách đố, nhƣng mang lại hi vọng khám phá thuốc mới thật lớn lao. Nhóm khảo cứu mỗi lần phân tích cả ngàn kháng thể để phát hiện chất có đặc tính cao nhất. Nhân viên làm việc ngày đêm, thƣờng là 5, 6 chục giờ mỗi tuần. Sở đƣợc coi là nhà, công việc sở đƣợc coi là việc nhà. Họp hành, sọan thảo kế hoạch, lƣợng định kết quả luôn luôn. Đây là thời gian tôi thấy hãng náo nhiệt sống động nhất, cũng là lúc tôi có rất nhiều kỷ niệm tốt đẹp với các Tiến sĩ M. Stone, K. Burnett, J. Leung, M. Fagnani, C. Chang, C. Birdwell...
Thế mà ngay sau ít tháng đầu làm việc, tôi bị vấp phải một trở ngại lớn lao, tƣởng đành phả bỏ cuộc. Nếu tôi đƣợc một số lớn đồng nghiệp tin cẩn và hợp tác chân thành, thì có các chuyên viên trong nhóm tôi tỏ thái độ bất mãn và yêu cầu giám đốc Poggenburg giải quyết. Trong buổi họp có sự hiện diện của ông này, nhân viên của tôi trong Pilot Plant lần lƣợt phát biểu sự khó khăn mà họ gập, khi phải làm việc với tôi. Việc chỉ trích gồm nhiều điều. Nhƣng đại khái thứ nhất vì tôi thƣờng nói nhƣ ra lệnh, không có giảng giải tại sao phải làm cách này mà không nên làm cách khác. Thứ hai vì tôi không chịu bàn cãi và để tâm nghe họ trình bày, nên hiểu sai lề lối làm việc cũ. Thứ ba vì tôi thƣờng hay cao giọng làm ngƣời nghe khó chịu. Tôi chợt nhận ra sự lầm lẫn của mình, và hiểu rằng tôi đã làm xáo trộn những công việc mà họ đang quen làm trƣớc khi tôi tới. Môi trƣờng kỹ nghệ không phải nhƣ ở Đại Học. Nhƣng cũng có một số nhân viên bênh vực, cho rằng tôi nói dễ hiểu và xử sự không có gì quá đáng. Đến lƣợt, tôi trình bày quan niệm của tôi, và hứa sẽ thay đổi cách làm việc cho thích hợp với cả nhóm: Tôi sẽ lắng nghe và thảo luận với mọi ngƣời cho ra lẽ khi dùng một phƣơng pháp bào chế mới, tôi sẽ nói đều đều tránh lên giọng xuống giọng, tôi sẽ không yêu cầu thay đổi cách làm việc cũ nếu không thấy là cần thiết. Ngay sau buổi họp này, mọi ngƣời đều hài lòng vì thấy tôi phục thiện, và nhất là không một ai nghi ngờ thiện chí và khả năng kỹ thuật của tôi.
Tại hãng, tôi đƣợc học nhiều lớp về quản trị xí nghiệp, quản trị nhân viên. Cách tuyển lựa, cách phỏng vấn. Cách kiểm soát, khuyến khích, cho điểm nhân viên làm việc. Tôi nhận thấy ngay là mình không có năng khiếu về ngành này. Tôi đành chọn con đƣờng thứ nhất ít quản trị hành chánh nhƣng nặng về kỹ thuật, tuy khó lên chức lên lƣơng. Còn các khoa học gia chọn con đƣờng thứ hai thiên về quản trị thì đƣợc điều khiển đông nhân viên và dễ lên chức lên lƣơng hơn. Hảng cũng cho tôi học thêm những lớp về kỹ thuật, thôi thì đủ thứ, về sử dụng máy móc thí nghiệm, về thống kê, về điện toán, về họa kiểu các thử nghiệm. Nhờ có điện toán, tôi làm các báo cáo hàng tuần và hàng tháng của Pilot Plant thật dễ dàng, liên lạc thƣ từ với mọi nơi trong sở thật nhanh chóng. Tôi rất thấy vui thích khi học về các môn liên hệ đến toán học. Rồi nghiệm ra rằng tuy cùng đƣợc học, nhƣng chỉ một số rất ít ngƣời hiểu các môn này tới nơi tới chốn.
Công việc tại Eli Lilly
Process Development Group
Vào năm 1986, Eli Lilly bỏ ra 400 triệu mua hãng Hybritech, một hãng bắt đầu thành lập từ mấy ngàn Mỹ kim. Cây có hi vọng ra nhiều trái ngọt. Một số sáng lập viên bỗng nhiên trở thành triệu phú. Cách sinh hoạt nay mang một mầu sắc khác. Những dự án khảo cứu đƣợc kiểm soát chặt chẽ hơn. Trƣớc đây tài lực bị phân tán vào nhiều lãnh vực, nay phải tập trung vào một số thuốc có hi vọng mang lại nguồn lợi. Nhân viên phải cƣ xử theo lề lối của Lilly. Vào những buổi chiều thứ sáu trƣớc khi ra về nghỉ cuối tuần, tuy vẫn đƣợc ăn nhậu nhƣng thôi không còn đƣợc uống rƣợu vì Lilly sợ vấn đề trách nhiệm. Số nhân viên tăng dần lên cả ngàn. Tôi đã có đƣợc một ông xếp mới từ cuối năm trƣớc, Tiến sĩ R. Ning, thế tôi trông nom Pilot Plant. Ông ta giỏi về hóa-dƣợc học, có thành tích trong việc tổng hợp các thuốc ngủ benzodiazepin, có bằng quản trị xí nghiệp. Nhƣng ông không đƣợc lòng nhiều đồng nghiệp, và ông không rành môn sinh học kỹ thuật. Tôi vì không ƣa tranh chấp, thƣờng bênh vực ông, nên cũng bị bao nhiêu ngƣời chỉ trích. Có lẽ vì vậy nhóm làm việc tại Pilot Plant tan rã, ông ta đƣợc giao phó công việc khác. Tôi vẫn còn làm nhƣ cũ, nhƣng trực thuộc một ông xếp mới về miễn-nhiễm hóa-học.
Xã hội này vận chuyển theo những qui luật riêng biệt. Về việc làm, nhân viên chỉ thi hành một công tác mới nếu họ biết rõ cách thức và lý do tại sao họ phải làm thế. Tin rằng ai cũng có khả năng sáng tạo cả, nên không ai ƣa những ngƣời chỉ biết gật. Ngƣời ta ai cũng có quyền và bổn phận phải trình bày điều mình suy nghĩ, dù hay dù dở. Để đi đến một sự đồng thuận trong nhóm trƣớc khi thực hiện dự án chung. Về giao tế thì ngƣời ta ai cũng có thể kiện xếp của mình tại Phòng Nhân Viên nếu bị chèn ép, hiếp đáp khó chịu, tuy vấn đề rắc rối và ít khi rõ trắng đen. Có lẽ để tránh sự kiện tụng này, nhiều xếp khi thay đổi công việc thƣờng cố mang theo nhân viên cũ quen thuộc.
Không ai cho rằng vì là xếp nên lúc nào cũng có lý và muốn làm gì thì làm. Nếu vì một cớ nào đó muốn loại bỏ ngƣời xếp, thì chỉ cần rút hết những ngƣời dƣới quyền là đƣơng nhiên xếp ta phải xin thôi. Nhƣng ai làm đƣợc chuyện này? Đó là những ngƣời cùng nhóm thấy có vấn đề với gƣời xếp nên bỏ sang nơi khác hay không hậu thuẫn xếp ta nữa. Tôi nghĩ rằng họ có lý vì trong cuộc sống đa đoan của xã hội này, để nơi làm việc đƣợc dân chủ và lành mạnh hơn. ngƣời ta không thể chín bỏ làm mƣời đƣợc.
Nhờ có tiền điều hành đều đều, thêm phƣơng tiện dồi dào, và nhân viên quản trị giỏi đến từ hãng chính Lilly, công việc nay tƣơng đối an toàn hơn xƣa. Có một lần chúng tôi sản xuất một kháng thể chống ung thƣ đƣờng ruột ZCE025 theo cách thức của ban khảo cứu chuyển giao. Chất này chỉ có thể giữ đƣợc đặc tính trong vòng mấy tháng. Nếu vậy sau khi qua đƣợc ban kiểm phẩm thì thuốc đã gần hết hạn rồi, sao còn dùng đƣợc nữa. Tôi đƣợc lo tìm gấp phƣơng cách sản xuất kháng thể này để làm sao cho thuốc có hiệu lực khoảng vài ba năm. Tôi trình bày một họa kiểu mới để lƣợng định các yếu tố sản xuất, rồi đƣợc các chuyên viên mọi ngành liên hệ chấp thuận. Và thật may mắn, nhóm tôi đã thành công trong việc chế tạo và an định kháng thể này với một thời gian kỷ lục. Kể từ lúc này, bè bạn thƣờng nhờ tôi cố vấn về những vấn đề họa kiểu các thí nghiệm. Nhƣng có một bận vì nóng lòng làm một thử nghiệm, tôi phạm vào một lỗi lầm khó quên. Việc này đã mang đến cho tôi không biết bao nhiêu là rắc rối và phiền muộn. Nhất là lúc đó gần dịp lễ Giáng sinh, và thật ra tôi không bắt buộc phải làm thí nghiệm này mà chỉ vì tò mò muốn kiểm chứng một giả thiết. Tôi đã yêu cầu xuất kho một lƣợng lớn chất phóng xạ tia gamma. Nhƣng vì vội mang về phòng thí nghiệm cho bà phụ tá R. Clark của tôi phụ giúp, tôi đã quên đựng trong những hộp chì bao bọc che chở. Và khi đi ngang qua hành lang thì máy dò báo động réo lên ầm ĩ, nên tôi bị bắt quả tang. Không may cho tôi vì một khoa học gia có lẽ không ƣa tôi nên tìm cách làm lớn chuyện. Rồi đƣa ra bằng chứng là tôi không coi trọng luật pháp, không chú tâm đến sự an toàn của các chuyên viên phòng kế cạnh. Ngƣời ta đo đủ mọi chỗ, từ mọi góc cạnh, nhƣng không thấy có nơi nào bị nhiễm phóng xạ. Khu làm thí nghiệm còn đủ các viên gạch chì bao quanh. Tôi phải trần tình với từng ngƣời, từ kiểm soát viên cho tới các giám đốc trong ủy ban sử dụng phóng xạ và cuối cùng sự sơ xuất đƣợc bỏ qua. Tôi đoán có thể tại việc chán ngán này mà một thời gian sau, bà Clark đã tự ý xin thôi để trở về nơi làm việc cũ. Bà ta là một nhân viên giỏi, tháo vát, chăm chỉ, và cũng là một nhân viên đƣợc tƣởng thƣởng bảng danh dự cao nhất của hãng. Tôi thật quá buồn phiền vì mất đi một nhân viên tin cẩn và đắc lực, đã phụ giúp cho tôi biết bao nhiêu là công việc, liên tục trong bẩy năm trời!
Dần dần chúng tôi gập rất nhiều khó khăn rắc rối. Phân khu Therapeutics tan rã vì những hứa hẹn về thuốc trị bệnh đã không thể hiện đƣợc. Hãng phải tập trung nhân tài vật lực về phân khu Diagnostics, chỉ còn giữ những trắc nghiệm định bệnh chính đáng và bán ra có lời. Ban giám đốc thay đổi liên tục, nhiều khoa học gia cao cấp mất việc, hoặc ra mở những công ty mới, nhƣ Gensia, Corvas, Biosite, Genesys, Nanogen. Tính ra tới nay có mấy chục công ty là con đẻ của Hybritech!
Tôi còn nhớ mang máng một vài buổi họp trịnh trọng. Thứ nhất là một buổi họp chuyên viên vào cuối năm. Một cấp chỉ huy sau khi khen chúng tôi có kiến thức giỏi, kỹ thuật cao, nhắn nhủ rằng nay là lúc xem tài năng đó mang lại những lợi ích tiền bạc gì cho công ty? Rồi chúng tôi đƣợc xả hơi nhƣ đứng dậy, vƣơn vai, và kêu lên một tiếng thất thanh! Ôi, kiến thức phải đổi ra tiền mới thực sự có giá trị, xã hội hay lối nhìn tƣ bản mà! Thứ hai là một buổi tiễn đƣa mấy khoa học gia cỡ lớn, có nhiều công trình đƣợc đăng, có nhiều bằng sáng chế đƣợc cấp phát. Một chuyên viên trẻ khi tặng quà kỷ niệm, đã nói những lời cảm tạ sau đây: “Chúng tôi không khi nào quên đã đƣợc học hỏi từ các ông rất nhiều, và xin cố gắng tiếp tục công việc các ông đã làm. Bây giờ là lúc các ông có thể tự hào đã làm xong bổn phận. Các ông sẽ có thì giờ làm những việc mà các ông ƣa thích từ trƣớc nhƣng chƣa có cơ hội. Nhƣ làm phim ảnh, giồng lan, nuôi bào ngƣ, đi câu cá”. Thay đổi lãnh vực làm việc dễ dàng cũng là một đặc tính của xã hội năng động này. Hơn nữa, có lẽ sắc thái văn hóa dễ biến cải luôn luôn nên ít thấy một tập tục làm việc cố định.
Trong một đoạn trên, tôi có trình bày sơ qua sự vận huyển xã hội cơ động này về việc làm, về giao tế nhân sự. Đối với ngành khảo cứu, ngƣời ta đặt nặng tính cách thực dụng của kỹ thuật. Và một khám phá chỉ có giá trị nếu tạo ra một áp dụng nâng cao mức sinh hoạt hay đƣa đến sự phục vụ con ngƣời hữu hiệu hơn. Trong xã hội tiêu dùng, ngƣời tiêu thụ bao giờ cũng có lý và trở thành ông hoàng bà chúa. Qui luật này gắn liền với thị hiếu cùng cách hành xử thời đại, và liên quan tới việc phổ thông hóa kiến thức về khoa học ứng dụng. Phải làm sao giảm bớt đƣợc khía cạnh nghệ thuật trong mọi công việc, nghĩa là ai làm cũng có thể có kết quả nhƣ nhau. Tƣơng tự viết chữ bằng máy, khâu vá bằng máy, sang số xe bằng hộp số tự động, ai cũng nhƣ ai. Một phƣơng pháp tốt khi nhân viên ai theo đúng cách thức cũng tạo ra sản phẩm có cùng chất lƣợng cao. Một trắc nghiệm giá trị khi bệnh nhân ai cũng có thể tìm ra cùng một trị số hay một lời giải, dù thử tại gia, với vận tốc nhanh nhất.
Vì vậy khoa học gia ngành khảo cứu y dƣợc phải tìm kiếm phƣơng thức dễ thực hiện nhất, phổ quát nhất, hay ít ra, thực hiện các khóa huấn luyện liên tục cho mọi ngƣời. Họ là một thành phần đặc biệt của xã hội, đƣợc tuyển chọn từ nhiều sắc dân, với mọi thành phần, thuộc đủ ngành nghề. Họ phải làm việc trong tinh thần toàn đội, chấp nhận một đời sống luôn luôn thay đổi và đầy thách đố.
Công việc tại Beckman Coulter
Vào tháng 9 năm 1995, Lilly không còn mấy quan tâm đến Hybritech. Cơ sở tại San Diego đƣợc bán lại cho Beckman Instruments với một giá cả tƣợng trƣng, có lẽ dƣới 10 triệu Mỹ kim. Đa số nhân viên phải ra đi. Tôi đƣợc tuyển chọn sang ban Sinh Thống Kê học, dƣới quyền giám đốc R. Parson và vẫn giữ đƣợc chức vị lƣơng bổng nhƣ cũ. Ông ta có chỉ cho tôi qua loa cách thức làm việc. Sau này ông thành bạn thân và hay tâm sự với tôi. Tôi thấy vui thích vì nay có dịp dùng đến toán học và học thêm những môn mới nhƣ đại số thẳng, đại số Bool, biến số ngẫu nhiên, giải tích tổ hợp, phép tính ma trận, phƣơng pháp Bayes. Tuy tôi quen sử dụng hệ thống Research System RS, đã có sẵn một số thảo chƣơng điện toán để làm các việc thống kê hay họa kiểu thí nghiệm, nhƣng chƣa từng biết hệ thống Statistical Analysis System SAS, là chƣơng trình thƣờng đƣợc áp dụng để tính các dữ kiện cho các ban Lâm sàng và Pháp chế. Để theo kịp đà làm việc, tôi tự học hệ thống này trong một thời gian rất ngắn, dựa theo các sách vở mà tôi chất đống đầy trên bàn viết. Rồi đi học nhiều khóa liên tiếp, nhất là về cách viết thảo chƣơng.
Là một Principal scientist, tôi phải lo yểm trợ các hoạt động về tiêu chuẩn máy móc và hiệu năng chế tạo sản phẩm, với các ban kiểm định và phân chất dƣợc phẩm, với các ban khảo cứu và phát triển trắc nghiệm mới. Tôi còn thêm nhiệm vụ Biostatistician, nên công việc tôi liên quan đến nhiều nhân viên mọi ngành, ngoài các khoa học gia còn có các kỹ sƣ, các chuyên viên điện toán, các chuyên gia lâm sàng và pháp chế. Nói đến Thống kê học, ta có hai phần rõ rệt. Phần Thống-kê Mô-tả tổng kết các đặc tính của một dân số thì dễ dàng, nhƣng phần Thống-kê Suy-đoán để luợng giá, giải thích và tiên đoán những đặc tính ấy thì khó khăn. Tôi cũng cố làm sao cho việc tiên đoán này gần đúng với sự thật nhất, trong các tờ trình về các công việc khảo cứu hay sản xuất tại sở. Nhƣ xem xét tại sao có sự sai biệt về các kết quả thí nghiệm giữa các nhà thƣơng? Vì nhiệt độ phòng thí nghiệm, vì nhân viên, vì thuốc thử? Sai biệt cùng trong một lần đo hay giữa các lần đo khác nhau? Tôi cũng thỉnh thoảng huấn luyện nhân viên những điều căn bản về thống kê, cách chuyển giao dữ kiện của nhiều trung tâm từ các chƣơng trình điện toán khác nhau, tính
số lƣợng mẫu tối thiểu phải thử nghiệm. Sau này tuy tôi còn bị thuyên chuyển qua những nhóm khác, làm việc với những xếp khác, nhƣng công việc hầu nhƣ không thay đổi mấy. Kể cả khi Beckman mua hãng Coulter vào mấy năm sau để trở thành Beckman Coulter, Inc. Ngƣời ta cho rằng tôi đã kiếm đƣợc một chỗ núp an toàn trong hãng!
Nhiều lúc đi làm mà say mê nhƣ đi đánh cờ tƣớng. Tôi lo kiểm soát hay thay đổi lại một vài phƣơng trình toán học, phân tích các dữ kiện theo cách tin cậy nhất, tìm cách viết các thảo chƣơng ngắn gọn và hiệu năng hơn, dùng rất nhiều macro, vân vân và vân vân. Một lần tôi phải tính trị số cho những chất chuẩn định phân hóa tố ostase trong việc trị bệnh loãng xƣơng.
Máy móc tự động cho kết quả với thảo chƣơng viết theo một đƣờng chuẩn dựa vào 4 thông số hay four-parameter logistic curve. Dùng SAS, tôi thấy kết quả tôi đề nghị sai lệch chừng một vài phần trăm so với kết quả cho bởi máy. Đa số bạn bè nghĩ nhƣ vậy là quá đủ rồi. Nhƣng tôi vẫn thấy có điều không ƣng ý, vì tại sao cùng một cách tính mà có thể có sự sai biệt đƣợc. Sau cùng tôi viết đƣợc một thảo chƣơng cho kết quả y hệt, và nghiệm ra rằng nhóm kỹ sƣ chỉ dùng có 3 thay vì 4 thông số, một thông số đã bị áp đặt trị giá trƣớc khi tính! Sự kiện này cho riêng tôi một thích thú bất ngờ gần ngày tôi thôi việc.
Thay lời kết
Làm việc thì ở đâu mà chẳng có lúc vui, lúc buồn. Vui là khi tiệc tùng ngày lễ, khi ăn mừng một dự án thành công, khi nhận tiền thƣởng cuối năm vì hãng bán đƣợc thuốc, đƣợc tăng lƣơng, đƣợc tuyển thêm ngƣời giúp việc. Buồn là khi hãng ế ẩm vì sự cạnh tranh tàn nhẫn, khi nhân viên bị sa thải hàng loạt trong những dịp cải tổ nội bộ: Ngƣời ra đi bật khóc vì tiếc nuối nơi làm việc quen thuộc, kẻ ở lại ngơ ngác nhƣ mới thoát khỏi một cơn ác mộng. Tôi thật quá may vì tồn tại trong hãng cho tới ngày về nghỉ, tính ra qua tất cả bẩy ông bà xếp!
Tô Đồng, Biostatistics Department – 1996
Vào tháng 9 năm 1999 khi hãng chuyển cơ sở đi chỗ khác, tôi xin về hƣu sau gần 15 năm hoạt động trong ngành sinh học kỹ thuật. Nhiều bè bạn tới văn phòng tôi thăm hỏi, chúc mừng, tặng vật kỷ niệm. Cô Ngô Trâm Anh, một chuyên gia giỏi và trẻ thƣờng bàn bạc công việc hay cho
biết vài tin tức trong hãng, có hỏi tôi: “Bác không tính làm cố vấn cho một nhóm hay một hãng sao? Về hƣu thì bác làm gì cho hết thì giờ?”. Khó thật, tại xứ sở này, làm sao „vui thú điền viên‟ đƣợc? Dễ gì ‟khi chén rƣợu, lúc cuộc cờ, khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên‟ đƣợc? Nhƣng tôi thực sự đã có quyết định thôi không làm việc nữa vì thấy đã quá đủ với 25 năm trong ngành khảo cứu tại Hoa Kỳ, kể từ khi trở thành ngƣời Việt di tản.
Trong buổi một buổi tiệc giã từ tại hãng, tôi còn nhận đƣợc ột thiệp chúc tụng thật vui, xin ghi lại đôi ba dòng sau đây. Bà C. Batton, viết “Dong, Too many years with numbers - give it a rest. First Therapeutics now Operations, and we wore you out! Take a rest... Best wishes”. Bà M. De Santis của phòng Nhân viên, ngƣời đã lo cho tôi đủ việc hành chánh, đã viết “Dong, Wishing you the very best in your retirement! You will be greatly missed by all of us”. Tiến sĩ P. Lambotte, có ghi “Dong, Merci pour le bon temps passé avec toi et pour ta contribution durant ces longues années. Meilleurs voeux”. Mỗi lần đọc lại thiệp này tôi mới thấy mình thật là may mắn, đƣợc rời hãng với biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp của bè bạn ở mọi ngành. Tôi sẽ không quên R. Nielsen, D. Broyles, K. Kress, J. Killion, T. Dosenberry, J. Kull, R. Parson, R. Barton, A. Chit, P. Stuart, L. Lafaro cùng tất cả các bạn cũ đã sáng lập hay đổi sang một công ty mới !
Và làm sao quên đƣợc Hybritech, Eli Lilly, Beckman Coulter, nơi đã cho tôi một cuộc sống an toàn về vật chất, hiều thách đố về khả năng, những hi vọng lớn lao của thời đại kỹ thuật cao và những vui buồn đậm nét của ngành khảo cứu ý dƣợc.
18 tháng 10 năm 2003
CHƢƠNG MƢỜI HAI
Lời Kết
Tôi không thể kể hết những khung trời kỷ niệm trong đó có nhân vật đặc biệt mà chúng tôi đã gập trong thời gian sinh sống ở Hà Nội, Sài Gòn, Paris. Với những ngƣời bạn thân quen, thuộc đủ ngành nghề và lớp tuổi. Tại các đại học, tại nơi làm việc hay giải trí, trong thời gian mà ai nấy đều vui vẻ yêu đời, tuy các biến cố chiến tranh luôn luôn đe dọa rình rập. Cho đến khi di tản, bạn bè thất lạc, mỗi ngƣời một phƣơng. Từ ngày đó, chúng tôi cũng sinh hoạt với một số hội đoàn tại ngoại quốc, nên xin tạm ghi ở đây vài ba danh tính. Có lẽ phải chờ một dịp thuận tiện khác để viết thêm. Chƣơng Trình Tƣơng Trợ ở Michigan có giáo sƣ Nguyễn Xuân Vinh, các bác sĩ Trần Xuân Ninh, Nguyễn Ngọc Kỳ, luật sƣ Phạm Nam Sách, nhà văn Đỗ Tiến Đức, nhà lập thuyết hào hùng Nguyễn Huy Hân. Hội Việt Mỹ tại Oklahoma gồm các ông Nguyễn Đình Thƣ, Trƣơng Khánh Tạo, Phạm Văn Ca, Nguyễn Công Bình, Phạm Quân, Khƣơng Văn Trƣờng, Nguyễn Văn Cƣờng, Nguyễn Trọng, Phạm Văn Long, Phạm Quang Toàn, bác sĩ Đào Thế Xƣơng, giáo sƣ Nguyễn Ngọc Hƣớng, kỹ sƣ Phạm Hữu Quang,... Ủy Ban Cứu Ngƣời Vƣợt Biển với các giáo sƣ Nguyễn Hữu Xƣơng, Lê Phục Thủy, bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ, nhà văn Phan Lạc Tiếp,… Hiệp Hội Ngƣời Việt San Diego với các ông Nguyễn Văn Nghi, Phạm Nhƣ Bích, các kỹ sƣ Nguyễn Tấn Thọ, Bùi Anh Tuấn, các bác sĩ Lê Văn Trí, Trần Văn Khang, các dƣợc sĩ Trang Kiên, Lê Phục Thủy, Bùi Quang Tiến, các giáo sƣ Trần Cảnh Xuân, Nguyễn Thanh Trang, Trần Thƣợng Hải, các luật sƣ Đào Hữu Dƣơng, Vũ Minh Trân, Nguyễn Hữu Khang, Vƣơng Minh Quốc,... Chƣa kể đến nhiều nhân tài trên mọi lãnh vực của các hội đoàn Y Nha Dƣợc Việt Nam ở khắp mọi nơi. Riêng trong các đại hội Y Nha Dƣợc tại Paris 1992 và 2000, nhờ có anh chị Phạm Văn
Biểu & Nguyễn Thị Minh Thu, chúng tôi đã có cơ hội gập lại hiều bậc đàn anh nhƣ giáo sƣ Trịnh Văn Tuất, Trần Ngọc Ninh, và bè bạn thân quen mà nếu muốn cũng không kể hết đƣợc. Có các anh chị Nguyễn Phú Lịch & Vũ Quỳnh Trang, Trần Quang Thuận & Nguyễn Ngọc Trâm, Trịnh Cao Hải & Trƣơng Mộng Ngọc, Đặng Vũ Biền & Lê Thị Hoàng Yến, Nguyễn Bá Mƣời & Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Nguyễn Đại Dzƣơng & Phạm Thị Nhung, Phạm Ngọc Lân & Quản Mỹ Lan,... Và các anh chị Phạm Huy Chƣơng, Phạm Hy Tân, Phạm Xuân Yêm, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Thành,...
Nói tới hội đoàn, tôi lại nhớ sau gần mƣời năm di tản, vào năm 1984 hội Dƣợc Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ mới xin đƣợc chƣơng trình tái huấn luyện tại San Diego. Tôi sẽ không bao giờ quên sự giúp đở tận tình của nhiều giáo sƣ trƣờng đại học Dƣợc Khoa thuộc University of California San Francisco thời ấy. Tính nhân bản và sự thông cảm sâu sắc của Phó Khoa Trƣởng Robert Day cùng các giáo sƣ David Adler, Lorie Rice, Sam Shimomura, tài điều hợp và sự giảng dậy tận tâm của giáo sƣ Elvera Richardson, tất cả sẽ gắn liền mãi mãi với sự nỗ lực phi thƣờng của các dƣợc sĩ tị nạn trong giấc mơ Hoa Kỳ. Tiếp theo là những lớp ôn tập tại University of California, Irvine, từng đƣợc kể lại qua các tài liệu, tập san, kỷ yếu liên hệ. Tôi sẽ sơ suất nếu quên cám ơn tất cả các bạn dƣợc sĩ trong những ban quản trị của hội, khi tôi đảm nhận chức vụ chủ tịch trong nhiều nhiệm kỳ liên tiếp. Tôi cũng phải ghi nhận sự tin cẩn và trung kiên của chị thủ quỹ Nghiêm Bích Vân qua mấy thập niên. Chúng ta đã đối xử với nhau dựa trên tình nhiều hơn lý, khi cùng chia sẻ nỗi vui buồn nơi đất khách. Tôi thật rất phấn khởi khi thấy sự sinh hoạt tốt đẹp tại hải ngoại của các bạn thuộc khóa dƣợc sĩ Sài Gòn 1969-1974 và 1970-1975. Và nhiều năm sẽ còn vang vọng đâu đây các bài đồng ca hùng tráng của những Ca Đoàn Áo Trắng, Áo Đỏ, Áo Xanh, những tiếng hát đầm ấm của các anh Hoàng Trọng Bình, Nguyễn Duy Ái,... những giọng ca truyền cảm của các chị Thúy An, Tâm Thƣờng, Thanh Mai, Kim Cúc,...
Năm đầu tiên cƣ ngụ tại Stevens Point, Wisconsin, anh chị Đỗ Quý Toàn & Hà Dƣơng Thị Quyên có đến thăm chúng tôi từ Canada. Anh nói với tôi rằng chúng ta bỏ nƣớc chứ không phải nƣớc bỏ chúng ta. Không biết nhận định có tính triết lý này liệu có luôn luôn đúng chăng? Nhƣng thời nào thì ngƣời ta cũng chỉ nên ở nƣớc trị mà tránh ở nƣớc loạn, và tôi hi vọng một vài bài trong quyển tập này minh chứng rằng trong tâm chúng ta lúc nào mà chẳng có nƣớc Việt.
Tôi muốn cám ơn nhà tôi và tất cả các bạn bè đã khuyến khích tôi viết lại những dòng kỷ niệm nhƣ những khung trời riêng biệt này. Đặc biệt có anh chị Nguyễn Thúc Mẫn & Kim Anh đƣa lên mạng lƣới www.VPhAUSA.org của hội Dƣợc Sĩ Việt Nam. Chị chủ tịch hội Dƣợc Sĩ tại Québec Đỗ Thị Kim, anh chủ tịch hội Dƣợc Sĩ tại Hoa Kỳ Trần Đức Hiếu, các anh tổng thƣ ký Mai Tâm, Nguyễn Đức Năng đã cho đăng một số bài trong các đặc san. Cùng sự hỗ trợ của các anh Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Tuấn Anh, Trịnh Đình Thiện, Võ Đức Diễn, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Lƣơng Tuyền, Vũ Xuân Châu, Tạ Văn Quang, Trƣơng Mạnh Khải, Tôn Thất Cần, Nguyễn Đức Thành, và các chị Trần Thị Danh, Vũ Thị Ngọc Diệp, Phùng Thị Khánh Ngọc. Nhất là anh Lê Phục Thủy, và các anh Nguyễn Khắc Minh, Đàm Quang Hƣng, Phạm Tu Chính, Lê Tất Điều, nhận giới thiệu tập bút ký với bè bạn xa gần.
- HẾT -
Link : http://www.ninh-hoa.com/Ninh-HoaDOTcom-GSToDong-NhungDongKyNiem-01.htm
Hien Ha sưu tầm @Irvine, Feb 2013

( Do Nguyễn Đắc Song Phương chuyển )

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Tùy bút của GS Tiến sĩ Tô Đồng (Dược)

Tin Westminster - Giáo sƣ Tô Đồng, nguyên khoa trƣởng Đại Học Dƣợc Khoa Saigon vào hai năm cuối 1974 và 1975, đã qua đời tại tƣ gia ở Newport Coast, California sáng sớm ngày thứ năm, hƣởng thọ 80 tuổi.

Những dòng kỷ niệm
Giáo sƣ Tiến sĩ Tô Đồng (1933-2012)
Khoa trƣởng
trƣờng Đại Học Dƣợc Khoa Sài Gòn, 1974-1975
Nguyễn Loan & Tô Đồng (8-9-1962)
Kính dâng anh linh Tứ Thân Phụ Mẫu
Thương mến tặng Nguyễn Loan
Các con:
Tô Huy Daniel & Robinson Miriam Cara
Tô Bảo Châu Brigitte & Bùi Xuân Minh
Tô Hoàng David
và các cháu:
Tô Nguyễn Norman Connor
Tô Mills Nolan
Tô Mills Brennan
Bùi Xuân Anh Maximilian
Bùi Bảo Khanh Annelise
Thân tặng các anh chị em Nội Ngoại
Riêng tặng các bè bạn xa gần
Tiểu sử
Giáo sư Tô Đồng (1933-2012)
Tin Westminster - Giáo sƣ Tô Đồng, nguyên khoa trƣởng Đại Học Dƣợc Khoa Saigon vào hai năm cuối 1974 và 1975, đã qua đời tại tƣ gia ở Newport Coast, California sáng sớm ngày thứ năm, hƣởng thọ 80 tuổi. Giáo sƣ Tô Đồng sinh ngày 7 tháng 11 năm 1933. Thời trẻ, ông là một sinh viên xuất sắc cả hai ngành Vật Lý và Dƣợc Khoa tại Đại Học Hà Nội rồi Saigon. Ông trình luận án Tiến sĩ Sinh Hóa tại Paris năm 1962. Về nƣớc, ông lập gia đình với Dƣợc sĩ Nguyễn Loan. Hai ông bà có ba ngƣời con và năm cháu nội ngoại. Trong thời gian giảng dạy các bộ môn Hóa Vô Cơ, Sinh Hóa tại Đại Học Dƣợc Khoa Saigon, Tiến sĩ Tô Đồng sát cánh cùng Dƣợc sĩ Bùi Đình Nam tạo dựng nên hãng bào chế Tenamyd, sản xuất nhiều loại thuốc viên và thuốc chích theo kỹ thuật tân tiến nhƣ các hãng Âu Mỹ thời bấy giờ. Sau khi di tản sang Hoa Kỳ tháng 5, 1975, Giáo sƣ Tô Đồng tiếp tục công việc nghiên cứu mà ông yêu thích.
Ông làm việc tại Stevens Point tiểu bang Wisconsin năm 1976, rồi trung tâm nghiên cứu Oklahoma trong bốn năm từ 1976 tới 1980, và đóng góp rất nhiều vào các công trình của trung tâm này. Từ thập niên 1980 tới lúc nghỉ hƣu 1999, nhà khoa học Tô Đồng tiếp tục đóng góp bằng công việc nghiên cứu tại đại học UC San Diego về các loại tế bào liên quan tới bệnh ung thƣ; rồi các công ty dƣợc phẩm Hybriteck, Eli Lylli, chuyên nghiên cứu về cách bào chế thuốc chống ung thƣ, làm từ các loại kháng thể nguyên bản. Cũng trong thập niên 1980, ông hết lòng hỗ trợ các dƣợc sĩ từng đƣợc đào tạo tại Saigon trƣớc 1975 trong việc học thi lấy bằng tƣơng đƣơng để hành nghề tại Hoa Kỳ. Giáo sƣ Tô Đồng viết nhiều câu chuyện mang tính hồi ký về những năm tháng khó quên trong các tập san Nha-Y-Dƣợc; và năm 2004, ông cho in cuốn Những Dòng Kỷ Niệm, tặng bạn hữu xa gần, đƣợc độc giả khắp nơi hâm mộ.
SB-TN xin thông báo tin này đến khán thính giả khắp nơi, và gửi lời phân ƣu đến cùng tang quyến.
Nguồn : http://sbtn.net/D_1-2_2-68_4-64054/giao-su-to-dong-nguyen-khoa-truong-duoc-khoa-saigon-qua-doi-tho-80-tuoi.html

Lời Giới Thiệu
Cách đây ít lâu, giáo sƣ Tô Đồng đƣa cho tôi xem bản thảo cuốn Những Dòng Kỷ Niệm và bảo tôi viết đôi dòng giới thiệu cùng với các bạn thân của ông là bác sĩ Nguyễn Khắc Minh, giáo sƣ Đàm Quang Hƣng và bác sĩ Phạm Tu Chính. Tôi thật cảm động vì đƣợc một ngƣời thầy cũ danh tiếng của trƣờng Dƣợc Khoa Sài Gòn tin cậy trong công việc tế nhị này.
Những Dòng Kỷ Niệm là một tập hợp những bài viết của giáo sƣ Tô Đồng về những kỷ niệm trong đời ông đã đƣợc đăng trên mạng lƣới toàn cầu. Đây không phải là một cuốn hồi ký giống nhƣ nhiều hồi ký xuất bản trong mấy năm gần đây. Ông không viết một tập hồi ký quy mô, mà chỉ ghi lại một vài kỷ niệm "để bà con cô bác xa gần sau này có thể biết đƣợc một phần nào về cuộc đời nhiễu nhƣơng, phức tạp của thế hệ chúng tôi" nhƣ ông đã viết trong lời phi lộ.
Bác sĩ Nguyễn Khắc Minh đã nêu rõ tinh thần khiêm tốn và sự hữu ích của Những Dòng Kỷ Niệm. Ông viết: "Đây là một hồi ký kể lại cuộc đời mình, nhƣng ít thấy tác giả nói về cái tôi. Tô Đồng giống nhƣ một máy quay phim, ghi lại những diễn viên, những cảnh trí mà đời đã mang lại cho mình, để có thể san sẻ với con cháu, bạn bè ở thế hệ này cũng nhƣ thế hệ sau…Với trí nhớ phong phú, với lời văn trung thực và sống động, tác giả đã trao cho đời một áng văn rất có giá trị, một món ăn tinh thần cho con cháu và bạn bè đƣơng thời. Tác phẩm này cũng rất hữu ích cho các thế hệ sau, để đọc và biết thêm cuộc sống của một ngƣời dân trong khoảng thời gian đặc biệt của lịch sử nƣớc nhà".
Giáo sƣ Đàm Quang Hƣng đã có nhận xét tổng quát rất xác đáng về nội dung cũng nhƣ hình thức của Những Dòng Kỷ Niệm: "Chúng tôi nghĩ rằng qua mƣời bài viết trong cuốn sách này, với lời văn thật nhẹ nhàng, sáng sủa, dung dị, dễ hiểu, tác giả muốn gửi đến bà con, bạn bè đồng thế hệ, cũng nhƣ gửi đến các độc giả đồng thanh đồng khí ở các thế hệ sau, nỗi niềm tâm sự của tác giả, một khoa học gia Việt Nam đa tài và khiêm tốn. Chúng tôi tin rằng quý vị độc giả sẽ cảm thấy thoải mái dễ chịu và say mê trong lúc đang đọc cuốn sách, và sau khi đọc xong, quý vị sẽ giữ lại đƣợc một số hình ảnh trong một giai đoạn đăc biệt của lịch sử nƣớc nhà, cũng nhƣ giữ lại đƣợc dƣ vị dịu dàng trong văn chƣơng của tác giả".
Bác sĩ Phạm Tu Chính trong thƣ gửi cho tác giả, đã viết những lời rất cảm động: "Đọc Những Dòng Kỷ Niệm, kỷ niệm cũ, trƣờng xƣa trên mấy thập niên, lại hiện về khiến tôi bồi hồi xúc động nghĩ tới những ngƣời bạn đã vĩnh viễn ra đi vì bệnh tật, hay đau buồn hơn vì cuộc chiến huynh đệ tƣơng tàn hay bỏ mình ngoài biển khơi trên đƣờng vƣợt biển tìm tự do. Cám ơn anh đã viết kể lại những đoạn đƣờng đời, không phải của riêng anh mà theo tôi nghĩ là của anh em cùng thời. Với trí nhớ tốt anh đã ghi lại nhiều kỷ niệm, thầy xƣa, bạn cũ mà anh em nhiều khi đã quên. Mong rằng Những Dòng Kỷ Niệm sẽ đƣợc in thành sách, phổ biến rộng rãi để thanh niên thế hệ sau hiểu đƣợc đời sống cha anh đã trải qua trong một giai đoạn lịch sử nƣớc Việt Nam thân yêu, nay đã ngàn trùng xa cách."
Ba vị kể trên đều là bạn thân của tác giả từ thuở nhỏ. Họ có thẩm quyền nói về tác giả và tác phẩm Những Dòng Kỷ Niệm. Còn tôi, một sinh viên thuộc thế hệ sau, nhỏ hơn ông đến 8 tuổi, cớ gì lại đƣợc ông bảo viết thêm lời giới thiệu? Khi học ở trƣờng Dƣợc vào thập niên 1960, tôi né tránh không liên lạc với các giáo sƣ đến mức tối đa, nên không quen biết giáo sƣ Tô Đồng. Ngày nay, ông thật đã coi tôi nhƣ một ngƣời bạn vong niên. Ông nghĩ là tôi đã hiểu ông nhiều
khi tôi đã sống và làm việc nhiều năm bên cạnh ông, từ 1972 khi tôi về nƣớc, và nhất từ 1976 khi ông về làm việc cùng tôi tại Oklahoma Medical Research Foundation cho đến ngày thầy trò cùng về hƣu trí tại San Diego. Đƣờng đời tuy có khác nhƣng hai thầy trò cũng đã chia xẻ nhiều cảnh ngộ: thuở thiếu thời đều may mắn đƣợc xuất ngoại du học giữa buổi chiến tranh. Thuở thanh niên cũng từng quyết tâm về nƣớc mong làm đƣợc một việc gì khả dĩ đền đáp đƣợc công ơn của đất mẹ. Thuở trung niên cũng phải rời bỏ đất nƣớc ra đi trong cơn quốc biến. Tại Hoa Kỳ, thầy trò cũng sát cánh bên nhau cùng những ngƣời tâm huyết làm những việc biết là chẳng thể thành công mà vẫn cố làm. Rồi những ngày thầy trò khảo cứu khoa học trong cùng một phòng thí nghiệm, những buổi đánh bài giải trí khi tuyết bay ngập trời bên ngoài ở Oklahoma City, những ngày đêm ở California cùng một số anh em tìm cách giúp đồng nghiệp cũ trở lại ngành Dƣợc. Nay đến tuổi về hƣu, thầy trò vẫn có dịp trò chuyện về trƣờng Dƣợc thuở xƣa, về cuộc đời muôn mặt… Ông đã coi tôi nhƣ một ngƣời thân cận đáng tin và tôi đã coi ông vừa là thầy vừa là bạn lớn tuổi đáng kính. Vì thế ông đã bảo tôi viết đôi dòng giới thiệu cuốn sách đầu tay của ông và tôi cũng hoan hỷ nhận lời.
Viết cuốn Những Dòng Kỷ Niệm, tác giả muốn mô tả cuộc sống của một ngƣời Việt Nam qua những kỷ niệm buồn vui của chính tác giả. Tuy cùng sống trong cảnh thăng trầm của đất nƣớc nhƣng mỗi ngƣời đều có kinh nghiệm cá nhân. Đọc Những Dòng Kỷ Niệm, những ngƣời cùng thế hệ với tác giả sẽ đƣợc dịp sống lại những ngày xa xƣa, nay chỉ còn là kỷ niệm dĩ vãng, và dĩ vãng dù đau thƣơng khi đã nhạt phai cũng sẽ trở thành êm ả. Những độc giả trẻ tuổi sẽ có một cái nhìn trung thực về thời đại gần mình nhất qua sự mô tả chân thực của một ngƣời trí thức có tiếng là thanh liêm. Tôi chƣa thấy ai tự khai chuyện mình thi đậu không do sức mình vì hoàn cảnh lạ lùng trong bài Những năm học và mùa thi đã qua. Những việc ông cho là do số phận đã làm cho chúng ta gần với ông hơn, vì cảm thấy một ngƣời nổi tiếng nhƣ ông cũng vẫn phải trải qua sự thử thách của bất cứ sinh viên nào khi chế độ giáo dục lỗi thời đã đƣa đẩy đến chỗ "học tài thi phận". Hào hứng nhất là những kỷ niệm thời niên thiếu của tác giả. Một kỷ niệm về ngành bào chế soi sáng huyền thoại về viện bào chế Tenamyd với những kỷ niệm cá nhân của ông Giám đốc Kỹ thuật, đọc không khô khan vì tràn ngập tình bằng hữu, tình đồng nghiệp, tình đồng đội, tình ngƣời. Thật trái ngƣợc với những kinh nghiệm làm việc ở Hoa Kỳ, đƣợc mô tả rất linh hoạt với sức sống động của nền kỹ nghệ trên đất Mỹ, đôi khi tàn nhẫn với các khoa học gia, nhất là với những ngƣời thuộc thế hệ di dân thứ nhất nhƣ thầy trò chúng tôi, một thế hệ lạc lõng vì cuộc đổi đời năm 1975.
Ngoài những chi tiết về một thời đã qua, độc giả còn đƣợc thƣởng thức bút pháp giản dị, trong sáng và những nhận xét rất tinh tế của tác giả, một ngƣời từ nhỏ đã có tiếng là có trí nhớ tuyệt luân và thông minh. Tác giả đã mô tả cảnh chống bão ở thôn quê thật đúng và thật buồn cƣời: "Căn nhà tranh vách đất rung lên từng hồi nhƣ lên cơn sốt rét…Gió lùa vào tận phía trong nhƣ muốn cuốn luôn cả tấm mái tranh lên trời cao. Ông Thân bảo chúng tôi phải ôm chặt lấy cột nhà, còn ông và bố tôi thì đánh đu lên sà ngang để giữ cho mái nhà khỏi bay mất. Thế mà bão cũng đi qua và căn nhà may còn đứng vững." Tôi rất thích đoạn tả tình tả cảnh của cậu học trò 16 tuổi một mình thui thủi sang tỉnh bên du học: "Lòng nặng trĩu nỗi lo âu của một học sinh nhỏ tuổi thời chinh chiến, tôi đeo ba lô độc hành trên đồng ruộng, xuyên qua những cánh đồng thơm mùa lúa chín. Bƣớc chân lặng lẽ mà vẫn làm kinh động những đàn cào cào, châu chấu, chúng vụt bay rồi đáp xuống rào rào nhƣ những chiếc lá vàng rơi rụng sau một cơn gió lốc xoáy lên cao."
Thầy tôi thƣờng hỏi cuốn Những Dòng Kỷ Niệm có nên xuất bản không? Tôi đáp: "Rất nên". Lý do rất đơn giản: Những Dòng Kỷ Niệm sẽ làm cho sinh hoạt văn hóa ở hải ngoại phong phú hơn với sự đóng góp của một ngƣời đáng tin cậy, lại có lòng nhân hậu ngay cả khi nói về những việc bi thảm của cuộc đời muôn mặt trong chiến tranh.
Viết tại San Diego, California, mùa thu năm Giáp Thân (2004)
Duyên Hà Lê Phục Thủy
CHƢƠNG 1
Lời Phi Lộ
Tôi về hƣu đến nay tính ra cũng hơn bốn năm. Thời gian trôi thật nhanh, mái tóc đã nhƣ Lý Bạch mô tả trong bài Tƣơng Tiến Tửu triêu nhƣ thanh ti mộ thành tuyết, sớm mới nhƣ tơ mà tối đã nhƣ sƣơng. Thỉnh thoảng tôi gom góp một vài dữ kiện, kể lại dăm ba chuyện cũ, e để lâu quên dần đi hết chăng? Hay vì muốn cung ứng một số bài vở cho mấy tập san Y Nha Dƣợc tại hải ngoại? Và lần hồi Những Dòng Kỷ Niệm này đã đƣợc hoàn tất tại San Diego, trong khoảng từ tháng 6, 2002 tới tháng 4, 2004. Khởi đầu, thật ra tôi định viết để bà con cô bác xa gần sau này có thể biết đƣợc phần nào về cuộc đời nhiễu nhƣơng phức tạp của thế hệ chúng tôi. Nhƣng kể những việc mình trải qua đƣa tôi trở về với môi trƣờng sinh hoạt thân quen, nên tôi đã để tâm ghi lại một vài nét trung thực của cuộc sống riêng tƣ cùng gia đình và bè bạn. Tôi nghĩ rất giản dị rằng những bài hồi ký tạo thành dòng kỷ niệm qua bao mùa ly loạn này có còn hơn không.
Khi có ý định nghỉ hƣu, tôi cũng tìm hỏi ý kiến và kinh nghiệm của các bè bạn đi trƣớc. Đang đi làm toàn thời gian, mà bỗng nhiên nghỉ hẳn thôi không làm gì cả thì làm sao giết thì giờ đây? Phải chi tôi làm việc bán thời gian, lúc về nghỉ có lẽ dễ dàng hơn. Có bạn vui đùa dọa rằng nếu bà xã đã về hƣu trƣớc mà là ngƣời nói nhiều thì thà đi làm không công còn sƣớng hơn. Ở nhà suốt ngày phải nghe bà ấy nói thì thật là khổ, mệt óc thật chứ không phải nhức tai đâu! Tôi học anh Nguyễn Ngọc Thịnh hiện cƣ ngụ ở Úc Châu nhiều điều đáng ghi nhớ nhất. Phải bới việc ra để mà làm, kể cả những việc lặt vặt nhƣ sắp xếp lại sách vở, bầy biện lại đồ đạc, thay đổi chỗ đặt chậu kiểng chậu lan, ra thƣ viện xem sách coi truyện đọc báo. Các anh Đặng Vũ Biền, Lê Phụng thì đi học chữ nho, anh chị Võ Đức Diễn đi học quan thoại. Hiện nay tôi có thì giờ trao đổi ý kiến thƣ từ trên mạng lƣới với các bạn Vƣơng Tú Toàn, Nguyễn Khắc Minh, Vũ Quốc Oai, Nguyễn Hữu Quang, Đàm Quang Hƣng. Hoặc đọc ít sách về dịch học hay triết học, tôn giáo. Mới thấy những đề tài quan trọng nhƣng khó lãnh hội này cũng có những bài viết đặc sắc của các bạn Lê Phụng, Bạch Lý Từ, Nguyễn Văn Phú... Ai nấy trở lại cuộc đời sinh viên nhƣ học vẽ, tập đàn, làm việc thiện nguyện. Và ngƣời ta cũng bỏ công tìm lại một vài hình ảnh thất lạc, kiếm liên lạc với bà con đã lâu không có tin tức. Hay tụ họp chơi cờ, đánh bài, ăn nhậu ca hát, cùng ôn chuyện cũ, kể chuyện mới. Hoặc đi casino đánh bạc thử vận đỏ đen, đi du lịch và du thuyền rồi nhân dịp tham dự hội hè và gặp lại bạn bè bốn phƣơng.
Ngoài việc đi bộ, hay tập tành tại các trung tâm thể dục thể thao, thì lúc hƣu trí, làm vƣờn nhặt lá tƣới cây cũng là lối giải trí lành mạnh cho cả tâm hồn lẫn thể xác. Nhớ lại khi chúng tôi mới tới thành phố San Diego cƣ ngụ, có lần giàn bí đao ra đến năm trái lớn, mỗi ngày đi làm về lại ra ngắm các trái bí xanh to dần lên, thật là kỳ diệu! Có quả nặng tới 52 pounds, tôi phải dùng những
cây sắt chống đỡ cho giàn khỏi sụp đổ. Hay khi hoa lan hoa quỳnh trong các chậu cảnh nở rộ, cây mận cây hồng ngoài vƣờn cho ít nhiều trái chín, là lòng thoáng thấy nhẹ nhàng an vui.
Chúng tôi cũng thấy lây sự hồn nhiên khi bầy cho con trẻ những trò đƣợc thua, theo thể nói lối của các bài đồng dao. Thí dụ chơi Nu na nu nống, Chi chi chành chành, Kéo cƣa lừa xẻ. Nhiều khi muốn dậy con trẻ nói tiếng Việt mà thấy tội nghiệp cho chúng đã vất vả với tiếng Mỹ tại trƣờng và còn phải tập đủ thứ nhƣ đàn dƣơng cầm, võ Đại Hàn, chơi đá bóng, chơi baseball. Nhƣng nếu bảo cùng đọc những bài ca dao, thì tuy chúng không hiểu đƣợc nghĩa cũng bắt chƣớc đƣợc giọng:
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.
Và tuổi thơ ấu thật đẹp biết bao! Không nhớ ai đã phỏng dịch một bài thơ tuyệt hay Lorsque l‟ enfant paraît của Victor Hugo trong những câu sau đây:
Em bé hỡi em là nắng sớm,
Mà hồn ta là cánh đồng hoang,
Đồng hoang tươi với hoa ngàn,
Hoa ngàn vui với nắng vàng buổi mai...
Đƣợc trông nom vui đùa cùng các cháu nội ngoại lúc tuổi già quả là niềm hạnh phúc. Tỷ nhƣ chúng ta đƣợc sống an lành trong thời Việt Nam còn tràn ngập khói lửa cũng là có phƣớc lớn hay có mệnh tốt? Tôi nghĩ chỉ cần biết qua loa về tử vi, phong thổ, tƣớng số cũng là điều lý thú, những triết lý mà tôi có cơ may học hỏi từ chú thím Hoàng Ngọc Can. Tuy nhiên, lần thầy Minh Lộc đƣờng Trần Quí Cáp trao cho tôi mấy chục tập vở ghi lại kinh nghiệm của ông để tôi biên soạn lại, tôi đắn đo mãi rồi đành xin chịu vì thấy không đủ sức. Chuyện khoa học huyền bí làm tôi hồi tƣởng đến những buổi vui vẻ đƣợc nghe thầy Minh Lộc, thầy Canh, thầy Kim giảng tử vi, cụ Dƣơng Thái Ban nói về địa lý, hay cụ Diễn bàn về diện mạo thần sắc.
Tuy không cơ hội để tìm hỏi nguyệt lão, nhƣng tôi quả may mắn có dƣợc sĩ Nguyễn Loan nhận làm ngƣời bạn đời. Chúng tôi chỉ biết trông vào duyên số, và thƣờng cầu xin Trời Phật ban cho cuộc sống bình an. Một vài bài của bác sĩ kiêm nhà văn Nguyễn Đức An nói về trƣờng cũ còn nhắc đến các chị Cao Xuân Châu Phố, Hoàng Thị Châu Quy, Tăng Thị Tuyết và nhà tôi khi đang theo học tại Chu Văn An. Xin cám ơn bác sĩ An, vì khi đọc truyện, chúng tôi cảm thấy tất cả sự xao xuyến của buổi thiếu thời. Tôi cũng không quên ông Chánh, tài xế của viện đại học đã đem giùm hoa của tôi gửi tặng nhà tôi vào một dịp tết năm nào. Và các sứ giả đã giúp những lá thƣ xanh của chúng tôi tuần tự vƣợt đại dƣơng mấy năm trời liên tiếp: chị Vũ Thị Hòa sau là giáo sƣ và chị Nguyễn Thị Ngoan sau là dƣợc sĩ. Để rồi chuyện chúng tôi thành tựu bình thƣờng khi tôi từ Paris về lại Sài Gòn. Cô chú Lê Văn Khoa đã từng bảo lãnh cho tôi đi Pháp, nay lại đại diện cho nhà trai. Cô Tô Kim Hiến là em thân thiết của bố tôi, chú Khoa lúc đó đang làm Đại Tá Ủy Viên Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt. Bố mẹ nhà tôi đều hiền hậu, cụ ông Nguyễn Văn Ƣng là Kỹ sƣ Công Chính đã về hƣu, cụ bà Phạm Thị Hiền chỉ biết chăm lo cho con cháu. Từ dạo đó, cô án Khoa và bà tham Ƣng trở thành bạn thân. Chạm mặt, ăn hỏi, lễ đón dâu đƣợc tổ chức theo đúng thủ tục Việt Nam. Chúng tôi in thiệp báo hỉ tại Kim Lai Ấn Quán, lập hôn thú tại Tòa Đô Chính
Sài Gòn, đặt dạ tiệc tại nhà hàng Kim Đô. Ngày cƣới là ngày 8 tháng 9 năm 1962, có các cô Phan Thị Tích Thiện, Vũ Thị Hòa, Nguyễn Lan Phƣơng, Nguyễn Thị Minh Hằng làm phù dâu. Có các anh Võ Đạm, Vũ Xuân Châu, Phùng Quốc Anh, Phạm Ngọc Tùng đi phù rể. Với sự hiện diện của bao nhiêu bà con bè bạn thân thƣơng. Tôi không muốn viết lại câu chuyện này, vì thấy chung quanh có nhiều cuộc tình thật đẹp đáng kể hơn, và cũng vì mình còn chƣa luyện đủ bút pháp.
Tuy tuổi nhỏ từng phải làm luận, học thuộc lòng các bài thơ hay, sao chép lại các đoạn tiểu thuyết đẹp, nhƣng tôi ít năng khiếu văn chƣơng. Làm sao tài ba nhƣ Anatole France viết về ngày khai trƣờng mà đọc lên y hệt nhƣ một bài thơ? Ông nhìn lại hình bóng của mình trong tâm tƣởng hai mƣơi lăm năm về trƣớc. Chỉ là cậu học trò nhỏ đi học ngang qua vƣờn Luxembourg, tay đút túi quần, vai mang cặp sách, dáng đi nhẩy nhót nhƣ một con chim sẻ. Làm sao thiệt giỏi nhƣ Alphonse Daudet, ngƣời kể chuyện quyến rũ nhất của thế kỷ thứ 19? Với những trang giấy đầy cảnh ngộ đặc sắc trong Les Lettres de Mon Moulin. Làm sao vui nhộn nhƣ một nhà văn trong giai phẩm Xuân 1950 tại Liên Khu Ba, bàn về một kỳ kế của đệ nhất gian hùng thời Tam Quốc mà y hệt nhƣ nói câu chuyện vừa mới xẩy ra. Để kết luận bằng một lời khen kèm theo câu chửi rủa phẫn nộ: Hay, hay thật, tiên sƣ anh Tào Tháo! Và làm sao học hỏi đƣợc các văn nghệ sĩ tài danh, bên này và bên kia chiến tuyến, nơi mà kẻ thắng ngƣời bại đều mang đầy thƣơng tích? Trong hệ lụy quốc cộng, độc tài và dân chủ, chiến tranh và hòa bình. Của các nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nam Phong, Tri Tân, Nhân Văn Giai Phẩm, Sáng Tạo, Chỉ Đạo... Và thời đại nhiễu nhƣơng nô lệ, kháng chiến, tản cƣ, hồi cƣ, di cƣ, di tản của toàn thể dân Việt.
Nếu không có biến cố tháng tƣ năm 1975, tôi đã không viết lại một số chuyện đã xẩy ra. Để rồi nhiều lúc băn khuăn tự hỏi viết để làm gì, viết cho ai đọc? Và còn cố tìm ra những lý do, những lời giải thích cho việc làm rất giản dị này. Tiếc rằng tôi không có ngòi bút sắc bén để mô tả đƣợc các sự việc của thời đại đã qua nhƣ một chứng nhân. Là một nhà khoa học, tôi chỉ cầu mong một cuộc sống an bình. Và những điều mình không muốn, thì không làm cho ngƣời khác: kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân. Tuy nhiên, nếu ghi lại đƣợc một chút nào tình ngƣời, kể đƣợc đôi ba điều vui đẹp trong cuộc sống, tôi cũng cảm thấy niềm thích thú để chia sẻ cùng bạn bè độc giả. Trong thời tản cƣ, tôi gặp nhiều dân quê miền Bắc chất phác, giúp đỡ nơi ăn chốn ở mà chẳng mong cầu sự trả ơn. Tính họ giản dị dễ dàng nhƣ làn nƣớc chảy xuôi. Họ đã cho tôi những tháng ngày vui tƣơi ở Ngọc Nha, Gạo Nam, Thƣợng Phú. Thời di cƣ, tôi quen nhiều dân Nam thật thà không kiểu cách, tâm tình tƣơi sáng nhƣ gạo trắng trăng thanh miền sông nƣớc Đồng Nai. Để cho tôi những ngày thật đẹp ở Đại Học Xá Chợ Lớn. Trong bốn năm học tại Kinh Đô Ánh Sáng, tôi đƣợc giao thiệp với nhiều dân Pháp lịch sự, không kỳ thị mà cũng chẳng bóc lột ai. Tôi đã học hỏi chiêm nghiệm đƣợc phần nào những nét đẹp của văn minh tây phƣơng. Và từ thời di tản, tôi cũng gặp nhiều ngƣời Mỹ tốt tính, có đầu óc xã hội và hay tận tình giúp đỡ. Tôi cũng đã hòa vào một thế giới hợp chủng năng động, đầy sức mạnh kỹ thuật kỳ bí khó mà lý giải đƣợc.
Thế mà trong khi đó, vào cuối thế kỷ qua, đất nƣớc tôi đã trải qua biết bao nhiêu hoạn nạn vì chinh chiến. Làm ngƣời dân thƣờng chỉ còn biết kêu trời, khổ tại mình cũng có mà tại ngƣời cũng không phải ít. Dù duy tâm hay duy vật, con ngƣời vào thời nào và ở nơi nào cũng có tốt có xấu. Có thể vì tính tình khó dễ, quan niệm khác biệt, trình độ hiểu biết không đồng đều. Nhƣng ông trời đã phó mặc cho những nhà điều khiển quốc gia trọng trách với đồng loại, thì một chính sách lầm lẫn của họ có thể gây tang tóc cho dân nƣớc khác, đôi khi còn làm hại cho cả chính dân mình. Tôi không có thói quen viết nhật ký, nên nói chuyện cũ hầu nhƣ chỉ còn dựa vào trí nhớ rất
giới hạn. Mà những điều mắt thấy tai nghe thƣờng bị quên lãng vì thời gian và không gian, nay đã quá cách xa. Nhiều chuyện xẩy ra cũng trên nửa thế kỷ. Lắm lúc phải hỏi lại nghĩ lại mới chợt nhớ ra. Với những dòng kỷ niệm sau đây đƣợc sắp xếp theo từng khung trời riêng biệt về việc, về ngƣời, về cảnh, về vật. Tôi mong bà con bè bạn có tên hay không trong tập bút ký này, hãy rộng lƣợng bỏ qua các lỗi lầm vì vô tình hay sơ xuất. Trong đôi ba nét mộc mạc ghi dấu một thời ly loạn mà chính chúng tôi hay có thể các độc giả đã phải trải qua.
CHƢƠNG HAI
Tuổi xanh ở miền Bắc
Thời đệ nhị thế chiến có những buổi sáng tới lớp học, chúng tôi phải đọc lời của Quốc Trƣởng Đức Hitler đã nói, hay phải hát bài chúng tôi có mặt đây với Thống Chế Pháp Pétain: Maréchal, nous voilà, devant toi le sauveur de la France... Nhƣng cũng có khi đƣợc xem những trang hoạt họa mầu sắc kể chuyện về chiến công của đồng minh, về sự hy sinh của Đại Úy Phi Công Đỗ Hữu Vị cho mẫu quốc trong thế chiến thứ nhất.
Từ cuộc cách mạng tháng tám, thời của các cuộc biểu tình, hoan hô, đả đảo, các phong trào cứu quốc, có lúc chúng tôi phải ca tụng Chủ Tịch Hồ Chí Minh: Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng... Về Hà Nội, vùng quốc gia, thời của những truyền đơn chống thực dân đòi độc lập, chúng tôi có lần phải thề trung thành với Quốc Trƣởng Bảo Đại. Và đến ngày di cƣ, thời đủ các loại mít tinh, biểu ngữ, kiến nghị, các vận động bài phong đả thực, chúng tôi có khi đứng dậy suy tôn Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong rạp chiếu bóng: Ngô Tổng Thống muôn năm... Công hay tội của những vị này có lẽ tùy theo quốc gia và cách nhìn của mỗi thời điểm.
Nếu anh hùng hào kiệt đã có các sử gia phê phán, thì đại đa số dân lành đành lãnh chịu đủ mọi hậu quả, thƣờng là tai hại hơn phúc lợi, của những chính sách nhà nƣớc, một khi quốc gia còn nô lệ hay độc tài. Nhƣng ai mà không có những lựa chọn và ƣa ghét riêng tƣ, và ở thời nào thì vẫn nhất tƣớng công thành vạn cốt khô, hay đƣợc làm vua thua làm giặc. Điều đáng tiếc nhất là từ thời buổi hỗn mang đó, đất nƣớc chúng ta đã có bao nhiêu gia đình chịu cảnh anh em phân tán, vợ chồng ly tan. Và thiệt thòi biết bao, khi quá nhiều nhân tài bị thui chột, cả bên này lẫn bên kia chiến tuyến. Vì phong kiến, thực dân, cộng sản, và các tổ chức cực đoan. Con ngƣời ta chỉ còn trông vào sự may rủi hay số mệnh. Biết đến ngày nào thế giới mới thật sự có hòa bình và nƣớc ta sẽ đƣợc thanh bình trong sự phồn vinh dân chủ?
Bài viết này tôi ghi lại vài nét về thời thơ ấu, những ngày còn trẻ dại, cho tới tuổi thanh xuân. Một chút gì của riêng tôi, khi tóc còn xanh, môi còn hồng, trôi theo những tháng năm an bình xen lẫn với các mùa ly loạn. Trên những khung trời miền Bắc, trƣớc khi có cuộc di cƣ vĩ đại vào Nam tháng 7 năm 1954.
Lao Kay
Tôi chào đời năm 1933 tại Lao Kay, một tỉnh biên giới Việt Bắc. Bƣớc qua chiếc cầu nhỏ Hồ Kiều là đã sang tới Vân Nam của Trung Hoa, vùng đất cho những trái mận ngọt ngào và đào tiên thơm ngon. Sinh nhật tôi mồng 7 tháng 11 thật dễ nhớ, vì cũng là ngày Cách Mạng Nga Sô Viết, hay ngày Khởi Nghĩa của nhóm Bôn Sê Vích. Vào năm 1917, nhóm này đã cƣớp chính quyền
nƣớc Nga, mang lại cho nhân loại một thời hi vọng thật ngắn ngủi, để rồi tiếp theo một thời hãi hùng dài đằng đẵng. Phải đợi tới bẩy chục năm sau, Tổng Thống Yeltsin mới có thể cho xây một đài tƣởng niệm các nạn nhân trong cuộc Nội Chiến 1918-1920, và ra nghị định đổi ngày này thành Ngày Hòa Hợp Hòa Giải. Thế giới hiện nay may có đƣợc đôi chút an bình, tuy ngƣời ta lại bắt đầu lo sợ chiến tranh khủng bố!
Trong khai sinh tôi thấy ghi tỉnh Lao Kay, châu Bảo Thắng, làng Lao Kay. Ngoài tên bố mẹ, ngƣời đứng khai là bác sĩ tỉnh Lao Kay, với các thầy giáo Đoàn Quang Hanh và Vũ Ngọc Toản làm nhân chứng. Mẹ tôi kể là khi sinh ra tôi có tràng hoa quấn cổ, lúc nhỏ khó nuôi và hay đau ốm, nhƣng nếu sống đƣợc thì sẽ khá. Bà còn chế nhạo rằng tôi đi đâu cũng phải mang theo một chiếc gối, lúc cần thì dùng để đỡ đầu, vì đầu tôi xem ra lớn hơn khổ ngƣời. Trên đƣờng đời, mỗi lần thay đổi chỗ ở, tôi thƣờng mang theo hành trang một số ảnh chụp cùng gia đình. Để khi rảnh rỗi, đôi lúc đem ra coi lại. Có cả tấm ảnh hồi nhỏ tôi mặc một chiếc áo gấm dài đứng trên cầu Hồ Kiều với bố mẹ. Thế mà những ảnh chụp ở mọi nơi chúng tôi đã sinh sống đều bị thất lạc khi vội chạy thoát thân trong biến cố tháng tƣ đen! Gần đây tôi mới đƣợc ở nhà gửi cho mấy tấm ảnh cũ còn sót lại. Có một bức chụp ba chị em với bố mẹ tại trƣờng kiêm bị Lao Kay, khi em Đằng mới sinh đƣợc mấy tháng. Tôi còn quá nhỏ để nhớ phong cảnh nhân vật tỉnh lỵ này ra sao? Nhƣng đặc biệt là món sôi nứa của ngƣời miền núi thì tôi không quên. Gạo nếp đem vo, đổ vào ống nứa non, rồi nƣớng trên lửa cho chín. Lúc tách ống nứa lấy cơm nếp ra ăn thì thật là dẻo và thơm ngon.
Thông thƣờng, công chức thời Pháp thuộc phải đi miền sơn cƣớc nhận việc mấy năm trƣớc khi đƣợc đổi về nhiệm sở vùng đồng bằng. Khi bố tôi làm hiệu trƣởng trƣờng Lao Kay, mẹ tôi sinh em Đằng, khỏe mạnh và cao lớn hơn tôi, nƣớc da ngăm ngăm đen. Mẹ tôi thƣờng gọi đùa em là mán xá, vì vùng này có nhiều sắc tộc thiểu số. Mẹ tôi nói khi bà có mang tôi, gia đình còn ở vùng Trà Lũ Bắc Nam Định, nên tôi trông trắng trẻo nhƣng yếu đuối hơn. Có lẽ nào nƣớc da lại phụ thuộc vào nơi sinh trƣởng?
Nơi đây bố tôi nhận việc sau khi tốt nghiệp trƣờng bƣởi Nam Sƣ Phạm vào năm 1928. Cũng là nơi mà bố tôi có đƣợc một ngƣời học trò tốt, đẹp trai, tƣớng ngũ đoản, anh Mai Quí Hiên, sau học lớp sĩ quan tại Tông của Pháp. Anh theo kháng chiến từ cuộc cách mạng mùa thu cho đến khi thắng lợi. Hồi chúng tôi còn tản cƣ ở vùng Hƣng Yên Liên Khu Ba, thỉnh thoảng anh có rẽ qua thăm bố tôi. Lúc đó tƣớng Nguyễn Văn Vận, nguyên là Thiếu sinh quân của Pháp, đi đâu ở đâu anh ấy cũng có tin tức. Tƣớng Vận, con cụ Lãnh Quảng, ngƣời bạn thƣờng đến chơi với bố tôi trong nhửng dịp tết nhất, cũng là học trò cũ tại Hải Dƣơng. Vì vậy nên có thể ngƣợc lại, anh Hiên ở đâu đi đâu tƣớng Vận cũng rõ. Hình nhƣ về sau, thời Thủ Tƣớng Ngô Đình Diệm, gia đình tƣớng Vận sang lập nghiệp ở Sceaux, ngoại ô Paris. Tôi ngƣỡng mộ anh Hiên, và rất biết ơn anh đã săn sóc bố tôi khi đau yếu và vĩnh viễn ra đi lúc 75 tuổi tại Hà Nội. Vào dịp tôi về thăm mẹ cùng anh chị em tôi tại Hà Nội những ngày cuối năm 1994, tôi may mắn đƣợc gặp chị Hiên. Tuy tóc chị đã bạc trắng nhƣng thần thái rất an vui. Thật là thú vị tuyệt vời, khi đƣợc gập một gia đình trọng lễ nghĩa ở một thời ly loạn khắc nghiệt!
Hải Dƣơng thời Pháp thuộc
Thời gian gia đình tôi ở Hải Dƣơng tính ra cũng đến gần bẩy năm. Tỉnh này nằm trên đƣờng số 5, khoảng giữa Hà Nội và Hải Phòng. Tôi học trƣờng Ga từ lớp đồng ấu đến khi thi Sơ Học Yếu Lƣợc, rồi lên lớp nhì năm thứ nhất. Hệ thống tiểu học lúc đó có lẽ sáu năm, gồm các cours enfantin, préparatoire, élémentaire, moyen un, moyen deux, supérieur. Sau lớp nhất thi Sơ học Bổ túc hay CEPCI. Trong tỉnh có cụ Đốc Học Nguyễn Hoài Đĩnh, với bốn cậu con trai đều học giỏi Xuân Hạ Thu Đông. Tuần phủ là cụ Nguyễn Hữu Cung, thân phụ của các anh Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Vƣợng. Tôi còn nhớ đƣợc ít nhiều phố xá nơi đây và một số sự việc xẩy ra ngày ấy.
Nhà tôi ở số 79 phố Đông Giàng là một căn nhà rộng rãi, có cổng bên hông nhỏ và lối đi vô thật dài. Sân trong nhà rất rộng có thể chơi bịt mắt bắt dê, nhẩy dây, nhẩy lò cò, đánh ô, chơi dải danh. Nhà mặt tiền có hàng hiên rộng ở giữa, đƣa tới cửa chính đi ngay vào phòng khách. Trong phòng bầy bộ sa lông gồm nhiều bàn ghế tràng kỷ bằng gỗ gụ chạm trổ thật đẹp, có đỉnh đồng, có lộc bình trang trí. Bên phải là phòng làm việc của bố tôi, có bàn giấy rộng, mấy tủ sách, một ghế ngựa đặt gần cửa sổ trông ra phố. Bên trái có phòng ngủ rộng kê mấy chiếc giƣờng, một phòng nhỏ kê mấy chiếc rƣơng. Phòng ngủ này có cửa sổ rộng phía trƣớc trông ra đƣờng và một
cửa ra vào ăn thông xuống nhà ngang phía sau. Trong nhà này có kê mấy tấm ghế ngựa, trên trần có quạt kéo, và một bàn học trò dài của chúng tôi. Nhìn ra sân có tƣờng thấp ngăn chỗ ở và một hƣơng án giữa trời xây trên bể nƣớc ăn, có một giếng nƣớc, và vào trong phía sâu là nhà bếp, nhà tắm, nhà của ngƣời làm. Cổng hậu nhà bếp mở ra một vƣờn nhỏ trồng mấy cây đu đủ, có nhà cầu, có nhà kho chứa than. Những nắm than hình quả bàng do ngƣời bếp trộn than với bùn rồi nắm lại phơi cho khô trƣớc khi đốt trong lò.
Thân nhất có các anh chị con bác Văn Hải, chủ một nhà sách lớn nhất ở trung tâm thành phố. Bác có biệt tài đóng những tập sách quí, bìa bọc da, chữ mạ vàng thật đẹp. Những quyển sách gia bảo. Các chị lớn là Thuyến, Toàn, Dung, và các anh cùng trạc tuổi tôi Minh, Long, Lanh. Ngoài Văn Hải còn có nhà sách Phú Văn tỉnh Hải Dƣơng cũng của một bà con trong họ. Bè bạn tuổi học trò có Lê Phụng, Nguyễn Văn Vỹ, Nguyễn Hoàng Lĩnh con thầy Nguyễn Hoàng Trừng, Lê Văn Kiên con bác sĩ Lê Văn Khải. Bác sĩ Khải từng chữa trị cho cả gia đình chúng tôi. Tôi sợ nhất mỗi lần phải ra nhà thƣơng uống huile de ricin chénopodée, thuốc trị lải đũa lải kim. Mà dầu thầu dầu để sổ đặc sệt thật khó nuốt, mùi tinh dầu chenopodium trị lải dễ làm ói mửa. Mất cả một ngày khốn khổ, bây giờ không một ai còn dùng thứ thuốc này. Tại tỉnh có nhà thuốc tây cửa hàng quầy tủ sang trọng, đầy đủ thuốc pha chế của dƣợc sĩ Quản Trọng Tiến. Tôi còn nhớ bà đỡ Vũ Thị Ngãi thƣờng đỡ đẻ cho mẹ tôi, cũng là bạn đánh quần vợt của bố tôi. Lần mẹ tôi sinh em Tô Đại xong thì bị hậu sản, băng huyết, đƣợc chích nƣớc biển và dùng đủ thuốc bổ cả tây lẫn ta mà không thấy hiệu quả. Mẹ tôi sức khỏe yếu dần, tƣởng không thể thoát chết. Lúc đó bà con nội ngoại trong quê nghe tin đã ra túc trực chật cả nhà để chờ đƣa đám, nên ba anh em chúng tôi đƣợc gửi đi ở nhờ nhà bác Văn Hải. Bác gái hỏi tôi là nếu mẹ cháu mất, cháu có buồn không? Hình nhƣ tôi đã trả lời là cháu buồn lắm chứ, nhƣng sống chết có số biết làm thế nào đƣợc? May mà mẹ tôi đột nhiên hồi tỉnh lại, rồi sức khỏe hồi phục dần dần, sau còn sinh thêm ba em nhỏ nữa. Nếu mẹ tôi mất ngày đó, thật không biết thân phận anh chị em chúng tôi sẽ ra sao?
Tại Hải Dƣơng tôi cũng đi theo sói con trong mấy năm, biết đƣợc mƣời điều tâm niệm, học đƣợc nhiều kiến thức phổ thông, thăm đƣợc bao nhiêu danh lam thắng cảnh trong những lần cắm trại. Thƣờng ngày cũng cố làm đƣợc một việc thiện nhỏ bé giản dị. Nhớ nhất là buổi họp bạn trong đêm tại đền Kiếp Bạc thờ đức Trần Hƣng Đạo. Và tôi còn thuộc ít nhiều về một bài hát tƣơi trẻ nhƣ sau:
Ngày vui sướng,
Tiếng cười vang,
Gieo trong lòng
Tình yêu đời.
Về chớ quên,
Nơi này đầy vui sống.
Ngày vui ngắn,
Ví tầy gang.
Chân ra về,
Lòng khôn rời.
Về chớ quên,
Nơi này đầy thắm tươi.
Kìa vừng ô lấp ló xuống non,
Đường về thôn tiếng hát véo von.
Đây là lối,
Chim về tối,
Tìm ân ái dưới mái trong màn đêm.
Đây là chốn,
Ta về tối
Tìm thân ái dưới mái êm đềm.
Chỉ tiếc rằng tôi đã quên hết tên của bè bạn và ngƣời Trƣởng dìu dắt sói con và hƣớng đạo lúc đó! Cho đến một bức ảnh kỷ niệm cũng không có nữa.
Hƣng Yên thời đệ nhị thế chiến
Đầu thập niên 40, bố tôi đậu kỳ thi Huấn Đạo Hạng Nhất khóa đầu tiên. Vì đậu thứ tƣ nên đƣợc quyền chọn chỗ, và bố tôi đã chọn tỉnh Hƣng Yên. Có thể vì quê tôi thuộc tỉnh này, hay vì tỉnh này nổi danh với nhiều nhân vật, nhiều lịch sử, và Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến chăng? Giữa tỉnh lỵ có một hồ bán nguyệt lúc nào nƣớc cũng trong xanh. Ngƣời ta cho rằng thời loạn lạc xƣa kia có nhiều đồ đồng chôn dấu ở dƣới nên rỉ đồng làm nƣớc trở thành xanh ngắt.
Nhà tôi ở là một nhà lầu của chính phủ, gia đình chúng tôi ở trên tầng gác. Tầng dƣới dùng làm văn phòng của bố tôi, có lính lệ, có thƣ ký. Ngƣời phu xe kéo chiếc xe nhà chở bố tôi tới tận các trƣờng làng thuộc những phủ huyện gần tỉnh lỵ, nhƣ Tiên Lữ, Phù Cừ, Kim Động, Khoái Châu, Ân Thi. Anh ta còn có nhiệm vụ của ngƣời bếp, mang theo một số dụng cụ nấu nƣớng để làm cơm cho bố tôi. Mỗi lần đi khám trƣờng tiểu học cũng mất cả năm bẩy ngày mới xong. Rồi bố tôi về làm bản báo cáo, phê điểm, và trình lên trên. Tới Hƣng Yên, tôi vừa lên lớp nhì năm thứ hai tiểu học. Tôi có thêm nhiều bạn mới, nhƣng nhớ nhất là Vũ Trùng Thân con cụ tham Hàn. Thầy Lê Văn Trọng, với chủ trƣơng tiên học lễ hậu học văn, đã dậy dỗ cho tôi nên ngƣời. Và là ngƣời đã đào tạo ra các giáo sƣ nổi danh, Vũ Nhƣ Canh của Khoa Học, Nguyễn Khắc Minh của Y Khoa.
Trong thế chiến thứ hai, tỉnh Hƣng Yên có hai trƣờng trung học sơ tán từ Hà Nội về là Đỗ Hữu Vị, và Đồng Khánh. Đốc Học coi ngành tiểu học lúc đó là cụ Lê Văn Lệ. Cụ đƣợc sáu anh chị, kể cả chị Dƣơng, chị Trúc cùng học với chị Xuân Nhân tôi. Và cùng học với các chị Phạm Thị Ngọ, Phạm Thị Thân, chị Hƣng, chị Liên tại trƣờng Đồng Khánh, khi bà Mougenel còn là Giám Đốc. Chị Hƣng học giỏi nhƣng mất sớm. Chị Liên con bác Trịnh Quang Quỹ thƣờng ra ở chơi cuối tuần với bố mẹ tôi, cũng mất vì thƣơng hàn vào một mùa hè tại Hải Phòng. Mãi sau này tôi có dịp gập lại bác Quỹ, lúc đó đã là một thƣợng nghị sĩ miền Nam. Anh Chu Thế Nhƣơng, cháu ruột mẹ tôi, một ngƣời anh thân của tôi, học tại Đổ Hữu Vị. Trên con đƣờng vô tới cổng trƣờng này, ngƣời ta xây một hồ nhỏ trồng sen thả cá thật đẹp. Hƣng Yên để lại cho tôi nhiều kỷ niệm thuở học trò, cùng bạn học đánh khăng, đánh đáo, đánh bi trên những con đê trồng nhiều cây nhãn lồng, loại nhãn tiến để vua chúa thƣởng thức. Vào mùa nƣớc, các chùm quả sẫm vàng nặng chĩu chen lấn với cành lá xanh đậm. Những lá xanh này thƣờng đƣợc dùng để ủ mốc làm tƣơng. Hè phố trong tỉnh còn trồng nhiều cây bồ hòn rất cao. Cứ mỗi trận mƣa rào mùa hạ làm lá trút xuống và quả xanh rơi rụng, thì mặt đƣờng lại đầy bọt bong bóng nổi lên dƣới những hạt mƣa. Đầu tỉnh có con đƣờng dài chạy ra phía ngoại ô và dẫn tới một ngôi chùa thật đẹp. Vào những ngày đầu năm, tôi lại súng sính trong chiếc áo xa đen mỏng mặc phủ ngoài một áo dài trắng, theo bố mẹ chị em đi đón xuân hái lộc.
Nhƣng nhớ nhất và sợ nhất là trận đói năm Ất Dậu. Thời đó ruộng ở thôn quê phải dành để trồng đay cho quân phiệt Nhật, vì thế trong tỉnh cũng xuất hiện nhiều xƣởng dệt bao bố dùng cho chiến tranh. Ngƣời dân quê mất đất trồng trọt, nên không có gì để ăn dù là củ chuối, đọt khoai. Họ bèn lũ lƣợt kéo nhau nhƣ những xác vô hồn lên tỉnh để xin cơm cháo, rồi đói nằm la liệt trên vỉa hè. Mỗi buổi sáng có những chiếc xe bò thu nhặt ngƣời chết hay ngắc ngoải chết. Rồi đổ vôi bột lên khử trùng và đem đi chôn cất. Cũng có trẻ em miền quê bị bỏ đói hay bị giết làm nhân bánh giò trong thời buổi đau thƣơng này. Và vì vậy ngƣời lớn thƣờng căn dặn trẻ nhỏ cấm không đƣợc đi theo ngƣời lạ, sợ bị mẹ mìn dỗ rồi bắt mang đi làm thịt!
Trƣờng tiểu học chúng tôi trông sang một trƣờng tiểu học của các trẻ em Pháp sơ tán về Hƣng Yên thời thế chiến. Tôi có thoáng thấy mấy bà giáo đầm và các học trò tây, nhƣng cũng e ngại nên né tránh họ thành thử chƣa bao giờ gập gỡ. Lúc đó, trong tỉnh đã có các phƣơng pháp phòng thủ thụ động, còi hụ báo máy bay tới, ban đêm đèn đƣờng đem che phủ cho bớt sáng. Ngay nhà tôi cũng có hầm trú ẩn đào chữ chi bên cạnh một gốc nhãn trong vƣờn. Nhƣng thực ra tôi chƣa hiểu và biết những gì là cảnh tƣợng chiến tranh bom đạn cả. Phải tới khi cuộc đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 xẩy ra, tôi mới sợ hãi. Chỉ trong một đêm có tiếng đạn chen lẫn tiếng pháo nổ liên hồi, mà hôm sau tất cả tỉnh này đã ở dƣới quyền kiểm soát của quân đội Nhật. Quân và dân Pháp tại đây đều bị quản thúc, nhƣ tại các nơi khác ở Đông Dƣơng. Từ giờ phút này, những cuộc chính biến và tranh đấu dành độc lập trở thành công khai. Bấy giờ đã có một số ngƣời nói tiếng Nhật, làm cho Nhật. Thuyết Đại Đông Á nghe tƣởng hay, nhƣng sự tàn ác của quân đội Nhật ai cũng kinh hãi. Tới tin Nhật đầu hàng vô điều kiện sau khi bị ném liên tiếp hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Rồi đến cuộc cách mạng tháng 8. Trong tỉnh, có rất nhiều tin đồn đại về những tay sai của Nhật, quan lại làm cho Pháp, cƣờng hào ác bá tại phủ huyện bị bắt giam, bị giết. Dân chúng hoang mang lẫn với hi vọng. Việt Nam của ngƣời Việt Nam. Sau tuần lễ vàng gây quỹ tại Hƣng Yên, gia đình tôi quay trở lại sinh sống ở tỉnh Hải Dƣơng.
Hải Dƣơng thời Dân Chủ Cộng Hòa
Tình hình đất nƣớc càng lúc càng rối loạn. Quân Quốc Dân Ðảng Trung Hoa của tƣớng Lƣ Hán đã đến giải giới quân Nhật ở miền Bắc. Một ông quan tầu cấp lớn cùng bộ hạ đến đóng bản doanh ngay tại nhà tôi, số 79 phố Đông Giàng, đem buộc cả bầy ngựa trên vỉa hè phía trƣớc cửa. Bố tôi phải bút đàm với ông ta và vận động cho họ đi ở chỗ khác. Tôi thấy nhiều ủy ban, phong trào, tổ chức nam phụ lão ấu cứu quốc đƣợc thành lập. Thời gian này ngƣời dân có quyền bầu cử Quốc Hội Dân Chủ Cộng Hòa khóa đầu tiên. Vì bố tôi làm việc tại Hải Dƣơng đã lâu, nên bà con hàng phố thúc đẩy ra ứng cử dân biểu. Mấy ngƣời học trò lớn của bố tôi thì làm và căng biểu ngữ cổ động dân thành phố bầu cử cho ông thầy, một ứng cử viên độc lập. Bố tôi và tôi thì viết lời vận động nên bầu ông Tô Đƣờng trên những tấm giấy lớn, để anh em chúng tôi đem dán vào những gốc cây trên hè phố. Cuộc kiểm phiếu ngày bầu cử cho thấy bố tôi đƣợc nhiều phiếu nhất trong tỉnh.
Nhƣng ngay buổi tối hôm đó, nhiều ngƣời lạ đến nhà thăm bố tôi, có cả bộ đội mang súng ống, ngồi chật cả phòng khách. Hình nhƣ có ông giáo Tạo cao lớn đẹp trai nhƣ tây, và ông giáo Thông ăn mặc chải chuốt đúng mốt thời đó. Tôi chỉ lén trông vào mà không nghe rõ hay hiểu đƣợc ngƣời ta bàn chuyện gì. Đến tối khuya mọi ngƣời mới ra về. Hôm sau cuộc bầu cử đƣợc tuyên bố là không hợp lệ và sẽ đƣợc tổ chức lại. Trong lần bầu lại này, có thêm nhiều quân nhân đoàn thể đi bầu, bác sĩ Lê Văn Khải trúng cử để trở thành dân biểu quốc hội Dân Chủ Cộng Hòa. Bác sĩ
Khải sau cuộc di cƣ vô Nam đã có lúc làm Tổng Giám Đốc Y Tế và Bệnh Viện của Đệ Nhất Cộng Hòa. Tôi nghĩ có thể vì bố tôi ngày đó không chịu gia nhập một đảng phái nào nên thất cử. Thế là may, vì bố tôi không có tài và theo cụ cố Tô Huân, không có số làm chính trị. Nếu có làm cũng chỉ khổ cho mình và gia đình mà thôi.
Tại Hải Dƣơng, tôi bắt đầu biết đàn mandoline một số bản nhạc trữ tình mà sau này gọi là nhạc tiền chiến: Con thuyền không bến, Giọt mƣa thu, Đêm đông. Trong thời gian này, tôi đƣợc nghe những buổi diễn thuyết tràng giang đại hải của Trần Văn Giàu, của Trần Huy Liệu. Anh em chúng tôi có ngƣời nghe mãi phát chán bèn đi ngủ, khi tỉnh dậy vẫn còn thấy diễn giả nói chƣa hết. Chúng tôi cũng đón tiếp và hoan hô Thủ Tƣớng Phạm Văn Đồng trên chuyến tầu hỏa đặc biệt chạy qua tỉnh sau khi dự hội nghị Fontainebleau trở về. Toa xe lửa đẹp đẽ, bóng láng và chăng nhiều cờ quạt, biểu ngữ. Một lần tôi theo chân bố tôi ngồi nghe buổi thảo luận của chi bộ đảng Dân Chủ của nhóm Dƣơng Đức Hiền, Phan Anh. Ngƣời ta kết luận gần nhƣ chắc chắn rằng quân Pháp sẽ không trở lại Đông Dƣơng, vì nƣớc Pháp đã kiệt lực sau thế chiến vừa qua đâu còn sức gây chiến nữa. Tôi đứng lên cho rằng chính vì vậy mà nƣớc Pháp mới phải cố gắng tái chiếm thuộc địa, lấy lại tài nguyên đã mất, để mong tìm vị thế cƣờng quốc nhƣ xƣa kia. Nhƣng chẳng ai thèm để ý đến lời phát biểu của một đứa học trò con trẻ nhƣ tôi. Và khi quân viễn chinh Pháp theo chân quân Anh tiếp thu miền Nam, rồi đổ bộ ra Hải Phòng, dân thành phố lại phải bắt đầu lo tản cƣ về miền đồng ruộng, khởi đầu cho cuộc trƣờng kỳ kháng chiến.
Trong Nam, ngƣời dân đã dùng gậy tầm vông đánh giặc. Cũng có nhiều thanh niên Bắc xung phong trên đƣờng trƣờng vô Nam. Kế hoạch lúc đó là tiêu thổ kháng chiến, vƣờn không nhà trống. Tôi mới học đƣợc có hai ba tháng tại trƣờng trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn phải đọc những bài tiếng Việt cũ kỹ khó nhớ của Huỳnh Tịnh Của, Trƣơng Vĩnh Ký, còn phải chia các động từ bất quy tắc, học ngữ vựng và viết chính tả tiếng Pháp, thì gia đình tôi đã bỏ thành phố chạy loạn. Tính về tạm quê nội tại Xuân Cầu, cách Hà Nội chừng hai chục cây số. Đồ đồng đồ sứ không mang theo đƣợc thì đem cất dấu hay bỏ xuống giếng. Chú Viện đã phải vất vả lắm mới chở hết đồ đạc vật dụng cần thiết về quê đƣợc! Xa lông giƣờng ghế sập gụ tủ chè chú đều quấn bọc bằng các cuộn rơm nhỏ cho khỏi xây sát, rồi lấy dây thừng buộc chặt lên những chiếc xe bò. Chú dẫn đoàn xe thuê này đi mấy ngày trời trên đƣờng số 5 mới về đến làng. Làm sao quên đƣợc công lao của chú đối với gia đình tôi?
Tháng Ngày Tản Cƣ
Hơn bốn năm kể từ mùa đông năm 1946 đến mùa xuân năm 1950, tôi đã sống đời tản cƣ với gia đình nơi quê nội, quê ngoại, và ở một số làng mạc tại Hƣng Yên, Thái Bình. Tôi có nhiều kỷ niệm khó quên với những tháng ngày tại Ngọc Nha phủ Khoái Châu, tại các làng Gạo Nam, Bình Lăng, Bích Tràng huyện Ân Thi, tại Thƣợng Phú phủ Thái Ninh. Tôi đã sống ở làng Gạo Nam, trong gần suốt một niên học. Đây là một làng nhỏ, nghèo nàn, đa số là nhà tranh, đƣờng đất. Bên cạnh làng Vân giầu có, nhà ngói, đƣờng gạch, nhà thờ rất đẹp. Nhƣng tại Gạo Nam, ông giáo Thân, bố và ba anh em tôi đƣợc ở riêng một căn nhà tranh ba gian, có ao, có vƣờn. Cũng không trồng trọt gì và khu đất trống để hoang vắng, trừ một luống rau húng, rau mùi tầu mà trong Nam gọi là ngò gai. Nhà ở gần đình phía đầu làng, nơi có giếng nƣớc ăn thật rộng. Tối tối, tôi lại đi xách nƣớc giếng đổ vào chum. Một lần vào dịp tết, tôi đƣợc gập anh bộ đội chủ nhà là anh Ðảo về thăm. Anh không còn ai là bà con họ hàng. Anh hát vang bài Cô láng giềng khi về tới ngõ, điệu bộ vui mừng thích thú. Chắc anh chỉ mơ tƣởng tới ngƣời tình trong mộng cho cuộc đời
chiến binh thêm ấm áp, vì đâu tôi có thấy bóng dáng cô nào quanh đây? Mà hàng tƣờng vi thật sự cũng chẳng có nữa.
Tôi ngày ngày đi học tại trƣờng trung học Bình Lăng. Hình nhƣ lúc đó bố tôi làm cho Sở Bình Dân Học Vụ và dậy tiếng Pháp tại trung học Bích Tràng. Ông giáo Thân cũng dậy tại mấy trƣờng tiểu học ở các làng quanh đấy. Tôi chƣa thấy ai hiền lành và tốt tính nhƣ ông giáo Thân. Ông rất khỏe mạnh, mập mạp, nƣớc da ngăm ngăm đen. Đôi mắt tròn luôn luôn mở lớn nhƣ ngạc nhiên với cảnh vật chung quanh. Nhƣ tự hỏi gia đình ông nay yên ở đâu rồi, nhƣ băn khoăn vì sao ông lại phải đơn độc ăn ở cùng chúng tôi? Ông từng dậy tôi nhớ tên các chòm sao trên trời, những Đại hùng Tiểu hùng để xác định phƣơng hƣớng. Mà ông thích nhất là sao ba vua Orion thật sáng, đi lững thững trong đêm từ đông sang tây. Cứ trông chòm sao này, ngƣời ta có thể đoán đƣợc giờ giấc ban đêm. Ông làm bếp cũng giỏi, nhất là cách quay vịt của ông thì số dách. Ông rán vịt thật nhỏ lửa trong chiếc nồi gang, thêm các gia vị hành lá húng láng, rồi đậy nồi lại và để những mẩu than hồng lên nắp cho vịt chín đều. Da vịt trở thành mầu vàng và rất dòn. Ông kể chuyện vui lắm, về gia đình, về quê Thanh Hóa. Một hôm trời bão tố, gió thổi từ chập tối, cây cối nghiêng ngả, rồi mƣa xuống nhƣ trút. Căn nhà tranh vách đất rung lên từng hồi nhƣ lên cơn sốt rét, mấy cánh cửa liếp bật ra bật vào mà không ai làm sao chặn yên lại đƣợc. Để gió lùa tới tận phía trong, nhƣ muốn cuốn luôn cả tấm mái tranh lên trời cao. Ông Thân bảo chúng tôi phải ôm chặt lấy cột nhà, còn ông và bố tôi thì đánh đu lên sà ngang để giữ cho mái nhà khỏi bay mất. Thế mà bão cũng đi qua và căn nhà may còn đứng vững!
Có lúc ba anh em chúng tôi tản cƣ tới một làng đạo. Chúng tôi đi chợ, thổi nấu cơm lấy ăn và học hành tiếng Anh tiếng Pháp trong mấy quyển sách cũ rích. Những ngày phiên, phải lo mua sẵn từng gánh rơm gánh rạ để đun bếp. Chủ nhà cho chúng tôi ở một gian bên, gian giữa có bàn thờ Chúa. Mỗi buổi tối khuya và sáng sớm lại đƣợc nghe mấy cậu con đọc kinh. Lâu dần thành ra thuộc lòng, bây giờ tôi còn nhớ. Một hôm trời lạnh, ba anh em nằm trong chăn ấm ngƣời nọ đùn ngƣời kia không chịu ra cất quần áo len dạ đã phơi ở ngoài hiên từ buổi sáng. Hôm sau thấy bị mất trộm hết, thôi từ nay chúng tôi chỉ còn lại đủ ít đồ mặc rét. Lúc có tiếng máy bay và thấy từng chiếc khu trục lần lƣợt tách khỏi đoàn để lƣợn theo vòng rộng rồi nhào xuống bắn phá thì chúng tôi bỏ chạy ngay ra hố cá nhân ẩn nấp. Nếu ngƣớc mắt nhìn lên thấy các trái bom trút ngay phía trên đầu thì biết chắc bom sẽ rơi sang làng khác. Một lần em Đằng bảo tôi là sao đun mãi mà nồi cơm không sôi? Thì ra Đằng vội chạy máy bay quên không kịp đổ nƣớc vào nồi gạo, để sau đó lại cứ thế mà đun nên làm sao sôi lên đƣợc, và gạo cũng bị cháy đen gần hết!
Thời khói lửa thƣờng thiếu thốn đủ thứ, kể cả cơm ăn, áo mặc, thuốc men trị bệnh. Nhƣng những ngày tản cƣ vẫn in sâu vào tâm thức tuổi trẻ, sau này làm tôi có chút ý thức về vẻ đẹp đồng quê thôn xóm, về giá trị lối sống hiền hòa đầy tình tự dân tộc của nhà nông. Tuy nghèo nàn vật chất, nhƣng dƣ thừa nhân nghĩa. Tôi còn hình dung đƣợc nhiều nơi dù chỉ ở lại dăm ba ngày nhƣ Bình Hồ với nhà cửa san sát thật đẹp của huyện Kim Động, nhƣ các làng Đông Tảo Đông, Đông Tảo Nam đầy trại chuối rộng bao la của huyện Quỳnh Côi. Những bụi chuối tiêu xanh um thật lớn che kín hết bầu trời, mang các buồng chuối dài đến cả mấy chục nải. Trong huyện, cũng có vài làng trồng bông. Ngƣời ta cán bông gòn tách rời khỏi hạt, làm ra những cuộn bông dài nho nhỏ. Tôi đã học cách quay tơ thành sợi, rút ra từ những con cúi này. Để không thể nào quên đƣợc lời ca mơ mộng trữ tình và tiếng nhạc nhịp nhàng tuyệt đẹp trong bài Tiếng hát quay tơ của Tử Phác. Rồi từ khi rời làng Khuốc qua sông Luộc để hồi cƣ về Hà Nội đầu mùa xuân năm 1950, những hình ảnh cũ thỉnh thoảng lại hiện ra tuần tự nhƣ trong một cuốn phim quay chậm. Và
trong thời gian bốn năm tiếp theo, tôi may mắn đƣợc sống cùng gia đình với cuộc đời học sinh sinh viên thủ đô.
Tháng Ngày Hà Nội
Tôi không thể quên những năm tháng hồi cƣ hạnh phúc này đƣợc cùng sống với gia đình. Tuy chiến tranh vẫn dình dập bên ngoài thủ đô, khói lửa còn tràn lan khắp nơi khắp chốn, nhƣng hình nhƣ ngƣời dân đô thị đã cố quên đi thực trạng của đất nƣớc để tiếp tục sinh hoạt nhƣ thời bình. Một thuở tạm an cƣ ở một nơi phồn hoa đô hội và có đủ bốn mùa xuân hạ thu đông. Mỗi mùa một vẻ đẹp riêng vì cảnh Hà Nội cũng có mà vì ngƣời Hà Nội cũng có. Ba mƣơi sáu phố phƣờng cổ kính với bao nhiêu thắng cảnh và di tích lịch sử, cộng thêm nhiều xây cất mới kiến trúc lối tây phƣơng. Văn Miếu, chùa Một Cột, đền Trấn Võ, vƣờn Bách Thảo, viện Bảo Tàng. Các trƣờng Trung Học rộng rãi khang trang, khuôn viên trƣờng Đại Học uy nghiêm sang trọng. Ngoại ô với gò Đống Đa, chùa Trầm, chùa Trăm Gian. Và những công tử tiểu thƣ ăn mặc chải chuốt, nói năng điệu bộ, thái độ lịch sự, cử chỉ dịu dàng.
Với chúng tôi, đó là thời tuổi trẻ ham học tuy đã biết ƣa thích sự ăn diện. Và muốn tập luyện nhiều môn thể thao, muốn theo học đủ mọi ngành văn nghệ. Có những buổi chiều cùng bè bạn bát phố, tản bộ trên những vỉa hè đông vui. Hay đạp xe đạp khắp ngang cùng ngõ hẻm mà không có lấy một mục đích. Những lần đi chơi hội chợ, ngắm nhìn vẻ đẹp mỹ miều của các hoa hậu ngồi thu tiền cho việc thiện, bƣớc theo làn sóng thanh niên nam nữ nhí nhảnh đầy sức sống, hoặc xen chân vô cảnh náo nhiệt ngƣời mua kẻ bán ở các gian hàng. Những ngày tết đi xem chợ hoa, có đào, cúc, thƣợc dƣợc khoe đủ mầu đủ sắc. Nhửng buổi lễ Phật ngày xuân, cùng thiện nam tín nữ cúng vái xin quẻ tại chùa Trấn Quốc, đền Ngọc Sơn, đền Quan Thánh. Thời mà chúng tôi lùng kiếm hiệu có thợ may giỏi phố hàng Trống để may từng chiếc sơ mi, từng bộ âu phục. Hoặc đi đóng giầy đủ thứ kiểu tại hàng Da. Hay tìm mua sách vở tại các nhà sách Trƣờng Thi, Hƣơng Sơn, và Bình Minh phố Huế. Những dịp cùng bè bạn ăn uống vui chơi tại nhà Thủy Tạ, bánh tôm đƣờng Cổ Ngƣ, bia 33 tại quán Mụ Béo bên hồ Hoàn Kiếm. Hay ăn kem hiệu Cẩm Bình phố
Huế, ăn phở Chung Chính, phở phố Hàng Da. Hay đi ăn cơm tầu cơm tây phố hàng Buồm, chả cá Lã Vọng đƣờng hàng Cân.
Còn là những ngày đi thuyền buồm tại Tiểu Đồ Sơn, chèo xuồng tại hồ Thiền Cuông. Hay bơi lội ở hồ Quảng Bá với anh Đào Văn Quang con cụ Đào Văn Sử phố Huế. Tôi đã đƣợc cụ cho ở tạm mấy tuần khi mới hồi cƣ, cụ là nhạc phụ của ông bác tôi. Anh Quang đang theo học trƣờng Dũng Lạc rồi sau gia nhập quân đội quốc gia vì bị động viên. Cụ Sử nhà giầu, có trang trại ở làng Đồng Tỉnh, ngƣời cao lớn khỏe mạnh và rất đẹp lão. Đều đặn mỗi buổi sáng sớm, cụ xách ô tản bộ lên hồ Tây cho tới trƣa mới trở về nhà. Sau ngày di cƣ vô Nam, tôi lại đƣợc thăm hầu cụ ở một căn nhà nhỏ gần Bệnh Viện Bình Dân. Cụ trở thành tay trắng, nhƣng lại có dịp sang Pháp ít lâu để thăm ngƣời con lớn là giáo sƣ Y Khoa đại học Paris Đào Văn Tỵ. Tôi trộm nghĩ chắc cụ phải hãnh diện lắm vì ngƣời con thành danh này.
Thời mà chúng tôi đƣợc xem những phim thật hay của Mỹ, Pháp hay Ý. Mỗi tuần cũng có một hai phim đáng coi. Thƣờng có phụ đề tiếng Pháp hay tiếng Việt. Những phim Ivanhoe, Cléopâtre, Samson et Dalida, Vũng biển xanh Le lagon bleu, trong các màn ảnh đại vĩ tuyến tại rạp Majestic, Đại Nam hay Olympia. Và những phim Những năm đẹp nhất trong đời chúng tôi Les plus belles années de notre vie, Luân vũ trong bóng tối La valse dans l‟ombre, Ba chàng ngự lâm pháo thủ Les trois musquetaires, Những trái nho nổi giận Les raisins de la colère, Ánh đèn sân khấu Les feux de la rampe. Một vài phim Hồng Kông với tài tử Lý Lệ Hoa và phim Việt Nam nhƣ Kiếp Hoa. Và đến nay tôi còn tiếc không kịp xem phim Trong tuổi đôi mƣơi Vous qui avez vingt ans của rạp Studio!
Cũng là thời tôi có đƣợc thêm nhiều bạn học của năm đệ nhất ban Khoa học B trƣờng Nguyễn Trãi. Thân nhất thời gian này có Tạ Văn Quang, một học sinh giỏi của trƣờng Nguyễn Khuyến tại Yên Mô Ninh Bình, cũng mới từ hậu phƣơng trở về. Tôi đã viết phụ bài diễn văn khai mạc để Nguyễn Tuấn Ngọc đọc tại Nhà Hát Lớn trong ngày Đại Hội Học Sinh Toàn Thành. Rồi tôi còn đƣợc theo học ba năm tại đại học Hà Nội cùng bao nhiêu bè bạn Trung Nam Bắc và trải qua nhiều mùa thi đầy kỷ niệm đẹp nhƣ hoa phƣợng vĩ. Trong đó có năm cuối ăn ở tại trƣờng Quân
Y Trung Ƣơng Việt Nam, với nhiều đồng môn từng mang chung một niềm hi vọng phục vụ trong tƣơng lai. Tôi cũng đã tham dự vào một số hoạt động của Tổng Hội Sinh Viên, lớp hè bổ túc, quán cơm xã hội. Hay làm cả tối ngày cho hội Phụ Huynh Học Sinh Sinh Viên Hà Nội nhằm quyên tiền cứu trợ nạn lụt miền Trung. Và may mắn đƣợc dịp thƣởng thức tài nghệ của Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng khi ban hợp ca Gió Nam trình bầy tại Đại giảng đƣờng đại học Hà Nội. Cùng với tài trình diễn của quái kiệt Trần Văn Trạch. Cũng có thời tôi kèm học toán lý hóa tại nhà cho các con bác sĩ Nguyễn Viêm Hải, các cô cậu Hân, Bái Giang, Hiên, Mỵ đang theo học ở Albert Sarraut. Cậu Hân trạc tuổi tôi, ít lâu sau mất vì bệnh thƣơng hàn. Hay nhận dậy tại tƣ gia các cô Liên, cô Đạm Trang của trƣờng Notre Dame de Rosaire. Cô Trang về sau sang Pháp du học. Một thời mà tôi e ngại nhất là ngƣời ta có thể gọi tôi là cậu giáo.
Thú nhất ở Hà Nội còn là những ngày hè mà bạn bè mách bảo nhau đủ loại truyện hay của Pháp Mỹ Nga. Chú tôi là Giám đốc Trần Văn Kha tại Thƣ Viện Trung Ƣơng đƣờng Trƣờng Thi đã cấp cho tôi thẻ để có thể mƣợn sách mang về nhà đọc. Nhƣng thƣờng thì tôi thích lại thƣ viện xem truyện. Vì phòng đọc sách yên tĩnh sáng sủa, nằm trong dẫy nhà chính của những dẫy nhà kiến trúc lối tây phƣơng cổ kính chứa đầy tài liệu, bao quanh khu vƣờn thật đẹp nhiều cây cao bóng cả. Đa số truyện Mỹ đã có bản dịch ra tiếng Pháp nên tƣơng đối không khó hiểu mấy. Truyện tình cảm nhƣ Rebecca của Daphné du Maurier, Thành phố La Citadelle của Archibald Joseph Cronin. Truyện triết lý tôn giáo nhƣ Con ngƣời và định mệnh L‟homme et sa destinée của Le Comte du Noüy. Truyện xã hội nhƣ Những trái nho phẫn nộ Les raisins de la colère của John Ersnt Steinbeck, Gió đông gió tây Vent d‟Est Vent d‟Ouest của Pearl Buck, Thân phận con ngƣời Servitude humaine của Sommerset Maugham, Tội ác và hình phạt Crime et châtiment của Fyodor Dostoyevsky. Và những truyện trinh thám hấp dẫn của Peter Cheyney. Riêng những chuyện tầu nhƣ Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Thủy Hử thì bất cứ lúc nào và ở đâu, đọc đi đọc lại tôi vẫn thấy thật hay. Nhƣng suốt ngày nơi thƣ viện lại e ngƣời ta có thể nhạo mình đã trở thành con mọt sách! Thời kỳ này bọn chúng tôi cũng còn đọc và luận bàn đến các loại sách Học Làm Ngƣời. Nhƣ Đắc nhân tâm và Quẳng gánh lo đi mà vui sống của Dale Carnegie do Nguyễn Hiến Lê dịch, Thuật xử thế của ngƣời xƣa, Cái dũng của thánh nhân của Nguyễn Duy Cần. Hay học thêm những lớp hàm thụ ABC đủ loại của Pháp.
Từ khi về Hà Nội, tôi tìm cách học đàn tính để giải trí, vì tự biết mình cũng chẳng có khiếu gì. Nhớ hồi còn ở Hải Dƣơng, cụ giáo Ân thƣờng bảo tôi hãy đến nhà Thờ rồi cụ dậy cho phong cầm, nhƣng lúc đó tôi còn nhỏ nên chƣa nghĩ thích học đàn gì. Và trong khi tản cƣ, vì đƣợc bè bạn chỉ dẫn, nên tôi biết chơi banjo hay mandoline một cách tàm tạm. Bây giờ ở thủ đô, tôi theo học dƣơng cầm tại Âm Nhạc Học Xá, tọa lạc trong một căn biệt thự gần hồ Thiền Cuông. Với giáo sƣ hiệu trƣởng là cụ Duyệt, và anh nhạc sĩ Tiến là phụ tá. Cụ có lẽ là một nhà tu xuất, ngƣời nhỏ nhắn ít nói, thỉnh thoảng lại lấy hai ngón tay vân vê ria mép. Cụ dậy cả dƣơng cầm lẫn vĩ cầm. Nhƣng cụ chỉ bảo rất ít, học sinh liệu mà tự luyện tập lấy. Giỏi nhất có cô Liên, trình độ cỡ quyển bẩy quyển tám của Les classsiques favoris du piano, thƣờng biểu diễn cho các học sinh nghe vào những buổi họp mặt ngày chủ nhật. Đó là những dịp cụ giảng đôi chút về ký âm pháp và nhạc lý. Các nốt có dấu thăng theo thứ tự là fa do sol re la mi si, và các nốt có dấu giảm theo thứ tự ngƣợc lại si mi la re sol do fa. Một bài nhạc không có dấu thăng hay giảm thì là tông do. Tôi còn thuộc câu vè dễ nhớ của cụ để biết một bản nhạc thuộc tông nào: Nhất són, nhị rế, tam la. Tứ mi, ngũ sí, lục pha, thất đồ! Mà ai chẳng buồn cƣời vì chữ thất đồ theo tiếng Bắc! Nghĩa là nếu một nốt fa có dấu thăng (nhất) thì là tông sol, hai nốt fa do có dấu thăng (nhị) là tông re, ba nốt fa do sol có dấu thăng (tam) là tông la...vân vân.
Mấy bạn học đàn có khiếu và chăm chỉ ở phố Jacquin ngay gần nhà tôi là anh em Tạ Văn Quang, Tạ Văn Dƣỡng, Tạ Văn Tài. Đặc biệt có Tài là tập luyện chăm chỉ nên chơi giỏi nhất. Cả Hà Nội chỉ có một hiệu đàn Au Ménestrel có đàn dƣơng cầm bán hay cho mƣớn, mà ông tây mù là chủ. Nhƣng muốn mƣớn cũng không tới lƣợt. Quang và tôi hay nhắc lại tỷ số 9/8, 5/4, 4/3, 3/2 giữa tần số của các nốt nhạc học hồi tú tài và hỏi nhau không biết tai thính thì phân biệt đƣợc bao nhiêu savart, khi một quãng tám octave gồm những 301 savarts? Khi tôi biết sẽ vô ăn ở trong trƣờng Quân Y và không có thì giờ để tập nữa, tôi đăng báo bán cây đàn Pleyel. Mấy ngày sau có một bà ăn mặc sang trọng cùng hai cô con gái đi chiếc xe Citroen đen đến nhà. Bà là phu nhân của kiến trúc sƣ Nguyễn Bá Chí. Bà coi xem đàn qua loa, nói rằng nếu để ở phòng khách của bà thì rất đẹp. Tôi không muốn lời lỗ, nên chỉ muốn lấy lại giá tiền mua năm trƣớc đây từ nhạc sĩ Tiến đƣờng Nhà Thờ Hà Nội. Và bà đã lịch sự ƣng thuận ngay không mặc cả. Thật là một kỷ niệm đẹp. Vài chục năm sau tôi mới biết bà là thân mẫu của Đàm Giang, một dƣợc sĩ giỏi và có biệt tài thơ văn. Nói đến đàn, tôi cũng muốn nhắc đến nhạc sĩ Dung đƣờng Hiền Vƣơng Sài Gòn, ngƣời thầy dậy tôi về jazz, về đủ loại nhịp điệu và hòa âm. Các bài tango habanera nhƣ La Paloma, Tiếng Sáo Thiên Thai và tango milonga nhƣ La Cumparsita, Jalousie. Các bài bossa nova nhƣ The Girl of Ipanema, Quiet Nights and Quiet Stars. Ông chỉ cho tôi sự liên hệ giữa nhạc cổ điển tây phƣơng và tân nhạc. Kể cả cách tạo lập các hợp âm trong cổ nhạc Việt Nam. Và ông tin rằng ngƣời da đen có khả năng bẩm sinh cùng với sự tích lũy tài năng qua nhiều thế hệ trong nhạc jazz. Chỉ tiếc rằng tôi đã gập giáo sƣ dƣơng cầm tài hoa có một không hai này trong khoảng thời gian quá ngắn. Tôi còn một bà chị Tô Anh Đào dậy dƣơng cầm ở Hà Nội, phu nhân nhạc sĩ Thẩm Oánh, mà phải đến khi lƣu lạc sang Mỹ mới có dịp nhận họ, vào lúc chị em đã ngoài sáu bẩy chục tuổi đầu! Nhà tôi cũng có học bà chị hồi nhỏ, nhƣng tôi thì nay mới đƣợc dịp chuyện trò qua điện thoại.
Dù ở đâu tôi cũng nhớ cảnh trời dịu dàng ấm áp ngày mồng một đầu năm. Hà Nội nhƣ nhẹ nhàng bƣớc vào một không gian tƣơi đẹp mới mẻ và tràn đầy hi vọng, sau một vòng dạo quanh mặt trời. Tôi nghe đài phát thanh lập đi lập lại Xuân về rồi muôn đóa hoa đào tƣơi, cƣời trong nắng ứ ƣ... của nhạc sĩ Thẩm Oánh mà lòng bỗng nôn nao thú vị lúc chúa xuân về. Để lại thầm cầu mong tại Hà Nội mến yêu, đất ngàn năm văn vật, thời nào cũng có những trái tim nhân hậu và những bộ óc trong sáng cho dân tộc Việt.
Xuân Giáp Thân, 2004
CHƢƠNG BA
Quê nội và Quê ngoại
Quê nội
Quê nội tôi là Xuân Cầu, một làng rất gần Hà Nội, ở khoảng cột cây số 21 của con đƣờng số 5 nối liền Hà Nội – Hải Phòng. Quê ngoại tôi là Kim Ngƣu, chỉ cách quê nội có một cánh đồng. Hai làng này của huyện Văn Giang, nguyên thuộc tỉnh Bắc Ninh, rồi tỉnh Hƣng Yên, có lúc là tỉnh Hải Hƣng.
Làng Xuân Cầu rất đẹp, chạy dài theo con sông Nghĩa Trụ, nhà ngói san sát, đƣờng suốt làng lát gạch. Lũy tre xanh dầy đặc bao quanh. Ngay đầu cổng làng, lối đi ra đồng làm việc, có cây đa cổ
thụ sống đã mấy trăm năm, đứng bên cạnh một giếng rất sâu, xây bằng đá, nƣớc mạch lên trong suốt. Nếu vào từ đƣờng số 5, có chợ đƣờng cái là nơi dân quê thƣờng họp những ngày phiên, phải đi qua một chiếc cầu gỗ lớn bắc qua sông. Phía đầu cầu ngƣời ta chôn một trụ đá to để ngăn không cho xe hơi chạy qua. Làng có nhiều họ, họ Tô, họ Quản, họ Khƣơng, họ Lê, họ Nguyễn. Làng Xuân Cầu, nguyên là Huê Cầu hay Hoa Cầu đƣợc thành lập đã lâu, nên có tên trong Dƣ Địa Chí của cụ Nguyễn Trãi. Đi men con đƣờng gạch dài thì tới làng Đồng Tỉnh, đƣợc nói đến trong câu ca dao quen thuộc:
Ai về Đồng Tỉnh, Xuân Cầu
Để thương để nhớ, để sầu cho ai?
Để sầu cho khách vãng lai,
Để thương để nhớ cho hai cô hàng!
Có lẽ ngƣời ta ám chỉ một cô bán thuốc ở Đồng Tỉnh, một cô nhuộm thâm ở Xuân Cầu chăng? Và còn có những bài hát trống quân, hát nói:
Làng anh nhất xã chia làm ba thôn
Văn Minh đã nức tiếng đồn.
Giữa làng có điếm Đình Ba
Đồng gần Quán Ốc, đồng xa Cây Đề.
Làng tôi chia làm ba thôn: Tam Kỳ, Phúc Thọ, Lê Cao. Chúng tôi thuộc về thôn Tam Kỳ. Khi tôi lên chín mƣời tuổi, mẹ tôi về làng trông nom xây cất một căn nhà gạch. Tôi chỉ còn mang máng hình dung đƣợc cảnh thợ thuyền ra vào tấp nập, gạch ngói bề bộn, và một cái hố đất thật lớn tôi vôi trắng sôi lên sùng sục. Nhà ba gian, lợp ngói đỏ, hiên rộng, có hai bồn trồng cây lựu làm cảnh ở phía sân trƣớc. Sân sau để phơi thóc, có đống rơm đống rạ. Cổng bên hông phải có mái lợp, ghế ngồi chơi, dẫn tới một luống đất giồng hoa, có cây hòe cho bóng mát và những chùm hoa vàng rực rỡ ngày hè. Một hàng rào thƣa ngăn cách với nhà chị hai Cảnh, thân mẫu anh Tô Ngọc Chấp. Vƣờn bên trái trồng dâu lấy lá nuôi tầm, có hàng rào dâm bụt bao quanh. Phía trƣớc còn cửa hàng tạp hóa nhỏ để thím Mỹ buôn bán. Chú Mỹ, ngƣời em út bố tôi, làm hƣơng sƣ trong làng, đƣợc ở căn nhà này để trông coi hộ bố mẹ tôi mấy mẫu ruộng tại đây. Chỉ thỉnh thoảng nghỉ hè về thăm quê, anh chị em chúng tôi mới có dịp ở chơi. Ngƣời em thứ hai của bố tôi là chú Phụng, buôn bán gỗ tại Tuyên Quang, làm ăn giầu có, cũng xây một căn nhà hai tầng thật đẹp gần đấy. Tôi còn nhớ cảnh đánh cờ ngƣời, tổ tôm điếm trong những ngày hội. Hay tiếng mõ rao tin tức, gọi dân ra đình đi họp theo lệnh của hội đồng kỳ mục. Tại chợ làng có bầy bán các chim ngói, chim sẻ, chim dẽ, và những con chuột đồng da trắng muốt vì đã đƣợc làm lông sạch sẽ. Ngƣời ta nói những con chuột này chỉ ăn thóc ngoài đồng vào mùa lúa chín nên thịt thơm ngon hơn thịt gà. Còn nhiều loại bánh trái nhƣ bánh gio, bánh khoai, bánh mật, mà đặc biệt là bánh tổ trong suốt mầu nâu đỏ, làm bằng bột và đƣờng rồi nhuộm gấc, lúc ăn thì chiên lên nhƣ bánh phồng tôm.
Tôi đƣợc ngƣời lớn kể lại cảnh loạn lạc ngày xửa ngày xƣa, chuyện giặc dã tới giết ngƣời cƣớp của, phá làng đốt xóm. Thôi thì đủ thứ giặc, giặc cờ đen, giặc châu chấu, giặc tầu, giặc cỏ. Dân chúng phải ẩn núp hay chạy trốn, đem chôn dấu vàng bạc của cải, và thả xuống giếng những đồ đồng đồ gốm nhƣ đỉnh hƣơng, lƣ đèn, lộc bình, đôn sứ. Thế mà thời chúng tôi nay cũng chinh chiến hiểm nguy không kém gì. Tôi còn nhớ nhƣ in một buổi họp của bà con họ hàng về tản cƣ tại Xuân Cầu, vào một ngày cuối thu 1946. Lúc đó dân làng còn đọc các Báo Cứu Quốc, Cờ Giải
Phóng. Anh Tô Ninh, một đảng viên Quốc Dân Đảng, nhà cách mạng từng bị tù tại Côn Đảo, có đứng lên nói là chúng ta quyết phải đánh Pháp để dành độc lập, dù phải trả giá hy sinh cả triệu dân, dù phải bỏ mất một vài chục năm. Và bà con cô bác hãy tập chịu đựng gian khổ, từ bỏ nếp sống tƣ sản có ngƣời hầu kẻ hạ nơi thành thị. Không một ai còn muốn bàn cãi tranh luận nữa vì anh nói nếu yếu đuối không theo nổi thì cứ việc chết dần chết mòn trong cuộc trƣờng kỳ và tiêu khổ kháng chiến này! Có lẽ giới lãnh đạo thời nay coi sinh mạng con ngƣời rẻ hơn thời Tam Quốc, nghĩ lại thì làm sao so đƣợc với Lƣu Bị khi phải bỏ Tân Dã sang Phàn Thành, bỏ Tƣơng Dƣơng qua Giang Lăng, còn cố dìu già giắt trẻ qua đò hay bắt các tƣớng trông nom trăm họ mà đi. Tôi thấy ai nấy đều chán ngán. Vì vậy ngay sau đó tùy hoàn cảnh mà tự lo lấy thân, ngƣời trở lại thành thị, ngƣời về nơi hậu phƣơng xa xôi. Mỗi ngƣời phân tán đi một ngả, và bà con có ngƣời mãi đến nay cũng chƣa có dịp gập lại nhau.
Từ quê nội, trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, tôi đã nhìn thấy phía Hà Nội rực cháy, cả một vùng trời chìm trong khói lửa. Tôi đƣợc nghe nhiều giai thoại về chiến công oanh liệt của Trung Đoàn Thủ Đô, về những kỳ tích của các tƣớng Nam Long, Song Hào trên đƣờng số 5, về trận đánh cảm tử của Vệ Quốc Quân vào phi trƣờng Gia Lâm, về sự hy sinh anh dũng của Tiểu Đoàn Trƣởng Lê Tôn Hy vùng Bần Yên Nhân. Và những bài hát ca tụng anh hùng thời đó, về một nhi đồng cứu quốc Anh Kim Đồng ơi, anh Kim Đồng ơi, về một nhóm chiến sĩ chống Pháp Bình Xuyên, Bình Xuyên oai hùng muôn năm! Sau này có bài hát địch vận Ngọn trào quay súng khuyến khích thân binh trở về miền quốc gia tự do, các bài báo tuyên truyền tiếng Pháp còn khuyên dân chúng không nên dinh tê về thành. Quê nội tôi đã bị tàn phá ngay trong tết tản cƣ đầu tiên, cả chục tự vệ làng mà đa số là thanh niên thủ đô bị giặc giết hại nơi các giao thông hào. Chỉ ít lâu sau, làng Xuân Cầu trở thành làng tề, nhƣng dân cƣ đã đi lánh nạn gần hết. Rồi có một ngày đẹp trời tôi liều về thăm gia đình chú Mỹ ở lại, để thấy cảnh dân cƣ thƣa thớt, xóm làng tiêu điều sót sa. Căn nhà tôi nay hoang vắng, sân trƣớc sân sau lau sậy mọc um tùm, thân cao ngập đầu ngƣời, che hết cả lối đi. Cho tới cuối năm 1950, thời của chính quyền quốc gia, tôi lại từ Hà Nội về thăm làng, thì ngƣời xƣa cảnh cũ tạm hồi phục dần dần. Thế mà ngay sau hiệp định Genève năm 1954, bố tôi cho biết làng Xuân Cầu cách mạng này đã bị bom đạn của giặc Pháp san bằng. Làng của các anh em họ Nguyễn nhƣ Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Mỹ, Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lƣơng). Của các con cháu dƣợc sĩ Quản Trọng Tiến, thân phụ giáo sƣ dƣợc khoa Quản Trọng Lạng. Của các anh em họ Tô nhƣ Tô Hiệu, mà có lúc ngƣời ta đồn rằng sẽ lấy tên ông đặt cho thành phố Hải Phòng, của Tô Điểm (Tô Quang Đẩu) chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến Liên Khu Ba, của Tô Dĩ (Lê Giản) Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa. Đến thời cải cách ruộng đất, nhà thờ họ Tô bị chia cho ngƣời khác ở, nhà cửa ruộng đất của gia đình tôi cố nhiên không còn nữa!
Lúc nhỏ, tôi đã vào nhà thờ họ đôi ba lần khi anh Trƣởng Anh còn lo trông nom. Nhà đƣợc xây theo hình chữ công. Trừ những dịp giỗ tết đèn nến sáng choang, còn ngày thƣờng tôi cảm thấy sợ sệt vì nơi thờ phụng lớn rộng, lại hay để tối om. Có treo những bức hoành phi:
Thanh môn văn thái
Tích thiện thành đức
Vũ lộ lưu căn
và rất nhiều câu đối:
Đại gia khoa hoạn truyền giang bắc
Ngô bối cầm thư đáo hải nam
Gia miếu trùng tu, chính Khải-Định vạn niên chi ngũ
Ngã Tô đắc tỉnh, tự Lê-triều triệu thủy chí kim
Theo Tiến sĩ Trần Huy Bích, thì câu đối thứ nhất nói họ chúng tôi có lẽ xƣa kia ở miền Giang Bắc, tỉnh Tứ Xuyên bên Tầu. Con cháu mang đàn và sách xuống miền biển phía Nam. Câu đối thứ hai tả nhà thờ họ đƣợc trùng tu vào thời Khải Định. Nơi quê nội, tôi nhớ nhất bà Bẩy, bà vợ thứ của cụ cử Tô Nha. Bà hiền từ vui tính, thƣờng cho tôi ăn những bữa cơm mùa nào thức ấy ngon lành, và hay kể cho tôi nghe dăm ba câu chuyện thôn xóm. Tôi cũng khó quên có những ngày tết chơi rút bất hay tam cúc, ngày hè câu cá bắn chim, cùng các anh chị em trong họ từ các thành phố về thăm làng. Các em Yên, Thạch con chú Phụng. Các em Phục, Sửu, Thế, Nam con chú Mỹ. Các em Hi, Nghiên, Hằng con chú Tham Kha. Chị Tá con bác hai Mai. Các anh chị con bác Ấm Tuất, bác Văn Hải, bác ba Phƣợng, bác tƣ Khải, bác Úy. Các anh chị em cùng tuổi tôi thì rất nhiều, có các em Phục, Quân, các anh Long, Nhân, các chị Thi, Thanh. Một đàn gà thật đông, vì chúng tôi cùng tuổi Quý Dậu! Nhƣng thân nhất thì có anh Nhân, chị Thi. Anh Nhân học trƣờng Albert Sarraut rồi sau tốt nghiệp trƣờng Hải Quân Brest của Pháp. Nhà anh ở khu Cột Cờ, và là một trong những biệt thự đẹp nhất Hà Nội. Chị Thi lấy Nguyễn Đình Long, em ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trƣởng Quốc Phòng thời đệ nhất Cộng Hòa. Lúc di cƣ anh Long ở lại ngoài Bắc, chị phải theo gia đình nhà chồng vào Nam cùng với một đứa con nhỏ.
Quê nội tôi chính là quê ngoại anh Đặng Trần Phiến. Anh nặng tình với Xuân Cầu hơn ai hết trong tất cả anh chị em trong họ. Tôi không thể viết về quê nội thật hay và đầy tình tự nhƣ bài Nắng Quê Ngoại của anh. Anh trắng trẻo nhƣ con gái, ăn mặc đúng điệu công tử Hà Nội, tóc chải bồng bềnh bóng mƣợt. Suốt ngày chỉ thấy anh ca hát, những bài nhƣ Trƣơng Chi, Suối Mơ của Văn Cao, Tình Quê Hƣơng của Việt Lang, Đêm Đông của Nguyễn Văn Thƣơng, Con Thuyền Không Bến, Giọt Mƣa Thu của Đặng Thế Phong. Rồi lại viết chuyện, làm thơ. Bút hiệu anh là Băng Hồ, lấy từ câu Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ của Vƣơng Xƣơng Linh. Anh thƣờng đi chơi chụp ảnh cùng một vài cô thôn nữ xinh đẹp. Có thể anh tiêu biểu cho các cậu ấm cô chiêu, lạc lõng trong thời kháng chiến. Tôi còn nhớ một bài thơ quá lãng mạn của anh:
Anh là một gã thư sinh,
Tóc xanh nhuốm mầu gió bụi.
Gập ngày lửa cháy kinh thành,
Cất bước ra đi hờn tủi.
Em là cô gái tuyết sương,
E ấp tình xiêm chăn gối.
Sớm chiều hát giữa quê hương,
Xuân đời vừa hai mươi tuổi.
Hôm nao hoa cười nguyệt nói,
Gót chân mỏi mệt cuộc đời.
Anh về tìm em ngơ ngẩn,
Gập em, em đẹp em ơi....
Mai đây đô thành ánh sáng
Cười vui đón gót lưu ly,
Dang tay hẹn cùng năm tháng,
Tình ta đẹp giữa kinh kỳ.
Nhờ có anh mà khi tản cƣ tôi đƣợc đọc vở kịch Những Ngƣời Ở Lại của Nguyễn Huy Tƣởng, viết về sự bất khuất của ngƣời dân phải sống trong vùng địch chiếm đóng. Cảnh huống của gia đình bác sĩ Thành, bè bạn, sinh viên ở lại Hà Nội từ cuối đông 1946 đến giữa hè 1947. Cùng cuộc chiến đấu của Tự Vệ Thành, của Trung Đoàn Thủ Đô. Cũng nhờ anh mà tôi đã thuộc Bài Hát Của Ngƣời Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, nói lên sự nhớ nhung tha thiết của những chàng trai khi lìa xa thủ đô bùng cháy trong ngày đầu kháng chiến:
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây,
Đây Lãng Hồ, núi sông ngàn năm.
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội,
Hà Nội mến yêu.
Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời.
Hà Nội ầm ầm rung.
Hà Nội vùng đứng lên!
Sông Hồng reo.
Hà Nội vùng đứng lên!...
Hà Nội đẹp sao!
Ôi nước Hồ gươm xanh thắm lòng!
Bóng tháp rùa thân mật êm ấm lòng...
Hồng Hà tràn đầy,
Hồng Hà cuốn, ngàn nguồn sống, tràn đầy dâng.
Hà Nội vui sao,
Những cửa đầu ô,
Đây ô chợ Dưa, kia ô cầu Dền, làn áo xanh nâu.
Hà Nội tươi thắm,
Sống vui phố hè,
Bồi hồi chàng trai, những đôi mắt nào...
Anh Băng Hồ hồi cƣ về Hà Nội đầu năm 1950 cùng với chúng tôi, tiếp tục sự nghiệp văn thơ, nhƣng đến năm 1954 đã không di cƣ vào Nam.
Tết Dƣơng lịch năm 1995, chúng tôi có dịp về thăm Hà Nội, và may đƣợc gập lại anh. Anh là ngƣời con duy nhất của nhà văn Đặng Trần Phất, tú tài tây học xuất thân từ trƣờng Albert Sarraut, và cháu cụ Đặng Trần Vỹ, Tổng Đốc Bắc Ninh. Tuy mồ côi lúc hơn một tuổi, mà gần bẩy chục năm sau, trong cảnh một đất nƣớc nghèo nàn và khói lửa triền miên, anh đã âm thầm sƣu tầm để rồi tổng kết đƣợc những tác phẩm văn thơ tiếng Việt và tiếng Pháp của ngƣời cha. Anh trân trọng tặng chúng tôi một cuốn sách mộc mạc chƣa kịp đóng bìa: Văn thơ Đặng Trần Phất, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội, 1994. Đọc Lời cuối sách anh viết về thân phụ, tôi mới hình dung đƣợc tình phụ tử của anh to lớn vô cùng. Anh phải chắp nối những chuyện kể lại từ bà mẹ và họ hàng nội ngoại, rồi tạo ra một hình ảnh về ngƣời bố, để mà sống bằng những kỷ niệm trong khung trời tâm tƣởng ấy. Thân phụ anh là nhà văn viết xã hội tiểu thuyết sớm nhất, với Cành Hoa Điểm Tuyết, xuất bản năm 1921 và Cuộc Tang Thƣơng năm 1923, cùng thời với Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm xuất bản năm 1925. Và vì đƣợc mẹ nuôi dƣỡng, nên anh rất nặng tình quê ngoại Xuân Cầu. Năm ngoái, anh lại gửi cho tôi cuốn Phƣợng ơi! mùa dĩ vãng, do nhà xuất
bản Văn Học Hà Nội, 2002. Đây là tuyển tập những truyện ngắn của anh trong thời hồi cƣ 1950-54 tại Hà Nội, trong có bài Dòng mực đầu năm viết riêng về thân mẫu anh, bà Tô Thạch Lan.
Một ngƣời mẹ đã phải lặng lẽ từ khƣớc biết bao nhiêu chân tình để mong khỏi phải đi bƣớc nữa, vì sợ anh phải khổ hay phải tủi với ngƣời bố dƣợng. Một ngƣời mẹ chỉ cầu cho anh sớm yên bề gia thất để có con nối dõi tông đƣờng, vì lo anh quá miệt mài với nghiệp chƣớng thi văn. Rồi trong cảnh mẹ góa con côi ấy, giọt nƣớc mắt của mẹ lúc nào cũng là hình phạt mà anh sợ hãi nhất. Đọc xong, tôi lại càng mến phục anh thêm vì tình mẫu tử rất đặc biệt này.
Vài dòng về họ Tô
Lúc nhỏ thỉnh thoảng tôi cũng đƣợc bố tôi cho biết qua loa về giòng họ, nhất là những chuyện về cụ Tô Huân, Phó bảng khoa Mậu Thìn. Cụ Huân đã viết gia phả họ Tô Xuân Cầu vào năm Tự Đức thứ 23 (1870), kể từ đời cụ là đời thứ năm trở về trƣớc. Bản bằng chữ nôm này đƣợc Viện Nghiên Cứu Hán Nôm dịch ra vào năm 1999. Theo cụ, nếu không có việc thuật lại mà lƣu truyền thì sau lấy gì mà làm bài học cho con cháu? Cụ đã viết “Có cái ban đầu mới có cái ngày nay, có cái ngày nay mới có cái mà truyền về sau. Cổ nhân ngày xƣa trồng cây đức để đợi đời sau báo đáp. Và làm rạng rỡ gia phả cũng là một cố gắng lớn của con cháu nhằm ghi lại ân đức của ông cha”. Thời trƣớc, trong họ cũng có nhiều cụ thành đạt. Đến đời thứ hai có cụ đƣợc lƣu học tại Quốc Tử Giám, có cụ mới 16 tuổi đã đỗ tú tài, đƣợc gọi là kho sách của Kinh Bắc, và thƣờng giao du với các con cháu cụ Trạng Trình. Vào năm 1989, các cụ trong họ cùng bố tôi đã viết lại gia phả giản yếu bằng quốc ngữ để cho con cháu dễ ghi nhớ, kể từ đời cụ Tô Huân là đời thứ năm trở về sau. Tôi là chắt của cụ Tô Huân, thuộc chi thứ ba.
Tôi đƣợc bố kể cho nghe chuyện hiềm khích giữa ngƣời Bắc ngƣời Trung khi cụ Huân làm Phó Ngự Sử tại Huế, chuyện để thành phố bị Pháp chiếm đến nỗi phải cắn lƣỡi tự tử khi cụ làm Quản Đạo Hà Tĩnh. May mà cụ có thổ dân cứu sống, nuôi dƣỡng cả năm trời, và rồi đƣợc nhà vua ân xá. Về sau cụ đƣợc vời ra làm Đốc Học Sơn Tây rồi Đốc Học Hải Dƣơng. Tại đây, cụ có dậy đƣợc nhiều học trò thành đạt. Nhƣng vinh hiển nhất là Phó Bảng Phạm Văn Thụ sau làm đến Hộ
Bộ Thƣợng Thƣ, Cơ Mật Viện Đại Thần. Cụ Thụ thƣờng xuyên thăm hỏi thầy học cũ, và coi cụ Huân nhƣ nghiệp sƣ của cụ. Thật là một cảnh cảm động và quí hóa. Tôi có học cùng và quen các cháu cụ, các anh Phạm Công Lăng, Phạm Ngũ Tùng con ông Thủ Hiến Bắc Việt Phạm Văn Bính. Vào năm 1997 ở San Diego, tôi may mắn đƣợc các anh chị Phạm Văn Việt và Nghiêm Xuân Húc tới thăm và cho đọc Đàn Viên Ký Ức Lục của cụ Phó Bảng Phạm Văn Thụ do Phạm Văn Kỳ sao trích tại Hà Nội, 1981. Cụ Thụ có thuật lại lời tiên tri của ông thầy học qua bài thơ sau, là khoa tuy Phó Bảng, nhƣng hoạn thì vẫn có thể đƣợc dự yến Quỳnh Lâm. Và đây cũng là bài thơ duy nhất mà tôi may có đƣợc của cụ Tô Huân:
Long vân tương hữu mộng
Giáp tý quả phùng thần
Bạch phát tiểu dư vãn
Hồng chương đắc tử tân
Mặc trang di chí phó
Khoa thạch tráng đồ chân
Miễn miễn tiền trình đại
Quỳnh lâm tổng thị xuân
Nghĩa là:
Rồng mây ứng mộng tốt
Độ số nhằm khoa xưa
Tóc bạc, tớ già cả
Bảng son, anh trẻ thơ
Nền nho lòng đã thoả
Thềm đá dấu còn trơ
Cố gắng đường còn rộng
Yến quỳnh vẩn đợi chờ.
Ông nội tôi là Tô Thiều, sinh năm 1868. Ông tôi mất sớm, bố tôi đƣợc bác ruột là cụ Tô Nha, cử nhân khoa Canh Tý năm Thành Thái thứ 12 (1900) trông nom. Bà nội tôi là Nguyễn Thị Tý (1869-1937), thuộc chi cụ nghè Nguyễn Gia Cát. Lúc bà nội mất, tôi còn quá nhỏ không biết đƣợc gì.
Bố tôi dễ tính và quảng giao. Trong những ngày tao loạn, ông dậy tôi về toán học, khoa học, và văn chƣơng Pháp, nhờ vậy tôi mới đậu đạt đƣợc. Ở Hà Nội, ông có nhiều dịp cho tôi đi ăn uống cùng, chả cá Lã Vọng, cơm Siêu Nhiên, Đông Hƣng Viên và Lục Quốc Đại Tửu Gia. Một đôi lần ông kể chuyện về dòng họ, nhƣng tôi vẫn cảm thấy ông có vẻ hơi nghiêm khắc và xa cách. Vì họ Tô viết có bộ thảo đầu, nên tên Đồng thuộc bộ này. Ngƣời trong họ đông dần nên muốn đặt tên trong bộ này cũng khó kiếm ra chữ. Những thời trƣớc, cũng có ngƣời lấy họ Tô của mẹ, cũng có ngƣời cho rằng con gái họ Tô đảm đang. Nhƣng nhiều ngƣời tin rằng họ Tô chỉ có đất dậy học. Khi tôi vừa đậu Toán Học Đại Cƣơng tại trƣờng Cao Đẳng Khoa Học Hà Nội năm 1952, bác ký Chữ, một ngƣời dâu họ Tô, có bảo tôi rằng cháu có học gì đi nữa thì cũng đến làm thầy giáo, đất họ nhà ta mà! Nghĩa là chỉ làm nghề bạc bẽo mà thôi. Tôi nghe nói đâm ra nản chí và lo nghĩ. Năm sau tôi theo học ngành Dƣợc rồi lại thi vô Quân Dƣợc thì làm sao còn hành nghề nhà giáo đƣợc? Thế mà lời tiên đoán ấy rồi sau cũng có phần nào đúng đấy. Lúc đậu Huấn Đạo hạng nhất, bố tôi cảm thấy buồn vì trong họ chỉ có ông là ra làm quan với Pháp. Khi hiệp định Genève đƣợc ký kết, ông đang làm Trƣởng Ty Tiểu Học Hà Đông, nhƣng không muốn vô Nam. Tôi nghĩ có nhiều lý do, vì ông tiếc nhà đất mua tại Hà Nội và Hải Dƣơng, vì ông cho rằng đời sống miền Nam sô bồ khi ông đã có dịp thăm viếng vào lúc trƣớc, vì ông tha thiết với bà con quê hƣơng miền Bắc. Và cũng có thể ông tin rằng chỉ sau hai năm là tổng tuyển cử và thống nhất. Nhƣng lý do chính có lẽ vì nghĩ con gái mình theo kháng chiến thành công mà sao mình lại nỡ bỏ chạy? Tôi đoán ông quí con gái hơn con trai, cho rằng ở nƣớc ta làm con gái thiệt thòi quá nhiều, vì thời tôi vẫn còn thấy chế độ đa thê và các cuộc tảo hôn. Riêng về tôi, ông tin rằng tôi tuy khó tính nhƣng đƣợc cái dè dặt và ôn hòa nhƣ ông!
Quê ngoại
Từ quê nội sang làng Kim Ngƣu chừng mƣời cây số, thƣờng chúng tôi đi mất một buổi. Làng này nhỏ và nghèo, lũy tre bao chung quanh, có một số nhà gạch, còn phần lớn là nhà tranh. Đƣờng làng chạy ngang dọc bằng gạch, nhiều đoạn do ông bà ngoại tôi xây cất. Dinh cơ bên ngoại tôi lớn nhất làng, gồm nhiều nhà trên một khu đất vuông vắn hai mặt đƣờng. Nhà chính hai tầng thông liền với nhà thờ ba gian có hàng hiên dài, có gian để sẵn hai chiếc quan tài sẽ dùng cho ông bà ngoại. Tôi không hay bƣớc vào nhà thờ vì sợ hãi cảnh nơi thờ phụng tối âm u, cửa đóng then cài im ỉm. Hai nhà ngang cất dƣới thấp sát liền hai bên cổng có nhiều gian, có gian để những cót thóc cót ngô, bồ đỗ bồ gạo, có gian để dụng cụ cầy bừa, có gian để cối xay lúa, chầy giã gạo. Nhà ngang trên phía sân cao có nhiều phòng, treo hoành phi câu đối, chính giữa đặt bộ tràng kỷ, hai bên kê nhiều tấm ghế ngựa. Cũng có một vài hoành phi của bố tôi mang từ tỉnh về, nhƣ Thi Thƣ Thị Bảo và Thi Thƣ Thế Trạch. Lúc tản cƣ, gia đình tôi đƣợc ở căn nhà ngang này. Sân trƣớc thấp nhƣng thật rộng, để phơi thóc lúa vào những ngày mùa. Sân trên cao hơn gần cả thƣớc nhƣng nhỏ hơn. Nhà bếp riêng rất rộng, cửa bên thông sang một vƣờn nhỏ có vại, chum, bể nƣớc. Ngƣời ta thổi cơm bằng những nồi ba mƣơi đặt trên những ông đồ rau to tƣớng để cho ngƣời làm công ăn lúc tảng sáng, trƣớc khi họ ra đồng làm ruộng. Có vƣờn trƣớc trồng nhiều cây sấu thật cao, vƣờn sau có cây nhãn và một bể lớn chứa nƣớc mƣa. Có chuồng bò, chuồng lợn, sân bên chứa đống rơm đống rạ. Chung quanh dinh cơ rào kín, lũy tre dầy đặc, trên cổng vào có tháp canh để đao kiếm cung nỏ. Nếu đóng những cánh cổng gỗ lim nặng nề lại thì nội bất xuất, ngoại bất nhập! Nhà còn nuôi một đàn chó dữ. Xƣa kia khi tôi về thăm bà ngoại, mỗi lần thấy chó sủa gầm gừ là kinh sợ quá sức, chân ríu lại, tay bám chặt lấy ngƣời lớn!
Khi ông ngoại tôi mất vào ngày 8 tháng 4 năm Ất Dậu 1945, lúc đó đƣợc coi là ngày Phật Đản, tôi đi theo bố mẹ về đƣa đám. Mấy ngày liền nhà bếp mổ bò mổ lợn, còn nhớ dành riêng cho tôi
mấy chiếc bong bóng lợn để đem phơi khô thổi làm bóng đá. Trong sân dựng những rạp thật lớn để đón tiếp quan viên mọi nơi đến tiễn đƣa, phúng viếng. Rồi ngƣời ta ăn uống, nói năng ồn ào, tiếp theo những đợt khóc lóc, kèn trống ầm ĩ. Có các cụ rƣợu vào mặt đỏ tía tai, ăn nói hò hét hăng say trong mâm cỗ. Mỗi buổi chiều, những nhà bếp giỏi chuyên chặt thịt thành từng miếng đều đặn, rồi chia ra thành phần. Mỗi phần là một xâu thịt đủ loại, có thịt thủ, thịt mỡ, thịt nạc và một nắm xôi. Quan viên mang phần ra về, tùy theo vai vế mà đƣợc lấy nhiều hay ít. Lúc này đang có nạn đói, ngƣời ăn xin mọi nơi đổ về ngồi chật cả quãng đƣờng từ nhà đám ra đến cổng làng. Mỗi khi cổng nhà mở buổi chiều, ngƣời nhà phải mang từng thúng cơm ra phân phát trƣớc cho hành khất. Tuy thế mà các quan viên lúc ra về vẫn phải tay đƣa phần chia lên quá trên đầu vì sợ bị giật!
Cũng tại ông bà nội tôi mất sớm nên sau đám tang ông ngoại, tôi chỉ còn đƣợc chuyện trò với bà ngoại. Mỗi lần về quê thăm bà, tôi lại đƣợc ăn cơm riêng cùng bà. Cơm gạo dự thổi niêu đất, thức ăn thơm ngon tinh khiết. Bà sinh một trai là bác Hựu, một gái là mẹ tôi. Bà có nhiều cháu, nhƣng có lẽ quí tôi nhất, vì bà thƣơng mẹ tôi hơn hết, lúc nào cũng gọi cô Huấn cô Huấn. Và tôi, nhắc đến tình quê, lại bâng khuâng nghĩ tới thời thơ ấu khi còn đƣợc ở gần bà ngoại thân thƣơng. Hồi tản cƣ, gia đình tôi đƣợc ở căn nhà ngang bên ngoại trong hơn bốn năm, nên tôi may mắn có thêm nhiều kỷ niệm thật đẹp về bà ngoại. Tại đây, mẹ tôi còn bẩy tám mẫu ruộng cho cấy rẽ, đỡ lo miếng ăn. Dinh cơ chỉ có hai gia đình, bên bác tôi và bên mẹ tôi. Bác trai lên dậy học trên Yên Phong, Bắc Giang, anh Kỳ theo bộ đội để vợ ở lại với mấy đứa nhỏ, anh Nhƣơng đi học trƣờng Đào Giã Phú Thọ. Ở nhà chỉ còn hai bác gái, và các con trạc tuổi anh chị em chúng tôi, sống bằng mấy chục mẫu ruộng. Bố tôi cũng ra đi công tác tại Hƣng Yên. Khi có dịp thuận tiện, bố tôi cho ngƣời về đón ba anh em chúng tôi xuống ở cùng để ăn học. Khi tình hình bất ổn lại gửi chúng tôi về quê ngoại. Chị tôi và em Yên con chú Phụng đã theo chú lên Tuyên Quang từ ngày đầu kháng chiến. Lúc đó, bà ngoại tôi trở thành cột trụ tinh thần cho cả đại gia đình. Bà bảo chúng tôi có gì đã có bà! Lâu lâu mới thấy bà chống gậy đi thăm ruộng vƣờn và bà con lối xóm. Cũng có khi đi ra sinh phần coi mộ ông ngoại. Những ngày giặc về càn quét, sau khi dặn dò con cháu ẩn nấp cho kỹ, bà tôi ngồi lại một mình trong căn nhà gác, thần thái ung dung nhƣ không biết sợ mũi tên hòn đạn. May mà con cháu không ai bị giặc giết hại. Lần anh Kỳ bị đạn liên thanh của địch xuyên thủng đùi tại mặt trận, nhƣng may không trúng vào xƣơng, đƣợc đem về nhà dƣỡng sức mấy tháng, sau lại trở về bộ đội. Phúc đức chăng? Đố ai mà biết đƣợc! Có lần giặc tới làng Đa Ngƣu kế cận, một làng giàu nhất vùng này với đƣờng gạch, nhà ngói san sát. Đây là quê của nhiều ngƣời dân phố hàng Bồ và Phúc Kiến Hà Nội, và cũng là quê của sinh viên trƣờng kỹ sƣ công chánh Phó Đức Chính, một đảng viên cách mạng Việt Nam Quốc Dân Đảng, một trong mƣời ba ngƣời liệt sĩ Yên Bái. Chúng đốt phá nhà cửa tan hoang, bắn giết và hãm hại nhiều dân lành. Hôm sau tôi đi chợ Trâu tạt qua thăm, còn thấy gia súc cháy xám chƣa kịp thu dọn, sinh vật chết chƣơng phình bên đƣờng, đống rơm cót thóc khói lên âm ỉ. Ôi, cảnh tàn phá chết chóc nơi quê hƣơng này thấy mà biết bao hãi hùng chua xót!
Chỉ một vài năm sau ngày toàn quốc kháng chiến, làng Kim Ngƣu trở thành làng tề. Ban ngày có lý trƣởng để giao dịch với quân Pháp và chính quyền quốc gia. Ban đêm thì bộ đội về làng, sinh hoạt và ẩn nấp cùng dân chúng. Lúc này tôi có dịp đƣợc đọc nhiều loại chuyện, tạp chí, sách báo thời đó. Có tập truyện Những Cảnh Hoang Tàn Đế Thiên Đế Thích tả cuộc sống mai danh ẩn tích của một chàng trai cách mạng, nhận làm công cho một gia đình khá giả vùng Biển Hồ. Trong tạp chí Tri Tân, có chuyện Đêm Hội Long Trì kể mối tình oan nghiệt giữa quận chúa
Quỳnh Hoa, ái nữ của Tĩnh Đô Vƣơng Trịnh Sâm, với Bảo Kim, vì bị cậu trời Đặng Lân em của Tuyên Phi bức hại. Có sách về tính dục Nam Nữ Phòng Trung Bảo Hiểm.
Tôi đã học đƣợc trong sách báo đông tây kim cổ biết bao nhiêu điều hay thứ lạ xƣa nay. Có lúc tôi cũng phụ giúp mẹ tôi trong việc bếp nƣớc, nhƣ làm tƣơng, làm mắm, muối dƣa, muối cà. Ngày giáp Tết thì tƣớc ống giang làm lạt, cắt lá dong, thổi đậu, ngâm gạo nếp. Rồi giúp mẹ tôi gói những chiếc bánh chƣng vuông vắn và trông nồi luộc bánh đêm ba mƣơi. Tôi cũng học đòi phụ với ngƣời làm để đi tát nƣớc vô ruộng, biết dùng gầu giai, gầu sòng. Rồi xay lúa, giã gạo. Rồi trồng cà, trồng ngô, trồng lạc. Mà đời sống thôn quê nhiều lúc thật là thanh thản, tôi đã quên đi tiếng động ồn ào của xe cộ, tầu bè, máy nƣớc và quên luôn cả ánh đèn thành phố. Tôi còn nuôi đƣợc một đàn vịt mấy chục con, cho ăn ngô ăn thóc, chúng lớn nhanh nhƣ thổi. Lúc trời mƣa thì tôi đội nón lá, tay cầm cần tre đầu buộc một túm vải vụn để lùa vịt ra đồng ruộng bắt giun. Dân làng trông thấy thƣờng ví đùa tôi chăn vịt với ông Tô Vũ chăn dê! Thật ra, tôi đã sống nơi đây trong khung cảnh tuyệt đẹp hƣơng quê, và đƣợc hƣởng tràn đầy tình thƣơng của bà con lối xóm. Nhƣng thú nhất là tôi gây đƣợc một đàn gà hai ba chục con. Có những con trống thật đẹp mã, lông óng mƣợt, mào đỏ chót, cựa sắc, dáng đi hiên ngang. Tôi gọi tên là Mã Siêu, Trƣơng Phi, Triệu Tử Long, Hoàng Trung, nhƣ ngƣời hùng thời Tam Quốc. Riêng hai con trống hiền lành bộ tịch thƣ sinh, chân cao, là Liêm Khê và Hải Ngọc, thƣờng đi thƣ thả theo sau một con mái vàng tuyền, chân thấp, là Lệ Dung. Tên chúng đƣợc đặt theo một truyện tình cảm cách mạng của Nguyễn Công Hoan. Lâu dần mấy em tôi cũng nhớ tên của đám gà này, con nào đi lạc, con nào đã về chuồng là có thể biết ngay. Nhƣng rồi một trận dịch làm gà toi gần hết, tôi lại không biết cách cứu chữa ra sao, nên chán chẳng buồn nuôi nữa.
Câu chuyện thời tản cƣ thì kể sao cho hết. Một lần có bộ đội về làng ăn ở mấy bữa, và hôm ấy ngƣời ta làm lễ xuất quân. Tại một sân đất rộng của nhà một bà mẹ nuôi, trời tối mờ mờ không trăng sao, mấy chục anh em du kích gác súng, ngồi quây thành vòng tròn. Rồi kể chuyện đời chiến khu, hát các khúc quân hành, và hứa sẽ phá đồn giặc tại huyện Văn Giang trong đêm. Có đông dân làng ngồi nghe, im lặng thán phục. Tôi đƣợc cử đứng lên hát bài Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy để tiễn đoàn trai trẻ ra đi trong muôn lời thiêng còn vang:
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng,
Núi cây rừng
Lắng tiếng nghe hình dáng,
Của người anh hùng
Lạnh lùng theo trống dồn,
Trên khu đồi nương
Im trong chiều buông.
Ra biên khu trong một trời sương âm u,
Âm thầm chen khói mù.
Bao oan khiên đang về đây hú với gió,
Là hồn người Nam nhớ thù.
Khi ra đi đã quyết chí nuôi căm hờn,
Muôn lời thiêng còn vang
Hồn quật cường còn mong đến phút chiến thắng,
Sầu hận đời nuốt tan
Gươm anh linh, biết bao lần uống máu
Làm sác xây thành.
Thời gian luống những vô tình.
Rừng trầm phai sắc
Thấp thoáng tàn canh,
Hỡi người chiến sĩ vô danh!
Ngày hôm sau và những ngày sau đó, tôi có ý nghe ngóng tin tức, phập phồng lo sợ cho tính mệnh ngƣời Vệ quốc. Nhƣng rồi không thấy đồn giặc bị phá, nên làng cũng may không bị Pháp trả thù.
Huyện Văn Giang có một khu chợ, mà hồi mới tản cƣ, mẹ tôi có dọn một gian hàng xén nhỏ, để kiếm thêm ít tiền tiêu cho gia đình. Hàng hóa thì mua của bác Úy gái mang từ Hà Nội về, đủ thứ vải vóc, kim chỉ, bút máy, bút chì, bật lửa, đá lửa. Vào những ngày phiên chợ, ngƣời làm là anh Phúc quẩy gánh hàng theo mẹ tôi lên huyện. Lúc chợ chiều anh lại đến dọn dẹp rồi quẩy hàng về nhà giúp mẹ tôi. Thỉnh thoảng tôi theo mẹ lên chợ ngồi phụ bán hàng. Mỗi khi bán đƣợc một sợi giây dù, một sấp vải, một tập giấy, chỉ lời dăm ba đồng bạc là thấy thật yêu đời. Có một lần tôi lên chợ từ sáng sớm. Đột nhiên ngƣời trong chợ chạy nhốn nháo, rồi có tiếng còi, tiếng súng nổ, tiếng đóng cửa ầm ầm. Bác Úy vội vàng lên xe ca theo các bạn hàng trở về lại Hà Nội. Tôi thấy một chiếc cáng chạy qua, chở một ngƣời lính ngụy vừa bị du kích quân đâm một dao lút cán, máu chảy lênh láng. Lính trên đồn tủa xuống bao vây quanh chợ rồi bắt tất cả đàn ông con trai về doanh trại bên huyện. Tôi cũng không thoát và bị bắt ngồi suốt ngày trong sân nắng, chờ đến lƣợt bị hỏi khẩu cung. Lúc trời đã nhá nhem tối mới đƣợc thả ra về. Tôi mừng muốn khóc vì gập lại mẹ tôi còn đang đứng lóng ngóng chờ nơi cổng trại! Đêm khuya hai mẹ con mới dắt nhau về tới làng Kim Ngƣu. Từ đó mẹ tôi không cho tôi phụ giúp bán hàng nữa, bà gửi ba anh em trai chúng tôi xuống Hƣng Yên đi theo bố.
Có một ngày vừa sang hạ, ruộng còn ngập nƣớc và lúa đang mọc xanh um, giặc bỗng tràn về đốt phá những huyện phía nam tỉnh Hƣng Yên. Lúc đó còn mờ mờ tối, trời sắp rạng đông. Dân chúng nghe tin sợ hãi, ẩn núp trốn tránh quanh quẩn. Hoặc lũ lƣợt bồng bế nhau thoát ra khỏi làng. Bốn bề đều có lửa cháy, súng nổ. Ba anh em tôi vội chạy ra giữa cánh đồng, núp yên trong một thửa ruộng. Mãi tới quá trƣa, nắng đã xiên quai, mới nghe im tiếng súng. Nhìn xuống chân, cả đám đỉa đen ngòm bám vào mà không hay biết. Gạt xuống đất thấy chúng no tròn vì đã hút máu thỏa thê! Tuy cả ngày không có một hột cơm trong bụng mà vì sợ hãi nên không thấy đói. Tôi tính phải tìm đƣờng về lại ngay quê ngoại, dù cách xa ngoài hai chục cây số. Thôi đành đi theo hƣớng những hình dáng mờ xẫm quen thuộc vƣơn lên từng cao của nhà thờ, cây đa, rặng tre, hàng cau, nghĩa là dựa vào hình bóng riêng biệt của làng mạc hiện ra phía chân trời. Tay giắt em Đằng, có lúc lƣng phải cõng em Giang, chúng tôi lần theo đƣờng ruộng, đƣờng làng, bãi hoang, gần đến tối đêm mới về tới Kim Ngƣu. Gập đƣợc ngƣời làng mà lòng mừng vô hạn, nhƣ con trẻ bắt đƣợc cái đinh, nhƣ ngƣời lớn bắt đƣợc của. Mẹ tôi có tin vùng dƣới bị càn quét, nên khi thấy chúng tôi về đƣợc bình yên, đã thắp hƣơng lâm râm khấn vái cám ơn Trời Phật. Chúng tôi thật đúng nhƣ những con chim nhỏ dại trôi dạt trong cơn bão táp, may mà còn tìm về lại đƣợc tổ ấm.
Những kỷ niệm khó quên ngày tản cƣ làm tôi thân thiết nhiều với họ hàng bên ngoại. Các chị Phi, Kha, Đĩnh, Phú, Lê, Cảnh, các anh Kỳ, Nhƣơng, Tộ, Chi con bác Hựu. Các em Ty, Tèo, Kha con chú Viện. Và biết bao bà con lối xóm!
Ông ngoại tôi là Chu Thế Trƣờng (1864-1945), đậu cử nhân khoa Quí Mão, năm Thành Thái thứ 15 (1903) làm Huấn Đạo huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên. Bà ngoại tôi là Nguyễn Thị Vũ (1867-1952). Khi bà mất, dù tình hình quê ngoại đã mất an ninh và rất nguy hiểm, bố tôi từ Hà Nội cũng cố trở lại Kim Ngƣu để đƣa tiễn bà về nơi yên nghỉ ngàn thu. Bà đƣợc chôn gần ông, trong một sinh phần đã xây từ lúc ông bà còn sống. Thời cải cách điền địa, nơi này cũng bị phá hủy. Hơn năm chục năm sau, nghĩa là vừa mới đây, con cháu đã phải dùng phƣơng pháp riêng của nhà Phật để tìm kiếm lại phần mộ.
Mẹ tôi tuy không đảm đang tài giỏi nhƣng hiền từ và rất khảng khái.
Ở quê ngoại trong những ngày tản cƣ thiếu thốn, mẹ tôi vẫn giữ một cuộc sống độc lập, làm ăn buôn bán thêm vì không muốn nhờ cậy ai. Mẹ tôi cũng ít ghen tuông, để bố tôi trong thời bình đƣợc tự do giải trí tổ tôm, tài bàn, cô đầu hay thể thao cƣỡi ngựa, quần vợt. Có thể vì vậy tôi chƣa thấy bố mẹ tôi to tiếng hay cãi nhau bao giờ. Mẹ tôi nhìn đời bằng con mắt bình thản, và không mấy khi lo nghĩ. Tuy thừa hƣởng tính khí khái và trí nhớ phi thƣờng của mẹ, tôi lại dễ lo âu nhƣ bố tôi. Về hình dạng, tôi giống mẹ tôi đƣợc đôi mắt!
Tình quê hƣơng
Ai nói đến quê nội quê ngoại, mà không thấy cảnh quê hƣơng êm đẹp, tình quê hƣơng thân thƣơng. Tôi chợt nhớ có lần bác Tiên Đàm Nguyễn Tƣờng Phƣợng đã bắt tôi tả cảnh quê nhà trong một mùa thu khói lửa, dựa vào hai câu Kiều của Nguyễn Du:
Thú quê thuần húc bén mùi
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
Câu dƣới lấy từ Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu thì tôi dễ hiểu. Một lá cây ngô đồng rụng xuống, ai mà chẳng biết mùa thu đã tới. Miền Bắc đông hàn, hạ thử, xuân ôn, thu lƣơng, có mùa đông rét mƣớt, mùa hè nóng nực, mùa xuân ấm áp và mùa thu lạnh lẽo. Riêng mùa thu là tiết trời nhẹ nhàng êm dịu nhất. Để nhặt lá vàng rơi sau cơn gió thoảng, để câu cá nơi ao hồ nƣớc trong leo lẻo, để ngắm trăng rầm sáng ngời tròn trĩnh. Hay dự coi những đám cƣới thôn quê, vui
vẻ nhộn nhịp ngay cả thời buổi đang giặc dã. Nhƣng còn câu trên có rau thuần và cá húc, chẳng hiểu có phải là rau rút và cá riếc trong mùa thu không? Tôi đã cố viết đƣợc một hai trang, kể thêm những món ăn quê với canh cua rau rút khoai sọ, canh cá rô rau cải, thịt bò xào rau cần. Khói lửa đâu phải lúc nào cũng làm giảm đƣợc thú quê!
Nhƣng làm sao nói hết về tình quê hƣơng hay đất nƣớc đƣợc, nếu không có những bài ca tuyệt đẹp của Hoàng Trọng, Thẩm Oánh, Phạm Duy, Châu Kỳ, Hoàng Thi Thơ, cùng những lời sau đây của Hoàng Quí:
Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm
Chạy dài trên khóm cây, đàn chim ríu rít ca
Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm,
Chuyện trò chung với nhau đời sống thần tiên...
Việt Lang:
Ngàn dâu xanh ngát, mấy nếp tranh xa mờ,
Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa...
Ta ra đi, một chiều thắm vang lời ca buồn trong khóm lá,
Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi...
Chung Quân:
Làng tôi có cây đa cao vút trời xanh,
Có sông sâu lơ lững vờn quanh, êm xuôi về Nam.
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau,
Bóng tre ru bên mấy hàng cau, đồng quê mơ màng...
Hoàng Giác:
Về quê xưa để sống êm đềm giấc mơ,
Về quê xưa tìm bóng dáng ngày đã qua,
Và say sưa cuộc sống bên ngàn lũy tre,
Xa lánh cuộc đời khắt khe, trăm đau ngàn thương.
Và thơ của Phan Lạc Tuyên, Đan Thọ phổ nhạc:
Anh về qua xóm nhỏ,
Em chờ dưới bóng dừa.
Nắng chiều lên mái tóc,
Tình quê hương đơn sơ...
Có lẽ tấm tình đơn sơ ấy đã cho chúng ta bao hoài niệm về quê hƣơng, về tuổi trẻ. Dù đang sinh sống ở một phƣơng trời mới, nơi văn minh tiến bộ quá sức tƣởng tƣợng của con ngƣời. Với công viên đẹp đẽ, lâu đài tráng lệ, nhà cửa nguy nga, xe cộ tối tân. Đầu năm 1995, chúng tôi may mắn có dịp về thăm quê nội. Nhƣng còn quê ngoại, biết ngày nào mới trở về thăm đƣợc? Lại e rằng cảnh xƣa, nay đà đổi khác, và ngƣời cũ, biết tìm nơi đâu? Thế thì lo về mà làm chi? Thôi hãy để cảnh sắc quê ngoại êm trôi theo dòng thời gian, và đành giữ trọn tình quê hƣơng trong tâm tƣởng!
Mùa Giáng Sinh 2003
CHƢƠNG BỐN
Vài Nét Về Đông Y
Tháng ngày ở Ngọc Nha
Trong những ngày đầu kháng chiến năm 1946, gia đình tôi chạy về quê nội Xuân Cầu, rồi sau sang ở quê ngoại Kim Ngƣu. Hai làng này của huyện Văn Giang, nguyên thuộc tỉnh Bắc Ninh, sau là tỉnh Hƣng Yên, có lúc thuộc tỉnh Hải Hƣng. Nhƣng chỉ ít lâu sau, vùng này bị tạm chiếm, ngày thì thuộc chính quyền thân Pháp, đêm thì du kích quân kéo về hoạt động. Kể từ đó, gia đình tôi bị phân tán đi nhiều nơi. Bố tôi và ba anh em chúng tôi tản cƣ về làng Ngọc Nha, phủ Khoái Châu, tỉnh Hƣng Yên. Nơi đây hiện còn yên ổn, dân chúng hiền hòa, trù phú, đa số nhà gạch lợp ngói, và đƣờng trong làng đều có lát gạch. Làng trải dài hai bên một con sông nhỏ, chảy vào một cái đầm thật lớn. Đầm này trùng tên với đầm Dạ Trạch làng Đa Hòa gần đấy, là dấu tích một lâu đài tình ái đã chợt biến đi, trong đêm Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đƣa nhau về trời. Theo truyền thuyết, Chữ Đồng Tử đƣợc kể là một trong tứ bất tử của Việt Nam, có công cứu nƣớc hộ dân, cùng với Tản Viên Sơn Thần, Phù Đổng Thiên Vƣơng và Liễu Hạnh Công Chúa.
Gia đình tôi tạm trú nhà cụ Thứ Chỉ Hoàng Văn Hòe. Tôi làm bạn với các con trai của cụ, anh Khôi sau đổi tên là Hoàng Đình Khoa và anh Thúy. Nhà ngƣời em cụ, ông Chánh Đàn cũng ở gần đấy. Ông có ngƣời con trai trạc tuổi tôi là Hoàng Văn An. Lúc đó vào mùa gặt, chúng tôi đƣợc mời ăn cơm gạo mới, hay cơm nếp mới thật dẻo và thơm ngon. Cũng có khi thì đƣợc ăn ngô nƣớng bếp than, khoai lang vùi bếp tro. Mấy tuần sau chúng tôi cùng gia đình ông bác là giáo sƣ Nguyễn Tƣờng Phƣợng đến ở hẳn nhà cụ Đội Nghị, một căn nhà hai tầng rộng rãi, có ao sâu kế bên một cái sân gạch rộng. Ngày ngày chúng tôi không biết làm gì ngoài việc đi chợ nấu ăn, rồi đi chơi với mấy anh chị em con cụ chủ nhà là chị Tuyết, anh Diệu. Riêng tôi, thỉnh thoảng cũng đƣợc bác Phƣợng, nguyên chủ bút Tạp chí Tri Tân, dậy môn Việt văn, và bố tôi dậy Pháp văn. Để tôi có thể học hành đều đặn và đỡ lêu lổng, bố tôi cho tôi theo học chữ nho cụ Hòe. Thế là mỗi buổi sáng, ngày ngày tôi đi theo đƣờng gạch ven sông đến nhà cụ. Trong lớp chỉ có bốn năm ngƣời học trò, kể cả anh Khoa. Tôi đã đƣợc học Tam Thiên Tự, nhƣ Thiên trời, Địa đất, Cử cất, Tồn còn... Tam Tự Kinh, nhƣ „Giáo bất nghiêm, sƣ chi nọa‟, Dậy mà chẳng nghiêm, do ông thầy lƣời, „Nhân bất học, bất tri lý‟, Ngƣời mà không học, không biết lẽ phải... Minh Đạo Gia Huấn nhƣ „Nhân tham tài tử, điểu tham thực vong‟, Ngƣời tham của thì chết, chim tham ăn thì mất, „Đãn hoạn vô tài, bất hoạn vô dụng‟, Chỉ lo không có tài, chẳng lo không đƣợc dùng... rồi Nhị Thập Tứ Hiếu, hay truyện hai mƣơi bốn ngƣời con có hiếu ở bên Tầu. Suốt ngày chi hồ dã giả, không hiểu ngày sau tôi sẽ có thể làm nghề gì trong bốn môn Nho, Y, Lý, Số...mà mới môn đầu tôi đã thấy thật khó học đến nơi đến chốn. Nhƣng vào những ngày phiên chợ huyện, tôi cũng đi lùng tìm cho bằng đƣợc cái bút lông mềm mại, một thỏi mực tầu chính hiệu, những tập giấy bản tốt, và mua cậy để đóng giấy thành quyển tập viết chữ nho. Cụ Hòe vốn dòng dõi khoa bảng, ngƣời tầm thƣớc, trắng trẻo, tính tình rất hiền hậu. Gần cụ, nhƣ gần một gƣơng sáng, tôi học đƣợc sự xử thế của một nhà nho nghiêm túc. Lâu dần thấy tôi lo sợ vì chữ nho là một loại tử ngữ không mấy thích hợp nữa, cụ bèn dậy chúng tôi thêm văn bạch thoại, để có thể đọc một số báo chí Trung hoa thời đó. Tôi đã đƣợc học một số bài của Tôn Dật Tiên, cha đẻ của Tam Dân chủ nghĩa. Lối văn này, vẫn còn rƣờm rà, vì tuy ít chi hồ dã giả, nhƣng lại dùng nhiều chữ đệm hay trợ từ đích.
Đầm Dạ Trạch rộng, nƣớc trong và sâu, bên bờ có chỗ cây cao bóng cả. Dân chài thƣờng đánh cá vào buổi sáng. Năm sáu chiếc thuyền nan chạy theo hàng ngang để cùng trải một mảng lƣới thẳng dài, rồi ngƣ phủ vừa gõ vào mạn thuyền đuổi cá vừa quây lƣới tụ lại một chỗ. Họ kéo lƣới lên và gỡ lấy những con cá mầu bạc lóng lánh đủ loại lớn nhỏ bị mắc vào lƣới. Đôi khi ngƣ phủ quây thuyền thành vòng tròn rồi đồng thời tung những chiếc lƣới gấp gọn lên trên không. Chúng vụt tỏa rộng ra nhƣ những cánh lá sen rỗng vĩ đại sẫm mầu, rồi cùng một lƣợt chụp xuống làn nƣớc sóng lăn tăn. Họ kéo lƣới lên bắt cá để lại tiếp tục quăng lƣới mẻ sau. Những ngày có sƣơng mù bao phủ một vùng mênh mông buổi sáng, cảnh chài lƣới huyền ảo đẹp nhƣ trong cõi mộng, làm con ngƣời quê dễ vui sống an lành với thiên nhiên.
Vào những ngày hè nắng ấm, Khoa thƣờng hay rủ tôi đi bơi tại đầm làng. Khoa bơi sải nhanh và rất đẹp. Có một buổi chiều chúng tôi đang bơi, bỗng một quả cầu lửa vụt ngang trên trời cao để biến mất về phía chân trời, kéo theo một đƣờng khói trắng thật thẳng tan loãng dần trên không. Tôi không biết là vật gì, mà cũng chẳng thấy một ai chú ý. Cả chục năm sau tôi mới suy đoán có thể là tên lửa đƣợc thử thời đó đã đi lạc vào đất liền. Rồi một bận chúng tôi trèo lên cành cây nhào xuống nƣớc, đúng vào hồi nƣớc đầm đã rút cạn. Khoa thì giỏi, nhoài ra xa ngay, nhƣng tôi lúng túng đầu bị đâm xuống bùn. Tôi sợ muốn chết và từ đó bỏ không dám đi bơi tại đầm này, cũng chẳng còn chú ý đến mức nƣớc lên xuống theo mùa nữa.
Thuốc Nam thuốc Bắc
Nói đến tháng ngày ở Ngọc Nha, tôi thƣờng nhớ lại chuyện học chữ nho. Để rồi miên man nghĩ đến thời còn nhỏ, anh chị em chúng tôi nhiều lúc ốm đau cũng thƣờng đƣợc dùng thêm thuốc Nam, thuốc Bắc. Bố mẹ tôi đều biết chữ nho, có thể bốc những thang thuốc thông dụng, nên tôi đƣợc phụ qua loa vào việc tẩm thuốc, sao thuốc, sắc thuốc. Nhƣ dùng dao cầu để cắt, thuyền tán để nghiền thành bột. Và viên thật tròn những viên thuốc tễ, thuốc bổ. Hồi thế chiến thứ hai chấm dứt, khi quân Tầu sang giải giới quân phiệt Nhật miền Bắc nƣớc ta, họ thƣờng bị bệnh lở loét hay sâu quảng. Tôi cũng thấy mẹ tôi tán nhỏ đinh hƣơng cùng với hoạt thạch rồi cho họ rắc lên vết thƣơng. Có lẽ hoạt thạch làm khô và đinh hƣơng sát trùng nên vết sâu quảng dễ lành chăng? Cả hai thứ này đều có ghi trong Dƣợc liệu tây phƣơng. Hồi tản cƣ nơi quê ngoại làng Kim Ngƣu, có hôm đi chợ Trâu về, tôi bỗng thấy cánh tay trái sƣng phù lên, rồi vết lở chảy nƣớc và đau nhức đến không nhấc tay lên đƣợc. Ngƣời ta nói tôi bị lở sơn. Thế mà Sơn ăn từng mặt, ma bắt từng ngƣời, có thể tùy thuộc sự mẫn cảm của mỗi ngƣời chăng? Tôi lấy vải đeo tay trái lên vai, rồi ngồi cầm cần câu cá bằng tay phải cho quên đau và cho qua thì giờ. Sau mấy ngày cánh tay tự nhiên lành, nếu dùng thuốc chắc đã cho là tại thuốc. Nhƣng thƣờng thì chữa theo kinh nghiệm ngƣời xƣa để lại. Mấy bữa ở tạm làng Bình Hồ, không hiểu sao tôi bị ngứa ngáy, da nổi mề đay. Ngƣời ta mách lấy giẻ vó hay miếng lƣới đánh cá đã rách, đem rang lên thật nóng rồi xoa vô chỗ ngứa vì dị ứng thì sẽ khỏi liền, thế mà đúng thật. Những ngày ở làng quê, tiêu chảy thì xoa dầu nhị thiên đƣờng hay dầu con hổ cho ấm bụng, hoặc ăn lá búp ổi để cầm lại. Kiết lỵ thì ăn lá mơ tam thể bác với trứng, ho thì ngậm gừng giã nhỏ chƣng với mật ong. Cảm sốt thì xông cho ra mồ hôi, bằng cách chùm khăn lên ngƣời bệnh để giữ hơi nóng xông lên từ nồi nuớc đun lá tre. Cảm cúm thì bôi dầu bạc hà vào thái dƣơng, hay đánh gió: lấy ít gừng thái nhỏ, một mớ tóc rối, một quả trứng vừa luộc chín còn cả vỏ, bỏ vào một khăn tay, rồi cầm một đồng bằng bạc thiệt cắt ngang quả trứng còn nóng hổi. Bọc nhanh những thứ đó trong khăn tay và trộn lại thành một nắm, rồi lấy nắm ấy chà xát vào sống lƣng, các khớp xƣơng, cho đến khi nguội. Nếu mở bọc ra
mà thấy đồng tiền bạc xám lại, là bị cảm gió, càng xám nhiều là càng cảm nặng. Đứt tay đứt chân thì lấy lá trầu không nhai với vôi đắp lên rồi buộc lại. Cũng có thể rịt bằng thuốc lào. Mắt sƣng đỏ mà rỉ hay ghèn gắn chặt lông mi làm hai mi mắt dính lại không mở ra đƣợc, ngƣời ta vò lá cây dành dành cho ra tiết, lấy giấy bản gói miếng tiết vào, rồi đắp lên mắt cho bớt nóng. Thời đó, vệ sinh thƣờng thức còn rất thiếu sót. Bệnh nhân dễ chết vì nhiễm trùng nhƣ bị hậu bối ở lƣng, bị đinh râu ở quanh miệng, bị bệnh tả, bệnh kiết lị, bệnh thƣơng hàn. Cũng nhiều trƣờng hợp ngƣời bệnh chống cự lại đƣợc và tự nhiên lành trở lại. Nhƣ khi xuống ở làng Gạo Nam, em Đằng tôi bị thƣơng hàn, ngƣời gầy trơ xƣơng, đầu tóc rụng hết. Mấy tuần lễ không có thuốc thang, chỉ uống nƣớc cháo, và kiêng ăn đồ rắn, cầm cự chờ cơn bệnh lui dần. Lúc em tôi bắt đầu hồi phục, may còn đƣợc tẩm bổ bằng nửa kí đƣờng cát trắng của Bác sĩ Tiến ở làng Vân kế bên gửi cho!
Nhƣng có một chuyện mà tôi không thể nào quên đƣợc. Lúc còn ở quê ngoại, gia đình tôi đƣợc tin chị Xuân Nhân tôi trên Việt Bắc bị đau nặng chắc chết. Mẹ tôi phải nhờ chú Viện và anh Triết, lặn lội mất ba tuần lễ lên miền ma thiêng nƣớc độc tìm ra cho đƣợc chị để cáng về quê nhà. Chị chỉ còn có da bọc xƣơng, ngƣời dúm lại nhƣ một con mèo, tinh thần tán loạn hết vì không còn nhận biết đƣợc gì nữa. Có ngƣời bảo chị lên mạn ngƣợc dễ thƣờng bị ma làm, hoặc mƣờng mán nó chài đấy! Phải mau tìm thầy cúng vái để bắt tà ma, nhƣng biết tìm đâu? Bố tôi có ghé về thăm, nói chị bị ho lao đến thời kỳ cuối, mà bác sĩ chữa trị đã bó tay rồi. Trƣớc khi ra đi, ông đứng hè nhà mà khóc, rồi dặn tôi phụ với mẹ tôi lo việc chôn cất cho chị. Mẹ tôi dở khóc dở cƣời, cảnh buồn nản không thể nói ra lời. May lúc đó có ngƣời mách một ông lang ở một phủ huyện tỉnh Hƣng Yên chữa đƣợc nhiều chứng bệnh nan y hay lắm. Mẹ tôi nói thôi thì còn nƣớc còn tát, mình có bệnh thì phải vái tứ phƣơng, và sai anh Phúc đi kiếm ông thầy này ngay. Anh ngƣời làm phải vất vả mấy ngày tìm gập ông lang để kể bệnh của chị tôi, rồi đem thuốc về sắc. Chị tôi mới uống chừng mấy thang thì bắt đầu ói ra mật xanh mật vàng, rồi hết sốt và tỉnh lại dần dần. Mấy tháng sau thì chị tôi khỏi bệnh, ăn trả bữa, rồi lại tiếp tục đi công tác nhƣ cũ. Tôi nghĩ ít ai có thể nói là thuốc Nam thuốc Bắc không công hiệu đƣợc. Thời nào cũng vậy, chỉ khó làm sao là tìm đúng thầy và dùng đúng thuốc mà thôi.
Một tài liệu Việt Y quí giá
Sau gần hai năm ở làng Ngọc Nha, bố tôi và ba anh em chúng tôi xuống ở Gạo Nam huyện Ân Thi, và tôi đƣợc tiếp tục học trung học tại trƣờng Tiền Phong của giáo sƣ Nguyễn Văn Đỉnh ở làng Bình Lăng. Nhƣng cũng từ đó, chúng tôi không có dịp trở lại Ngọc Nha nữa.
Cho đến những ngày mới di cƣ vào Nam năm 1954, đôi lúc tôi mới lại thăm đƣợc cụ Chỉ Hòe tại khu Phú Thọ, và cụ Đội Nghị tại khu Đại Học Xá Chợ Lớn. Từ năm 1957 tới 1972, cụ Hòe làm Giáo sƣ Hán văn Trƣờng Trung Học Nguyễn Trãi, và Chuyên viên dịch thuật tại Nha Văn Hóa Sài Gòn. Cụ đã dịch từ chữ nho sang chữ Việt, bộ Sử về sự giao thiệp giữa vua Quang Trung và vua Càn Long vào đời nhà Thanh, các sách về tuồng cải lƣơng. Để rồi biết bao nhiêu nƣớc chảy qua cầu....
Thấm thoát đã trên nửa thế kỷ qua, tại vùng đất hứa California này, nhờ bác sĩ Nguyễn Đăng Cát cho số điện thoại, tôi mới có dịp gập lại ngƣời bạn đồng môn thời tản cƣ, anh Hoàng Đình Khoa. Anh đã theo đƣợc nghiêm phụ, và bây giờ là đông y sĩ Ông Thọ của Tiểu Sài Gòn. Vì vậy, tôi mới hay cụ Đình Thụ Hoàng Văn Hòe cùng anh Hoàng Đình Khoa có dịch đƣợc bộ sách Hải
Thƣợng Y Tôn Tâm Lĩnh của Lãn Ông Lê Hữu Trác. Sách này gồm 5 quyển, hơn 3000 trang, do Khai Trí Sài Gòn ấn hành, từ 1972 tới 1975.
Tôi không dám giới thiệu hay điểm sách về một tài liệu Việt Y rất quí giá này, vì tự biết không có đủ khả năng. Vậy chỉ xin nêu lên đôi ba cảm nghĩ sau khi đọc bản dịch của cụ Hòe, về những phần liên hệ đến ngành Dƣợc, qua các đoạn dƣới đây.
Trƣớc kia, ngƣời làm thuốc chỉ có những sách cổ từ 4000 năm cũ của Trung Y, nhƣ bộ Thần Nông Bản Thảo, quyển Nội Kinh, bộ Kim Giám... Phải đợi đến đời nhà Trần, Tuệ Tĩnh thiền sƣ mới cho ấn hành quyển Nam Dƣợc Thần Hiệu, ghi tính chất các vị thuốc Nam, nhƣng tiếc rằng bản in bị ngƣời nhà Minh đem về Tầu. Đến hậu bán thế kỷ thứ 18, thời vua Lê Hiển Tôn, mới có một bộ sách thuốc duy nhất do ngƣời Việt viết ra: bộ Hải Thƣợng Y Tôn. Sách này gồm 25 tập, do Lê Hữu Trác, biệt hiệu Hải Thƣợng Lãn Ông, biên soạn ra. Đƣợc nhà Nguyễn phong là một Việt Nam Y Thánh, Lãn Ông đã thâu góp căn bản ở những sách cổ, cộng thêm nhiều sáng tạo để chữa bệnh hợp theo khí hậu của nƣớc ta và tạng phủ của ngƣời Việt thời bấy giờ.
Cụ Hòe đã nêu rõ khúc chiết của bộ sách trong phần Thay lời tựa. Chỉ cần đọc đoạn này, ta có thể hiểu đƣợc phần nào tâm tƣ của dịch giả. Trong xã hội ta, có ngƣời suốt đời chỉ dùng đông y dƣợc, có ngƣời suốt đời chỉ dùng tây y dƣợc. Cũng có ngƣời dùng đông y không khỏi phải đổi sang tây y hay ngƣợc lại. Theo ý cụ, nền đông y không những nên bảo tồn mà cần đƣợc nghiên cứu để phát triển, mà muốn bảo tồn đƣợc di sản của tiền nhân viết bằng chữ nho, thì phải dịch ra quốc ngữ trƣớc. Vì vậy, cụ đã bỏ ra 4 năm để dịch Bộ Hải Thƣợng Y Tôn, chia thành 5 quyển gồm 25 tập, và ghi thêm rất nhiều chú giải. Tôi không thể lạm bàn phần viết về Y, những căn bản y lý, âm dƣơng, lục phủ, ngũ tạng, kinh mạch, bệnh đàn bà, bệnh trẻ con. Bộ sách này còn có phần về dƣơng án ghi lại những chứng bệnh nặng mà Lãn Ông chữa khỏi, âm án kể lại những chứng bệnh nặng chữa không khỏi, và Thƣợng Kinh Ký Sự mà Lãn Ông ghi chép việc khoảng năm 1782 khi ra Thăng Long để chữa bệnh cho vua Lê Hiển Tôn và thế tử Trịnh Cán theo lời mời của chúa Trịnh Sâm. Nếu đọc qua những phần viết về Dƣợc, quyển 1 có tập 1 hay tập Thủ dạy lúc mới học thuốc, với câu ngạn ngữ "ba đời làm thuốc hay, đời sau con cháu tất có ngƣời làm nên khanh tƣớng", kể mƣời phƣơng pháp dùng thuốc, bẩy thứ phƣơng thuốc, các phép bào chế bằng lửa, bằng nƣớc, phép tẩm với rƣợu, với giấm, với sữa. Bệnh hoãn phải chữa về gốc, bệnh cấp phải chữa về ngọn. Tập 4 hay Dƣợc phẩm Bị yếu là tập rất quan trọng, bàn về tính chất của 150 vị thuốc, ngũ vị, âm dƣơng, phép dùng hay để dành thuốc, và tả từng vị thuốc theo các bộ hỏa, mộc, thổ, kim, thủy. Nhà làm thuốc phải rõ về ôn, lƣơng, hàn, nhiệt của vị thuốc để chữa những chứng biểu, lý, hƣ, thực. Quyển 4 từ tập 17 đến 20 gồm Lĩnh Nam Bản Thảo do chính Hải Thƣợng Lãn Ông viết về thuốc Nam, có trích thêm Nam Dƣợc Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh, Bách Gia Chân Tàng về thuốc gia truyền, Hành Giản Chân Nhu về thuốc đơn giản, Tập Nhật về các bài thuốc.
Trong nguyên bản toàn bộ có phần Nguyên Dẫn của Võ Xuân Hiệp, ghi việc tìm kiếm các cuốn sách của Lãn Ông để đem khắc ra bản in, phần Tiểu Dẫn của Thích Thanh Cao, vị trụ trì chùa Đồng Nhân Bắc Ninh coi việc ấn hành, và lời Tựa của Hải Thƣợng Lãn Ông. Riêng phần này, Lãn Ông có viết rằng: “Tôi muốn đem những điều đã học đã nghiệm, trƣớc tác thành sách, nhƣng lại nghĩ rằng lẽ làm thuốc man mác, làm sao hợp đƣợc trăm bộ sách lại cho thành một bộ. Vả lại, làm thuốc không bằng lập bài thuốc, cắt chén thuốc chỉ chữa đƣợc một ngƣời, mà lập phƣơng thuốc mới chữa đƣợc nhiều ngƣời, nhƣng một lời nói sai lầm thì di họa không ít”. Mỗi
mục thƣờng bắt đầu bằng bài Tiểu Dẫn, tóm tắt các ý kiến và ƣu tƣ của Lãn Ông. Nhƣ về thuốc đơn giản, tiểu dẫn có đoạn nhƣ sau: “Trong một bài thuốc, có vị nhiều hơn nhất là quân, có vị nhiều vừa là thần, có vị ít hơn là tá, có vị ít hơn hết là sứ, nhiều vị góp lại mà phải hơn kém khác nhau, nhƣ vậy mới có công hiệu”.
Tú tài Tế Xuyên Tô Văn Độ đã viết những lời giới thiệu công việc dịch thuật của cụ Hòe nhƣ sau: “Nếu bộ Hải Thƣợng Y Tôn không đƣợc dịch ra tiếng Việt, thì e có thể đi đến chỗ hữu thƣ vô truyền. Bản văn dịch lƣu loát, ý nghĩa đúng với nguyên bản, cách xếp đặt khoa học, lời giải thích rất rõ ràng. Hải Thƣợng Lãn Ông trƣớc tác mà Đình Thụ Hoàng Văn Hòe dịch ra. Tuy việc của ngƣời sau chỉ bằng nửa của ngƣời trƣớc, nhƣng công thì nên kể cho gấp đôi”. Thiết tƣởng những dòng nói trên cũng quá đủ để ghi lại công trình dịch thuật của cụ Hòe trong ngành Đông Y.
Tôi cũng có xem thoáng qua Hải Thƣợng Y Tông Tâm Lĩnh do miền Bắc soạn dịch. Tuy chữ nho viết là y tông, nhƣng từ triều Nguyễn vì kiêng tên húy của vua, nên đọc là y tôn. Vào đầu năm 1972, giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên có lần hỏi tại sao đƣờng Lê Thánh Tông lại viết là Lê Thánh Tôn, tôi nhớ có trả lời là vì những sự húy kị này. Nguyên quán Lãn Ông ở xã Liêu Thƣợng, huyện Đƣờng Hào, Hải Dƣơng, thời nhà Nguyễn đƣợc đổi là huyện Mỹ Hào, Hƣng Yên. Thời xƣa, sĩ tử thƣờng bị đánh rớt vì phạm vào những trƣờng qui này. Quê nội tôi là làng Hoa Cầu, sau đổi thành Xuân Cầu, chỉ vì mẹ vua Thiệu Trị tên là Hoa. Ngay cho đến bây giờ, tên một vùng có khi cũng phải bị thay đổi cho hợp với thể chế. Mong rằng rồi ra, khi chính sử nƣớc ta đƣợc kiện toàn, thì sự vô lý này sẽ không còn nữa. Phải đọc bộ Hải Thƣợng Y Tôn Tâm Lĩnh, tôi mới biết phần lễ nghi phụng sự tiên sƣ về y dƣợc, gồm 120 vị, thật là nghiêm cẩn. Trong 12 vị thánh sƣ phối hƣởng về phía đông, có Biển Thƣớc và Hoa Đà. Nhân dịp, tôi xin kể tóm lƣợc vài đoạn thú vị trong truyện tầu nói đến tài trị liệu của Biển Thƣớc, ông tổ ngành Nội khoa và Hoa Đà, ông tổ ngành Phẫu thuật.
Biển Thƣớc và Hoa Đà
Theo Đông Chu Liệt Quốc do Nguyễn Đỗ Mục diễn nôm của Nhà Xuất Bản Đại Nam, Glendale, Hoa Kỳ, Biển Thƣớc (~500 TTL) là một ông thánh trong nghề thuốc. Ông cùng thời với Hiên Viên Hoàng Đế, có tài cải tử hoàn sinh đƣợc. Thời Đông Chu Liệt Quốc, Tần Hoãn, tự là Việt Nhân, mắt sáng nhƣ gƣơng, trông thấy cả lục phủ ngũ tạng của bệnh nhân, làm nghề thuốc rất giỏi, ngƣời ta ví với Biển Thƣớc ngày xƣa, nên cũng đƣợc gọi là Biển Thƣớc tiên sinh.
Khi thế tử nƣớc Quắc bị ngộ cảm mà chết, Biển Thƣớc đã dùng kim đá chích cho thế tử sống lại. Rồi cho uống thuốc, ba tuần thì thế tử khỏi hẳn.
Tề Hoàn Công lúc về già vẫn còn ham mê tửu sắc. Biển Thƣớc khi yết kiến, nói rằng nhà vua có bệnh ở da thịt, Tề Hoàn Công trả lời trẫm đâu có bệnh gì. Sau 5 ngày, Biển Thƣớc đến yết kiến Tề Hoàn Công, nói rằng bệnh nhà vua đã ở huyết mạch, rồi ít ngày sau lại nói bệnh nhà vua ở trong ruột rồi. Tề Hoàn Công cho rằng thầy thuốc chỉ hay thêu dệt, nên không buồn trả lời. Qua 5 ngày nữa, Biển Thƣớc lại vào yết kiến, thì vừa thấy mặt Tề Hoàn Công đã vội lui ra. Tề Hoàn Công sai ngƣời hỏi tại sao thì Biển Thƣớc nói rằng bệnh ở da thịt còn xoa thuốc đƣợc, bệnh ở huyết mạch còn tiêm thuốc đƣợc, bệnh ở ruột còn uống thuốc đƣợc. Nay bệnh nhà vua đã vào
đến xƣơng tủy rồi, dẫu trời cũng không chữa đƣợc nữa. Quả nhiên, Tề Hoàn Công ốm nặng rồi chết.
Cao Hoãn nƣớc Tần, học trò của Biển Thƣớc, đƣợc phái sang chữa cho Tấn Cảnh Công đang bị đau nặng. Lúc đó, Tấn Cảnh Công bỗng nằm mộng thấy hai đứa bé trong lỗ mũi chui ra. Một đứa nói rằng Cao Hoãn cho thuốc thì chúng ta tất bị thƣơng. Còn đứa kia đáp lại nếu chúng ta tránh về phía trên mạng mỡ, phía dƣới quả tim thì hắn làm gì ta nổi. Quả nhiên, sau khi xem mạch xong, Cao Hoãn nói bệnh này ở phía trên mạng mỡ, phía dƣới quả tim, dẫu tiêm cũng không tới đƣợc, còn chữa làm sao? Tấn Cảnh Công thấy lời nói hợp với mộng, khen Cao Hoãn là danh y, và đành bó tay chịu chết vì mệnh trời.
Chuyện Hoa Đà có trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Tử Vi Lang dịch thuật và Nhà Xuất Bản Xuân Thu, Los Alamitos, Hoa Kỳ ấn hành. Hoa Đà (110-207) ngƣời nƣớc Bái, tự là Nguyên Hóa, từng nổi tiếng là danh y thời Tam Quốc. Ai mắc bệnh, thì Hoa Đà hoặc cho thuốc uống, hoặc mổ chích, hoặc châm cứu, cứ động tay vào là khỏi liền.
Quan Công bị tên bắn vào cánh tay mặt trong khi đang bao vây và công phá Phàn Thành. Vì mũi tên có tẩm thuốc độc Ô Đầu nên tay ấy trở thành tê liệt. Hoa Đà nghe tin vội từ Giang Đông cƣỡi thuyền con tìm đến trại quân, và bảo Quan Công hãy chú tâm vào một việc gì để quên đau trong lúc chữa trị. Quan Công bèn thản nhiên đánh cờ với Mã Lƣơng bằng tay trái, rồi đƣa cánh tay phải ra cho Hoa Đà mổ. Hoa Đà dùng dao nhọn rạch da khoét thịt đến chỗ bị bắn, nạo hết chỗ xƣơng bị ngấm độc đi, lấy thuốc rịt vào rồi lấy chỉ khâu lại, thì cánh tay co duỗi trở lại đƣợc nhƣ thƣờng. Quan Công đã phải khen rằng Hoa Đà quả là một thần y.
Tào Tháo đang khi cho xây điện Kiến Thủy, đầu óc bị đau nhƣ búa bổ. Hoa Đà đƣợc triệu đến bắt mạch xem bệnh. Hoa Đà nói phải cho đại vƣơng uống thang ma phế để mê đi, rồi dùng búa sắc tách xƣơng sọ, rạch vào màng óc lấy cái rải gió ra, thì mới chữa khỏi đƣợc. Tào Tháo nghe xong cho rằng Hoa Đà thân với Quan Công nên thừa cơ hội muốn giết mình, vì tay có thể mổ đƣợc chứ đầu thì mổ làm sao, bèn bắt giam Hoa Đà vào ngục tra khảo. Đƣợc Ngô áp ngục ngày ngày đem cơm rƣợu cung phụng, Hoa Đà báo đáp lại bằng cách tặng bộ Thanh Nang, mong sau này Ngô áp ngục tiếp nối lấy nghề thuốc của mình. Ít ngày sau, Hoa Đà chết trong ngục. Chôn cất Hoa Đà xong, Ngô áp ngục liền bỏ nghề cai ngục, toan mang bộ Thanh Nang để học nghề làm thuốc cứu nhân độ thế, thì thấy vợ đang đem sách ra đốt. Giằng lại đƣợc mấy tờ thì ngƣời vợ nói: Nếu mình có học đƣợc giỏi nhƣ Hoa Đà thì cũng đến chết trong lao tù mà thôi, chứ quý báu cái gì? Chính vì vậy mà đời sau chỉ còn lại mấy thuật nhƣ thiến gà, hoạn lợn trong vài trang sách còn lại!
Về việc này, Mao Tôn Cƣơng đã viết: Hoặc có ngƣời tiếc rằng vì sách Thanh Nang không đƣợc truyền lại, nên đời sau không có bậc thần y chăng? Thƣa rằng luận nhƣ thế không đúng. Sách y khoa còn có thể truyền lại, chứ cái ý của thầy giỏi thì truyền làm sao? Vợ Ngô áp ngục đốt sách thuốc vì sợ rằng sách có thể giết mình, nếu không, để cho ngƣời đời nay đem sách ra học rồi làm thuốc, thì sợ sách sẽ giết ngƣời. Tôi thấy lời bàn của Mao Tôn Cƣơng thật chí lý, có sách cũng cần có thầy chỉ dẫn mới có thể thành ngƣời hữu dụng.
Ngƣ Tiều vấn đáp Y thuật
Nói đến thuốc Nam thuốc Bắc, chúng ta không thể không kể tới sách viết bằng tiếng nôm của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) hay Đồ Chiểu, một thế kỷ sau Hải Thƣợng Lãn Ông. Cụ Đồ Chiểu là ngƣời huyện Bình Dƣơng, đã sáng tác Ngƣ Tiều vấn đáp Y thuật để dậy học trò thuốc cổ truyền. Trong thời Pháp đánh chiếm sáu tỉnh miền Nam, cụ là một nhà nho hữu tâm với thời cuộc và quốc văn, nên đƣợc đồng bào rất mến mộ. Cụ còn là tác giả truyện Lục Vân Tiên, và Dƣơng Từ - Hà Mậu. Sách Ngƣ Tiều vấn đáp Y thuật do Phan Văn Hùm hiệu đính và chú thích, Nhƣợng Tống tăng bình bổ chú, và nhà Xuất Bản Xuân Thu, Los Alamitos, California ấn hành. Trong Lệ Ngôn, Phan Văn Hùm giải thích việc làm của ông là tồn cổ, chƣa phải là việc bảo tồn đông y. Theo ông, cụ Đồ Chiểu có tâm, có chí, có khí, có tiết, một lời soi cả một đời, và thƣờng bầy tỏ nỗi chua xót về thân thế, về nƣớc non. “Ngƣ Tiều gốc để dậy học thuốc tầu, Đông Y lấy gốc nơi Dịch Kinh và Nội Kinh. Nơi Dịch Kinh, Đông Y chỉ mƣợn phƣơng pháp, và Nội Kinh mới là con đƣờng thực hành trị liệu. Nếu quả Nội Kinh là do cuộc vấn đáp giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá mà biên thành sách, thời trải mấy ngàn năm nó chẳng màng vào cuộc tiến triển của khoa học, tự cho mình là chân lý đời đời, ắt lẽ dịch là biến là dời hẳn cũng thành không ngôn hƣ từ vô sở dụng? Gần đây, ngƣời Tầu, và nhất là ngƣời Nhật, thâu thái văn minh Âu Mỹ, có đem Tây Y về so sánh và sửa đổi Đông Y, nhƣng bản thể của Đông Y vẫn không khác. Lối kinh nghiệm vẫn giữ lề xƣa, không trổ ra lối thí nghiệm”. Ông Hùm nói nghiên cứu đã trên mƣời năm mà chƣa hiểu "khí" là gì cả. Trong Tăng Bình, ông nói khác với Tây Y lấy khoa học làm cơ sở, Đông Y nƣơng tựa vào huyền học hay siêu hình học, mong tìm một chân lý đơn giản thống nhất để giải thích mọi sự trong đời. Bởi vậy mà hai chữ Âm Dƣơng căn bản trong huyền học đã thấy áp dụng trong mọi chuyện liên quan đến việc trị liệu. Tôi không dám lạm bàn về những nguyên lý, nhƣng chỉ đọc lời Tựa của Nhƣợng Tống đã phải kính cẩn và bồi hồi rồi.
Nhƣợng Tống Hoàng Phạm Trân, một hậu duệ của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, một nhà cách mạng thông nho và tri y, cho rằng “Nguyễn Đình Chiểu đem tất cả khí tiết, và một phần học vấn trong đời mà nhờ Ngƣ Tiều gửi lại làm quà cho thế hệ sau. Vất hẳn phần y thuật và phần cổ văn ra, nếu chúng ta lấy đƣợc một chút tinh thần cứng cáp trẻ trai của tác giả, thì món qùa ấy quả đã là vô giá”.
Những thắc mắc tạm nêu ra trong những dòng trên của nhà cách mạng kiêm học giả và triết gia Phan Văn Hùm từ thời ấy đến nay, nghĩa là trên nửa thế kỷ, hầu nhƣ còn nguyên vẹn.
Phƣơng Đông và phƣơng Tây
Chúng ta hãy kể sơ lƣợc về mấy bác sĩ ngƣời Hi Lạp khai phá ra Tây Y. Ông tổ Hippocrates (460-357 TTL) áp dụng luận lý và lý trí trong các thuyết giảng về y học, đƣợc viết lại bởi đệ tử trong nhiều thế kỷ kế tiếp. Ba châm ngôn của ông còn đúng đến bây giờ là trƣớc hết không gây tổn hại, thứ đến thuốc là thức ăn và thức ăn là thuốc, rồi đến thân thể tự chữa lành. Dioscorides ( ~ 65) ghi lại các thuốc thời ông trong materia medica, mà 80% là dƣợc thảo, 10% là kim loại, và 10% gốc là động vật. Claudius Galen (131-200), nổi danh tại La Mã, để lại nhiều lý thuyết về thể dịch và cách sử dụng dƣợc liệu. Vì những khảo cứu về dƣợc thảo, Galen đã sáng lập ra ngành Dƣợc Học mang tên ông.
Kể từ thời đại Lý-trí, khoảng năm trăm năm về trƣớc, cái nhìn của con ngƣời vào vũ trụ và vào bản thể của mình đƣợc tìm hiểu cặn kẽ theo khoa học. Thế mà nhiều vấn đề nhân sinh lại không thể dùng khoa học mà giải quyết thỏa đáng đƣợc. Nỗi lo về dân số của Malthus (1766-1834) tới
nay còn nguyên vẹn, tuy từ đó đã có nhiều kế hoạch về gia đình. Chỉ cần thêm mƣời, mƣời lăm năm nữa, thế giới sẽ đầy chật 8 tỷ ngƣời. Pavlow (1849-1936), ông tổ của ngành Sinh Lý Học Thực Nghiệm với các thí nghiệm về phản xạ có điều kiện, thay vì mang lại đƣợc sự hoàn bị của trí óc, đã chỉ đƣa đến những cuộc tẩy não, những buổi tự thú trong các trại tập trung. Phải tới khi gần từ trần, Pavlow mới thấy rằng con đƣờng mình theo đuổi càng ngày càng dài ra, khi nói rằng ngƣời dân Nga còn cần có tôn giáo và lòng tin vào kiếp sống sau. Cứu cánh của con ngƣời vẫn chƣa đƣợc soi sáng, dù Le Comte de Noüy (1883-1947) đã chứng minh bằng tính sác xuất sự có mặt của thƣợng đế, khi lập ra thuyết viễn đích và khi giải thích về định mệnh con ngƣời.
Ngƣời là một con vật biết suy nghĩ theo Bacon (1561-1626), hay một cây sậy có tƣ tƣởng thời Pascal (1623-1662), nay trở thành một bộ máy biết suy nghĩ. Trong thời đại đầy thử thách này, phẩm chất và vận tốc trở thành hai yếu tố quan trọng hàng đầu. Cùng với sự thông minh nhân tạo, những tiến bộ về đủ mọi ngành khoa học đã làm thay đổi đến tận gốc các xã hội hiện tại. Tuy nhiên nền văn minh cơ khí còn có quá nhiều khuyết điểm. Khi Tin Học đem lại nhiều kiến thức cần thiết cho cuộc sống mới, thì Mạng Lƣới Toàn Cầu cũng xuất hiện một số tác dụng vị lợi nguy hại, tin tức sai lạc hay chỉ dẫn vô bằng. Nếu những phƣơng tiện dùng để cứu sống con ngƣời ngày nay tinh vi bao nhiêu, thì những khả năng dùng để hủy diệt con ngƣời lại mãnh liệt bấy nhiêu. Các thực hiện nhân tạo càng vĩ đại, thì sự ô nhiễm thiên nhiên càng gia tăng. Thật là nghịch lý, không gian cho sinh vật thì hữu hạn mà con ngƣời cố nới rộng thêm ra, và thời gian thì vô cùng mà con ngƣời hấp tấp vội vã nhƣ cố thu ngắn lại. Cho tới nay, Vật Lý chƣa xác định đƣợc quá khứ, hiện tại, vị lai theo không-thời-gian, Toán Học còn mơ hồ trong nhiều nghịch lý và các con số cực đại cực tiểu, Triết Học đang tìm chỗ đứng khả dụng trong các sinh hoạt hiện đại. Con ngƣời vẫn chƣa hiểu đƣợc những động lực đối kháng tạo ra cảnh trần gian này để có thể hóa giải các động lực đó, và tới một cuộc sống an lành hòa hài.
Với ngành y dƣợc Tây phƣơng bây giờ thật tân tiến và kỳ diệu, ngƣời ta thấy còn cần những bộ môn trị liệu cổ xƣa từ Đông phƣơng, nhƣ Châm Cứu, Chỉnh Xƣơng, Tẩm Quất, Khí Công, và Dƣợc phẩm luân phiên hay bổ túc. Tại Hoa Kỳ, National Center for Complementary and Alternative Medicine dùng cả trăm triệu Mỹ kim để nghiên cứu vấn đề này, theo khoa học chính xác. Thời nay, nhiều vị trong giới y tế tin rằng đông y và tây y có thể bổ túc lẫn nhau, trong một y khoa hợp nhất, hay đúng ra là một y khoa liên hợp. Vấn đề thật là phức tạp. Theo thiển ý thì hai nền y khoa này dựa vào những lý thuyết hoàn toàn khác biệt, dùng âm dƣơng ngũ hành để giải nghĩa phƣơng cách chữa trị theo tây y cũng khó khăn nhƣ dùng các phản ứng dƣợc lực hay sinh học phân tử để chứng minh tinh khí thần trong đông y. Tuy nhiên, vì dƣợc liệu đƣợc dùng trong cả hai nền y học có khi cho một tác dụng tƣơng đƣơng bởi có cùng một hoạt chất, chúng ta cũng hi vọng dùng đƣợc những phƣơng pháp khoa học thực nghiệm hiện đại để kiểm chứng hay phát hiện thêm giá trị của các phƣơng thuốc phức tạp cổ truyền.
12 tháng 8, 2003
CHƢƠNG NĂM
Tháng Ngày ở Thƣợng Phú
Vào đầu tháng 8 năm 1949, tôi rời tỉnh Hƣng Yên để sang Thái Bình theo học ban tú tài trƣờng trung học Lê Quí Ðôn làng Thƣợng Phú. Thu đang trở về với cái se lạnh mênh mông, và cảnh
vật hiện ra thật mờ ảo, lẫn chút vẻ trong sáng trời chiều của một bức tranh thủy mạc. Lòng nặng trĩu nỗi lo âu của một học sinh nhỏ tuổi thời chinh chiến, tôi đeo ba lô độc hành trên đƣờng ruộng, xuyên qua những cánh đồng thơm mùa lúa chín. Bƣớc chân lặng lẽ mà vẫn làm kinh động những đàn cào cào, châu chấu, chúng vụt bay rồi đáp xuống rào rào nhƣ những chiếc lá vàng rơi rụng sau một cơn gió lốc xoáy lên cao. Tới một bến đò thì trời đã xế chiều, tôi tạt vào một quán nƣớc nghỉ chân, ăn uống qua loa và đợi trời tối thì xuống đò dọc để sang chợ Ðống Năm, Thái Bình. Cũng nhƣ Chợ Ðại, Cống Thần, Ðống Năm là một địa danh đƣợc nhiều dân tản cƣ vùng Khu Ba biết tới trong những năm đầu kháng chiến. Tại nơi này, hàng quán la liệt, ngoài các món ăn nhậu khoái khẩu của địa phƣơng, còn có đủ các vật dụng xa xỉ mang từ Hà Nội ra, bằng những đƣờng dây buôn lậu.
Ðò dọc chỉ đi ban đêm để tránh phi cơ giặc bắn phá, là những con thuyền chở chừng hai ba chục hành khách, chạy men theo các sông lạch. Thuyền có một ngƣời cầm sào để khi cần thì đẩy thuyền ra giữa dòng hay điều khiển hƣớng đi, và đƣợc kéo bởi hai ngƣời đàn ông lực lƣỡng đi kèm hai bên bờ, vai đeo dây chão cột vào phía trƣớc thuyền. Hành khách nằm ngổn ngang trong khoang thuyền trải chiếu, có mui tre che ở giữa. Tôi đắp một chăn dạ mỏng, nằm dựa đầu lên chiếc ba lô, trong chứa lỉnh kỉnh đủ thứ, từ quần áo, dầu con hổ và thuốc cảm cúm, khăn mặt, bàn chải và thuốc đánh răng, đến sách vở và những quyển tập học trò. Tuy rằng trên sông về đêm trời trở lạnh, tôi vẫn cảm thấy đủ ấm áp, vì có mặc trên mình một chiếc áo trấn thủ mẹ tôi đặt may bằng vải chúc bâu đen, nhồi bông và máy theo hình quả trám. Nằm ngủ gà ngủ vịt với tiếng sóng vỗ đều đều và nhè nhẹ vào mạn thuyền, thỉnh thoảng tôi lại giật mình nghĩ đến những chuyện đâu đâu, nhƣ nếu đau bụng bất tử lúc này, hay nếu có ngƣời giật mất cái chăn đang đắp thì phải làm sao? Và lại nghĩ đến các câu chuyện đò dọc đủ vẻ hỉ nộ ai lạc, thƣờng đƣợc kể trong giới buôn bán nơi bến nƣớc sông hồ. Một bàn tay anh chị lợi dụng đêm khuya để mò mẫm đã trở thành đề tài câu chuyện chiếc đồng hồ dạ quang biết bò...Rồi liên tƣởng đến bài hát Bình Hồ một đêm trăng, một làng trù phú mà tôi có dịp tá túc mấy ngày trên đƣờng tản cƣ:
Ánh trăng mùa ngập hồn chinh biên,
Gió xóm quê gửi lời lưu luyến.
Buông mái chèo khuấy dòng tâm tư,
Lá rơi rơi về bến đâu xưa.
Tha phương từng đoàn thuyền xuôi đêm,
Vốn liếng trơn chỉ còn niềm tin....
Phải, chỉ còn một niềm tin đem lại ý nghĩa của cuộc sống hôm nay, để mơ mộng đến Những hình bóng qua mà tôi đƣợc nghe tại huyện Ân Thi, Hƣng Yên. Dạo ấy, tôi còn học ở trƣờng trung học Tiền Phong làng Bình Lăng với giáo sƣ Nguyễn Văn Ðỉnh, và thi ở trƣờng trung học Nguyễn Thiện Thuật làng Bích Tràng mà hiệu trƣởng là giáo sƣ Chu Duy Khánh. Bài hát có những câu sau:
Ðàn thu trầm dâng khúc ca sông hồ,
Mấy đường tơ biếc rung lời năm xưa.
Mùa trăng, hàng dương liễu xanh đôi bờ,
Ai về tôi nhắn một vài ý thơ....
Tà áo nhuốm bao mầu thời gian,
Buồn xa vắng nghe chiều than van.
Từng đôi mắt nụ cười vương hương,
Trên bến đời xanh thắm muôn dường....
Năm xưa nhắc nhớ lá vàng cuốn muôn phương,
Một trời thắm gió.
Tới năm nay,
Ðường đời đầy gót phong sương,
Bao lần, mơ tìm theo bóng ai...
Cũng có thể chỉ có hình bóng thôi, tìm đâu ra ngƣời thật mà mơ với mộng? Nhƣng với tiếng đàn của Nguyễn Thế Thâu hay Bùi Xuân Lân thuở ấy, ai nghe mà không mơ?
Vào tảng sáng thì thuyền tới Ðống Năm. Ở đây có trƣờng Quang Trung là trƣờng tƣ có ban chuyên khoa. Bác tôi, giáo sƣ Nguyễn Tƣờng Phƣợng, ngƣời đã truyền cho tôi môn Việt văn, và một ngƣời bạn thân của gia đình, giáo sƣ triết học Trần Mộng Chu, đang dậy ở trƣờng này. Tôi vào một quán chợ ăn sáng và uống cà phê, nơi đây có phở tái, phở xào, phở áp chảo và đủ thức điểm tâm. Thực khách có nhiều ngƣời hút thuốc, ngoài thuốc lá ngoại quốc nhƣ Camel, Philip Morris, còn có thuốc lá nội hóa Bắc Lệ, mà khói mang theo mùi va ni đặc biệt. Sau này có đôi lần tôi đang ăn phải ù té bỏ chạy khỏi chợ, vì tầu bay địch sà xuống. May mà không bị ăn bom đạn lần nào. Nhớ khi còn ở Gạo Nam, trông thấy chợ Thi gần đấy bị ném bom, làm cả trăm ngƣời chết hay bị thƣơng, và những cáng tải thƣơng lầm lũi chạy trên đƣờng quê, để nhỏ xuống mặt đất những giọt máu đỏ đặc loang lổ, tôi thực sợ hãi không bút nào tả xiết.
Từ Ðống Năm đi bộ chừng một tiếng thì về phủ Thái Ninh, rồi tới làng Thƣợng Phú, là nơi mà đình làng đƣợc đặt làm trƣờng trung học Lê Quí Ðôn. Ðình có nhiều gian, mỗi gian có thể ngăn thành những lớp học bằng các phên liếp. Tại Liên Khu Ba hồi đó, Lê Quí Ðôn là trƣờng trung học công, có ban chuyên khoa. Ban giảng huấn rất nổi danh và có nhiều con cái theo học tại trƣờng. Hiệu trƣởng là giáo sƣ Vũ Chứ, có các anh Vũ Ðạm, Vũ Hoạt, chị Vũ Xuân Chiêm.
Giáo sƣ Tăng Xuân An dậy môn Pháp văn, con thầy là chị Tăng Thị Tuyết. Giáo sƣ Vũ Ngô Xán có các chị Vũ Nhất Thanh, Vũ Nhị Thủy. Ðƣợc tiếng là đẹp và nhiều chàng trai mơ tƣởng là các chị Tăng Thị Tuyết, Vũ Nhị Thủy...
Học trò có thể ở trọ tại phố phủ hay tại làng, vì từ phủ vào làng chỉ độ một hai cây số. Tôi và mấy ngƣời bạn, My, Bình, Mạnh, ở trọ tại nhà một học sinh cùng lớp của làng này và đã có gia đình. Làng Thƣợng Phú là một làng giầu có, rất nhiều nhà gạch lợp ngói, và đƣờng trong làng đều lát gạch đỏ từ đầu đến cuối ngõ. Xế nhà chúng tôi trọ học là nhà ông phán Phụng, có gia đình giáo sƣ Tăng Xuân An ở nhờ. Anh Phạm Công Lăng, một ngƣời bạn thân cùng lớp, cũng ở nhà này thì phải.
Tôi học môn lý hóa với giáo sƣ Vũ Lai Chƣơng. Thầy là một nhà mô phạm hiếm có, giảng bài kỹ lƣỡng, viết trên bảng đen thật rõ ràng những công thức vật lý hay phản ứng hóa học. Tôi thƣờng đƣợc thầy gọi lên làm một vài con tính lý hóa. Thầy Ðính dậy toán học. Tôi không nhớ những gì đã đƣợc học, tuy toán là môn tôi sở trƣờng. Thầy An dậy văn phạm và văn chƣơng tiếng Pháp, là một giáo sƣ giỏi, tính tình rất hiền hậu. Tôi đã học đƣợc ở thầy biết bao nhiêu kiến thức về thi, văn, tuồng, kịch... Pháp văn là môn tôi vốn ƣa thích, mà cũng là môn tôi thừa hƣởng nhiều sự dậy dỗ của bố tôi. Có những bài luận tôi viết đƣợc thầy mang đọc cho cả lớp nghe, nhƣ bài tả tết trung thu tại Thƣợng Phú. Tôi không nhớ đƣợc những ý và cảnh gì tôi đã diễn tả, khi mà nơi đây, đang thời kháng chiến, sự thiếu thốn cái mặc, nơi ăn, chốn ở đã thành cùng cực. Ðâu còn những
con giống đủ loại đủ mầu đủ sắc? Ðâu còn ông tiến sĩ giấy xinh xinh, con thỏ ngọc làm bằng trái bƣởi phủ đính bông gòn, chiếc tầu thủy chạy bằng dầu hay nến trong chậu nƣớc? Và nhất là đâu còn những chiếc bánh dẻo, bánh nƣớng của một tiệm Tầu nơi thành phố? Nhƣng vào mùa cƣới này, mùa của cốm thơm và hồng mềm nơi trần thế, các trẻ em vẫn dung dăng dung dẻ, họp đàn vui chơi hồn nhiên, chẳng cần biết khói lửa đang tràn ngập quê hƣơng. Mà trăng rằm tháng tám nhƣ những ngày xửa ngày xƣa, vẫn hiện ra thật tròn và tuyệt đẹp, đi lững thững trên bầu trời trong vắt, tỏa ánh sáng êm dịu tràn ngập không gian. Chú cuội còn ngồi thơ thẩn dƣới gốc đa, biết đâu chả đang mơ mộng đƣợc nhập đoàn với tuổi trẻ vô tƣ đất Việt, để rƣớc những đèn xếp, đèn kéo quân, đèn ông sao, đèn tầu bay và để ca những bài hát líu lo về chị Hằng?
Lớp đệ tam chuyên khoa chúng tôi gần năm chục học sinh. Tôi còn nhớ các bạn Phạm Công Lăng, Phạm Xuân My, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Xuân Soạn, Bình nhỏ, Bình lớn, Bá, Thơm, Tính, Tình, Quý, Triết...Bình nhỏ giỏi Pháp văn, chắc vì anh thông thạo tiếng La tinh. Chung thì học rất gạo, không bỏ sót một bài nào. Lăng thì tài tử, vừa học vừa chơi. Bá và Thơm trong giờ học còn liếc xuống lớp dƣới, vẽ chân dung các nữ sinh mình yêu trộm nhớ thầm. My là ngƣời bạn thân nhất của tôi thời đó, ngƣời nhỏ nhắn, trắng trẻo, tiếng nói rất thanh, khôn ngoan và từng trải việc đời. Sau này, về lại Hà Nội, My trở thành một sĩ quan quốc gia, thƣờng gửi cho tôi những bức ảnh mái tranh, thôn xóm, cây cỏ, sông lạch, chụp từ miền trăng nƣớc Ðồng Nai.
Cơm tại nhà trọ thật là thanh đạm. Thịt cá rất ít, thƣờng thịt heo thì già, dai và khó nuốt. Món ăn chỉ nhiều rau đậu, mà rau muống vùng này đỏ quạch, quả chấp đƣợc dùng thay chanh thì vị lại đắng. Vào những ngày sáng trăng, sau bữa tối, chúng tôi hay tản bộ ra phố phủ, để ăn xôi chè, uống cà phê, trứng đƣờng. Ở đây có một quán giải khát, nghe nói là nơi đã xẩy ra câu chuyện làm đề tài cho Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan. Phủ Thái Ninh, nếu nhƣ vậy, cũng là nơi có ông phủ cấm cô con gái yêu lấy ngƣời học trò nghèo con một bà góa bán xôi chè, đến nỗi nàng có mang với chàng mà còn bị ép uống thuốc phá thai rồi chết. Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực nổi danh thời tiền chiến, với Lệ Dung, Cô giáo Minh, Tắt lửa lòng, Thanh đạm..., ngƣời cùng quê với tôi ở Xuân Cầu. Ông là một ngƣời từng tham gia Quốc Dân Ðảng của Nguyễn Thái Học, rồi sau gia nhập cộng sản. Từ đó về sau, ông cũng chẳng sáng tác đƣợc gì hay ho trong một xã hội viết lách rập khuôn. Và hình nhƣ ngày xa xƣa, Thái Ninh còn có tên là Thanh Quan, mà bà Huyện đã để lại cho đời sau những bài thơ hoài cổ tuyệt tác?
Thời đó phố phủ có nhiều sinh hoạt văn nghệ. Ban Kim Chung với Phụng Khánh, Bích Hợp trình diễn thƣờng đêm, lúc nào rạp cũng chật ních khán giả. Cô Mai, em gái ông phán Phụng, mà tôi coi nhƣ một bà chị, hay phải đến lấy vé vào trƣớc để giữ cho tôi đƣợc chỗ ngồi tốt. Ngoài những kịch, tuồng, còn có những màn ca hát. Khán giả đặc biệt ƣa thích những bài hát trữ tình của Ngọc Bích nhƣ Mộng Chiều Xuân, của Phạm Duy nhƣ Bên Cầu Biên Giới, của Tô Hải nhƣ Nụ Cƣời Sơn Cƣớc, của Tô Vũ nhƣ Tạ Từ, Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mƣa, của Tử Phác nhƣ Tiếng Hát Quay Tơ, của Việt Lang nhƣ Tình Quê Hƣơng, Ðoàn Quân Ði... Nhất là đƣợc nghe Ngọc Dậu, một đào thƣơng tuổi chừng mƣời ba, mƣời bốn, hát lên những lời bay bƣớm sau đây:
Nhà em ở tận nẻo xa,
Có cây bên suối,
Có nhà sàn bương.
Quanh co độ mấy thôi đường,
Men rừng, men núi, men nương, men đồi...
Hôm qua anh đến nhà em,
Thấy đôi mắt đẹp,
Anh thèm muốn xin...
Hay là:
Ðêm qua gió lọt song đào
Ðể cho
Ðể cho hương ấm
Lọt vào phòng em...
Có một chiều chủ nhật, ngƣời ta xử bắn một tên Việt gian tại sân vận động phủ Thái Ninh. Vì tò mò, tôi cùng mấy ngƣời bạn rủ nhau đi xem. Dân chúng kéo đến đầy sân vận động, có chừng năm sáu trăm ngƣời. Nơi thƣờng dùng làm khán đài, đƣợc đặt một chiếc bàn với mấy cái ghế cho các viên chức xử án, xa xa là cây cột gỗ chôn xuống đất, cạnh bên một cái quan tài bằng gỗ mộc. Tội nhân, một thanh niên có vẻ trí thức, mặc áo khoác đen, đƣợc dẫn ra pháp trƣờng, bị bịt mắt và trói vào cột. Ông tòa đọc bản án qua chiếc loa phóng thanh. Rồi tiếng lên đạn của một tiểu đội hành quyết dàn hàng ngang, tiếp theo là những tiếng nổ chát chúa từ các khẩu súng trƣờng. Và ngƣời tử tội rùng mình, đầu nghẹo sang một bên. Sau tiếng súng đặc ân của ngƣời đội trƣởng, không hiểu vì lý do gì, đám ngƣời đi xem bỗng tràn lên phía trƣớc. Chúng tôi đang ngơ ngác không biết có nên theo lên xem không thì có một vài ngƣời hô to mấy tiếng máy bay, máy bay. Mọi ngƣời không ai bảo ai tranh nhau chạy thoát thân khỏi sân vận động. Thật là tài tình, nghe dọa, đám đông chƣa thấy máy bay đã tự giải tán dễ dàng vì sợ hãi. Nghe đâu theo yêu cầu, ngƣời tử tội đƣợc ăn một bữa cơm tầu và đƣợc nghe Bích Hợp hát trƣớc khi thọ hình. Thật là một câu chuyện quá buồn. Trở về một quán nƣớc để ăn xôi chè đêm đó, một anh học sinh cùng lớp đã nhận lời thách thức, dám ra sân vận động tìm mang về sợi dây thừng dùng để cột ngƣời tử tù cho chúng bạn xem. Ngƣời xƣa đã nói đúng, nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò.
Ôi, trong thời buổi loạn lạc và nhiễu nhƣơng hiện tại, những bản án tử hình nhƣ trên có sự có mặt của công lý hay không? Tôi không tin là có. Nhƣng hồi đó, luật sƣ Nguyễn Mạnh Tƣờng thƣờng xuất hiện để bào chữa cho bị can tại các phiên tòa dân sự Liên Khu Ba ở phủ Thái Ninh. Luật sƣ Tƣờng đã nổi danh trong nƣớc vì đậu cả hai bằng Tiến sĩ Luật lẫn Văn Chƣơng tại Pháp lúc mới 22 tuổi. Thông thƣờng nếu có dịp, chúng tôi cũng rủ nhau đi nghe những lời biện hộ của ông. Với những vụ án đủ loại, tôi lấy làm thích thú đƣợc nghe những lý luận đanh thép và tài hùng biện có một không hai của ông. Sau này, khi di cƣ vào Nam, tôi đƣợc biết ông liên hệ đến nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, và bài Những sai lầm trong chính sách cải cách ruộng đất đã làm tôi tâm phục ông hơn. Ông thật là một kẻ sĩ đáng kính trọng của Việt Nam. Gần đây, đọc quyển Un excommunié của ông, tôi còn cảm thấy xót xa cho một nhân vật sáng giá của đất nƣớc..
Tại Thƣợng Phú, tôi còn có một kỷ niệm thật đẹp, một chuyện kỳ ngộ. Tôi không hiểu tại sao, và vì lý do gì, tôi đƣợc quen thân với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Tôi đƣợc biết tiếng ông nhƣ một thủ lãnh của Thanh Niên Tiền Phong, một chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến Nam Bộ, hay một Bộ Trƣởng Y tế. Lúc đó, ông có nhiệm vụ giảng dậy về chính trị cho các sĩ quan cao cấp cộng sản tại đây. Ông thƣờng đi với bà vợ ngƣời Việt gốc Hoa, và một sĩ quan phụ tá mang quân hàm Trung tá. Ông coi tôi nhƣ một ngƣời bạn tuổi nhỏ, nhƣng gần nhƣ chƣa bao giờ chúng tôi bàn tán hay nói đến những chuyện về chính trị, hoặc về gia đình. Ông bà bác sĩ Thạch hay rủ tôi đi ăn chè, uống cà phê, xem kịch... Có lúc cả buổi chúng tôi ngồi nói chuyện trên trời dƣới biển, để quên đi những nỗi nhọc nhằn thời tao loạn, mà không một ai không bị ràng buộc vào. Tôi thì
gia đình nay phân tán ở nhiều nơi, lâu lắm mới có chút ít tin tức. Chị Xuân Nhân của tôi, một nữ sinh xuất sắc của trƣờng Ðồng Khánh Hà Nội, đã ra đi công tác ở Việt Bắc từ ngày đầu kháng chiến. Bố tôi còn làm việc tại Hƣng Yên, có hai đứa em trai đi theo. Mẹ tôi và bốn đứa em nhỏ tá túc nơi quê ngoại Kim Ngƣu, nay đã trở thành vùng bị tạm chiếm.
Bác sĩ Thạch một hôm nói với tôi:
-“Chú học giỏi thì chỉ nên chú tâm vào việc học, chuyện chính trị có nhiều điều bẩn lắm”.
Tôi không có khiếu mà cũng chẳng ƣa gì những công việc về chính trị. Tuy nhiên, từ hồi còn trẻ, tôi đã mê đọc loại sách tiểu thuyết lịch sử ký sự, nhƣ Ðông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, và các tài tử thƣ của Trung Hoa nhƣ Tam Quốc Chí, Thủy Hử.. để xem cách ngƣời xƣa xử thế ra sao với những sự biến chuyển khó lƣờng trƣớc đƣợc của dòng đời. Một đôi lần tôi đƣợc theo đi dự lớp bác sĩ Thạch giảng dậy. Tôi thực sự đã bị thu hút bởi tài diễn thuyết của ông, với lời nói tâm huyết và đanh thép, với lối lý luận khoa học, mang theo những ý tƣởng thật cao đẹp. Ðến bây giờ, tôi vẫn còn ngƣỡng mộ ông, một kẻ sĩ đáng kính mến và hiếm có của đất nƣớc. Vào tháng 11 năm 1968, trong khi đang đi thăm viếng các đại học Hoa Kỳ, tôi bàng hoàng và xúc động khi nghe tin ông bị tử nạn trên chiến trƣờng miền Nam vì B52. Một bác sĩ tài năng và đức độ của Việt Nam đã nằm xuống...
Trung tá phụ tá bác sĩ Thạch là một ngƣời ít nói. Ông còn trẻ mà tóc đã muối tiêu. Ông tâm sự với tôi ông là một đảng viên Quốc Dân Ðảng, từng mang tiền sang Tầu để tìm cách mua máy bay cho Vệ quốc quân. Ông có vợ và một đứa con nhỏ mà đã mấy năm không gặp mặt. Thỉnh thoảng, lúc buồn, ông lại ngâm cho tôi nghe vài câu thơ:
Cất bước ra đi chiều năm xưa,
Bụi đường trường chinh pha mái tóc...
Phải, trên đƣờng dài kháng chiến, nhiều ngƣời con dân đành quên cả đƣờng về... Mùa đông lại đến nơi này, đồng ruộng có chỗ đất khô nứt nẻ, đây đó còn trơ trọi một vài cọng rạ. Lác đác cũng có vài đám cỏ dại, bụi rau muối vị mặn, khóm rau khúc xanh để làm bánh. Thƣờng nhiều ngày đẹp, bầu trời trong nhẹ, điểm vài áng mây trắng nhƣ bông gòn bay lờ lững. Ðôi lúc trời mƣa phùn, có những làn gió lạnh buốt xƣơng chợt đến, nhẹ nhàng luồn qua các khóm cây im vắng bóng chim xanh và các rặng tre đầy cò trắng đậu ủ rũ. Có ngày mây đen kéo đến thật dầy đặc, phủ kín một vùng từ làn ngang thẳng tắp xuống tận chân trời nhƣ một trƣờng thành xám ngắt, làm bầu trời trông tƣởng nhƣ sa xuống thấp. Tin hay không thì mây thành đó đã báo hiệu những cảnh ly loạn liên tục sẽ lan đến vùng này. Bên Tầu, cộng sản mới thắng lợi, đẩy phe quốc gia ra khỏi lục địa. Có thể vì thế, Việt Nam hy vọng sắp sửa đƣợc Trung cộng tăng viện để đẩy kháng chiến đến thành công rồi chăng? Chúng tôi vừa thi xong đệ nhất lục cá nguyệt, và lớp học đã sửa soạn làm bích báo mùa xuân. Tôi có linh cảm tình hình không ổn, không khí chiến tranh nhƣ bao phủ nơi hậu phƣơng này, nên chẳng tha thiết gì đến việc thi cử. Tuy từng đậu thủ khoa kỳ thi Sơ học Bổ túc tỉnh Hải Dƣơng, thủ khoa kỳ thi Trung học Phổ thông tỉnh Hƣng Yên, tôi đã bỏ không thi rất nhiều môn học, mà chỉ thi có Pháp văn, Toán, Lý Hóa là những môn ƣa thích. Tôi không đƣợc xếp thứ hạng trong đệ nhất lục cá nguyệt, nhƣng định bụng rồi ra sẽ học hành cẩn thận. Nhà trƣờng thời gian này bỗng nhộn nhịp những sinh hoạt tuyên truyền của đoàn Văn công Hồng quân Trung Hoa, của đoàn Văn nghệ Liên Khu Ba. Tối nào cũng có trình diễn ca vũ nhạc kịch, và đôi khi chúng tôi cũng đƣợc hát những bản hợp ca ba bè nhƣ Trƣờng Ca Sông Lô của Văn Cao, Ngƣời Du Kích Sông Thao của Ðỗ Nhuận. Ðặc biệt là bài Tiến về Hà Nội mang theo bao ƣớc vọng:
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về,
Như loài hoa đón chào
Mà năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh.
Chúng ta ươm lại hoa,
Sắc không phai ngày xa,
Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu...
Mỗi đêm khi nghe bài Tiến quân ca sắt máu mở đầu buổi sinh hoạt văn nghệ, chúng tôi nhƣ bị kích động, lòng sôi sục muốn xông ngay ra xa trƣờng. Tin nhà trƣờng phải tạm đóng cửa, học sinh các lớp chuyên khoa sẽ đƣợc theo học lớp lục quân Trần Quốc Tuấn, đã đƣợc loan ra. Phong trào xung phong tòng quân đƣợc cổ võ và vận động từ đấy.
Là một học sinh nhỏ tuổi nhất trong lớp, tôi băn khoăn lo lắng làm sao đủ sức khỏe để học tập quân sự tại Việt Bắc. Tôi nên làm gì bây giờ? Tôi tìm gặp bác sĩ Thạch và ông bảo tôi:
-“Chú khỏi phải xin xung phong tòng quân. Ðể anh giới thiệu chú vào làm giáo sƣ trƣờng Thiếu sinh quân Liên Khu Ba, rồi ra chú có thì giờ học thêm”.
Trở về nhà trọ, Bình thấy tôi có giấy giới thiệu cũng muốn tôi xin cho anh đi cùng. Tôi lại đƣợc bác sĩ Thạch chấp thuận cho Bình cùng đi, để chúng tôi đỡ lẻ loi. Lúc này, ngƣời ta bắt đầu lập danh sách những học sinh xung phong tòng quân. Trong một buổi họp, vài ngƣời lớp tôi dơ tay xung phong, dần dần kéo theo cả lớp. Những học sinh ra đi chỉ có mấy ngày sửa soạn rồi phải lên đƣờng. Ai nấy sự âu lo hiện ra nét mặt. Phạm Gia Chung mà gia đình hình nhƣ đã hồi cƣ về Hà Nội, sợ đến mất ăn mất ngủ. Tôi đã gửi gấm mấy dân buôn lậu quen biết để dẫn Chung theo về tề. Chung vội vã ra đi ngay trong đêm, bỏ lại cả những sách vở mà anh thƣờng giữ nhƣ bảo vật. Rồi mấy hôm sau tới buổi lễ tiễn đƣa, mỗi chiến binh tƣơng lai mang theo một khăn tay do nữ sinh của trƣờng thêu tặng làm kỷ niệm. Tôi không dám đi dự cảnh chia tay bịn rịn này. Cảnh biệt ly mà từ đây kẻ ở lại buồn tủi, ngƣời ra đi có mong chi ngày về...
Trƣờng Thiếu sinh quân Liên Khu Ba nằm trong một làng cách Thƣợng Phú chừng hơn chục cây số. Vào một buổi chiều nhạt nắng, Bình và tôi đến trình diện vị chỉ huy là Trung tá Xuân, một sĩ quan cao, gầy, da ngăm ngăm đen. Chúng tôi đƣợc nhận làm giáo sƣ toán lý hóa, mang phù hiệu cấp úy, ngoài việc ăn mặc do trƣờng lo liệu, sẽ có tiền tiêu vặt hàng tháng. Rồi chúng tôi đƣợc Trung tá Xuân đƣa đi thăm trƣờng. Chỗ nào cũng ngăn nắp, trật tự, kỷ luật nhƣ một trại lính. Có cả ngàn thiếu sinh, nhiều em tuổi chắc không kém tôi là bao. Có lớp các em đang học, có lớp các em đang ca hát, có chỗ các em làm bếp, giặt giũ, vui vẻ chơi đùa nhộn nhịp. Tôi nhƣ đi lạc vào một thế giới khác lạ. Chúng tôi ra về, hẹn tuần sau sẽ đến nhận việc.
Ngày hẹn rồi cũng đến. Ba lô trên vai, Bình và tôi lặng lẽ đi bên nhau qua mấy cánh đồng để đến nơi nhận công tác. Sáng mùa đông hôm ấy còn đầy sƣơng móc ẩm ƣớt, nhƣng tới trƣa ánh nắng chiếu thẳng trên đỉnh đầu, trời trở nên oi bức khó chịu. Chúng tôi bảo nhau tạm nghỉ tại đầu làng, vì qua cổng là tới trƣờng Thiếu sinh quân. Chúng tôi nằm dƣới bóng mát cây đa cổ thụ, gối đầu lên những rễ cây chằng chịt bò lan mặt đất. Trời xanh trong vắt, không một đám mây, không một ngọn gió. Nhƣng sao tâm tƣ tôi thì đầy bâng khuâng lo lắng, bao xao xuyến ngổn ngang. Tƣơng lai mình sẽ ra sao khi bƣớc chân qua cổng làng này? Muốn suy nghĩ mà chẳng nghĩ đƣợc gì. Không biết tại sao, lòng thƣơng nhớ gia đình bỗng hiện ra hay là tinh thần tiểu tƣ sản chợt nổi dậy. Nhớ ông bố lúc nào cũng lo dậy dỗ cho tám anh chị em chúng tôi nên ngƣời. Nhớ bà mẹ
sớm ngày buôn bán tần tảo để gửi cho chồng con từng cái bút máy, đồng hồ đeo tay, chai dầu tây, đôi dép cao su con hổ, hay mấy thƣớc vải kaki. Mẹ tôi còn bắt tôi phải đeo chiếc nhẫn cƣới một chỉ vàng, mở ra bấm lại đƣợc, phòng khi cần thì bán đi mà sống.
Nhớ ngƣời chị còn phiêu bạt phƣơng xa, nhớ các em đã bao lâu không gặp. Nhớ bà ngoại thân thƣơng, nhớ họ hàng làng nƣớc tại Xuân Cầu, Kim Ngƣu...Tôi nói với Bình là muốn về gặp gia đình đã rồi sẽ tính sau. Bình cũng thổ lộ không muốn đi nữa, để tìm lại ngƣời nhà trƣớc. Không ai bảo ai mà ý nghĩ nhƣ nhau. Thế là chúng tôi chia tay ra về. Cho đến nay không biết Bình và những ngƣời bạn xung phong tòng quân thời ấy trôi dạt về phƣơng trời nào?
Tôi trở về đến Ðống Năm kiếm gia đình bác tôi là giáo sƣ Nguyễn Tƣờng Phƣợng, thì gặp đƣợc bố tôi và hai em tôi cũng vừa từ Hƣng Yên chạy sang. Hƣng Yên đang bị càn quét. Mấy gia đình chúng tôi thƣờng cùng chạy loạn từ những ngày đầu khói lửa, nay gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Thêm gia đình giáo sƣ Trần Mộng Chu nhập bọn. Bàn lên tán xuống, làm sao thoát ra khỏi Thái Bình đang bị bao vây? Thôi thì chạy vòng quanh, đàn chim đã bị vỡ tổ, về đâu mà chẳng đƣợc. Giáng sinh rồi tết Dƣơng lịch 1950 qua lâu rồi mà không một ai để ý tới. Muốn xuống phía nam thì mới chạy đến vùng Thần Ðầu Thần Huống huyện Tiền Hải đã gặp dân chúng từ Ninh Bình kéo ra. Giặc đã tới Khu Tƣ. Ðành phải quay trở lại phía bắc. Ði trong đêm qua những cầu khỉ, những cống nƣớc chảy ào ào nhƣ thác đổ của đập Trà Linh, bác Phƣợng gái sợ đến ríu chân bƣớc không nổi, phải bám chặt lấy tay tôi. Muốn trở lại Hƣng Yên, mà vừa tới huyện Quỳnh Côi đã bị nghẽn lối.
Lúc này xuân Canh Dần cũng mới đến, mang theo thời tiết ấm áp, và đàn chim ríu rít ca trong những khóm cây đâm chồi nẩy lộc. Lại thêm mấy gia đình quen cùng tụ lại ở làng Khuốc bên sông Luộc. Mồng một qua đi nhƣ một ngày cuối năm, lo ăn, lo uống, lo chạy loạn, không ai buồn nói chuyện tết nhất. Sáng ngày mồng hai, bố tôi phái tôi đi nghe ngóng khi có tin giặc về càn quét khu này. Tôi men theo ven đê sông Luộc, qua mấy làng kế cạnh nằm im lìm, không một bóng ngƣời. Ðến một mé thấp, vừa nhô đầu lên khỏi mặt đê, tôi đã thấy ca nô giặc đang chạy dọc trên sông, tiếng súng bắt đầu nổ từng loạt. Tôi lăn vội xuống chân đê, chiếc mũ bê rê đen rơi mất lúc nào không biết. Tôi chạy về làng Khuốc báo tin để cùng mọi gia đình lùi sâu vào phía trong. Phải nhiều ngày sau mới bắt liên lạc đƣợc với ngƣời dẫn đƣờng đƣa chúng tôi qua đò về địa phận tỉnh Hƣng Yên. Ðể khỏi bị bắn, hành khách đƣợc chở lặng lẽ qua sông trong đêm tối, vào khoảng giữa hai đồn giặc. Rồi loanh quanh mãi tại nơi đây chƣa tìm đƣợc lối chạy tiếp, thì một hôm giặc càn quét, bắt tất cả chúng tôi lên đồn bót. Thế là mộng lên Việt Bắc tiêu tan.
Rồi mấy gia đình đƣợc giấy thông hành tạm và xe cam nhông nhà binh chở lợn đã chở chúng tôi theo về thẳng Hà Nội và bỏ chúng tôi xuống phố Hàng Ðậu. Trời về tối đen nhƣ mực, nhƣng khi xe qua cầu Long Biên, muôn ánh đèn phía Hà Nội hiện ra lấp lánh nhƣ những vì sao đẹp giải Ngân Hà. Tôi bồi hồi nhớ lại cảnh Hà Nội rực cháy nhìn từ quê nội trong đêm 19 tháng 12 năm 1946...Rồi hình ảnh kiêu hãnh của những ngày theo kháng chiến nhạt phai dần với thời gian. Tôi miệt mài theo đời thi cử tuổi thanh xuân, trong cảnh phồn hoa đô hội đất Thăng Long. Ngay tháng 6 năm đó tôi đậu tú tài một, rồi vào học lớp đệ nhất trƣờng Nguyễn Trãi. Tôi gặp lại Phạm Gia Chung và quen thêm biết bao nhiêu bạn mới nhƣ Từ Uyên, Vũ Quí Ðài, Nguyễn Văn Phác, Tạ Văn Quang, Nguyễn Cao Ðằng...Tôi ngồi bàn nhất bên phải, cùng với Nguyễn Tuấn Ngọc, Lê Văn Kiên, Nguyễn Phú Duyệt. Bàn sau có Ðỗ Thị Nhuận, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Bùi Thị Nhu Thuận, Nguyễn Thị Hồng Loan... Tại đây, tôi cũng chỉ học đƣợc có đệ nhất lục cá nguyệt.
Sau tú tài hai, thì có lệnh động viên đi khóa sĩ quan Nam Ðịnh. Một số bạn lại xếp bút nghiên theo việc đao cung, và ngay sau khi 84 Tháng Ngày ở Thƣợng Phú tốt nghiệp sĩ quan, lớp tôi có Nguyễn Văn Ngọc tử trận, Nguyễn Tuấn Ngọc bị thƣơng.
Trên nửa thế kỷ đã qua đi, nên những hình ảnh ở Thƣợng Phú, tuy có nhiều nét còn rõ nhƣ mới xẩy ra, cũng có nét nhạt nhòa theo thời gian. Những bạn tôi có ngƣời xung phong tòng quân phía cộng sản, có ngƣời đƣợc gọi động viên lớp sĩ quan quốc gia. Ngƣời ta ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau, nhiều khi chỉ vì thời thế và cảnh ngộ chăng? Từ mùa thu năm 1962, tôi trở thành một giáo sƣ trƣờng Dƣợc của Sài Gòn hoa lệ, nhƣng nếu thời đó không gặp gỡ bác sĩ Thạch, không có cây đa ở một đầu làng tỉnh Thái Bình, hay không bị vụ càn quét ở Hƣng Yên, không biết tôi đã phiêu dạt về đâu?
Từ thời còn học trung học, chƣa bao giờ tôi tin đƣợc lý thuyết cộng sản là đúng đắn. Nhƣng tại sao Việt Nam lại trở thành cộng sản? Thôi cứ cho là vì sự thô bạo của thế giới sau thế chiến thứ hai, là tại ở gần một nƣớc cộng sản khổng lồ, hay tốt hơn hết, là tại vận nƣớc nhà đen tối. Tự nhiên, tôi bỗng thấy mơ nhƣ lúc còn ở Thƣợng Phú, tới một mùa thanh bình trên quê hƣơng yêu dấu, khi mà tự do, độc lập, hạnh phúc không phải chỉ là khẩu hiệu trống rỗng.
1 tháng 6, 2002
CHƢƠNG SÁU
Những năm học và mùa thi đã qua
Thế hệ tôi lớn lên trong những hoàn cảnh rất khó khăn và phức tạp của đất nƣớc, từ những ngày Pháp thuộc, Nhật xâm chiếm, cách mạng mùa thu, kháng chiến, tản cƣ, hồi cƣ, di cƣ.... đến biến cố tháng 4 năm 1975. Chúng tôi chắc khó là những học trò giỏi, vì không có những điều kiện học hành tốt lành, hay đúng ra là bình thƣờng. Nhƣng đã học thì phải thi, mà học tài thi phận, ai cũng có thể bị trƣợt dễ dàng. Thế mà tôi may mắn thi đâu đỗ đấy, dù là thi tuyển, thi lên lớp hay thi tốt nghiệp. Có thể vì tôi đƣợc gập những thầy hiền từ, khi mà quyền sinh sát, nhất là vào lúc vấn đáp, còn nằm trong tay các vị giám khảo. Hay vì tôi sinh ra dƣới một ngôi sao thi cử thật đẹp?
Những năm tiểu học
Lúc còn nhỏ, khi bố tôi làm Hiệu trƣởng trƣờng tiểu học tỉnh Hải Dƣơng, tôi theo học các lớp năm, lớp tƣ, lớp ba tại trƣờng này. Tôi chỉ còn nhớ tập đọc, tập viết, và học thuộc lòng dăm ba bài trong Quốc Văn Giáo Khoa Thƣ. Nhƣng tôi hình dung đƣợc mái trƣờng xƣa rất đẹp, với những lớp học khang trang, những bàn ghế tốt. Có cái trống trƣờng thật to. Có sân chơi rộng rãi. Có cây đa lấy bóng mát, búp đa để thổi, nhựa đa làm banh. Có cây bàng lá xanh mùa hạ, lá vàng mùa thu, trông xa nhƣ tán nhƣ dù. Thầy Trịnh Ðình Rƣ, hay cụ cử Rƣ dậy lớp tƣ. Chúng tôi sợ hãi vì giờ tập viết thầy thƣờng lấy thƣớc kẻ đánh vào lòng bàn tay học trò nếu chữ xấu hay nguệch ngoạc. Vết hằn đau rát và lâu lắm mới lành. Tôi chƣa học tới lớp nhất, lớp có thầy Nguyễn Văn Tạo cao lớn và đẹp trai. Những ngƣời bạn nhỏ thời đó có Lê Văn Kiên con bác sĩ Lê Văn Khải, Nguyễn Hoàng Lĩnh con thầy Nguyễn Hoàng Chừng, Vũ Xuân Châu và Lê Phụng... Khi đậu bằng Sơ Học Yếu Lƣợc vào năm 1941, tôi không nhớ nổi thi cử ra sao. Tuy
nhiên, những ngày theo Sói Con đã để lại cho tôi nhiều ấn tƣợng tuyệt đẹp, qua những buổi cắm trại tại đền Kiếp Bạc, động Kính Chủ, mả Táng Treo, rặng núi Vôi... của tỉnh Hải Dƣơng.
Từ lớp nhì năm thứ nhất, tôi sang trƣờng tiểu học tỉnh Hƣng Yên, vì lúc đó bố tôi đƣợc bổ nhiệm làm Huấn Ðạo tại đây. Ngƣời thầy cũ đã dậy dỗ tôi nên ngƣời là thầy Lê Văn Trọng, em bác sĩ Lê Văn Khải. Thầy đẹp trai, cao lớn, khỏe mạnh nhƣ một lực sĩ điền kinh. Ngoài việc dậy học, thầy còn trông coi việc thể dục thể thao cho nhiều lớp. Tôi là một trong số nhị thập bát tú của thầy, đƣợc sinh hoạt trong những buổi kể chuyện, ca hát, ngâm thơ, đóng kịch. Thầy đã mở mang kiến thức chúng tôi qua những chuyện cách trí, những tiểu thuyết trinh thám, những truyện đƣờng rừng. Lối bắt hổ tuyệt diệu của thợ săn dùng khói thuốc phiện. Trí nhớ siêu việt của loài voi khi đi tìm kẻ thù đã lẩn tránh sau nhiều năm. Cách nuốt thật kỳ lạ của loài trăn sau khi đã quật chết con mồi. Thầy đã dậy chúng tôi những bài hát về tuổi nhỏ, về quê hƣơng, về đất nƣớc, nhƣ Con Ðƣờng Vui, Quê Nhà Tôi, Bạch Ðằng Giang, Ải Chi Lăng, Hội Nghị Diên Hồng. Có lần chúng tôi trình diễn kịch thơ Trần Nguyên Hãn. Và mở màn là những lời thơ từ trong hậu trƣờng vang lên :
Tiếng ca âm thầm nhịp nhàng trong đêm tối,
Vang trong trời xa như dục lòng yêu nước non.
Quân Minh ác thay lầm than còn đâu đây,
Ai đi trên đường xa hãy quay về trông núi sông...
Trần Nguyên Hãn, gánh hai thùng dầu xuất hiện trên sân khấu, than van cảnh đất nƣớc lầm than dƣới ách giặc Minh:
Nay lòng ta đây quyết chí ra tay,
Thề thi gan huyết chiến cùng quân thù...
Rồi đƣợc một tiên ông mách bảo tìm về núi Lam mà phò Lê Lợi. Nhƣng đến khi thành công, Trần Nguyên Hãn bị vua Lê kết tội chết vì vua nghe bọn gian thần tố ông phản bội. Trần Nguyên Hãn đành phân trần:
Chúa công ơi sao đang tâm ngắt hái?
Một bông hoa không đượm chút héo hon,
Chúa công ơi sao lại nỡ giận hờn?
Một tôi trung không có lòng phản trắc.
Ðể rồi rút gƣơm tự sát, ghi một vết nhơ trong lịch sử:
Thần chỉ mong non nước được vẹn toàn,
Thời có chết cũng không hề oán thán...
Bạn bè tôi chỉ nhớ có Vũ Trùng Thân, và một anh bạn tên là Dũng. Cùng đánh khăng, đánh đáo, đánh bi trên những con đê đầy nhãn lồng nổi tiếng của Hƣng Yên. Dũng có biệt tài bắn ná cao su rất giỏi, anh thƣờng hạ đƣợc cả những cánh chim nhỏ đang bay. Anh còn vẽ rất nhanh những chàng hiệp sĩ quần áo võ lâm gọn gàng oai nghiêm, đánh kiếm, phi thân, trông thật là đẹp mắt. Nếu sinh trƣởng nơi trời Tây chắc hẳn anh phải thành công và giầu lớn.
Thời gian này của thế chiến thứ hai, có hai trƣờng trung học Hà Nội sơ tán về Hƣng Yên. Trƣờng Ðồng Khánh, tiền thân của trƣờng Trƣng Vƣơng, và trƣờng Ðỗ Hữu Vị, tiền thân của trƣờng Nguyễn Trãi. Tôi mong đƣợc học trung học tại Hƣng Yên, nhƣng mới lên đến lớp nhất đã xẩy ra
vụ Nhật đảo chính 9-3-1945. Rồi cách mạng tháng tám, rồi tuần lễ vàng với những đóng góp tự nguyện. Sau những ngày hoang mang của buổi giao thời, bố tôi xin trả lại công thự để trở về tỉnh Hải Dƣơng.
Gia đình tôi trở lại căn nhà cũ số 79 phố Ðông Giàng, rộng rãi và mát mẻ. Trừ các sách về khoa học, giáo dục, triết lý thì tôi chƣa hiểu gì nhiều, nay tôi đã có dịp để đọc những sách báo đủ loại trong tủ sách nhà. Các quyển Sách Hồng, tạp chí Nam Phong, tạp chí Tri Tân, các truyện của Tự Lực Văn Ðoàn.. Bố tôi lúc này cũng có ít thì giờ để kèm cho tôi học hành thêm. Về Toán với những bài tính căn bản về số học, số nguyên, phân số, bội số chung nhỏ nhất, mẫu số chung lớn nhất. Các cách vẽ một vật từ chính diện, tiền diện, thiết diện. Về Lý Hóa với những kiến thức sơ đẳng về áp suất, bình thông nhau, hợp lực, ngẫu lực. Và về Pháp văn, nhƣ chia động từ, học ngữ vựng, tập đọc, làm luận, viết chính tả. Việt văn thì có ông anh họ là Tô Tƣởng kèm. Anh cũng bắt tôi làm luận, viết chính tả, học thuộc lòng vài đoạn văn xuôi của Khái Hƣng, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, hay dăm ba bài thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, Tế Hanh. Tôi may đậu thủ khoa kỳ thi Sơ Học Bổ Túc kỳ đầu tiên khi nƣớc nhà mới đƣợc độc lập, tại hội đồng tỉnh Hải Dƣơng. Một vị thân hào đã tặng cho tôi bộ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thƣ của Ngô Sĩ Liên, tiếc rằng tôi không có dịp đọc kỹ và giữ gìn đƣợc quyển sách quý giá này.
Thời gian trung học
Lúc này, tình hình đất nƣớc càng ngày càng trở thành rối ren. Kể từ hơn một năm rồi, khi quân Quốc Dân Ðảng Trung Hoa của Lƣ Hán đến giải giới quân phiệt Nhật ở miền Bắc. Với những hoạt động sôi nổi và hỗn loạn của các tổ chức chính trị quốc cộng, để gây ra biết bao sự nhiễu nhƣơng cho dân lành. Thời gian này Quốc Hội đƣợc bầu cử, Chính Phủ Dân Chủ Cộng Hòa đƣợc thành lập. Nhiều tổ chức cứu quốc, phong trào nhân dân, ủy ban cách mạng, đƣợc xuất hiện gồm đủ cả nam phụ lão ấu. Và đến khi quân đội viễn chinh Pháp theo chân quân đội Anh vào miền Nam, rồi đổ bộ ra Hải Phòng mong tiến chiếm lại thuộc địa cũ, là ngƣời dân thành phố bắt đầu lục tục tản cƣ về miền đồng ruộng.
Sau tiểu học, tôi đậu kỳ thi tuyển vào năm thứ nhất Trung học công lập NGUYỄN BỈNH KHIÊM. Trƣờng tọa lạc trong một biệt thự tuyệt đẹp, mà những làn gió lùa làm sực nức mùi hoa Y lăng. Hiệu trƣởng có lẽ là giáo sƣ Nguyễn Đức Hiếu. Tôi đƣợc đại diện học sinh đọc bài cảm tƣởng nhân dịp lễ khai giảng. Tôi ƣớc mong thế hệ chúng tôi thành tài để đƣa nƣớc ta đến địa vị phú cƣờng, có thể quay mặt về biển đông mà hãnh diện với thế giới. Ai ngờ hơn ba mƣơi năm sau, thuyền nhân phải liều chết vƣợt biển này mà trốn chạy. Mới học đƣợc có hai ba tháng tại NGUYỄN BỈNH KHIÊM, thì gia đình tôi đã phải bỏ nhà bỏ của chạy loạn về quê nội tại Xuân Cầu, một làng sát đƣờng số 5 cách Hà Nội 21 cây số.
Ðây là một làng rất đẹp thuộc trấn Kinh Bắc, có tên trong Ðịa Dƣ Chí của Nguyễn Trãi. Phong dao có câu:
Ai về Ðồng Tỉnh Xuân Cầu
Ðể thương để nhớ, để sầu cho ai.
Còn nói về công việc làm ăn tại đây:
Ai về Ðồng Tỉnh Xuân Cầu
Ðồng Tỉnh bán thuốc, Xuân Cầu nhuộm thâm.
Trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, đứng từ làng trông về phía Hà Nội, tôi thấy cả một vùng trời cháy sáng đỏ lửa. Cuộc kháng chiến toàn quốc đã thực sự bắt đầu, nơi nơi chuẩn bị cảnh vƣờn không nhà trống để chống địch. Rồi một buổi sớm ngày giáp Tết năm ấy, làng tôi bị quân giặc tàn phá. Chúng tấn công gọng kìm hai mặt và bắn chết hơn mƣời ngƣời tự vệ làng. Gia đình tôi lại phải bỏ chạy về quê ngoại, làng Kim Ngƣu, tuy cùng huyện Văn Giang nhƣng xa đƣờng số 5 và an toàn hơn. Chúng tôi từ đó ở nhờ nhà bà ngoại, trong một dinh cơ rộng lớn, tạm thời vui hƣởng sự an bình nhƣ những ngày về quê nghỉ hè. Chúng tôi chỉ lo ăn chơi cùng mấy anh chị em bên ngoại, rồi đọc truyện, đọc thơ, xem kịch, xem sách, thôi thì tây ta tầu đủ loại. Những sách này hoặc của bố tôi mang theo từ thành phố về, hoặc của mấy anh chị lớn đang học trung học bỏ lại, sau khi đi theo trƣờng lên Ðào Giã, Phú Thọ, hay vào Phúc Nhạc, Ninh Bình.
Tại quê nhà, đôi khi tôi đƣợc mẹ tôi dậy truyền khẩu một vài bài thơ cách mạng, nhƣ những câu sau:
Á Tế Á năm châu là bậc nhất
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn..
Nghĩ lắm lúc căm gan tím ruột
Vạch trời cao mà tuốt gươm ra
Cùng xương, cùng thịt, cùng da
Cùng hòn máu đỏ, cùng nhà Lạc Long
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Sáu mươi năm nhơ nhuốc lầm than..
và những đoạn văn trong Kiều, Cung Oán, hay Chinh Phụ Ngâm:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã định chẳng dung giặc trời...
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai..
Còn có lần mẹ tôi đố tôi những bài toán nhỏ:
Vừa gà vừa chó ba mươi sáu con,
Trói lại cho tròn đếm đủ trăm chân.
Như vậy mấy gà mấy chó?
Hay là:
Một trăm con trâu, một trăm bó cỏ.
Con đứng ăn năm, con nằm ăn ba, ba con già ăn một.
Hỏi mấy trâu đứng, trâu nằm, trâu già?
Sau này, tôi dùng đại số để giải đáp thì còn dễ, nhƣng tôi không hiểu mẹ tôi lúc đó tính cách nào, có lẽ tính nhẩm chăng?
Từ khi bố tôi chạy xuống phủ Khoái Châu, tôi và hai đứa em trai đƣợc cho đi theo. Chỉ một vài lần khi bị giặc càn quét, ba anh em tôi mới phải chạy ngƣợc trở lại về quê mẹ trong ít lâu, vì lúc này làng Kim Ngƣu đã trở thành làng tề. Ở làng Ngọc Nha, ngày ngày tôi theo học chữ Nho của thầy Hoàng Văn Hòe. Thỉnh thoảng, có lẽ để cho qua thì giờ, bác Nguyễn Tƣờng Phƣợng dậy tôi chữ Việt, bố tôi dậy tôi chữ Pháp. Mãi gần hai năm sau, khi xuống làng Gạo Nam huyện Ân Thi, chúng tôi mới đƣợc ở riêng một căn nhà gianh ba gian, có vƣờn, có ao. Chủ nhà là anh Ðảo, một thanh niên đi bộ đội, đã giao nhà trống lại cho bố tôi. Thuở ấy, có ông giáo Thân, một ngƣời bạn rất trung thành với bố tôi, cùng ăn cùng ở. Tôi không hiểu sao ông lại một mình lƣu lạc nơi đây, vợ con còn sống bình yên mãi tận trong quê Thanh Hóa. Cứ một vài tháng, ông lại nhận đƣợc thƣ nhà. Ðó là những lúc ông vui vẻ và xúc động nhất, lời nói nghẹn ngào mà nƣớc mắt nhƣ muốn trào ra. Chúng tôi đƣợc ông đọc cho nghe các tin tức trong thƣ, nào là Tuấn đã học đến lớp mấy ban tú tài, nào là Tú đƣợc thầy giáo khen ngợi ra sao. Ông ấy khoe bao nhiêu thì tôi lại buồn tủi bấy nhiêu. Từ ngày kháng chiến, tôi đâu có điều kiện để đƣợc theo học ở trƣờng nào, chỉ lo ăn chơi và lo chạy giặc. Phải đợi đến đầu niên học 48-49, bố tôi mới nghĩ xin cho tôi đi học. Nếu lúc ấy xin vào trƣờng công Nguyễn Thiện Thuật làng Bích Tràng, tôi đành phải xuống một hai lớp dƣới. Chính vì quen với gia đình giáo sƣ Hiệu trƣởng Nguyễn Văn Ðỉnh, bố tôi bèn xin cho tôi vào trƣờng tƣ Tiền Phong làng Bình Lăng, để tôi đỡ bị thiệt mất năm học nào.
Lớp đệ tam năm đó có khoảng hai chục học sinh. Các anh Ngọc, Thúy, Sơn, Bân.. con cháu ông Nghị An thì có nhà riêng ở ngay làng này, có chị Ngân giúp việc thổi nấu cơm nƣớc, giặt giũ áo quần. Anh Bùi Xuân Lân là một học sinh đẹp trai, con nhà nền nếp, ở với gia đình trong một làng gần đấy. Chỉ có tôi ở Gạo Nam là xa nhất. Mỗi buổi sáng ra đi, tôi xách chiếc bị cói trong có vài quyển tập, cơm nắm, ít muối vừng hay ruốc bông để ăn trƣa, tay cầm gậy để phòng khi cần đánh chó. Rồi băng qua một cánh đồng bốn năm cây số mới đến lớp học. Mấy tuần lễ đầu, việc học đối với tôi thật là cực hình. Tôi nghe giảng mà nhƣ đi lạc vào một mê hồn trận, không biết đƣờng nào trở ra. Về Toán thì những định nghĩa, định lý, định đề, rồi điểm, đƣờng thẳng, mặt phẳng. Ðiểm, theo định nghĩa, là nơi mà hai đƣờng thẳng gập nhau. Nhƣng nếu không có đƣờng thẳng thì không có điểm sao? Lý Hóa thì hết gƣơng phẳng, gƣơng lồi, gƣơng lõm, lại lăng kính, thấu kính. Thầy Ðỉnh trẻ, trắng trẻo, đẹp trai, đã nổi danh giáo sƣ giỏi tại vùng này, học trò ai cũng say mê lời giảng, ghi chép bài vở dễ dàng. Tôi thèm thuồng đời sống vui vẻ nhẹ nhàng của họ, ăn ở gần trƣờng, học hành thoải mái. Thế mà tôi nghe những danh từ khoa học lạ hoắc ấy nhƣ vịt nghe sấm. Cũng buồn nhƣ khi ở quê ngoại, xem sách của Ngụy Nhƣ Kontum viết về Ðại Số mà thấy mình lạc lõng trên mây. Lúc đó, tôi thật quá chán nản, chỉ muốn thôi học. Ôi thiếu gì lý do. Hay là vì phải đi xa, hay là vì bỏ học lâu rồi nên làm biếng? Khi thầy Ðỉnh nói ý là nếu ai không theo nổi thì nên xuống lớp dƣới, đừng vì con ông này nọ mà chỉ muốn học lớp cao, trời nhƣ đổ sập trên tôi. Thầy Ðại, ngƣời chú ông Ðỉnh, chắc trông thấy tôi có vẻ khốn khổ và thiểu não lắm, nên an ủi tôi:
- “Anh cố gắng đi, rồi thế nào cũng theo kịp. Tất cả những môn khác, nhƣ Việt Văn, Pháp Văn, tôi thấy anh đâu có trở ngại gì”.
Tôi về nhà rồi nghỉ không đi học nữa. Bố tôi vẫn thƣờng dậy tôi đủ điều theo các sách Pháp, nên biết ngay lý do vì sao tôi muốn bỏ học. Liên tiếp hơn tuần lễ, bố tôi giảng cho tôi hiểu cách chuyển dịch những danh từ Toán Lý Hóa từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Nhờ sự khuyến khích của bố tôi, và nhất là nhớ tới lời an ủi của thầy Ðại, tôi lại hăng hái mang bị xách gậy tới trƣờng. Dần đà tôi bắt đầu lĩnh hội đƣợc những gì thầy Ðỉnh giảng, những quỹ tích, hằng đẳng thức, điều phải chứng minh. Vòng tròn chín điểm của Euler, đƣờng thẳng Simpson. Ảnh thực ảnh ảo của
thấu kính. Không có thầy Ðỉnh, tôi không thể qua đƣợc trung học phổ thông dễ dàng. Dù không nói ra, nhƣng trong thâm tâm, tôi vẫn nhớ công ơn ông. Ðến cuối đệ nhất lục cá nguyệt, tôi đã nhất hầu hết các môn. Tôi đƣợc anh em anh Ngọc mời cùng ăn bữa trƣa, cơm nƣớc nóng sốt ngon lành hơn, ăn uống có bầu bạn vui vẻ hơn. Thật là may mắn, từ nay hàng ngày đi học tôi đỡ phải mang theo thức ăn, mà lại còn có chỗ nghỉ ngơi thong thả lúc buổi trƣa.
Kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt đến rất nhanh, và tôi lại nhất hầu hết các môn. Lúc này tôi say mê học nhƣ tầm ăn rỗi. Tôi đã học xong hết cả một chƣơng trình lớp đệ tứ từ lúc nào mà không hay. Có thể nhiều phần nhờ bố tôi chỉ dẫn những chỗ không hiểu qua các sách tiếng Pháp. Thế là tôi đòi đi thi Trung học Phổ thông khóa một mở tại trƣờng trung học Lê Thiện Thuật làng Bích Tràng. Cố nhiên thầy Ðỉnh không cấp cho giấy chứng nhận vì trƣờng chƣa có lớp này. Tôi đành làm tờ khai danh dự đã học hết chƣơng trình, và may thay, gần đến ngày thi thì đơn tự do thí sinh đƣợc chấp thuận.
Trời về hè nắng sớm, tôi đầu đội nón lá, tay cầm guốc và bút mực đi thi. Tới đầu làng Bích Tràng, tôi dừng lại một cầu ao để rửa chân, mang guốc, rồi đi theo con đƣờng lát gạch tới trƣờng thi. Nơi đây có mặt chừng ba chục thí sinh. Ngày đầu thi Toán buổi sáng, thi Pháp văn và Việt văn buổi chiều. Ngay buổi sáng ngày hôm sau, lúc tôi ngồi vào bàn thi, vừa để phiếu báo danh trƣớc mặt, bà giám thị Nguyễn Thị Phú đã tới hỏi tôi:
- “Cậu có phải là cậu Tô Ðồng không?”
Tôi đáp:
- “Thƣa bà, chính là con ạ”.
Bà nói:
- “Sao cậu làm bài Toán giỏi quá. Lời giải hay hơn cả lời giải của ban giám khảo. Ngƣời ta đã ráp phách lại để xem ai làm bài này, nên tôi mới biết là bài của cậu. Thôi cậu cố đi nhé”.
Mừng quá, tôi chỉ còn biết nói lí nhí:
- “Thƣa bà vâng ạ”.
Từ lần đầu tiên này đƣợc biết bà Phú, bà Berthe, hay bà Toại, cho dù chƣa đƣợc học bà, tôi vẫn tự coi nhƣ học trò của bà. Khi hồi cƣ về Hà Nội, rồi di cƣ vào Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi lại đến nhà hay gọi dây nói thăm bà. Rồi bà làm Hiệu Trƣởng trƣờng Trƣng Vƣơng. Bà thƣờng gọi tôi bằng cậu, hay bằng tên, cho đến khi tôi dậy trƣờng Dƣợc thì bà gọi đổi ra là ông hay ông Tô Ðồng. Lúc nào thì tôi cũng thƣa bà và xƣng con. Cuối năm 1974, khi tôi Xử Lý Thƣờng Vụ Khoa Trƣởng, bà còn gọi dây nói vào trƣờng hàn huyên. Hết việc xƣa lại việc nay. Tiếc lắm thay, tết năm đó là lần cuối cùng tôi đƣợc hầu chuyện cùng bà.
Tôi đậu kỳ thi viết, rồi vấn đáp. Khi giáo sƣ Hiệu trƣởng Chu Duy Khánh tuyên bố kết quả tôi đậu nhất kỳ này, ông có ví tôi là Con công lạc giữa đàn gà. Ðúng là ông chỉ nói cho vui thôi. Sau đó ngƣời ta đồn tôi đậu nhất toàn quốc, và đƣợc giải cụ Hồ. Thực giả thời đó ai mà biết đƣợc? Nhƣng cũng có giáo sƣ ra đề luận Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh, trẻ mà đậu sớm là điều không tốt, có thể ông chê bai hay ngụ ý khuyên bảo tôi chăng? Tôi không mê mải ăn chơi, họa hoằn lắm mới theo mấy ngƣời bạn lớn tuổi đi uống cà phê, hút thuốc lá. Thế mà chẳng biết vì cớ gì, lúc phát phần thƣởng nhất toàn trƣờng Tiền Phong tại Bình Lăng, và lúc phát giải thƣởng nhất kỳ thi Trung học Phổ thông Hƣng Yên tại Bích Tràng, tôi đều vắng mặt. Ngƣời ta đã gửi hai giải thƣởng này đến cho tôi, gồm có bút máy, bút chì, mấy tập giấy viết, chiếc sơ mi vải phin trắng...
Từ đây, tôi không có dịp đƣợc nghe thƣ nhà của ông giáo Thân, mà cũng không biết ông đi đâu nữa. Cho đến khi ông bà Thân hồi cƣ, tôi mới rõ là Tuấn và Tú lúc ở Thanh Hóa, ngoài những việc đồng áng lặt vặt, chẳng đƣợc học hành gì. Thƣ nhà viết gửi ra chỉ mong làm sao ông yên tâm để vui sống trong cơn binh lửa mà thôi.
Tới kỳ thi Trung học Phổ thông khóa hai, rất nhiều bạn tôi ở Tiền Phong dự thi, sau lớp học nhẩy. Nguyễn Khắc Minh khi vào đƣợc vấn đáp thì bị đánh rớt chỉ vì không biết chữ diminutif của oiseau là oiselet. Anh nói với tôi “Vì me xừ Ðốc Khánh đấy!”. Có thể vì anh còn quá trẻ. Thời gian ấy, anh mất đi ngƣời mẹ hiền. Tôi nghe thấy nói anh hứa với mẹ là sẽ đậu đạt, và sẽ thành danh. Sau này quả đúng nhƣ vậy. Anh đã trở thành ngƣời bạn thân của tôi từ đó. Từ những ngày ăn châu chấu rang thay cho thịt cá. Tôi cảm phục anh vì nghị lực phi thƣờng trong mọi việc học tập, vì lý tƣởng phục vụ cả đời, dành riêng cho ngƣời bệnh. Tại làng Bích Tràng, tôi cũng đƣợc nghe tiếng mấy học sinh giỏi thời đó. Anh Trần Quí Nhu, anh Nguyễn Duy Sản, sau này đều đi theo Y khoa. Các chị nổi danh thì có Tố Dung, Ái Ðức.
Sau mấy tháng hè, tôi sang Thái Bình để theo học trƣờng trung học chuyên khoa Lê Quí Ðôn, làng Thƣợng Phú. Ðây là lần đầu tôi phải xa nhà, sống một mình tại nơi trọ học. Giáo sƣ Vũ Lai Chƣơng dậy Lý Hóa. Thầy Tăng Xuân An dậy Pháp Văn. Bạn bè có Phạm Công Lăng, Phạm Xuân My, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Xuân Soạn, Bình nhỏ, Bình lớn, Bá, Thơm, Tính, Tình, Quý, Triết... Thi xong đệ nhất lục cá nguyệt, thì nhà trƣờng tạm đóng cửa và hầu hết học sinh lớp tôi xung phong tòng quân vào trƣờng võ bị Trần Quốc Tuấn Việt Bắc. Tôi bỏ về gập đƣợc bố tôi và hai em trai tránh giặc từ Hƣng Yên chạy sang.
Ðầu năm 1950, chúng tôi liên tục chạy vòng loanh quanh mấy phủ huyện Thái Bình để tìm lối thoát. Rồi xuân Canh Dần đến trong khi giặc về càn quét khu này, chúng tôi đành qua đò từ huyện Quỳnh Côi quay trở lại Hƣng Yên. Ðể rồi một hôm bị giặc bắt lên đồn bót, đƣa về Hà Nội.
Trở lại thủ đô, tôi ngỡ ngàng trong cảnh phồn hoa náo nhiệt, nơi trai thanh gái lịch, và ngựa xe nhƣ nƣớc, áo quần nhƣ nêm. Thôi tạm quên đi nỗi hận thời chinh chiến, tạm quên đi cảnh khổ cực nơi hậu phƣơng. Hay bình thời giảng vũ, loạn thế độc thƣ chăng? Cũng không phải hẳn thế, tôi chỉ muốn từ nay vùi đầu vào công việc học hành. Nhƣng học ở đâu bây giờ? Ðã vào tháng 3 rồi, có trƣờng tây trƣờng ta nào còn nhận học sinh vô? Bố tôi đang bận thu xếp tiền nong, lo xin nhập lại ngạch cũ sau 5 năm trời ở hậu phƣơng. Ông bảo tôi có giáo sƣ Ngô Duy Cầu dậy Toán nổi tiếng đấy, con đến mà học. Rồi một buổi sáng đến trƣờng Văn Lang gần Cửa Nam, ngƣời thƣ ký văn phòng nói tôi hãy học thử một giờ đi, nếu thích thì xuống ghi tên nộp tiền. Tôi lên phòng học trên gác, đúng lúc thầy Cầu đang giảng bài. Thầy lấy thí dụ:
- “Biến số và hàm số giống nhƣ ông chủ và con chó. Ông chủ đi đâu, con chó theo đấy. Ðến khi ông chủ lên gác, con chó biến mất”.
Tôi không thấy hấp dẫn mấy, mà lớp học thì ồn ào, đông nghẹt học sinh. Tôi nghĩ bụng thôi đành về học lấy vậy.
Tôi mua đƣợc nhiều sách giáo khoa tiếng Pháp chƣơng trình Tú tài tại nhà sách Trƣờng Thi. Ôi những quyển sách quí giá. Xin cám ơn Trƣờng Thi nhiều, không có nhà sách này, làm sao tôi thành đạt? Lại nghe thấy chính phủ quốc gia mới mở kỳ thi Tú tài Việt Nam phần Một, khóa đầu tiên, tôi bèn làm tờ khai danh dự học hết chƣơng trình, ra tòa Ðốc Lý thị thực chữ ký, và nộp đơn
xin thi. Hết học ngồi, lại học nằm, nhƣng không dám học đêm. Lý Hóa có ngày học một chƣơng, chẳng bao lâu thì hết sách. Toán thì vừa đọc, vừa làm tính, vừa viết tóm tắt. Lạ thật, những điều mới học mà hình nhƣ đã đƣợc học từ lâu. Môn nào thì tôi cũng đọc sơ qua một lƣợt nhƣ cầy vỡ, rồi mới đọc kỹ lại nhƣ bừa đất. Mà học hành có khác gì cầy bừa?
Khi thuê đƣợc căn nhà số 88 phố Hòa Mã, bố tôi mới cho ngƣời đƣa mẹ tôi và mấy đứa em nhỏ ở quê ngoại ra. Từ nay, gia đình tôi may mắn đƣợc đoàn tụ, trừ chị tôi còn lƣu lạc phƣơng xa, mang tuổi xuân mà đánh đổi cho lý tƣởng xa vời. Tôi chờ đã lâu không có tin tức gì về đơn xin thi. Bỗng khoảng một tháng trƣớc kỳ thi, phiếu báo danh đƣợc gửi về nhà bác Úy là chỗ tôi ở tạm, số 191 phố Huế. Tôi thật mừng rỡ và định bụng sửa soạn học thi cẩn thận. Nhƣng sờ đến sách Lý Hóa, hai quyển này đã bị anh bạn nào tự tiện mƣợn mà quên không trả mất rồi. Lại phải tìm mua ngay hai quyển sách mới tại Trƣờng Thi. Rồi kỳ thi qua đi thật dễ dàng, tôi có tên trong số hơn hai chục ngƣời đậu. Tin đƣợc loan trên đài phát thanh, báo chí Hà Nội. Tôi không còn nhớ tên của các vị giám khảo, và thí sinh thì chỉ nhớ hình nhƣ có Nguyễn Quang Ðộng, vì cùng vần nên ngồi gần. Tôi lấy làm may mắn và lạ là không thấy giáo sƣ nào đối xử khác biệt giữa một thí sinh trƣờng công và một thí sinh tự do. Thời loạn mà chúng ta chỉ có toàn những lƣơng sƣ? Thế mà sao chuyện hƣng quốc thấy nhƣ quá xa xôi!.
Ðậu Tú tài Một, tôi đƣợc vào lớp đệ nhất trƣờng Nguyễn Trãi, vì chỉ trƣờng này mới có ban Toán hay Khoa Học B. Thầy Lộc dậy Anh văn, ôi những bài thơ cổ xƣa mà lãng mạn. Thầy Bửu Nghi dậy Pháp Văn, kể chuyện bên trời Tây nhiều hơn giảng về văn chƣơng. Giáo Sƣ Cƣơng, Giám Ðốc Nha Khí Tƣợng dậy Toán. Thầy thật hiền lành, đọc và giảng bài rất chậm, nên tôi khó chú tâm để ý nghe đƣợc, thành ra không lĩnh hội đƣợc mấy. Giáo Sƣ Trịnh Nhƣ Tiếp dậy Triết rất dễ hiểu. Về liên tƣởng, thầy thí dụ: “Ta thấy chị Nhuận thƣờng mặc áo đỏ, vậy gập ai mặc áo đỏ thì ta liên tƣởng đến chị”. Sau này vì phải nhận chức vụ Tỉnh trƣởng Quảng Yên, thầy đã hi sinh vì mìn tại đây. Chiến tranh đã làm mất mát thêm một nhân tài. Giáo sƣ Nguyễn Chung Tú dậy Lý Hóa. Thầy ngƣời tầm thƣớc, trắng trẻo, đẹp trai, mang kính cận, vẻ thông minh hiện ra nét mặt. Thầy thƣờng đứng cuối lớp, đọc bài thầy đã thuộc lòng cho học trò chép, rồi thỉnh thoảng tiến lên bảng đen vừa viết vừa giảng. Tôi mê những bài giảng này, lúc nào thầy đau phải bỏ dậy, thấy nhƣ thiếu vắng một cái gì.
Lớp đệ nhất niên khóa 1950-1951 gần năm chục học sinh. Tôi ngồi bàn thứ nhất bên phải, cạnh Nguyễn Tuấn Ngọc, và Lê Văn Kiên, Nguyễn Phú Duyệt, Nguyễn Cao Ðằng. Tuấn Ngọc là trƣởng lớp, và trƣởng tràng thời đó. Anh với tôi thật thân, cùng chọn may quần áo, cùng thửa giầy dép giống nhau. Bàn phía sau có Ðỗ Thị Nhuận, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Lê Hồng Loan, Bùi Thị Nhu Thuận... Có Từ Uyên, Vũ Quí Ðài, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Văn Phác, Tạ Văn Quang, Dƣơng Minh Quảng, Vũ Phạm Tiến, Vũ Gia Ân, Nguyễn Thoại, Nguyễn Tƣ Viêm, Ðặng Trần Lạc, Ðặng Trần Long, Ðinh Ðại Kha, Trần Bá Cơ, Ðặng Hữu Hiệp, Nguyễn Trọng Lƣơng, Trịnh Thế Vinh... Ôi, tuổi trẻ thần tiên, mỗi ngƣời mỗi vẻ. Về sau, một số bạn xin đổi sang ban Vạn Vật hay Khoa Học A, trƣờng Chu Văn An.
Tại đây, tôi cũng chỉ đƣợc học có một đệ nhất lục cá nguyệt. Tết ra, tôi phải xin nghỉ học vì bị sốt thƣơng hàn. Bác Sĩ Nguyễn Viêm Hải đã tận tâm chữa cho tôi, cũng may lúc đó mới có kháng sinh Tifomycin. Có lúc cơn sốt lên cao, tôi gần nhƣ mê man, đi tiểu có máu. Thật tội cho mẹ tôi. Có khi phải thức trắng đêm cho tôi uống nƣớc, cho tôi uống thuốc. Rồi cơn sốt lui dần, tôi không dám ăn đồ rắn, sợ thủng ruột, chỉ uống sữa và ăn bánh bích quy. Khoảng hơn hai tháng
sau tôi mới hồi phục, mới đƣợc ăn súp. Thật là hú vía. Tôi bắt đầu ăn trả bữa, rồi mang mấy quyển sách Pháp ra, học tiếp chƣơng trình Tú tài Hai. Tôi phải năn nỉ mãi mới đƣợc nhà trƣờng nộp đơn cho tôi thi, vì tôi không có học và thi một môn nào trong cả đệ nhị lục cá nguyệt. Học bạ còn để trắng. Thế mà may đƣợc chấp nhận, tôi không phải xin làm tự do thí sinh. Ðúng là ban giám đốc nhà trƣờng chỉ gồm những giáo sƣ phúc hậu và dễ dãi.
Ðến ngày thi, mấy bạn thân Tuấn Ngọc, Quang, Phú Duyệt đến nhà rủ tôi đi cùng. Ngọc cũng muốn nhân dịp trông nom tôi, vì tôi lái xe đạp còn loạng choạng, tóc vuốt mạnh còn rụng cả mảng. Mà nơi thi là trƣờng Chu Văn An, mãi tận đƣờng Quan Thánh, xa phố Hòa Mã nơi tôi ở. Mẹ tôi lo lắng bảo Ngọc Châm, cô em tôi, xem tôi ra ngõ gập trai hay gái. Ðúng khi tôi ra khỏi cửa thì gập bà gánh hàng rong, thế là cô em tôi nói nhƣ reo lên: “Anh Ðồng gập gái rồi!” Thôi, thế thì còn thi cử gì nữa. Tôi vội đạp xe đạp đi thẳng mà còn nghe tiếng mẹ tôi rầy la cô em gái quá thật thà.
Thi viết hai ngày môn nào tôi cũng làm trôi chảy. Rồi đƣợc vào vấn đáp. Toán thì rút ra bài Hình tứ giác nội tiếp, tôi lên bảng đen nói định nghĩa, các tính chất và định lý liên hệ. Giáo sƣ Khúc Ngọc Khảm gật gù một cách hài lòng. Chị Nhuận đi nghe bảo rằng sao tôi may đƣợc đề quá dễ, thế mà khi chị đi thi kỳ hai đƣợc đề đó thì nào thấy chị vui gì. Vật Lý thì rút đƣợc câu hỏi về Dây đàn, ống sáo. Thấy tôi trả lời đầy đủ, giáo sƣ Hoàng Cơ Nghị bèn vui vẻ hỏi thêm: “Anh có biết đàn tì bà nhƣ thế nào không?”. Cố nhiên là tôi không biết. Ðến môn Sinh Lý, tôi rút ra một đề mà tôi chƣa kịp học ôn tới, mặt mày ngây ra. Giáo sƣ cho rút đề khác, tôi thƣa đề nào chắc cũng không nói đƣợc. Ông ta bảo tôi:
- “Thế anh thi hú họa à ?”
Tôi trả lời:
- “Tại con đau, không có thì giờ ôn lại môn này. Nếu thầy không cho con điểm loại, chỉ cần nửa điểm, con chắc cũng đậu đƣợc”.
Ông ta chép miệng nhƣng không nói gì, tôi đành lui vội ra. Tôi nhẩm trong bụng thi Khoa Học B thì Lý Hóa, Toán đều hệ số ba bốn cả, còn Sinh Lý hệ số một hay hai, tôi thừa điểm để bù. Rồi tôi có tên trong danh sách gần hai mƣơi thí sinh trúng tuyển kỳ Tú Tài Toán này. Ðài phát thanh, báo chí Hà Nội đều loan tin. Ôi, thật là may mắn, tôi lại gập đƣợc một phúc tinh. Nếu gập vị giám khảo khó tính, tôi đã bị đánh rớt rồi.
Những năm đại học Hà Nội
Sau kỳ thi Tú tài Hai, nhiều bè bạn tôi nhận đƣợc giấy gọi nhập ngũ quân đội quốc gia, khóa đầu tiên ở Nam Ðịnh. Tôi chƣa phải lo bị động viên, nhƣng không biết lên đại học phải theo học ngành gì? Thôi thì nhận đƣợc đủ các ý kiến, đủ các lời khuyên. Bạn bè từ nay mỗi ngƣời một phận. Bố tôi nói thích gì thì cứ học cái nấy, nên tôi quyết định chọn môn Toán trƣớc.
Tôi học ban Toán Học Ðại Cƣơng niên khóa 1951-1952 tại Ðại Học Khoa Học Hà Nội. Giáo sƣ Robert Faure là giáo sƣ chính, mang kính cận dầy cộm, ngƣời thấp, mập, trắng trẻo, ăn mặc xuề xòa. Là một giáo sƣ rất giỏi, thầy dậy toán vi phân, tích phân, tập hợp số học, phân tích vectơ. Có những bài thầy giảng thật hay và không có trong sách. Nhƣng tính thầy láu táu, nói vội, viết vội, mà cũng xóa vội. Tay luôn phủi bụi phấn dây đầy trên khuôn mặt. Giáo sƣ Moliné phụ trách về hình học giải tích, ngƣời dong dỏng cao, ăn mặc chải chuốt, nói năng nhẹ nhàng. Là giám học của Albert Sarraut, thầy đúng là một nhà mô phạm, giảng bài chậm rãi, viết đẹp, vẽ đẹp. Giáo sƣ
Pouligo trẻ nhất. Thầy dậy về số học, nhƣng việc chính là lo về phần thực tập. Thầy tận tâm và chăm chỉ, nhƣng không có vẻ hào hoa của một giáo sƣ trẻ, nhiều khi cứng nhắc trông nhƣ ngƣời gỗ.
Lớp có gần ba chục sinh viên. Có Tạ Văn Quang, Vũ Quí Ðài, Lê Phụng, Nguyễn Trọng Khôi, Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Văn Phú, Lê Thành Trị, Nguyễn Quang Diệm, Vũ Xuân Châu, Vũ Quang Kính, Bùi Kim Bảng,... Giỏi nhất lớp phải kể Toàn, sinh tại Cao Miên, thƣờng có điểm cao nhất. Tôi phụ trách việc phân phát các đề bài tập trong tuần, thu các bài mới làm để nộp cho các giáo sƣ chấm và trả lại các bài đã đƣợc giáo sƣ chữa. Tôi quen thêm một số bạn ở Cao Ðẳng Sƣ Phạm, vì có một số giờ học chung, nhƣ Vũ Ngọc Khôi, Nguyễn Hữu Kế. Một năm học với nhiều kỷ niệm rất đẹp. Kỳ đầu chừng gần mƣời ngƣời đậu, có Toàn hạng Ƣu, rồi đến tôi, Khôi, Kính hạng Bình, Ðài hạng Bình Thứ, Quang, Phú...
Tôi thƣờng nhớ đến khóa 1951-1952, vì ba Khoa Trƣởng trong tám phân khoa Văn, Luật, Y, Nha, Dƣợc, Khoa Học, Sƣ Phạm, Kiến Trúc của Viện Ðại Học Sài Gòn vào năm 1975 đã là những sinh viên của lớp này: Lê Thành Trị, Vũ Quí Ðài, và tôi. Tại Khoa Học, sau năm đầu với những chứng chỉ chính nhƣ Toán Ðại Cƣơng, Toán Lý Hóa MPC, Lý Hóa Nhiên SPCN, sinh viên có thể tùy tiện chọn một hay hai chứng chỉ kế tiếp trong những năm học sau. Vì vậy có các chứng chỉ mà sinh viên tuy cùng lớp nhƣng lên đại học trƣớc sau một vài năm. Trừ có Lý Hóa Sinh PCB chỉ để vào Y hay Nha.
Sau Toán Ðại Cƣơng, Tạ Văn Quang mới quyết định trở lại học Dƣợc. Có thể vì sợ bị động viên chăng? Anh đã nộp đơn tại Ðại Học Y Dƣợc và xin làm tập sự tại Pharmacie Normale, phố hàng Gai của dƣợc sĩ Nghiêm Xuân Hàm. Năm Tập Sự là năm đầu tiên, phải đủ 12 tháng mới đƣợc thi. Sách Tập Sự đánh số trang, mỗi trang đều có chữ ký của Tổng Thƣ Ký Nguyễn Danh Sành. Giáo sƣ Pierre Huard là Khoa Trƣởng Y Dƣợc, và giáo sƣ Jean Lassus là Viện Trƣởng. Một tháng sau, do Quang thúc giục, tôi mới xin học Tập Sự Dƣợc. May mà xin đƣợc cùng chỗ, và đƣợc ghi nhƣ học từ đầu hè. Quang học giỏi, tính tình hòa nhã, thƣờng cùng tôi làm các bài tập ở nhà. Còn có Trần Trọng San, Nguyễn Thị Hiền. Anh San và chị Hiền học rất chăm chỉ. San ngƣời nhỏ bé, ít nói, rất dễ tính, đúng là một nhà nho. Chị Hiền nhanh nhẹn, hay sốt sắng giúp ngƣời, ƣa hoạt động từ thiện. Trong một năm, thầy Hàm dậy chúng tôi cách nhận mặt thuốc, pha chế thuốc, dán nhãn, và một số luật lệ hành nghề. Thầy ngƣời tầm thƣớc, giỏi và tận tâm. Thầy thƣờng đem các nguyên lý để giảng sự xung khắc trong việc bào chế cho chúng tôi. Tôi học đƣợc Dƣợc có lẽ vì ông tin tôi học đƣợc, vì ông chỉ cho tôi thấy ngành Dƣợc có nhiều quyến rũ, nhƣng nhiều phần vì ông có tính tài tử khác ngƣời làm tôi mến mộ.
Tuy nhiên, tôi vẫn coi Tập Sự Dƣợc Khoa là phụ, và còn chƣa muốn bỏ Khoa Học. Tôi bèn ghi tên vào lớp Vật Lý Ðại Cƣơng, một môn ít ra cũng hợp và ƣa thích hơn. Giáo sƣ chính của chứng chỉ này là Monod Herzen, cũng là Khoa Trƣởng Ðại Học Khoa Học. Thầy ngƣời tầm thƣớc, mặt trong sáng, tính tình nghiêm nghị, dậy về Ðộng Lực Học, Nhiệt Ðộng Lực Học, Ðiện Học. Một vài nguyên lý thầy giảng tƣởng nhƣ triết lý. Giáo sƣ Monod đôi khi nói chuyện về đạo Phật tại chùa Quán Sứ. Tôi mừng gập lại thầy Nguyễn Chung Tú, thầy làm Phụ Tá cho Giáo sƣ Monod và trông về Thực Tập. Thầy cũng đang sửa soạn mấy bằng Cao Học. Lớp Vật Lý còn có giáo sƣ Vũ Nhƣ Canh, em giáo sƣ Vũ Văn Mẫu, một Tiến Sĩ và Thạc Sĩ trẻ tuổi đẹp trai. Thầy Canh mới ở Pháp về, phụ trách môn Quang Học, Quang Học Tinh Thể. Những phản chiếu trên
bản mỏng, hiện tƣợng giao thoa, sự giao động của đá thạch anh. Thầy không giảng gì nhiều, nhƣng đọc giọng đều đều cho sinh viên chép những bài học thật hay.
Sinh Viên lớp Vật Lý Ðại Cƣơng hơn hai chục ngƣời. Ngoài Trần Ngọc Toàn, Vũ Quang Kính, Tạ Văn Quang, Bùi Kim Bảng, còn thêm Nguyễn Mạnh Hùng, Mai Xuân Kiệm, Bùi Ngoạn Lạc, Lƣơng Duyên Trinh, Ðặng Văn Nhân, Phan Huy Tùng, Phạm Mạnh Viện, Nguyễn Quang Côn. Hùng có chứng chỉ Toán Lý Hóa MPC, sinh viên Quân Dƣợc năm thứ nhất, quần áo sĩ quan đẹp đẽ, dáng dấp oai vệ. Nhƣng nhiều sinh viên học mà không thi. Kiệm ở Huế ra, cao ráo, dễ thƣơng. Trinh cao mà gầy, rất vui tính, chúng tôi thƣờng vui cƣời thoải mái lúc có dịp chụp ảnh hay trêu cợt các tiểu thƣ đi dạo trong những ngày chợ phiên Hà Nội.
Kỳ thi có giáo sƣ Cagnard từ Pháp qua. Thầy Canh chấm bài xong, yết thị kết qủa trên bảng cáo thị ngoài cửa lớp và không dự vào sự thảo luận của ban giám khảo. Nghe nói thầy không đƣợc hài lòng vì thái độ đối xử của các giáo sƣ ngƣời Pháp nên đã ở lại Hà Nội làm Khoa Trƣởng Khoa Học thay vì di cƣ vào Nam. Khóa một có mấy ngƣời đậu, Toàn hạng Bình, rồi đến tôi, Kính, Kiệm hạng Bình Thứ , đến Quang, Phụng, Lạc...
Cùng Toàn, Kính, Kiệm, chúng tôi ra Ðồ Sơn nghỉ mát một tuần. Trở về Hà Nội, ba tuần sau, tôi lại phải thi Tập Sự Dƣợc Khoa. Nhóm sinh viên của thầy Hàm, qua kỳ thi nhận mặt thuốc, rồi thực tập, chỉ có tôi may đƣợc vào vấn đáp. Gập giáo sƣ Deniel, mập mạp, nói nhƣ nuốt lƣỡi. Ông nguyên là một Thiếu Tƣớng Quân Dƣợc. Ông hỏi tôi qua loa rồi xoay ra hỏi tôi đậu Vật Lý Ðại Cƣơng ra sao, hỏi tôi ăn bao nhiêu bát cơm mỗi bữa mà gầy thế. Ông nói chuyện nhiều hơn hỏi thi, coi nhƣ tôi đã học đủ. Với giáo sƣ Foucault, tôi trả lời tạm đƣợc. Nhƣng đến giám khảo thứ ba là giáo sƣ Sollier, ông hỏi về anthelmintiques thì tôi đang nghĩ đi đâu đâu, không biết ông hỏi gì thì sao trả lời. Nếu tôi biết là thuốc trị giun sán thì đâu đến nỗi khổ vậy. Ông ta mời tôi ra cửa, và nói : “Thôi anh đậu khóa hai vậy”. Thế thì khóa một này chúng tôi sẽ không ai đậu cả, buồn ơi là buồn. Tôi biết ăn nói làm sao với thầy Hàm đây? Quanh quẩn nơi trƣờng thi thì lại gập giáo sƣ Deniel. Ông hỏi tôi làm sao mà mặt mày tái xanh dễ sợ thế? Tôi rầu rĩ trả lời vì vừa bị giáo sƣ Sollier đánh rớt rồi. Ông bảo không sao đâu, cứ yên tâm, ông sẽ nói hộ cho. Ấy thế mà tôi đỗ thật, đúng là tại ông giúp chứ đâu phải tại số? Tuần sau, tôi dự kỳ Thi Tuyển vào năm thứ nhất Quân Dƣợc. Chƣơng trình giống nhƣ thi Tập Sự. Sẵn kinh nghiệm mới thi xong, tôi đậu không khó khăn gì.
Trần Trọng San học chăm nhƣng không có duyên với ngành Dƣợc. Có thể vì vậy sau này anh mới trở thành một giáo sƣ giỏi của Ðại Học Văn Khoa. Và để tôi học đƣợc của anh biết bao thơ Ðƣờng và chữ nghĩa qua các tác phẩm dịch từ Hán Văn.
Sau năm Tập Sự, tôi vẫn còn phàn nàn tại sao lại chui vào nghề này, học những môn khó nhớ và chẳng có gì hấp dẫn. Nhƣng phàn nàn mãi cũng chẳng ích chi. Bây giờ đã là một sinh viên quân dƣợc, tôi chỉ còn biết hết lo học lại lo thi, cốt để cho xong bổn phận.
Trong năm thứ nhất của Dƣợc, ngoài giáo sƣ Deniel về Hóa Học với những bài giảng về lịch sử của môn này chẳng có chút gì hấp dẫn và về đại cƣơng đúng là qua loa, giáo sƣ Foucault về Thực Vật Học đọc bài đều đặn nhƣ đọc kinh, giáo sƣ Brumpt, nổi danh quốc tế về Ký Sinh Trùng, còn có giáo sƣ Vũ Ngọc Trân, giáo sƣ Nguyễn Ðức Trang, giáo sƣ Vũ Văn Chuyên... Bạn bè thân nhất có Bùi Ðình Nam, rồi Ðào Hữu Giao, Phạm Kỳ, Vũ Khánh, Bùi Tá Hoan, Tôn Nữ Mộng Hoa, Nguyễn Thị Lƣơng Trân...Năm đó, tôi theo học thêm Hóa Học Ðại Cƣơng bên Ðại Học Khoa Học. Giáo sƣ Hatem dậy Hóa Vô Cơ, giáo sƣ Laurent dậy Hóa Hữu Cơ. Khoa Học tôi phải đi thi khóa hai, vì khóa một còn để thi Dƣợc. Thi xong Dƣợc năm thứ nhất, tôi theo trƣờng Quân Y vào trƣờng Liên Quân Ðà Lạt tập quân sự một tháng hè, bằng máy bay của hãng Cosara ngày 12 tháng 7 năm 1954. Trên chuyến bay này, tôi ngẫu nhiên gập Lê Phụng và ông anh tôi là Vũ Nhân, đang đƣờng đi Sài Gòn để sang Pháp theo học trƣờng Hải Quân tại Brest. Rồi Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nƣớc đƣợc ký kết vào ngày 20 tháng 7, để không biết bao giờ tôi mới có dịp trở lại mái trƣờng thân yêu của thủ đô.
*
Những năm đại học Sài Gòn
Hà Nội đã thực sự mất trong tôi. Từ nay, đâu còn những cánh hoa phƣợng đỏ thắm rực rỡ trong nắng hè, đâu còn gia đình để yểm trợ hay khích lệ tôi trong những mùa thi cử. Tôi đã ra đi một mình, bố mẹ anh chị em bỏ lại Hà Nội. Việc học sẽ dần dà trở thành tẻ nhạt, nếu không có các bạn tri kỷ, về ngành bào chế là Bùi Ðình Nam, và ở nơi trƣờng ốc là Nguyễn Văn Thiệu, Trịnh Ðình Thiện. Cùng biết bao nhiêu bạn bè thật thân tại Ðại Học Xá Chợ Lớn. Và những thầy mới bạn mới của miền Nam mƣa nắng hai mùa. Trƣờng Dƣợc lúc đó có giáo sƣ Guichard miền Nam thế chỗ giáo sƣ Deniel miền Bắc. Ngoài một số giáo sƣ Pháp sang giảng dậy, còn có nhiều giáo sƣ Việt phụ trách thực tập. Có giáo sƣ Rivoalen dậy Sinh Lý, giáo sƣ Nguyễn Văn Ái dậy Vi Trùng Học, giáo sƣ Vũ Ngọc Trân dậy Dƣợc Học Ga-Liêng và Dƣợc Lực Học, giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm dậy Sinh Hóa Học. Có giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên, giáo sƣ Nguyễn Hùng Chất, giáo sƣ Nguyễn Kim Chƣơng. Giáo sƣ Nguyễn Văn Trang tốt và hiền nhƣ con nhà Phật. Giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu vui vẻ trẻ trung nhƣ sinh viên. Bạn bè cùng học có thêm Nguyễn Tấn Dƣợc, Phạm Ðăng Lý, Bùi Ðức Phƣơng, Nguyễn Ngọc Sƣơng, Nguyễn Thu Kỳ, Võ Ðăng Ðài, Phan Thế Trân, Trần Thị Hạnh, Trƣơng Thị Hồng Hạnh, Lƣu Hữu Tuyến, Lƣu Sơn, Khƣơng Hữu Hội, Nguyễn Thanh Nhàn, Bùi Thị Nhạn... Cũng có ngƣời sau đi sang Pháp, và có ngƣời từ Pháp trở về, để tiếp tục việc học. Kỳ đầu thi Dƣợc xong, tôi lên Ðà Lạt tập quân sự. Kỳ hai năm 1955, tôi thi Hóa Ðại Cƣơng ở Sài Gòn. Qua kỳ thi viết, trƣa hôm thi thực tập, tôi tìm mãi mới thấy đƣợc phòng thi nên đến rất muộn. Rồi lúng túng không biết các thuốc thử trong phòng thí nghiệm của giáo sƣ Ðặng quốc Quân để ở chỗ nào mà tìm. Vấn đáp có giáo sƣ Nguyễn Quang Trình hỏi về
Hóa Học Ðại Cƣơng, giáo sƣ Hagenmuller về Hóa Học Vô Cơ, và một giáo sƣ mà tôi quên tên, về Hóa Học Hữu Cơ. Nguyễn Phú Lịch và tôi đậu chính thức, cùng với hai giảng nghiệm viên đậu với sự khoan hồng của ban giám khảo.
Rồi những mùa thi kế tiếp và ngày tháng qua đi nhƣ làn gió êm đềm. Văn phòng nhà trƣờng hoạt động thật vui vẻ nhờ cụ Nguyễn Danh Sành, ông Trịnh Ngọc Thâm, cô Trần Thị Viên.... Tôi may đậu thủ khoa kỳ thi Dƣợc Sĩ Quốc Gia cuối tháng 6 năm 1957. Trở thành một Trung Úy Dƣợc Sĩ Hiện Dịch, tôi đƣợc bổ nhiệm coi Kho Y Dƣợc 21 Ðà Nẵng, yểm trợ thuốc men y cụ cho Quân Khu II và Quân Ðoàn I. Ðúng lúc tốt nghiệp, Chánh chủ khảo là Khoa Trƣởng Phạm Biểu Tâm đã cho tôi biết từ nay trƣờng sẽ tổ chức các kỳ thi tuyển lựa nhân viên giảng huấn đại học, để đáp ứng nhu cầu phát triển trong rất nhiều bộ môn. Thí sinh trúng tuyển sẽ đƣợc gửi đi tu nghiệp dài hạn tại Pháp hay Mỹ, trƣớc khi về phục vụ cho trƣờng Y Nha Dƣợc Khoa Sài Gòn. Câu chuyện tƣởng nhƣ trong mộng, tôi kể lại với bè bạn, ít ai tin là có thể xẩy ra. Nhƣng rồi sắc lệnh cũng đƣợc ban hành, nếu đậu thì sĩ quan trƣng tập sẽ đƣợc giải ngũ, sĩ quan hiện dịch sẽ đƣợc nghỉ dài hạn không lƣơng. Ði Pháp có học bổng của Viện Trợ Kỹ Thuật Pháp, đi Mỹ có học bổng của Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế.
Mấy tháng sau, qua kỳ thi chức tƣớc, tôi về Sài Gòn dự thi môn Sinh Hóa Học, Nguyễn Phú Lịch môn Ðộc Dƣợc Học, Nguyễn Mạnh Hùng môn Hóa Hữu Cơ. Sau kỳ thi viết và thực tập, đến kỳ thi về khả năng sƣ phạm, tôi đƣợc lên giảng về đề tài „Sự biến dƣỡng của các chất béo‟ trong hai mƣơi phút, trƣớc một số giáo sƣ Việt, Pháp, và sinh viên Y Dƣợc mới ra trƣờng. Gần nửa thế kỷ sau, bác sĩ Bùi Ðồng tại Quận Cam, còn nhớ ngày ấy tôi thắt cà vạt mầu gì và nói những gì. Trí nhớ của ông bạn tôi thật tuyệt hảo. Thi xong phần này, giáo sƣ Damiens của Dƣợc Khoa Paris và Khoa Trƣởng Phạm Biểu Tâm cho hay là tôi đƣợc tuyển chọn. Thực ra tôi không có ý định học Sinh Hóa, vì trƣờng đã có giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm giảng dậy môn này rồi. Tôi trình bày điều này với giáo sƣ Damiens, ông nói tôi cứ yên tâm, sang đƣợc Pháp tôi có thể theo môn Hóa Dƣợc Học của ông. Tiếc thay, khi tôi sang đƣợc Paris một năm sau thì ông đã ra ngƣời thiên cổ vì chứng ung thƣ máu. Nguyễn Phú Lịch cũng đậu kỳ này, nhƣng Nguyễn Mạnh Hùng không may bị rớt lại. Nhƣng kỳ sau anh Hùng thi đậu, và thật xuất sắc, anh chỉ cần hai năm đã làm xong luận án tại Pháp để về nƣớc phục vụ sớm nhất, trong khi bình thƣờng phải mất bốn năm.
Từ lúc đậu cho đến khi đƣợc nghị định xuất ngoại du học, tôi mất hơn một năm chờ đợi. Thủ tục thật phức tạp rƣờm rà. Từ Ðà Nẵng, tôi đi đi về về Sài Gòn nhiều lần làm giấy tờ. Khoa Trƣởng Phạm Biểu Tâm nói sẽ có lý do can thiệp nếu tôi chịu cảnh đói rách, ăn chực nằm chờ. Tôi đành xin nghỉ dài hạn không lƣơng, chỉ mong sao cho chóng đƣợc phép du học. Lúc quá chán nản, vào đầu niên khóa 1958-1959, tôi xin dậy Lý Hóa lớp Ðệ Nhị trƣờng Chu Văn An. Giáo sƣ Hiệu trƣởng Trần Văn Việt đã nhận tôi dậy tạm thời trong khi chờ đợi. Ðƣợc hơn tháng, bỗng một hôm, có anh học sinh nói cho tôi hay là tôi đƣợc xuất ngoại rồi. Thân phụ anh làm trong dinh Tổng Thống đã đánh máy nghị định này do Tổng Nha Kế Hoạch đệ trình lên. Bản soạn thảo có thủ bút của ông Cố Vấn chấp thuận, ký bằng bút mực xanh. Tôi xin từ biệt Chu Văn An, và may có đƣợc ngay giáo sƣ Nguyễn Văn Vỹ thế chỗ.
Thời gian hậu đại học
Bốn năm trời làm khảo cứu tại trƣờng Dƣợc Paris qua đi nhanh chóng. Tôi đã học hỏi đƣợc không biết bao nhiêu là kỹ thuật sinh hóa. Tôi chuyên về các chất đƣờng và phân hóa tố liên hệ.
Luận án Tiến Sĩ Dƣợc Khoa Quốc Gia của tôi đƣợc chấm hạng tối danh dự, với lời khen của ban giám khảo. Ông thầy Jean Émile Courtois cũng muốn tôi ở lại làm việc, vì lúc này tôi đƣợc bổ nhiệm làm Chargé de Recherches của Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học CNRS sau mấy năm làm việc tại đây. Vài tháng sau, tôi đƣợc tặng huy chƣơng vàng của Hàn Lâm Viện Dƣợc Khoa Paris. Nhƣng tôi đã về Sài Gòn lập gia đình và bắt đầu giảng dậy Hóa Học Vô Cơ tại trƣờng Dƣợc Sài Gòn.
Vào năm 1965, các giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên, Phan Thế Trân và tôi đƣợc Viện Ðại Học và Bộ Quốc Gia Giáo Dục đề cử sang Pháp thi bằng Thạc Sĩ. Giấy tờ gần nhƣ xong hết, gồm cả thủ tục qua Bộ Ngoại Giao với thƣ giới thiệu riêng của ông Tổng Trƣởng. Tôi tƣởng sẽ có dịp gập lại thầy và bạn cũ tại phòng Sinh Hóa Dƣợc Khoa Paris. Thầy Courtois là chánh chủ khảo các kỳ thi Thạc Sĩ Sinh Hóa của Dƣợc Khoa thời đó, đã chấm thi giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm năm 1961. Nhƣng rồi gặp lúc Việt Pháp đoạn giao. Giáo sƣ Bùi Tƣờng Huân mới lên Bộ Trƣởng Giáo Dục có nói với tôi là khỏi phải đi thi nữa, chúng ta đâu cần ngƣời Pháp tấn phong. Thôi thế cũng phải. Năm 1968 tôi đƣợc bổ nhiệm giáo sƣ thực thụ. Cuối năm ấy, tôi đƣợc đại diện trƣờng đi thăm viếng gần hai chục Ðại Học danh tiếng của Hoa Kỳ trong gần bẩy tuần lễ. Cũng đƣợc phát bằng Quản Trị Ðại Học tại Bộ Ngoại Giao ở Hoa Thịnh Ðốn. Nghĩ bụng từ nay tôi chẳng còn phải thi gì nữa, thỉnh thoảng chỉ xin đi tu nghiệp hay quan sát để cập nhật hóa kiến thức mà thôi. Hay để nhận những bằng thật đẹp cho vui, đâu cần thiết và cũng chắc gì đã sử dụng đƣợc. Ấy thế mà tôi đã lầm đấy.
Những năm tại Hoa Kỳ
Biến cố tháng 4 năm 1975 làm đảo lộn cuộc sống mọi ngƣời dân Việt. Tôi định thôi quên đi câu chuyện Việt Nam, và từ nay chỉ chuyên tâm lo về khảo cứu khoa học. Tuy bấy giờ tôi vẫn còn mê đời sống văn minh êm đềm, không quá máy móc tại Paris, tôi đã không xin trở lại Pháp. Vì sợ phải di tản lần nữa, vì từ lâu tôi vẫn thán phục nền khoa học kỹ thuật của Mỹ, và vì muốn thành dân một nƣớc hợp chủng, bác ái và hùng mạnh nhất thế giới. Tôi quyết định xin định cƣ tại Hoa Kỳ, nơi không thiếu gì các khoa học gia ngoại quốc tài ba. Nhƣng khi làm về kỹ thuật cao
trong các Cơ Quan Khảo Cứu, trực thuộc Kỹ Nghệ hay liên hệ với Ðại Học, ngƣời ta cũng phải học và thi thƣờng xuyên.
Nhƣng thi những trắc nghiệm dễ thôi, theo sự đòi hỏi của pháp luật. Ðể đến khi về hƣu, ngƣời ta có cả chục chứng chỉ đủ loại. Lần đầu, tại Oklahoma, sau một khóa học hai ba chục giờ, tôi phải thi về sự sử dụng nhiều loại chất phóng xạ. Có mƣời câu hỏi, trả lời trong 4 tiếng đồng hồ. Chỉ cần có đƣợc 70 trong 100 điểm là đủ qua. Tôi nghĩ bụng cố trả lời bẩy câu cho đủ đậu, nhƣng tay viết bắt đầu thấy run run. Tôi cố trấn tĩnh lại, vì cứ từ từ rồi sẽ trả lời hết. Kết quả, tôi đƣợc 100 điểm cộng thêm một lời khen! Mấy nhân viên làm với tôi đã khao tôi và hỏi tại sao tôi không đi dậy mà đi thi làm chi. Nhƣng đi dậy làm chi mới phải, tiếng Mỹ của tôi lúc đó, may ra chỉ giảng đƣợc một nửa điều mình muốn nói. Tôi kể lại việc này vì liên tƣởng đến một câu chuyện cũ.
Cuối năm 1958, tôi đƣợc giáo sƣ Nguyễn Ðạt Xƣờng tại Paris mời nói về sự đóng góp của chuyên viên khi về nƣớc, với các hội viên Hội Khoa Học Kỹ Thuật, tại một nhà hàng ăn khu La Tinh. Tôi có trình bày là chúng ta thiếu quá nhiều phƣơng tiện, nếu về nƣớc thì phải cố tạo ra hoàn cảnh mà làm việc. Giáo sƣ Xƣờng đã đào tạo bao chuyên viên cao cấp cho Lò Nguyên Tử Ðà Lạt, cố nhiên biết điều này rõ hơn ai hết. Dịp đó, tôi nghe riêng một anh bạn kể lại, hình nhƣ giáo sƣ Hoàng Xuân Hãn có than là vì về nƣớc phục vụ mà khi trở lại Pháp, đã hơn 40 tuổi rồi mà còn phải đi học lại về Vật Lý Hạch Nhân. Nếu kể về sự đóng góp căn bản cho nền Trung học và Ðại học Việt Nam, chắc chắn không ai sánh kịp ông. Ông mà còn than, thì chẳng ai còn dám phàn nàn. Thế mà sau ngày di tản, mọi chuyên viên kể cả giới Y Nha Dƣợc của chúng ta, thiếu gì ngƣời phải xin tái huấn luyện ở những tuổi bốn năm sáu chục hay hơn nữa. Thuở ấy, có thể vì lý do kia khác, biết bao nhân tài đã chọn lập nghiệp ở ngoại quốc. Ðể ít phải buồn phiền cảnh nƣớc mất nhà tan, nhƣng chắc còn tiếc không có dịp đóng góp cho quê hƣơng. Xin tạm kể một vài ngƣời thời tôi cho vui thôi, vì nghĩ chúng ta không thiếu gì nhân tài. Về Toán có Trần Ngọc Toàn, Vũ Xuân Chi, Bạch Lý Từ, về Dƣợc có Nguyễn Phú Lịch, Nguyễn Ngọc Trâm, về Y có Nguyễn Văn Ba, Phan Ngọc Anh, Phạm Văn Biểu, Phạm Gia Chung, về Lý Hóa có Vũ Quang Kính, Phạm Xuân Yêm, Phạm Ngũ Tùng... Chƣa tính các ngành chuyên môn khác.
Tôi may mắn đƣợc làm trong ngành khảo cứu nhƣ ý muốn, liên tục từ khi di tản cho đến khi về hƣu. Nhƣng đâu có thoát đƣợc nghiệp thi cử. Gần mƣời năm vận động xin hành nghề trở lại của giới Dƣợc sĩ tị nạn đều thất bại, trừ trƣờng hợp cá biệt, hay đƣợc nhận đi học lại một vài năm. Vì so sánh bằng Việt với bằng Mỹ khác nào so sánh cam với táo. Các bạn Lê Phục Thủy, Bùi Quang Tiến, Trần Ðức Hiếu, Vũ Huy Ðạo, Huỳnh Phƣớc Toàn, Tôn Nữ Tâm Thƣờng, Nguyễn Xuân Lan, Ngô Anh Phƣơng, Bùi Quốc Quang, Trần Năng Ðại, Nguyễn Ðức Năng, Trần Bình Nhung... chắc còn nhớ nhiều hơn tôi.
Phải đợi đến năm 1984, nhờ sự trợ giúp của Ðại Học Dƣợc Khoa San Francisco, Dƣợc sĩ Sài Gòn mới đƣợc tái huấn luyện và dự thi Bằng Tƣơng đƣơng. Tôi cũng đi học, cũng đậu thi Tƣơng đƣơng. Những kỳ thi không thấy mặt giám khảo, những bài thi abc khoanh. Hôm thi bằng hành nghề là lúc tôi bị cảm cúm, cơn sốt tƣởng chừng phải bỏ dở cuộc thi, thế mà cũng thoát. Tại số chăng? Hay là tại chị Phạm Thị Nghi chỉ cho những câu tủ.
Tôi đã về hƣu mấy năm, nên muốn đi thi chơi thôi cũng không còn dịp. Hay là có lúc thấy thi trong giấc mộng, đậu hay rớt đâu thành vấn đề? Ðể khi tỉnh dậy, mình vẫn chỉ là mình. Nhƣng trong cuộc sống, học và thi là những mốc thời gian thật nhiều hi vọng và đầy ắp kỷ niệm. Có nghĩa thầy trò, có tình bè bạn. Tôi cảm thấy bồi hồi nhớ tới bao công lao dậy dỗ của bố mẹ và các thầy cô, khi ghi lại mấy dòng về những năm học và mùa phƣợng vĩ xa xƣa này.
Trong một khung trời quê hƣơng và dƣới những mái trƣờng yêu dấu. Tuy một vài sự kiện đã đi vào quên lãng, nhƣng ký ức tôi còn hiện y nguyên tình thƣơng mến của nhiều bè bạn, đã từng chia sẻ với nhau nỗi vui buồn của tuổi thanh xuân. Và cũng để riêng tặng những học trò thân quen ngày cũ, nay thành danh và hữu dụng trên rất nhiều địa hạt, hiện ở tản mác khắp bốn phƣơng trời.
Ngày Lễ Tạ Ơn, 2002
CHƢƠNG BẢY
Những Cƣ Xá Sinh Viên Của Chúng Tôi
Trƣờng Quân Y Hà Nội
Sau khi đậu kỳ thi Vật Lý Ðại Cƣơng khóa đầu năm 1952-1953 tại đại học Khoa Học Hà Nội, thì một tháng sau, tôi qua đƣợc kỳ thi Tập Sự Dƣợc Khoa của đại học Y Dƣợc. Ngay tuần kế tiếp, sẵn kinh nghiệm mới thi xong, tôi đậu kỳ Thi Tuyển vào năm thứ nhất Quân Dƣợc. Thi cùng khóa với tôi còn có Đào Hữu Giao, nhƣng anh đã từ chối không vô, vì biết khi ra trƣờng sẽ không đƣợc làm thêm nghề tƣ. Những tháng hè trôi qua rất nhanh, rồi sau khi khám sức khỏe, tôi đƣợc nhập học trƣờng Quân Y Trung Ƣơng Việt Nam đầu niên học 1953-1954. Tuy cùng học cùng thi với bên dân sự, nhƣng khoảng năm sáu chục sinh viên quân y chúng tôi thuộc đủ mọi lớp phải ăn ở sinh hoạt trong khuôn viên nhà trƣờng, nguyên là nhà thƣơng Paterson phố hàng Chuối. Quần áo nhà binh, phù hiệu trƣờng quân y đeo bên túi. Lon kiểu Pháp, gắn trên cầu vai có nền nhung đỏ cho bên y, nhung xanh cho bên dƣợc. Ngoài lon cấp bậc chính còn có thêm một lon vàng có vân óng ánh tƣợng trƣng cho nhà trƣờng. Y sĩ Trung Tá Nguyễn Đình Hào là Giám Đốc, Y sĩ Đại Úy Nguyễn Thìn là Giám Học. Trƣờng Quân Y có nhiều phòng lớn nhỏ cho sinh viên. Phòng rộng nhất năm ngƣời. Tôi ở phòng này, có lan can nhìn ra đƣờng Trần Hƣng Đạo. Từ cửa phòng đi vào bên trái theo chiều dọc là hai giƣờng sắt của Nguyễn Khắc Minh rồi tới tôi, bên phải là ba giƣờng của Phạm Viết Tú, Ngô Văn Nhâm, và Bùi Duy Tâm.
Giữa phòng có hai bàn viết vuông vắn và năm sáu chiếc ghế. Phòng nhỏ nhất hai ngƣời, dành cho Nguyễn Thế Minh và Nguyễn Mạnh Hùng. Các cửa phòng đều mở ra một hành lang rộng rãi. Cƣ xá có sân thƣợng trông xuống hai mặt đƣờng, liền với một căn nhà nhỏ dùng làm phòng kỷ luật để giam giữ những sinh viên bị trọng cấm, vì học hành lƣời biếng hay thái độ cẩu thả. Thƣ viện ở tầng dƣới đầy đủ sách có thể mƣợn về tham khảo và mỗi tầng đều có phòng đọc sách nhỏ. Chính giữa sân trƣờng có dựng một cột cờ. Học hành dễ dàng nhƣng phải thi liên tục những kỳ khảo hạch tại trƣờng. Ai ít điểm thì bị phạt không đƣợc xuất trại ngày nghỉ, ai dở quá thì bị giam một hai ngày ở phòng kỷ luật. Ăn uống đƣợc đầy đủ cả về phẩm lẫn lƣợng, nhà bếp có xe Dodge đi chợ Đồng Xuân mỗi ngày, có một sinh viên sĩ quan đi theo giám thị. Hội đồng ẩm thực gồm sáu ngƣời, bên dƣợc có Dƣơng Văn Duy và tôi, bên y có Nguyễn Tấn Chức và ba sinh viên nữa. Mỗi tháng một ngƣời lãnh trách nhiệm lo kiểm soát biên lai tiền bạc, ngày ngày giao cho đầu bếp khoảng 2500 đồng để đi chợ. Nhƣng khó khăn nhất là chọn các món ăn. Mấy anh Bắc thì không ƣa gà xé phay, anh Nam thì chê giò lụa.
Chỉ mấy ngày tết là dễ chịu vì anh Bắc thì về ăn tết cùng gia đình, anh Nam ở lại tha hồ quyết định món ăn khoái khẩu với nhà bếp. Nhƣng lâu dần thì vui vẻ cả làng. Bè bạn biết hay thân nhau vì chỉ trên dƣới một vài lớp mà cũng có những môn phải học chung. Mỗi buổi sáng, sinh viên phải tập hợp ở sân trƣờng để điểm danh và chào cờ. Gần lễ Hƣng Quốc Khánh Niệm ngày 2 tháng 5 âm lịch, chúng tôi đƣợc tập tành mấy buổi để đi điểm binh. Thƣờng thì có Nguyễn Phú Lịch và Nguyễn Hiệp đứng ra điều khiển, vì mấy anh đã có ít nhiều kinh nghiệm ở quân đội khi bị gọi động viên Sĩ Quan Thủ Đức. Vào ngày lễ vua Gia Long lên ngôi này, các sinh viên quân y đi diễn hành qua khán đài thiết lập ngay trƣớc Tòa Thị Chính bên hồ Gƣơm Hà Nội và đƣợc dân chúng đứng hai bên đƣờng hoan hô nhiệt liệt. Vì lễ phục sĩ quan trắng tinh đẹp đẽ, hay vì đi đứng oai nghiêm. Có lẽ cả hai. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối sinh viên quân y tham dự cuộc duyệt binh ở Hà Nội. Rồi thề trung thành với Quốc Trƣởng Bảo Đại, dƣới sự lãnh đạo của Tƣớng Nguyễn Văn Vận. Hôm đó sinh viên còn đƣợc vô biệt điện gần vƣờn Bách Thảo dự cuộc tiếp tân của Quốc Trƣởng.
Tôi nhớ Bùi Nghĩa Bỉnh mặc bộ đồ trận, lúc ra về anh còn thủ một chai whiskey trong túi làm vui.
Trƣờng quân y có nhiều sinh viên cao ráo đẹp trai nhƣ Nguyễn Kiển Ngọc, Nguyễn Tú, Nguyễn Thế Minh, Phạm Văn Biểu, Bùi Quốc Trụ, Dƣơng Quang Hiển, Nguyễn Phú Lịch, Nguyễn Hiệp. To lớn khỏe mạnh có Hoàng Cơ Lân, Trịnh Cao Hải. Hầu hết đều rất tốt tính nhƣ Nguyễn Khái, Nguyễn Đức Tiến, Mai Văn Đồng, Chu Tất Đắc, Nguyễn Đình Lợi, Trƣơng Quí Lâm, Bùi Văn Đoàn, Võ Tam Anh, Nguyễn Phú Duyệt, Nguyễn Quang Đình, Nguyễn Duy Sản, Nguyễn Thanh Giá, Dƣơng Văn Duy, Cao Thiện Chánh và hai anh em họ Dƣơng Minh Quảng, Dƣơng Minh Châu. Còn nhiều bạn tôi không thể nhớ hết. Mỗi ngƣời một vẻ. Thẳng thắn cƣơng trực có Lân, thông minh nhanh nhẹn có Biểu. Hiểu rộng biết nhiều có Nguyễn Đức Hạnh, Nghiêm Xuân Húc.
Văn hoa tài tử có Nguyễn Thế Minh, Nguyễn Kiển Ngọc, Vũ Phạm Tiến, Hồ Văn Châm. Hiền lành dễ dàng có Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Đức Tiến, Ngô Yên Quế. Chăm chỉ chịu khó có Nguyễn Đình Phác, Vũ Quí Đài, Nguyễn Khắc Minh. Giao thiệp khéo léo có Nguyễn Phúc Bửu Tập. Biệt lập và can trƣờng có Bùi Duy Tâm. Kể dí dỏm các chuyện tiếu lâm có Trƣơng Quí Lâm. Tôi không biết gì nhiều về những sinh viên đàn anh sắp ra trƣờng, nhƣng có thể kể Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Quang Huấn, Trần Văn Kính, Đặng Trần Lợi, Nguyễn Sơn, Phạm Hà Thanh, Phạm Ngọc Tỏa, Trần Kim Tuyến, Nguyễn Hữu Vị. Những sinh viên này về sau đã có thời đảm nhiệm những trọng trách lớn lao của ngành Quân Y. Cao Thiện Chánh cũng lên tới hàng Dƣợc sĩ Đại Tá. Riêng bác sĩ Trần Kim Tuyến, một nhân vật quan trọng của đệ nhất Cộng Hòa, không hành nghề y và trở thành Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Cũng một phần nhờ có ông mà các quân y hiện dịch không bị thiệt thòi so với đồng nghiệp bên ngành trừ bị.
Tôi hay cùng Bùi Duy Tâm đi thuyền buồm trên hồ Tây, đi đánh tennis ở sân Septo có các huấn luyện viên Xuân và Tịch chỉ dẫn. Thƣờng thƣờng đi ăn phở sáng, đi dạo chơi với Nguyễn Duy Sản. Chụp ảnh đẹp phải nhờ đến Dƣơng Minh Châu. Cũng có khi xem những phim giải trí cùng Hồ Văn Châm, Võ Tam Anh, Nguyễn Phú Duyệt. Duyệt còn mang bộ bài mạt chƣợc vào trƣờng Quân Y dậy cho tôi cách chơi. Nhiều khi muốn ra phố chúng tôi mặc quần áo dân sự sẵn, rồi khoác ngoài một chiếc áo mƣa và đội mũ nhà binh để trốn qua cổng gác. Sinh viên thời đó thƣờng chỉ có xe đạp hay xe gắn máy. Trừ Nguyễn Hiệp và Chu Tất Đắc có Vespa cũng hay chở tôi đi lòng vòng đủ mọi chỗ. Buồng tôi có Nguyễn Khắc Minh và Ngô Văn Nhâm là hai kiện tƣớng đã tập tành Bắp Thịt Trƣớc Đã của Phạm Văn Tƣơi thật đều đặn và thành công. Tôi quá dở, quyển dậy thể dục giản dị nhƣ vậy mà muốn theo cũng không nổi! Tennis vô địch sinh viên có Trần Văn Khoan. Nhƣng nhà trƣờng chƣa thấy có một đội cầu thủ sáng giá nào, về quần vợt, bóng rổ, bóng truyền hay bóng bàn.
Gần kỳ thi cuối năm thì Y sĩ Thiếu Tá Đinh Văn Thắng lên thay Y sĩ Trung Tá Nguyễn Đình Hào làm Giám Đốc. Ông có dành một buổi nói chuyện với các anh em về tình hình đất nƣớc. Nhƣng ông, Y sĩ Đại Úy Nguyễn Thìn, và một số ít sinh viên quân y đã ở lại không di cƣ vào Nam.
Theo thông lệ, sinh viên quân y phải đi tập quân sự một tháng hè trong hai năm liên tiếp, rồi năm sau mới tới phần tập sự tại các đơn vị liên hệ. Ngày 12 tháng 7 năm 1954, chúng tôi lên máy bay Cosara vô trƣờng Liên quân Đà Lạt EMIAD. Khi ấy, Đại Tá Nguyễn Văn Chuân làm chỉ huy trƣởng. Đại Úy Nguyễn Ngọc Khôi phụ trách chƣơng trình huấn luyện cho Quân Y cùng một số sĩ quan Pháp đang dậy quân sự tại đây.
Có lần chúng tôi đƣợc đi du ngọan thác Pongour, và leo lên đỉnh núi Langbian. Ban đêm chúng tôi đeo súng đi men đƣờng rừng và leo đèo. Lại sợ bắn nhầm nhau thay vì bắn cọp, tuy đã nhắc nhau nhiều lần khi đi đƣờng thì súng phải cài chốt an toàn mà vẫn có anh quên. Kể khi hiệp định ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève ký kết, anh em chúng tôi ai cũng có mối lo nghĩ riêng. Nếu gia đình vô Nam thì ở đâu? Mà gia đình ở lại Bắc thì rồi sẽ ra sao? Tôi may có anh Ngô Yên Quế, con cụ Ngô Dự Trƣơng, thƣờng chuyển thƣ nhà từ Hà Nội gửi vào Nam cho tôi trong mấy tháng trời đầy giao động này. Tại Đà Lạt, vào dịp mãn khóa, trƣờng Quân Y phải tổ chức một buổi văn nghệ cho công chúng xem ở một hí viện thành phố. Chúng tôi có dịp tập hát tập kịch nên cũng quên đi phần nào câu chuyện thời sự. Hôm trình diễn, Bùi Quốc Trụ đại diện trƣờng đọc diễn văn và giới thiệu các tiết mục. Ban đồng ca trong có Vũ Quí Đài trình bầy bài Tình Quê, lời của Hồ Đình Phƣơng, nhạc của Châu Kỳ. Ban kịch trình diễn vở Sang Sông của Hoàng Ngọc Khôi. Khôi về sau trở thành một bác sĩ kiêm nhà văn nhà thơ và định cƣ ở Canada. Nguyễn Thế Minh trong vai ông đồ đang ngồi ngất ngƣởng uống rƣợu ngâm thơ, để xem hoa nở và chờ trăng lên. Anh xuất sắc trong đủ bộ môn văn nghệ. Nguyễn Khái trong vai bà đồ hiền lành chịu khó. Hồ Văn Châm đóng vai cô gái yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Tôi thủ vai một chàng trai vui chơi, đang rƣợu chè say sƣa. Nhƣng đến màn cuối, lúc mọi ngƣời thức tỉnh thì tất cả cùng kéo nhau sang sông về Nam. Về miền tự do.
Hết hè, Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Duy Sản và tôi rủ nhau đi thăm Huế. Phải cám ơn hai bạn Hồ Văn Châm và Võ Tam Anh đã hƣớng đạo, chỉ dẫn cho chúng tôi thấy sự thơ mộng nơi sông Hƣơng núi Ngự, cùng các nét kiều diễm của giai nhân đất thần kinh này. Những ngày đẹp trời, chúng tôi đi thăm viếng các lăng tẩm nhà Nguyễn, chùa Thiên Mụ, chợ Đông Ba, thôn Vĩ Dạ, khu Gia Hội. Đƣợc gập ca sĩ trẻ tuổi nổi danh Kim Tƣớc. Tôi cũng nhân dịp thăm hỏi các bạn Nguyễn Phúc Bửu Tập, Phạm Thị Mộng Thu, Vĩnh Đằng.
Hè năm sau khi chúng tôi lên EMIAD để tập quân sự thì Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu làm chỉ huy trƣởng. Bạn bè quân y có thêm nhiều ngƣời, Phùng Quốc Anh, Chu Bá Bằng, Bùi Thế Cầu, Trịnh Văn Chính, Nguyễn Hùng Tín, Bạch Đình Minh, Phạm Ngọc Tùng, Bạch Toàn Vinh, Tạ Văn Quang, Phạm Kỳ. Toàn những anh hùng hảo hớn, về sau có thời đã đảm nhận các chức vụ chỉ huy quan trọng. Tạ Văn Quang Viện Bào Chế Quân Đội, Phùng Quốc Anh Bệnh Viện Nha Trang, Chu Bá Bằng Bệnh Viện Hồng Bàng, Bạch Đình Minh Bệnh Viện Nguyễn Văn Học, Bùi Thế Cầu Tỉnh Trƣởng Gia Định, Trịnh Văn Chính Trung Tâm Tiếp Huyết, Bạch Toàn Vinh Viện Thí Nghiệm Trung Ƣơng. Nhƣng vì không ăn ở cùng nhƣ ngoài Bắc, nên ít kỷ niệm về trƣờng để viết hơn.
Vào Sài Gòn, cơ sở tạm của trƣờng Quân Y gần cầu chữ Y trong Chợ Lớn không đủ chỗ cho sinh viên mà cũng không có lấy đủ tiện nghi nhƣ ở Hà Nội. Lúc này quyền Chỉ Huy Trƣởng là giáo sƣ Y khoa Trần Anh, rồi tiếp đến Y sĩ Thiếu Tá Nguyễn Hữu Thƣ làm Giám Đốc. Lon đƣợc đổi lại theo kiểu Mỹ, hoa mai vàng gắn trên cổ áo. Sinh viên quân y nhiều ngƣời có thể về sống với gia đình. Nguyễn Văn Chất và tôi ở trọ học cùng chỗ với Nguyễn Văn Phác, anh của Chất, tại một căn nhà đƣờng Ngô Tùng Châu, trông sang một vƣờn hoa nhỏ. Anh Phác, một kỹ sƣ rất giỏi tốt nghiệp Cao Đẳng Công Chánh, mấy tháng sau sang Pháp du học về Khí Tƣợng. Chúng tôi ngủ trên một căn gác xép, nhà trọ còn có Nguyễn Văn Sáu làm kế toán cho Comptoir des Produits Chimiques đƣờng Bonard. Cũng có dạo Nguyễn Hiệp đến đây ở cùng chúng tôi, vì gia đình anh lúc đó còn tính ở lại Hà Nội. Rồi con bà chủ nhà là anh Robert bị thủy đậu. Tôi sợ lây bệnh nên tạm ra ở cùng Bùi Đình Nam trong Khu Lều của sinh viên Đại Học Hà Nội. Những dẫy lều nhà binh thật lớn cất liền sát nhau trên nền khám lớn cũ đƣờng Gia Long. Mỗi lều trong có kê những phản gỗ dài và chừa lối đi ở giữa, có thể chứa chừng 20 sinh viên. Trời nóng nực nhƣ thiêu đốt lúc ban ngày, nhƣng buổi tối có gió mát từ phía sông Sài Gòn thổi vào. Tôi đƣợc gập lại đa số bè bạn từ các phân khoa đại học miền Bắc. Vào khoảng giữa năm 1955, Nam và tôi về ở Đại Học Xá Chợ Lớn mới đƣợc xây cất xong cho tiện việc đi lại học hành.
*
Đại Học Xá Chợ Lớn
Tại sao nhiều bè bạn của tôi hay viết lại kể lại về Đại Học Xá Minh Mạng Chợ Lớn?
Vì một thời sinh viên sống động? Hay vì đang tuổi thanh xuân với những chuỗi ngày đầy vui buồn? Không, theo tôi, có lẽ đúng hơn là vì một nơi mà sự chung đụng đã làm tình bè bạn trở thành có thật, rất nhiều sinh viên đối với nhau thân thiết không kém gì anh em ruột thịt. Nhất là trong cảnh huống của những ngày mới di cƣ vào Nam đầy hoang mang lo lắng. Thời của một số sinh viên đƣợc làm convoyeur theo tầu chở đồng bào di cƣ từ Bắc vô Nam, đƣợc đi những hội nghị Bandung ở Mã Lai Á, Birmingham ở Anh, đƣợc tham dự những Work camp tại Nhật. Đi họp hội nghị Bandung có Trần Thanh Hiệp, Birmingham có Huỳnh Ngọc Thiện, Bùi Minh Đức và Nguyễn Văn Thành. Dự trại hè bên Nhật kỳ đầu có Hà Thị Phấn, Lƣu Bội Chu, rồi tới Nguyễn Tuyết Bích, Bùi Minh Đức.
Đại Học Xá nằm trên một khu đất rộng cuối đƣờng Minh Mạng số 230, chung quanh có hàng rào cây thƣa. Từ ngã sáu Chợ Lớn đi qua khu Cƣ Xá giáo sƣ và nhân viên làm cho đại học thì tới khu Cƣ Xá sinh viên. Đại Học Xá trông sang hông nhà thờ ngã sáu cổ kính. Cổng vào xây gạch trên có bảng tên lớn, có hai cánh cửa rộng mở sang hai bên. Đƣờng chính trải nhựa chạy thẳng
qua hai dẫy nhà sinh viên nằm thẳng góc, dẫy nhà đánh số chẵn 2, 4, 6, 8 bên tay phải, dẫy số lẻ 1, 3, 5, 7 bên tay trái. Mỗi dẫy có nhiều phòng trông ngay sang phòng của dẫy đối diện, và cách nhau bằng con đƣờng đất rộng trồng nhiều cây trứng cá. Cửa phòng mở ra một vỉa hè xi măng dài có rãnh nƣớc, và các phòng cùng trong một dẫy tựa lƣng vào nhau, phòng phía đầu đánh số 1. Mỗi phòng có sáu giƣờng ghép từng đôi một, có tủ hai cánh ngăn giữa, có bàn học chạy theo chiều dài và kê sát một hàng cửa sổ nhỏ, đủ chỗ cho sáu sinh viên độc thân. Tƣờng thấp, mái lợp fibrociment nhƣng có trần bằng carton, nên nhà ở cũng thoáng và mát. Ngoài các vòi nƣớc phía trƣớc phòng, cuối mỗi dẫy có các phòng vệ sinh, phòng tắm.
Theo con đƣờng chính, qua khu sinh viên tới khu đất trung tâm có dựng một cột cờ. Rẽ sâu phía tay trái có nơi đặt bàn ping-pong, chỗ để xe máy, chỗ dành cho thợ hớt tóc, rồi tới khu nhà ăn nhà bếp. Câu lạc bộ sinh viên gồm một quán ăn có quầy bán hàng, với nhiều dẫy bàn ăn có ghế dài hai bên. Rẽ chếch phía tay phải là Ty Y tế sinh viên. Thời tôi ở có các bác sĩ Bùi Quốc Hƣơng, Thái Minh Bạch dễ dàng nhanh nhẹn trông coi. Cùng với các y tá thật là hiền hậu vui tính, nhƣ bà Hiền, bà Tích, có bà Hồng phụ y tá rất siêng năng. Bà Tích, phu nhân của tƣớng Phạm Hữu Nhơn, có tài chích gân thật giỏi ít ai bì. Bùi Đình Nam và tôi thƣờng nhờ bà chích cho mỗi ngày Bévitine và Vitascorbol của Spécia, hai thứ sinh tố B1 25mg và C 500mg trộn lẫn, để lấy sức vào dịp học thi.
Hai dẫy phía ngoài, cả chẵn và lẻ, dành cho sinh viên đã lập gia đình, các anh chị Ngô Văn Hiếu, Quan quang Hoa, Bùi Xuân Hòa, Phạm Hy Khang, Đỗ Nhƣ Kim, Nguyễn Tƣ Mô, Võ Tƣ Nhƣợng, Tạ Văn Quang, Doãn Quốc Sĩ, Uông Ngọc Thạch. Rồi tới nhiều dẫy số chẵn dành cho các sinh viên độc thân miền Trung. Bên dẫy số lẻ có nhiều sinh viên độc thân miền Bắc, nhƣng cũng có ngƣời chỉ ở tạm một thời gian ngắn. Chúng tôi ở dẫy 7. Dẫy 7 phòng 1 có Võ Đạm, Nguyễn Tiến Đạt, Đặng Quốc Phú. Dẫy 7 phòng 2 có Đào Quốc Anh, Bùi Thế Cầu, Nghiêm Hữu Đôn, Trịnh Đình Thiện, Nguyễn Hùng Tín, Vƣơng Tú Toàn, Nguyễn Đình Thông, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Vinh. Dẫy 7 phòng 3 có Phùng Quốc Anh, Chu Bá Bằng, Trƣơng Sĩ
Lãng, Nguyễn Khắc Minh, Bùi Đình Nam, Nguyễn Xuân Nghiên, Trần Nhƣ Nguyên, Bùi Đức Phƣơng, Nguyễn Văn Thiệu và tôi. Dẫy 7 phòng 4 có Đàm quang Hƣng, Nguyễn Bích Nhƣ.
Sinh viên tại đại học xá thuộc đủ thành phần Y Nha Dƣợc, Quốc Gia Hành Chánh, Sƣ Phạm, Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa. Nhiều sinh viên đẹp trai, học giỏi, nhƣng ít con nhà giầu. Chúng tôi thƣờng gọi nhau bằng những biệt danh rất là tếu. Gì cũng cƣời nhƣ T. toét, Ph. toét. Điệu bộ kiểu cách nhƣ T. lọ. Ít vẻ sáng sủa nhƣ T. tịt, T. xỉn. Cao lớn khỏe mạnh nhƣ V. tồ, Đ. cồ. To con lực lƣỡng thì lấy tên chàng Vọi trong chuyện Trống Mái của Khái Hƣng làm hình dung từ nhƣ Th. Vọi. Hùng dũng anh chị nhƣ C. xế, K. xế. Mập mạp nhƣ Th. béo. Bụng bự nhƣ K. phệ. Tƣơi trẻ nhƣ M. con. Đứng tuổi nhƣ H. già. Có khi lấy hình dạng đầu tóc để gọi tên nhƣ T. sọ dừa, T. đầu xù, B. xoăn, H. hói. Cận nặng nhƣ Q. mờ. Răng đƣa ra nhƣ N. vẩu. Khôn ngoan nhƣ Th. hạm. Hiền lành thật thà là T. thầy, nhƣng nếu thật quá lành nhƣ ông thủ từ giữ chùa thì biến thành thủ Đ., thủ Ph. Tên ngƣời ta đem ghép thêm chữ để cố cho thành nghĩa nhƣ N. mực, Tô mì. Đẹp trai nhƣng hay ngạc nhiên ngây thơ là Phùng Há. Tính giống cậu ấm, đƣợc quá nuông chiều coi nhƣ ấm đã sứt vòi rồi, thì gọi là T. sứt. Còn có biệt danh không ra đâu vào đâu cả, vì chẳng biết xuất xứ ra sao, nhƣ Kèo, Cột. Thật ra gọi tên nhƣ vậy để cho thân mật hay muốn trêu nhau cho vui mà thôi. Cũng để phân biệt những bạn cùng tên, nhƣ nếu hỏi đến T. thì là T. nào? T. lọ, T. lác, hay T. thầy? Chúng tôi còn dùng chữ phó cạo để chỉ ngƣời có tài khen nịnh, dễ làm ngƣời nghe khoái chí, và lâu dần trở thành nghiền. Thiên hạ ai cũng có ít nhiều tài này cả, thích khen mà cũng thích đƣợc khen. Phó cạo cao cấp nhất có lẽ là Ng. V. H.
Về giảng hay thì đại học xá có nhiều ngƣời lắm, sinh viên đều thi nhau chức phó giảng cả. Nhƣng giỏi nhất trong bè bạn phải kể V. V. Tr, việc gì dù khó đến đâu anh cũng giảng thành dễ hiểu. Không hiểu tài này anh học trƣờng nào hay là thiên phú? Minh và Bằng tuy ở nhà với gia đình nhƣng hay đến ở phòng 3 để cùng học. Một cập bài trùng. Minh thú đọc tiểu thuyết nhật báo Trăng Nƣớc Đồng Nai của Nguyễn Hoạt, không hiểu có phải vì anh có ít nhiều cảm tình với một cô bạn học miền Nam hay không? Nghiên thì thỉnh thoảng mới đến đại học xá chơi. Lúc này anh đã nổi danh với những lớp luyện thi tú tài tại Sài Gòn và kiếm rất nhiều tiền. Trung kiên nhất có Nam, Thiệu, Phùng Quốc Anh và tôi. Chúng tôi thích đọc các truyện của nhóm Sáng Tạo, Tự Do, Văn Nghệ Tiền Phong. Bạn bè ở phòng 2 và 3 có lệ thƣờng đi ăn chơi cùng, lúc về thì chung
tiền đều nhau. Lối đóng góp này đƣợc gọi theo tên một thần ái tình của Ấn Độ là KAMA, hay không ai mời ai. Chúng tôi cũng sinh hoạt trong Đoàn Sinh Viên Đại Học Hà Nội rồi.
Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia mà chủ tịch đầu tiên là Nguyễn Tấn Chức, nhƣ đi dự lể tiếp thu Trƣờng Luật từ giáo sƣ ngƣời Pháp, đi phản đối Uỷ Hội Quốc Tế Đình Chiến tiếp tƣớng Văn Tiến Dũng ở Catinat. Phải đọc Những Gì Còn Nhớ của bác sĩ Từ Uyên viết, mới thấy rõ các hoạt động của sinh viên thời ấy. Nam có lần đứng ra tổ chức các lớp hè bổ túc cho học sinh trung học tại trƣờng tiểu học Cầu Kho Chợ Lớn. Tôi có tham dự vào ban giáo sƣ tình nguyện. Anh nhờ tôi viết một diễn văn cho ngày khai mạc, mà phải làm sao ghi vào một câu anh ƣa thích nhất: ”các em là hình ảnh chúng tôi năm mƣời năm về trƣớc...”. Bây giờ, giả dụ có viết lại, tôi phải đổi thành năm sáu mƣơi năm về trƣớc! Khi sinh viên tổ chức tết, có lần Nguyễn Tiến Đạt và tôi nhận đóng vở kịch Tuyển Phu. Đạt đóng vai tráng sĩ to lớn khỏe mạnh, tôi vai văn nhân chân yếu tay mềm. Nhƣng vào lúc cuối tôi bị cảm cúm phải có ngƣời thế. Cảm thật chứ không vì cô gái tuyển phu hiện ra quá xấu nên hai chàng hỏi vợ đều sợ đến té xỉu!
Tại đây môn ping-pong là môn vui nhộn nhất. Ai thắng một ván thì đƣợc chơi tiếp ván sau. Có nhiều cầu thủ giỏi nên ở lại mãi. Tôi chỉ chơi tàm tạm, thƣờng đánh cùng Nguyễn Hữu Bao, Nguyễn Thế Minh, Từ Ngọc Quang. Có lần tổ chức giải Bóng bàn Sinh viên mới thấy nhiều nhân tài, mà Hà Xuân Du là một. Âm nhạc thì chỉ thấy Phạm Văn Ngọc chơi Violon.
Nhân viên làm tại đại học xá có ông Bƣởi coi việc thƣ từ, ông Chánh coi xe cộ của viện. Những ngƣời bản chất rất trung hậu. Còn có ông phó cạo vui tính đến hớt tóc cho inh viên, vừa cắt khéo vừa nói chuyện hay. Và ông thợ giặt hiền lành thƣờng xuyên đến tận phòng nhận quần áo đem về giặt ủi.Có dạo Sài Gòn chiếu phim Vacances Romaines. Một câu chuyện tình tuyệt đẹp tại Rome giữa công chúa và nhiếp ảnh gia, đóng bởi hai tài tử gạo cội Audrey Hepburn và Grégory Peck. Chúng tôi thƣờng đi Mobylette nay đua nhau mua Vespa thấy trong phim ảnh. Lúc đầu chỉ có Vespa 125 của Pháp, sau mới xuất hiện Vespa 175 của Ý đẹp, mạnh và tốt hơn. Cũng có các bạn Ban, Vinh chơi xe Lambretta. Nhiều chủ nhật cả nhóm rủ nhau đi năm bẩy chiếc xe sang nhà Bè hóng gió mát.
Sinh viên lúc này đã nhiều ngƣời mua xe hơi loại nhỏ nhƣ Fiat 1100, Citroen 2CV, Renault 4 CV.
Một hai năm đầu anh Bùi Đình Nam trông nom câu lạc bộ. Rồi xẩy ra sự xích mích với một số sinh viên, nên quán cơm đƣợc giao lại cho một ủy ban quản trị gồm 6 ngƣời, trong đó có Võ Đạm. Tôi vì mua chung chiếc xe Peugeot 203 với Nam lúc đó để cùng đi cùng về các lớp học và phòng thực tập, cũng cảm thấy bquán cơm này. Bạn bè dẫy 7 phòng ất tiện nếu tiếp tục ăn ở, 2 và bèn rủ nhau đi ăn cơm tháng ở tiệm Sinh Ký, một nh à hàng nổi danh vì món vịt quay ở ngay gần đại học xá. Chúng tôi quen ông chủ tiệm này, nhƣng ông có nói là không ăn đƣợc đâu. Mà quả thật nhƣvậy, cho dù ông đã làm riêng thực đơn riêng cho chúng tôi mà ăn cơm tầu đến ngày thứ ba thì chán ngấy chịu không nổi. Nhân viên nhà hàng thì khác, vì họ ăn uống rất giản dị nhƣ các ngƣời trong nhà bếp. May mắn ngay sau đó chúng tôi có bà Hồng cho ăn cơm tháng trong ít lâu!
Ngại nhất là những ngày tết. Đƣờng Trần Hƣng Đạo có hiệu Quốc Hƣơng bán đủ các món Bắc chính hiệu rất ngon, giò chả, bánh chƣng, thịt đông dƣa chua, nhƣng lại không mở vào ngày tết.
Có lần Nam và tôi lái xe lòng vòng quanh Sài Gòn Chợ Lớn mà mãi mới tìm đƣợc một hàng ăn tầu ở chợ cũ mở cửa ngày mồng một. Nhƣng món ăn tầm thƣờng. Năm sau thử đi ăn tết tại nhà anh của Nguyễn Văn Thiệu, ông Thiện ấy dành riêng cho ba chúng tôi một mâm thịnh soạn. Nhƣng cũng không phải là giải pháp tốt, vì ăn mà cảm thấy quá phiền phức cho ngƣời chủ nhà. Tới khi ra trƣờng rồi thì có chuyện khác để lo, nên ăn uống tết nhất không còn là vấn đề nữa.
Hầu hết sinh viên ở đại học xá sau này thành danh và giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền quốc gia. Phải kể vài nhân vật trong những dòng sau, là những gì chƣa quên. Giáo sƣ có Vũ Xuân Châu, Kiều Quang Đạo, Đàm Quang Hƣng, Lƣu Trung Khảo, Đinh Tiến Lãng, Nguyễn Bích Nhƣ, Doãn Quốc Sĩ, Lê Thuần Vinh. Bác sĩ có Đào Quốc Anh, Phùng Quốc Anh, Vũ Ban, Chu Bá Bằng, Nguyễn Hữu Bao, Bùi Thế Cầu, Võ Đạm, Phạm Quí Điểu, Nghiêm Hữu Đôn, Ngô Văn Hiếu, Quan Quang Hoa, Vũ Lan, Nguyễn Khắc Minh, Phạm Văn Ngọc, Võ Tƣ Nhƣợng, Đặng Quốc Phú, Uông Ngọc Thạch, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hùng Tín, Vƣơng Tú Toàn, Trịnh Quang Vinh. Nha sĩ có Phạm Hy Khang, Đỗ Nhƣ Kim, Nguyễn Tƣ Mô, Lê Xuân Chân.
Dƣợc sĩ có Bùi Xuân Hòa, Phạm Song Nam, Bùi Đình Nam, Trần Nhƣ Nguyên, Tạ Văn Quang, Trần Cẩn Thành và tôi. Đốc sự hành chánh có Lê Văn Kim, Trịnh Đình Thiện, Nguyễn Đình Thông. Kỹ sƣ có Hoàng Hồng, Hà Quang Thuấn, Nguyễn Thanh Hùng. Luật sƣ có Nguyễn Tiến Đạt, Vũ Văn Huấn, Nguyễn Duy Nguyên, Lý Quốc Sỉnh, Trần Cự Uông, Nguyễn Văn Vinh. Vinh sau làm cho Quân Pháp. Hà Quang Thuấn và Hoàng Hồng du học về khí tƣợng tại Pháp. Nguyễn Bích Nhƣ du học về Nguyên Tử Lực tại Bỉ, sau làm Giám Đốc Nguyên Tử Lực Cuộc Đà Lạt. Nguyễn Văn Cơ đi Tân Tây Lan sau về dậy cho hội Việt Mỹ. Nguyễn Văn Tuấn sang Pháp học nha sĩ rồi ở lại Lille hành nghề tƣ. Tôi trở lại đại học xá vào cuối năm 1958. Trong lúc chờ đợi giấy tờ đi Pháp, tôi tạm nhận dậy toán lý hóa tại trƣờng Chu Văn An, và kèm thêm Trần Nhƣ Nguyên học thi dƣợc khóa hai. Vào chiều tối ngày 4 tháng 12, Võ Huỳnh lái chiếc xe Ford Fairlane 500 đến chở tôi ra phi trƣờng, cùng với Võ Đạm, cô Minh. Theo sau là chiếc xe Chevrolet Bel Air của Bùi Đình Nam do ông Hồ lái, có thêm Nguyễn Văn Thiệu, Trịnh Đình Thiện. Tôi luôn luôn nhớ những ngƣời bạn trung kiên này, Nam quí trọng bè bạn, Thiệu có khiếu tổ chức, Thiện rất biết cách sống. Tôi vẫy tay chào từ biệt đại học xá Minh Mạng và ông Bƣởi, ngƣời đã mở hai cánh cổng thật rộng để tiễn tôi tới một phƣơng trời khác lạ xa xôi.
*
Nhà Đông Dƣơng Paris
Chiếc Super Constellation của Air France chở Nguyễn Phú Lịch và tôi dừng ở Rome khoảng một tiếng đồng hồ. Phi cảng ban tối thật đẹp đầy ánh đèn mầu rực rở, có nhiều quầy bán đồ kỷ niệm và xa xỉ phẩm. Tiếng nhạc phát thanh rất êm dịu với bài Bambibo lãng mạn quen thuộc. Rồi máy bay đáp xuống phi trƣờng Orly vào đêm tối mịt ngày thứ bẩy. Thật là mừng vì chờ đợi mãi cũng sẽ có lúc tới đƣợc kinh thành ánh sáng nổi danh trên thế giới! Nhƣng khi qua quầy xét thông hành thì chúng tôi bị giữ lại vì không có chiếu khán vô Pháp. Trƣớc đây, tòa Lãnh Sự Pháp đƣờng Hồng Thập Tự có cho biết không cần chiếu khán xuất nhập giữa hai nƣớc. Bất ngờ đúng vào lúc đó, Việt Nam bắt ngƣời Pháp vô Sài Gòn phải xin chiếu khán nên ngƣợc lại họ trả đũa nhƣ vậy. Chiêu đãi viên Air France đã lấy chăn gối cho chúng tôi nằm nghỉ tạm tại phi cảng chờ Cảnh Sát giải quyết.
Tôi mệt quá nằm lăn ra ngủ, để mặc Lịch lo canh chừng hành lý. Sáng hôm sau chủ nhật, họ đành cho nhập cảnh tạm 48 tiếng. Chúng tôi lên một chiếc xe taxi DS19 còn mới, chạy thẳng về Nhà Đông Dƣơng, hay Maison de l‟Indochine, số 59B Blvd Jourdan, Paris 14è. Tới nơi may mắn gập ngay đƣợc ông Giám Đốc Masson. Ông tỏ vẻ vui mừng vì đã hai năm nay không thấy có sinh viên Việt nào đƣợc sang du học cả, nên chấp thuận để chúng tôi ở ngay. Ông cho kê thêm một chiếc giƣờng mới vào buồng 46 cho chúng tôi ở cùng. Vì trên nguyên tắc, năm đầu tiên hai ngƣời chia nhau một phòng. Năm sau Lịch ở lại, tôi sang buồng 38, có cửa sổ trông ra một vƣờn nhỏ, mà mỗi mùa xuân lại đỏ rực ánh hoa đào. Nhiều sinh viên ở đây là bạn học cũ, gập nhau tay bắt mặt mừng. Rồi Vũ Quang Kính và Nguyễn Hoàng Nghị mời chúng tôi sang quán Babel trƣớc khu Cité Universitaire ăn trƣa. Lần đầu tôi đƣợc biết hƣơng vị escargot de Bourgogne, trong cái rét mƣớt của mùa đông Paris!
Trên mạng lƣới toàn cầu hiện nay, tìm một tài liệu về nơi nào cũng dễ dàng, kể cả những sự đổi thay theo thời gian. Vì vậy tôi chỉ xin kể sơ qua về cảnh, mà chú ý đến con ngƣời, tâm trạng cùng các sự việc xẩy ra trong ngày tháng đó. Cité Internationale Universitaire de Paris đƣợc thành lập vào năm 1925 và tọa lạc trên một khu vƣờn rộng 34 mẫu tây. Tòa nhà Maison Internationale dành cho những sinh hoạt chung của sinh viên đƣợc xây cất theo kiểu lâu đài Fontainebleau nằm ở khu giữa. Nơi đây có hí viện, các phòng giải trí, quán ăn sinh viên với món ăn đặc biệt ngon lành và giá rẻ cho sinh viên. Nhà hàng phục vụ mỗi bữa đƣợc khoảng 4000 thực khách. Và có đủ các tổ chức cho sinh viên về văn hóa, về nghệ thuật, về thể dục thể thao. Trong thành phố đại học đặc biệt này có tất cả 37 cƣ xá có thể nhận 5000 sinh viên thuộc hơn 120 quốc gia trên thế giới.
Có nhà của Nhật Maison du Japon, của Cam bốt Maison du Cambodge, của Ý Maison de l‟Italie, của Na Uy Maison de Norvège, của Hòa Lan Collège Néerlandais, của Hi Lạp Fondation Hellénique. Mổi nhà đƣợc xây cất theo kiểu đặc trƣng của nƣớc đó, và cũng biểu tƣợng cho kiến trúc của thế kỷ thứ 20. Thời tôi số sinh viên mỗi nhà trên nguyên tắc có một nửa là sinh viên của nƣớc đó, còn một nửa là sinh viên Pháp hay ngoại quốc. Nhƣ vậy sự giao lƣu văn hóa thật dễ dàng. Ngƣời ta đã cổ võ cho sự hợp quần, tính hiếu khách, sự tôn trọng cá nhân và tính nhân nhƣợng. Chúng tôi thƣờng ăn sáng tại Maison des Provinces de France và ăn trƣa ở quán ăn France d‟Outre Mer FOM, hay tại Maison Internationale. Nhà hàng FOM cơm ngon và tiện lợi vì gần nhà Đông Dƣơng. Tuy vậy nhiều khi sinh viên phải xếp hàng dài, và vào những ngày có tuyết rơi mà chờ đợi quá lâu thì thật là chán ngán. Đƣợc ở ngay nhà Đông Dƣơng là một sự may mắn lớn lao khi chúng tôi chân ƣớt chân ráo tới Paris. Nhất là đã nghe danh của bao nhiêu nhân tài Việt từng ăn học tại đây. Thời chúng tôi ở chỉ còn sinh viên Pháp, Việt và Lào, ngƣời Miên đã có nhà riêng từ năm 1957 do ông Hoàng Sihanuk vận động xây cất. Maison de l‟ Indochine đƣợc khánh thành vào năm 1930, với lối kiến trúc á đông mái ngói góc cong. Không kể từng dƣới cùng có nhà bếp, thì 4 tầng chính có các phòng cho sinh viên. Tầng thứ 5 có phòng đặt bàn ping-pong. Kiểu nhà đặc biệt này cũng nổi bật trong số các nhà tại thành phố đại học. Đƣờng vô thềm nhà phải đi lên tám chín bậc đá lớn, hai bên có tạc sƣ tử rất đẹp đang há miệng. Cửa vào trông thẳng tới quầy phòng của gác dan, rẽ sang phía trái qua một cầu thang lên các tầng lầu trên là hành lang dẫn tới ác phòng sinh viên. Nằm phía thấp đối diện cầu thang là một phòng khách rộng rãi, có thể chứa trên dƣới hai trăm ngƣời trong các dịp lễ tết. Có chỗ để chiếc giá treo một cái trống vỉ đại, có góc đặt chiếc đại dƣơng cầm cũ rích, và một khu dành riêng cho máy truyền hình với nhiều dẫy ghế để ngồi coi. Mấy ngày sau chúng tôi đến thăm chị bạn học cũ Nguyễn Hạc
Hƣơng Thƣ. Chị đang làm luận án tại đại học Paris và ở một apartement trên tầng cao đƣờng Vavin với chị Hồ Đắc Hƣơng. Dƣới nhà là một hộp đêm khách khứa ra vào tấp nập. Thế mà các chị học hành đƣợc thì thật là quá giỏi. Thỉnh thoảng có dịp chúng tôi cũng đến trò chuyện và nấu ăn cùng. Chúng tôi còn hay đến chơi nhà anh chị Nguyễn Đức Hạnh, lúc đó mới có cháu gái đầu lòng. Anh Hạnh đang tu nghiệp ở Viện Pasteur Paris, chị Nghi là bạn học cùng lớp với Lịch. Bạn bè cũ sang du học tại đây rất đông, sinh hoạt giống nhƣ xƣa nên chúng tôi không thấy xa nhà lạ nƣớc. Riêng việc học hành thì không thành vấn đề để lo lắng cho lắm, vì là hệ thống vốn quen thuộc. Học bổng 45 ngàn quan Pháp một tháng thời đó cũng đủ xài. Từ nhà Đông Dƣơng tới trƣờng đại học Dƣợc Khoa Paris số 4 Avenue de l‟Obseratoire rất gần, có thể đi bằng bus số 38 hay métro từ Porte d‟Orléans rồi xuống Port Royal. Trƣờng Dƣợc trông sang phía nam vƣờn Luxembourg, buổi trƣa chúng tôi rủ nhau đi qua vƣờn sang khu Latin ăn uống rồi trở lại làm việc. Lịch về phòng thí nghiệm độc chất học ở tầng trệt, tôi lên phòng thí nghiệm sinh hóa lầu bốn. Ít lâu sau tôi đã quen đƣợc với công việc nơi đây, nhƣng đồng thời phải đi tập sự tại nhiều nhà thƣơng ở Paris để biết thêm những cách phân tích định bệnh. Giáo sƣ Malangeau có khuyên tôi là nên để tâm học hỏi về văn hóa và phong tục tập quán tại Pháp, chứ việc làm luận án thì dần dần rồi sẽ xong. Và đúng thật, phải ở lâu mới thấy đƣợc những vẻ đẹp và nét hay của thủ đô này, cũng nhƣ sự văn minh lịch sự của dân Paris.
Hai ba tháng sau có các bác sĩ trong đợt đầu đi tu nghiệp về ngành giảng huấn đại học, trƣớc hết là Mai Văn Đồng và Nguyễn Thế Minh, rồi đến Phan Ngọc Anh và Nguyễn Văn Ba. Dần dà, ai cũng đƣợc vào ở nhà Đông Dƣơng. Năm sau nữa tới lƣợt dƣợc sĩ Nguyễn Mạnh Hùng và bác sĩ Phạm Văn Biểu sang Pháp. Chúng tôi quen biết nhau từ bên nhà, nên thƣờng đi ăn uống cùng. Lúc tôi mới sang có một chủ tịch sinh viên nhà Đông Dƣơng ngƣời nhỏ nhắn nhã nhặn. Từ nay nhóm chúng tôi trở thành đông và bắt đầu tham gia các sinh hoạt tại đây. Sáu hay tám anh em đã vận động để Mai Văn Đồng trở thành chủ tịch sinh viên nhà Đông Dƣơng. Năm sau Nguyễn Văn Ba lên làm chủ tịch. Cũng vì làm nhiệm vụ chủ tịch, các anh ấy đƣợc phép cƣ ngụ thêm một năm tại đây, thay vì bình thƣờng sinh viên chỉ ƣợc phép ở có ba năm. Phan Ngọc Anh là một bác sĩ xuất sắc, có gì học nấy, anh học và đậu đủ các thứ bằng hậu đại học. Anh nói với tôi anh còn có cả bằng y học không gian. Ít lâu sau anh mang đƣợc vợ con sang nên tôi đoán chắc anh không tính trở về Việt Nam nữa. Nguyễn Văn Ba giỏi về nhãn khoa, có ai cần anh cũng đem vào nhà thƣơng chữa trị ngay. Nguyễn Thế Minh ƣa làm thí nghiệm, và anh nhờ tôi pha chế nhiều thứ thuốc thử. Nguyễn Phú Lịch hiền hậu, hiểu biết rất rộng và học hành rất nhiều. Anh đúng là một ngƣời mẫu mực. Nguyễn Mạnh Hùng thì lúc nào cũng ƣa lý luận, thật ồn ào vui tính.
Lúc đầu chúng tôi ai cũng muốn xong việc tu nghiệp hay luận án thì về nƣớc. Có thể sau hai ba năm, sau bốn năm năm. Minh, Hùng và Biểu đều muốn về sớm. Rồi có lúc hai giáo sƣ Trần Anh và Nguyễn Ngọc Huy sang tu nghiệp trƣớc khi thi Thạc sĩ cũng ở trong Cité Universitaire. Còn khi các giáo sƣ Đặng Vũ Biền, Nguyễn Thị Lâu, Nguyễn Đức Trang sang làm luận án thì cƣ ngụ ở Institut Franco-Vietnamien. Tôi cũng gập những bạn không ở khu học xá nhƣ Nguyễn Đình Ngọc, Trần Ngọc Toàn về Toán, Tăng Hồng về Kinh Tế, Nguyễn Văn Thành về Canh Nông. Có dịp ăn Giáng sinh tại nhà anh chị Ngọc, khi đó mới có cháu bé xinh đẹp nhƣ búp bê. Và đƣợc tập dƣợt bóng bàn tại nhà Đông Dƣơng cùng cao thủ Toàn, một kỳ tài về toán học. Tuy nhiên, kể từ khi sang Pháp, chúng tôi không có tin tức gì về các bạn Nguyễn Kim Thƣờng, Hoàng Ngọc Minh, rồi Bùi Duy Tâm, Vũ Quí Đài, Đào Hữu Anh, Nguyễn Khắc Minh đi về ngành giảng huấn theo học bổng Hoa Kỳ.
Nhà Đông Dƣơng có nhiều sinh viên giỏi đang học tại các trƣờng Cao Đẳng hay Đại Học của Pháp. Tôn Thất Ngọ, Nguyễn Chí Thành, Trần Tiến, Nguyễn Văn Tƣờng về Viễn Thông, Nguyễn Kim Cƣơng, Vũ Quang Kính về Hóa Học, Nguyễn Phúc Châu, Nguyễn Văn Cƣờng, Nguyễn Văn Thịnh về Cơ Khí, Nguyễn Trọng Kha về Kiến Trúc, Phạm Xuân Yêm về Vật Lý, Vũ Xuân Chi, Bạch Lý Từ về Toán, Nguyễn Văn Nhã về Thƣơng Mại, Đỗ Mạnh Hùng về Ngân Hàng, Ánh về Canh Nông. Thành thì tôi đã gập cùng với gia đình trong thời ly loạn tại làng Khuốc bên sông Luộc vào dịp tết năm 1950 trƣớc khi về Hà Nội. Kha thì sau trở về làm giáo sƣ đại học Kiến Trúc Sài Gòn, tính nhận làm Thứ Trƣởng cho Tỗng Trƣởng Giáo Dục Nguyễn Duy Xuân vào những ngày cuối cùng của đệ nhị Cộng Hòa.
Tôi muốn dành đôi dòng riêng về một ngƣời bạn thân anh Phạm Văn Biểu. Khi mới lên đại học, tôi thoáng thấy anh vào lớp Toán Đại Cƣơng, nhƣng rồi lại sang Lý Hóa Sinh để theo Y Khoa. Đƣợc nghe danh anh giỏi toán, tú tài hạng Bình của Albert Sarraut. Tôi sau sau đổi sang học Dƣợc, thành thử tuy cùng trƣờng nhƣng không cùng ngành. Học Y anh vẫn rất xuất sắc, ngoại trú nội trú rồi đậu ngành giảng huấn. Tại nhà Đông Dƣơng, chúng tôi có dịp thân nhau hơn, cũng hay bàn luận về nhân tình thế thái, về cuộc chiến Việt Nam, về thời đại phức tạp. Biểu bản chất tốt và rộng rãi với bè bạn lý tƣởng với công việc. Anh còn có tài tổ chức.
Nhƣng cũng dễ phản ứng với những sự tầm thƣờng hoặc trái tai gai mắt. Anh là một bác sĩ giỏi, thấy đƣợc sự giới hạn của kỹ thuật và kiến thức trong việc chữa trị bệnh nhân, nên mất dần hứng thú trong nghề Y. Cũng nhƣ tôi, thƣờng bất bình khi gập ngƣời và việc không ƣng ý trong ngành khảo cứu thuốc men. Môn Toán là tháp ngà trong khoa học sẽ gần với anh và tôi hơn, dễ biện minh, đỡ phải giải thích nhiều. Kể từ khi có anh sang Pháp du học, nhóm chúng tôi trở nên vui nhộn hơn. Nhiều lúc cùng chơi mạt chƣợc cho thì giờ qua vui, với những con bạc đều ít máu ăn thua. Có Nguyễn Đức Hạnh, Nguyễn Bá Mƣời, Nguyễn Phú Lịch, Nguyễn Thế Minh, Nguyễn Mạnh Hùng, Vũ Ngọc Can. Lịch đánh cao, Mƣời vui tính, Hùng loại chuyên nghiệp. Cũng có khi tổ chức ăn uống ngay tại phòng để mời bạn bè tụ họp, làm cỗ, sào miến, thổi xôi, đúc thạch. Hoặc nấu phở ăn thay cơm tại bếp của nhà Đông Dƣơng. Hay đi coi tuồng kịch hát múa với bạn bè, thỉnh thoảng cùng cô Mai con bác sĩ Vũ Ngọc Hùynh, và cô Thu cô Liên em của Y sĩ Thiếu Tƣớng Vũ Ngọc Hoàn cục Quân Y.
Những ngày hội thƣờng niên Fête des Nations mà sinh viên mỗi nhà trƣng bầy văn hóa của nƣớc mình trong khuôn viên thành phố đại học Paris. Những dịp nghỉ cuối tuần tại Palais de Chaillot.
Còn có khi rủ nhau đi ăn cơm Việt Nam ở quán ăn cụ Hồ hay cụ Diệm ở phố Monge. Cũng nhàn đàm với lý thuyết gia cộng sản là bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, chỉ một lần để rồi thôi. Vì tôi nhận thấy ngay cách trồng ngƣời nhƣ trồng cây của ông có tính máy móc hơn là nhân bản. Nhóm chúng tôi phải cám ơn Biểu, vì có anh mà tuổi thanh xuân nơi đất khách đƣợc tô thêm nhiều nét đẹp riêng. Cũng nhƣ Lịch, vì tình yêu và gia đình bên vợ, anh ở lại Paris lập gia đình. Nếu có về nƣớc, anh đã là một giáo sƣ tài ba và danh tiếng. Tại Pháp, sinh viên sinh hoạt công khai theo hai phe, phe quốc gia và phe cộng sản hoặc thân cộng sản. Mỗi năm, thƣờng có hội tết do hai bên tổ chức tại cùng một rạp Maubert Mutualité nhƣng khác ngày. Nhiều ngƣời Việt Nam vui vẻ đi dự cả hai buổi, có lẽ để gập đồng hƣơng và để quên nỗi sầu xa xứ. Nhƣng tết tại nhà Đông Dƣơng thì do sinh viên phe quốc gia tổ chức. Có một năm chủ tịch Mai Văn Đồng lên đọc diễn văn chúc mừng quan khách. Nguyễn Thế Minh với chiếc guitare đơn ca rất hay bản Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn. Vũ Quang Kính cùng bè bạn trình bầy đồng ca và biểu diễn hòa đàn mandoline. Nhƣng hay nhất phải kể cô ca sĩ trẻ và duyên dáng Thiên Hƣơng. Cô hát bài Chiều Mƣa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông, với tiếng đệm của một ban nhạc ngƣời Pháp. Tiếp theo là dạ vũ đầu xuân từ buổi tối tới rạng đông, máy móc âm nhạc do tôi cho mƣợn. Cũng có khi Tòa Đại Sứ tổ chức tiếp tân nhân dịp tết nhất.
Lúc đó, bác sĩ Phạm Khắc Hy làm đại sứ, ông Chƣơng Văn Định làm đệ nhất Tham vụ, và anh bạn Nguyễn Bá Mƣời làm tùy viên quân sự. Phe quốc gia ta đã thật vui nhƣ tết. Nói đến phe phái, tôi lại nghĩ đến chuyện Cam bốt tuy có nhà riêng tại khu đại học mà vì xung đột nội bộ đã phải đóng cửa liền 30 năm trời, từ 1973 đến 2003. Thật là kinh hoàng! Cũng may mà ta chƣa có đƣợc nhà Việt Nam ở Cité Universitaire? Nói đến ở Pháp, không ai có thể quên chuyện du lịch đƣợc. Thời bấy giờ, có nhiều sinh viên đi du lịch theo nhóm của cha Giảng, tổ chức rẻ và chu đáo. Trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh thứ nhì, Nguyễn Phú Lịch và tôi đi chơi cùng anh Sơn, các chị Hƣơng Thƣ, Xuân Hƣơng, Ngọc Trâm và các bạn sinh viên Pháp theo tổ chức Office Touristique Universitaire OTU. Trƣợt tuyết vùng Haute Savoie, hay đi quanh hồ Lehman ngắm bạch nga và thăm các thành phố sạch sẽ không một hạt bụi của Thụy Sĩ. Chúng tôi còn có dịp đi chơi vùng Đức và Áo cả tháng hè. Xem các viện bảo tàng, các kinh thành đẹp, các lâu đài đầy cổ tích. Cũng có hè Vũ Quang Kính, Phan Quốc Lũy, Nguyễn Kim Cƣơng và tôi đi cắm trại vùng Bắc Âu, qua rất nhiều nƣớc trên chiếc xe Simca. Đoạn đƣờng dài, có tối ngủ lại các quán Auberge de Jeunesse. Và đi xe qua thăm cả khu vực cộng sản Đông Bá Linh, nơi ăn uống rẻ rúng nhƣng phải có dân sở tại giới thiệu. Để rồi khi về từ Bá Linh qua xa lộ Đông Đức bị công an khám xét hạch hỏi thật là dễ sợ.
Cả tiếng đồng hồ trong một khu nhà xe đóng kín, đèn đóm bật sáng chƣng. Có lần cùng Phạm Văn Biểu, Nguyễn Thế Minh trên đƣờng tới Chamonix Mont Blanc, chiều xuống tuyết đổ xe Dauphine muốn lăn xuống vực thẳm, may nhờ gốc cây bên lề chặn lại đƣợc. Chúng tôi phải để xe ở thành phố Mâcon, ăn tối xong mới lấy vé xe hỏa đi lên Chamonix. Cũng có dịp đi Tây Ban Nha xem đấu bò rừng ở Barcelone, lặn ngầm dƣới biển coi cá tại Costa Brava với Tăng Hồng và Vũ Văn Huấn. Hay đi Dauville với Nguyễn Trọng Kha để nghe Dalida hát trong sòng bài. Hoặc lái xe đi thăm các Châteaux de la Loire cùng Vũ Văn Huấn. Hay sang Luân Đôn cùng Charles Meyer thuê boarding house gần Picadilly Circus nghỉ ngơi mấy tuần lễ trƣớc khi trở về nƣớc.
Rồi ngày ra về Việt Nam đã đến, một buổi sáng hè năm 1962. Sau buổi tiệc tiễn tại khách sạn, và đi xem trình diễn ở hí viện Lido tình cờ gập ông Đặng là Maître d‟ Hôtel tiếp đón thật niềm nở. Tôi phải từ giã Paris, kinh thành ánh sáng tuyệt đẹp của nhân loại này. Với bao nỗi vui buồn lẫn lộn. Và hi vọng có một ngày trở lại. Tôi còn giữ đƣợc vài tấm ảnh kỷ niệm chụp tại phi trƣờng Orly cùng mấy bạn thân đi tiễn. Có Nguyễn Phú Lịch, Phạm Văn Biểu, Bạch Lý Từ, Vũ Quang Kính, Nguyễn Kim Cƣơng, Phan Quốc Lũy, Vũ Xuân Chi, Vũ Văn Huấn, Phạm Ngũ Tùng, Mai Văn Đồng, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Phúc Châu, Nguyễn Văn Cƣờng.
Lại nghĩ đến nhà văn Alphonse Daudet viết về nỗi nhớ trại của chú lính kèn trong Nostalgie de caserne của Les Lettres de mon Moulin, rồi tƣởng tƣợng ra tất cả Paris đang diễn hành qua những rặng thông... Ah! Paris…Paris. Toujours Paris. Nhƣng riêng với tôi, trên đƣờng trở lại đất nƣớc thân yêu, từ nay Paris đã nhƣờng chỗ cho Sài Gòn.
Tết Giáp Thân, 2004
CHƢƠNG TÁM
Trƣờng Dƣợc Saigon và tôi
Từ sau cuối tháng tƣ 1975, giới Dƣợc sĩ tị nạn thƣờng có dịp ôn lại đôi ba câu chuyện về trƣờng Dƣợc xƣa. Nhiều bài rất hay và trung thực đã đƣợc đăng trong những số báo của các Hội Dƣợc sĩ. Câu chuyện thƣờng đƣợc kể theo nhãn quan, sự hiểu biết và kinh nghiệm của ngƣời viết, nhằm ghi lại kỷ niệm hay dữ kiện của một thời đã qua. Tôi không có khả năng hoặc ý định phê bình hay chỉ trích, về chính sách giáo dục hay nhân vật. Nhƣng nếu cho rằng lúc đó chƣơng trình học không thực tế, quá chú trọng vào khoa học căn bản hơn về dƣợc khoa thực hành, thì vì vậy dƣợc lực học đã đƣợc giảng dậy ngày càng nhiều hơn trong các sửa đổi kế tiếp. Hay lối học còn nặng về từ chƣơng khoa cử, nhƣng trƣờng có thiết lập đƣợc các chứng chỉ cao học thực dụng với bằng Tiến sĩ đệ tam cấp, và thi cử bớt nặng nề dần vì đã có nhiều hội đồng giám khảo khác nhau cho cùng một kỳ thi. Hoặc giả nói chƣơng trình Pháp ít hay nhiều hợp với xã hội ta hơn chƣơng trình Mỹ, hay bằng cấp Mỹ có giá trị hơn hay kém bằng cấp Pháp, thì sự so sánh đúng ra chỉ là tƣơng đối thôi. Và ai cũng thấy hay dở còn tùy thuộc nhiều phần vào nơi cấp phát và con ngƣời. Tôi cũng không có tham vọng viết về những quan điểm thời thƣợng và nhận xét thực tế cho tƣơng lai ngành Dƣợc nƣớc nhà, vì vấn đề này tùy thuộc thời thế và cảnh ngộ. Nhất là ở thời điểm này, nhân tài Việt rải rác khắp nơi nhiều nhƣ lá mùa xuân. Nếu có nêu lên đƣợc một vài điểm căn bản từ những dữ kiện cũ, hoặc cố ghi lại đôi điều suy nghĩ chƣa quên trong mƣời ba năm tôi liên tục phục vụ tại trƣờng Dƣợc, thì tính cách cần thiết đã mất đi vì năm tháng. Vậy tôi kể những dòng sau đây làm chi? Để đóng góp đôi chút kỷ niệm riêng tƣ cùng bè bạn xa gần cho vui? Dù sao thì vào lúc bình tâm cũng nhƣ khi đắc ý, chúng ta chắc không ai phủ nhận có nhiều dƣợc sĩ tốt nghiệp đã tạo thành quả khích lệ cho giới chúng ta và không hiếm giáo sƣ trẻ đã đem lại iềm hi vọng lớn lao cho thời buổi ấy.
Một chút riêng tƣ
Cuối năm 1958, tôi đƣợc sang Paris du học với học bổng của Viện Trợ Kỹ Thuật Pháp. Tôi rời Sài Gòn vào buổi tối. Có các bạn Võ Huỳnh, Võ Đạm, Bùi Đình Nam, Trịnh Đình Thiện, Nguyễn Văn Thiệu... đi tiễn từ Đại Học Xá Chợ Lớn. Tại phi trƣờng Tân Sơn Nhất, tôi gập anh Nguyễn Phú Lịch và gia đình. Cụ kỹ sƣ Thọ, thân sinh anh Lịch, dặn dò chúng tôi nếu ra đi có nhau thì hãy sớm trở về cùng nhau. Tôi chào từ biệt cô chú Khoa, chú thím Can, các em Nghiên, Hằng, và bè bạn thân quen... rồi cùng bạn Lịch lên chiếc phi cơ lóng lánh ánh bạc Super Constellation để sang Pháp du học. Chuyến bay của hãng Air France đi mất 33 giờ mới tới Paris, sau khi ghé qua Bangkok, Karachi, Téhéran, Ankara và Rome. Con đƣờng trải dài trƣớc mặt, đến đâu hay đó, suy tính mà làm chi? Mà thƣờng cũng phải bốn năm ăn học tại thành phố Ánh Sáng mới xong đƣợc luận án Tiến sĩ.
Khi giáo sƣ Trƣơng Văn Chôm sang Paris thi Thạc sĩ về Sinh Hóa vào cuối năm 1961, thì thầy đỡ đầu của tôi là giáo sƣ Jean Emile Courtois, làm chánh chủ khảo. Thời đó, theo tôi hiểu thì sau khi qua khảo hạch về tƣớc vị và công trình nghiên cứu, thí sinh phải giảng hai bài học. Một bài học về đề tài căn bản sau khi sửa soạn 4 tiếng đồng hồ. Và một bài học về đề tài thời thƣợng khi sửa soạn 24 tiếng đồng hồ có ngƣời giúp đỡ. Giáo sƣ Chôm nhờ tôi ở lại phòng thí nghiệm đêm hôm đó để kiếm tài liệu giùm ông, nhƣng rồi cũng không cần thiết. Nhân dịp này ông cho biết trƣờng Dƣợc đã tách ra khỏi trƣờng Y Dƣợc để thành một phân khoa độc lập, và rất mong tôi sớm trở về. Tôi thật ra cũng đã có quyết định sẽ về nƣớc vào năm tới.
Sau khi trình luận án Tiến sĩ về Sinh Hóa ngày 18 tháng 5 năm 1962, tôi sang Luân Đôn nghỉ xả hơi cùng với một anh bạn Mỹ khá thân, Charles Meyer, Ph. D. Biết tôi sắp về Sài Gòn, anh tặng
tôi một quyển tự điển danh-từ hóa-học Pháp Mỹ làm kỷ niệm. Tôi rời Paris từ phi trƣờng Orly vào một buổi sáng tháng 7 năm 1962. Trời trong xanh ngắt, có mây trắng trôi lờ lững và nắng ấm tuyệt đẹp. Nhiều bạn bè đƣa tiễn, có Nguyễn Phú Lịch, Phạm Văn Biểu, Mai Văn Đồng, Vũ Quang Kính, Vũ Xuân Chi, Phạm Ngũ Tùng, Bạch Lý Từ.... Phi cơ phản lực Boeing 707 của hãng Air France bay gần 20 tiếng đồng hồ rồi đáp xuống phi đạo Sài Gòn lúc giữa trƣa. Trời oi bức, ẩm thấp, không có lấy một làn gió nhẹ. Thủ tục quan thuế lại chậm chạp rƣờm rà. May mà đƣợc các bạn thân Nam, Thiện, Thiệu...ra phi cảng chờ đón. Sự vui mừng gặp gỡ làm tôi tạm quên cái nóng và nắng ngày hè, để trò chuyện đủ thứ. Tôi trở về nƣớc để lập gia đình, và cũng vì muốn đóng góp ít nhiều vào ngành Giáo Dục Đại Học còn phôi thai của Việt Nam.
Tôi nhận làm Giảng Sƣ môn Hóa Vô Cơ cho năm thứ nhất trƣờng Đại Học Dƣợc Khoa. Đa số sinh viên học thành tài hay chuyên viên sau khi tu nghiệp nhƣ tôi, ai mà không muốn về phục vụ cho quê hƣơng! Nhƣng nhiều khi lần lữa mãi chẳng quyết định đƣợc. Nhƣ trƣờng hợp anh bạn Nguyễn Bình Thành, con ông Chánh Án Lâm, ở trƣớc cửa buồng tôi trong nhà Đông Dƣơng của Thành Phố Đại Học Paris. Anh tốt nghiệp Cao Đẳng Viễn Thông và đã bán hết đồ đạc để về nƣớc. Thế mà mấy tháng sau anh mua lại, để cuối cùng không rời khỏi nƣớc Pháp. Trƣờng hợp anh kỹ sƣ Cƣờng thì đi về đến nửa đƣờng lại lấy máy bay bay trở lại, có lẽ vì cô vợ đầm chỉ muốn sống bên mẫu quốc? Riêng anh Nguyễn Phú Lịch, ngƣời bạn đồng hành thân thiết của tôi, ở lại lập nghiệp bên trời Tây, có thể nhiều phần tại gia đình.
Nhƣng chính vì vậy mà giáo sƣ Lịch đã giúp đƣợc bao nhiêu dƣợc sĩ Việt Nam tị nạn trở lại nghề cũ.
Trƣờng Dƣợc thời đệ nhất cộng hòa
Trƣờng Y Dƣợc trƣớc kia ở số 28 Trần Quý Cáp. Nay phân khoa Dƣợc tách riêng và dọn về trƣờng sở mới tại số 169 Công Lý, góc đƣờng Hiền Vƣơng. Tuy là một biệt thự cũ sửa lại, nhƣng khang trang, rộng rãi, tƣơng đối đủ tiện nghi. Có một số phòng thí nghiệm và mấy phòng học. Có giảng đƣờng lớn chứa cả 500 sinh viên. Nhân viên giảng huấn tuy còn thiếu, nhƣng đƣợc nhiều phụ tá lâu năm thật tận tâm. Nhƣ bà Thoa phòng Ký Sinh Trùng, ông Thiện phòng Vật Lý. Văn phòng có tạm đủ nhân viên, Tổng Thƣ Ký là giáo sƣ Phạm Đình Ái. Thƣ Ký là ông Vũ Ngọc Oánh. Từ trƣớc, chƣơng trình theo nhƣ của Pháp gồm 5 năm học. Lúc tôi về dậy thì chƣơng trình đã đƣợc đổi mới lần thứ nhất, dựa vào lý do là năm tập sự cũ, nay gọi là năm thứ nhất, có quá ít môn học, nhất là phần lý thuyết. Chuyển ngữ vẫn là tiếng Pháp. Hai môn Hóa Hữu Cơ và Hóa Vô Cơ nay đem xuống năm thứ nhất và năm thứ hai trong chƣơng trình mới. Tuy nhiên, nhiều môn học vẫn đƣợc giảng dậy trong hai năm liên tiếp nhƣ thƣờng lệ, thành thử còn phải có chƣơng trình chuyển tiếp cho các sinh viên đang theo học chƣơng trình cũ. Giáo sƣ Nguyễn Mạnh Hùng dậy Hóa Hữu Cơ. Ông yêu nghề, giỏi và rất tận tâm. Ông đến sớm, viết dàn bài trên bảng, và giảng đủ loại cơ chế phản ứng. Tôi dậy Hóa Vô Cơ, phần đầu có Hóa Đại Cƣơng, phần cuối có các Tinh Thể Chất Khoáng. Nhƣng gập nhiều khó khăn. Thứ nhất là sĩ số năm thứ nhất quá đông, cả ngàn sinh viên, nên phải chia lớp làm hai nhóm. Nhƣ vậy, mỗi bài học tôi phải nhắc lại hai lần. Thứ hai là giảng bằng tiếng Pháp thì các sinh viên theo chƣơng trình Việt khó ghi chép đƣợc, mà giảng bằng tiếng Việt thì các sinh viên theo chƣơng trình Pháp không hiểu.
Tôi đành phải soạn bài học bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt, rồi cho đánh máy trƣớc. Sinh viên khỏi cần ghi chép, khỏi lo chữ tác đánh chữ tộ, đến lớp chỉ để nghe lời giảng bằng tiếng Pháp
thôi. Nhƣng tôi đâu có thể nói thao thao bất tuyệt cả giờ đƣợc nên mang tiếng là hay đến trễ, về sớm. Trong môn Hóa Vô Cơ, rất nhiều điều học chỉ để biết, lúc cần thì tra cứu chứ không phải thuộc lòng. Riêng năm thứ hai chƣơng trình cũ vì có quá nhiều môn, nên trong kỳ thi giữa năm, tôi đã cho đề tài thi giới hạn. Lại thêm một việc làm để bị chê trách, nhƣng nếu giáo sƣ "tây" cho đƣợc thì "ta" cũng cho đƣợc chứ sao? Đến lúc chấm thi năm thứ nhất thì quả là cực hình, hơn một ngàn bài ít nhất cũng mất cả tháng trời. Trong thời gian này, tôi còn phải dậy Toán, về Xác Suất và Thống Kê cho năm thứ hai Dƣợc Khoa, và phụ trách Hóa Học cho năm thứ nhất trƣờng Nông Lâm Súc. Có nhiều khi cũng phải chấm kỳ thi tuyển vô Quân Dƣợc. Mấy năm sau sĩ số trƣờng Dƣợc mới tạm xuống mức giảng dậy đƣợc, vì lâu dần, nhiều sinh viên bị loại hay thấy không hợp với ngành này nên tự động chuyển sang ngành khác. Từ niên khóa 1965-1966, khi trƣờng áp dụng thi tuyển chỉ lấy 400 sinh viên mỗi năm, và tới niên khóa 1972-1973 lấy xuống còn 200 một năm, thì số sinh viên mới tiến dần tới mức ổn định. Nghĩa là mỗi lớp có khoảng 200 tới 300 sinh viên. Các sinh viên trƣờng Dƣợc ngoài chuyện học, còn có ngƣời có tài về nhiều bộ môn thi ca nhạc kịch. Có báo Đất Sống vào năm 1963 với các anh Vũ Văn Tùng, Nguyễn Ngọc Bình, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Thu Giao, Bùi Khiết, Lê Phục Thủy, Châu Thanh Thủy, Lƣu Văn Vịnh, Lê Thanh Nam, Nguyễn Đức Vinh...
Chị Hà Dƣơng Thị Quyên có nhờ tôi viết một bài "Đi tìm những chất kháng sinh" cho số ra mắt. Tôi đã mô tả những nguyên lý về sự tìm tòi và khảo sát các chất này. Đa số các bạn viết cho Đất Sống sau đã thành danh. Tôi cũng đƣợc nghe tiếng hát truyền cảm của Quốc Thắng với bài "Tôi đi giữa hoàng hôn", và gập Mã Gia Minh đàn hay thơ giỏi, phu quân của ca sĩ nổi danh Hoàng Oanh. Sinh viên thƣờng tổ chức các Đại hội mừng Xuân, những Lễ Tốt Nghiệp, các buổi ra mắt Ban Đại Diện thật vui vẻ thoải mái. Tôi còn nhớ một bài viết thật hay và cảm động của chị Ngô Tiên Dung đọc trong ngày ra trƣờng khóa 1961-1966. Và biết bao nhân tài của trƣờng Dƣợc kể sao cho hết.
Đầu năm 1963, giáo sƣ Lê Văn Thới của trƣờng Khoa Học lên làm Viện Trƣởng thay giáo sƣ Nguyễn Quang Trình, nay chỉ còn giữ một chức vụ Bộ Trƣởng Giáo Dục. Ông Thới cổ võ việc hiện đại hóa nền đại học, và khuyến khích các giáo sƣ đặt trọng tâm vào khảo cứu. Và ngƣời ta bắt đầu để tâm đến tác phong nhà giáo. Khoa trƣởng Trƣơng Văn Chôm lúc đó kiêm Chủ tịch Tổng Hội Giáo Giới, cũng bận tâm muốn lành mạnh hóa ngành giảng huấn. Tôi có dịp gập ông đi dạo chơi cùng bà vợ và con cái trên đƣờng Nguyễn Huệ. Ông yêu cầu tôi nhận dậy thêm Thực Tập Vật Lý cho lớp Dƣợc Khoa năm cuối, thay thế giáo sƣ Hùng, tại Bệnh Viện Đô Thành, gần Bùng Binh. Lại một trách nhiệm mới mà tôi phải tạm giữ cho đến khi giáo sƣ Đặng Vũ Biền về nƣớc.
Thời gian này, chính trƣờng miền Nam sôi động với phong trào đấu tranh của Phật giáo. Nhƣ các công chức khác của Đệ nhất Cộng Hòa, giáo chức đại học cũng đƣợc đi hay phải đi học tập lớp Ấp Chiến Lƣợc. Chiến dịch lập Ấp này qui mô hơn việc tạo lập các Khu Trù Mật trƣớc kia. Chúng tôi ăn ở trong trại tại Suối Lồ Ồ gần Biên Hòa khoảng một hai tuần lễ. Trại đƣợc thiết lập trên một mảnh đất rộng, gồm nhiều dẫy lều với giƣờng vải, và đủ các hàng quán ăn uống. Tôi nằm gần giáo sƣ Chôm, cùng với các Đổng lý, Chánh Văn Phòng bộ Giáo Dục... Lúc học về quốc sách Ấp Chiến Lƣợc, tôi thƣờng ngồi cùng các giáo sƣ Nguyễn Thế Minh, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê thành Trị,... Nhiều nhân viên cao cấp của chính phủ đã đến lớp giảng dậy, và dùng những danh từ thật độc đáo. Bộ trƣởng Nguyễn Quang Trình nói về chiến lƣợc hóa ngành giáo
dục. Đề tài khó mà hiểu đƣợc đến nơi. Trung tƣớng Trần Ngọc Tám nói về du kích chiến. Ông rất am tƣờng đề tài nên bài giảng của ông rất hay.
Chỉ tiếc rằng lúc này ông đang mắc vào vụ Cẩm Nhung bị tạt acid nên cử chỉ của ông không đƣợc tự nhiên cho lắm. Bộ trƣởng Công Dân Vụ Trƣơng Công Cừu nói về tự túc tự cƣờng. Là một nhà văn tài ba lỗi lạc, ông đƣa ra những khẩu hiệu nhƣ "Tam túc, tam giác, tam nhân". Đại khái ngƣời ta chỉ cần ba điều cho có đủ, ba điều đã hiểu biết đến nơi, là thành ngƣời công dân ích lợi cho xã hội bấy giờ. Ông mô tả thật hay những đứa trẻ lem luốc nhƣng vui chơi hồn nhiên nơi bùn lầy nƣớc đọng, mong hình ảnh này làm ngƣời nghe tin tƣởng ở sức sống và tƣơng lai dân tộc Việt. Nhiều buổi học còn có sự hiện diện của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Ông Nhu thỉnh thoảng tới góp ý kiến hay cho chỉ thị. Có lúc ông nói rất nhiều, nhƣng thật chúng tôi chẳng lĩnh hội đƣợc bao nhiêu. Một lần ông nói sấm sét trên trời chứa biết bao nhiêu là điện lực, nếu ta biết cách thu giữ lại thì dùng sao cho hết?
Ai nấy chú tâm ghi chép, nhƣng có lẽ chỉ làm ra vẻ ghi chép thôi. Giáo sƣ Minh, Hùng và tôi thƣờng kháo nhau không hiểu mấy vị cao cấp ngồi dẫy đầu ghi lại đƣợc những chữ gì trên mặt giấy? Khi trực thăng đƣa ông Cố Vấn ra về còn lùa bụi lên mù mịt, những vị này thƣờng đứng đợi cho đến lúc ông khuất bóng mới trở lại giảng đƣờng. Dẫu sao chúng tôi hiểu lờ mờ rằng không có viện trợ Mỹ thì nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn có thể tự túc để tồn tại đƣợc. Giáo sƣ Hùng là ngƣời có ý thức chính trị sắc bén nhất trong nhóm chúng tôi, nói là tình hình nghiêm trọng lắm rồi. Một hai tuần trƣớc có việc cấm treo cờ Phật giáo nhân ngày Phật Đản tại Huế, rồi các phong trào tranh đấu chống chính phủ gia tăng nhanh chóng. Một hôm đang học tập thì các giáo sƣ đại học đƣợc yêu cầu ra thông cáo ủng hộ đƣờng lối chính phủ trong vụ Phật giáo. Lại họp hành, thảo luận, rồi đi tới việc bỏ phiếu kín nên hay không nên ra thông cáo này.
Giáo sƣ Nguyễn Đăng Thục, nguyên Khoa Trƣởng Văn Khoa có đề nghị rằng phiếu sẽ đƣợc đốt ngay sau khi kiểm để tránh việc truy tầm ai bỏ thuận ai bỏ chống. Lúc này không ai bàn với ai cả, và tự tìm hiểu lấy. Mấy vị kiểm phiếu viên đƣợc bầu ra, và cuối cùng phe chống ra thông cáo ủng hộ chính phủ may mắn hơn đƣợc có một phiếu. Lớp học đƣợc bế mạc sau đó, và chiều ngày 5 tháng 6 tôi ra về thì nhà tôi sinh cháu trai đầu lòng tại Bệnh Viện St Paul. Từ đó, việc giảng dậy thêm một phần khó khăn. Rồi tới vụ tự thiêu của Hòa Thƣợng Thích Quảng Đức, các vụ tăng ni phật tử xuống đƣờng. Gần đến ngày cách mạng, sinh viên các trƣờng bãi khóa không vào lớp học. Năm thứ ba Dƣợc có chị Bùi thị Hậu Phúc tức bà dƣợc sĩ Bùi Hồng đứng lên yêu cầu nghỉ học, trong giờ học của giáo sƣ Vũ Ngọc Trân. Mấy hôm sau có tin chị ấy bị bắt. Tôi tới trƣờng sợ vào lớp dậy chắc cũng bị ném đá, nên ra ngồi dƣới gốc cây. Có sinh viên yêu cầu tôi từ chức và cho tôi biết là các giáo sƣ Phạm Biểu Tâm, Vũ Văn Mẫu đã từ chức cả rồi. Riêng Ngoại trƣởng Mẫu còn cạo trọc đầu phản đối.
Cách Mạng 1/11/1963 khởi đầu lúc 1 giờ trƣa và tôi không nhớ rõ đang ở đâu và làm gì. Chỉ biết có theo dõi tin tức qua đài phát thanh. Vào ngày hôm sau, lúc gần trƣa, đài loan tin cách mạng thành công. Ngƣời dân tràn ra đƣờng phố đông nghẹt, vì hiếu kỳ cũng có và vì thấy mọi chuyện yên ổn rồi cũng có. Chúng tôi đang lái xe về hƣớng chợ Bến Thành để thăm thú tình hình thì đƣợc tin đài phát thanh cho biết Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã chết ngay trên xe đƣa các ông về Tổng Tham Mƣu. Nền Đệ nhất Cộng hòa với bao hi vọng ban đầu nay đã chấm dứt quá bi thảm.
*
Trƣờng Dƣợc thời hậu cách mạng 1/11/1963
Ngay ngày sau tới trƣờng, tôi thấy cả một bầu không khí tƣng bừng mừng cách mạng thành công. Tại văn phòng, ngƣời ta nói Khoa Trƣởng Chôm cùng một vài vị liên hệ với Cần Lao nhƣ dân biểu Trần Tấn Thông, giáo sƣ Đào Hữu Giao đã bị bắt... Các giáo sƣ Vũ Ngọc Trân, Nguyễn Vĩnh Niên, Trần Ngọc Tiếng, Nguyễn Mạnh Hùng, Phan Thế Trân và tôi đang ở trong phòng Khoa Trƣởng thì nhân viên báo là có hai Tƣớng Dƣơng Văn Minh và Lê Văn Kim tới thăm. Tƣớng Minh nói là muốn lấy lại trƣờng sở 169 Công Lý này, và sẽ cho tu sửa thành Cộng Hòa số 41 Cƣờng Để làm trƣờng sở mới cho Dƣợc Khoa. Đây là lần đầu tiên tôi đƣợc diện kiến với Tƣớng Minh, ông nói chúng tôi muốn gì cũng đƣợc, rồi Công Binh sẽ thực hiện. Tƣớng Kim nhỏ nhắn trông học thức hơn, nhƣng ông không nói câu nào. Sau khi thăm các phòng thí nghiệm, hai ông lên chiếc xe Citroen đen ra về. Cũng có ngƣời nói trƣờng Dƣợc là nhà cũ của tƣớng Salan, tiện đƣờng ra phi trƣờng, điện thoại liên lạc rất tinh vi, nên các ông muốn lấy lại. Lúc này, Chuẩn tƣớng Công Binh Phạm Đăng Lân còn đang theo học Dƣợc, nên sự tu bổ trƣờng sở mới có phần dễ dàng hơn.... Chính phủ lâm thời với Thủ Tƣớng Nguyễn Ngọc Thơ và giáo sƣ Phạm Hoàng Hộ làm Tổng Trƣởng Giáo Dục, đã bổ nhiệm giáo sƣ Niên làm Khoa Trƣởng. Vì việc này trái với quy tắc tự trị đại học, nên hội đồng khoa phải nhóm họp gấp để chính thức bầu hai giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên và Trần Ngọc Tiếng trong chức vụ Khoa Trƣởng và Phó Khoa Trƣởng. Riêng giáo sƣ Hùng đã buộc giáo sƣ Niên hứa sẽ giữ ông lại giảng dậy mới chịu ký vào biên bản.
Câu chuyện trên bắt đầu từ lúc giáo sƣ Chôm không ở về trƣờng nữa. Khi bác sĩ Vƣơng Quang Trƣờng lên làm Tổng Trƣởng Y Tế, thì giáo sƣ Nguyễn Mạnh Hùng đƣợc yêu cầu trở lại quân đội, vì ông nguyên là Dƣợc Sĩ Trung Úy hiện dịch. Lý do chính là sinh viên không mấy ƣa thích lối giảng dậy và hỏi thi của ông. Nhƣng cũng có nhiều sinh viên ký kiến nghị giữ ông ở lại. Rút cục nhóm yêu cầu ngƣng chức ông thắng thế và quân cảnh đã dẫn độ ông về quân y. Ông phải đi phục vụ tại vùng Bến Hải, rồi sau đƣợc Tƣớng Nguyễn Chánh Thi đƣa về làm giáo sƣ của Đại Học Huế. Giáo sƣ Chu Phạm Ngọc Sơn của trƣờng Khoa Học đã thay thế ông giảng dậy môn Hóa Học Hữu Cơ cho Dƣợc Khoa.
Chính trị đã đƣa giáo sƣ Chôm lên đỉnh danh vọng, nhƣng rồi chính trị lại mang ông xuống đất đen. Nghĩ mà buồn cho cuộc thế. Ông sinh năm 1923 tại Phan Thiết, nguyên là Tổng Thƣ Ký Hiệp Hội Sản Xuất Nƣớc Mắm Bình Thuận. Làm luận án Khảo Cứu về Nƣớc Mắm với giáo sƣ Dumazert, ông nghiên cứu các cơ chế phản ứng và thành phần sinh hóa của nƣớc mắm bởi sự phân giải cá nục, cá mòi, cá cơm. Ông còn có mục đích khuyến khích ngành tiểu công nghệ này trở thành công kỹ nghệ. Ông đậu Tiến Sĩ Quốc Gia Dƣợc Khoa tại trƣờng Y Dƣợc Marseille vào năm 1954. Về nƣớc, giáo sƣ Chôm nhận làm Giảng Sƣ trƣờng Y Dƣợc Sài Gòn và là chủ nhân Viện Bào Chế Vanco. Ông có tƣớng ngũ đoản, rất hoạt bát, vui vẻ phúc hậu, có tài tổ chức và điều khiển. Ông rộng rãi với nhân viên và rất tốt với đồng nghiệp. Khi giáo sƣ Nguyễn Phú Lịch về thăm nhà vào năm 1963, giáo sƣ Chôm đã không ngần ngại ký giấy bảo lãnh để giáo sƣ Lịch có thể đƣợc phép trở lại Pháp trình luận án. Ngoài chức vụ Khoa Trƣởng trƣờng Dƣợc, ông còn là Chủ Tịch Tổng Giám Đốc Công Ty Vinaspecia và Chủ Tịch Tổng Hội Giáo Giới. Không có giáo sƣ Chôm, chắc còn lâu trƣờng Dƣợc mới trở thành một phân khoa độc lập.
Ông thật xứng đáng với danh vị Khoa Trƣởng đầu tiên, công của ông chắc không ai phủ nhận. Mấy năm sau ông có trở lại dậy tại trƣờng, kể cả dậy chứng chỉ đệ tam cấp Kỹ Thuật Lý Hóa cùng với giáo sƣ Biền và tôi, nhƣng có lẽ ông không còn nhiều hứng thú trong ngành giảng huấn.
Sau cách mạng, tôi trở lại giảng dậy Sinh Hóa thay giáo sƣ Chôm, và giáo sƣ Phạm Văn Tất thay tôi trong môn Hóa Vô Cơ. Tôi còn dậy thêm môn Hóa Dƣợc, cùng với giáo sƣ Hồ Đắc Ân. Nội tình miền Nam hỗn loạn với những chỉnh lý, đảo chánh, biểu dƣơng lực lƣợng, cho đến việc thành lập chính phủ quân nhân 1965. Về sau mới thấy hai giáo sƣ Niên và Tiếng khó làm việc chung vì không hợp tính nhau. Giáo sƣ Tiếng trở thành ông bầu về Thể Thao cho sinh viên. Bóng bàn, bóng rổ, quần vợt. Có lần tôi tham dự giải bóng bàn giữa các giáo sƣ Dƣợc và Khoa Học do ông tổ chức tại trƣờng. Giáo sƣ Thái Tƣờng đoạt giải đánh đơn, nhƣng các giáo sƣ Khoa Học thắng giải toàn đội. Khi những phòng thí nghiệm mới, các giảng đƣờng lớn, thƣ viện, vƣờn dƣợc thảo, phòng sinh hoạt sinh viên đƣợc xây cất ngay trong khuôn viên đại học, thì một số giáo sƣ tu nghiệp hay tốt nghiệp từ Pháp cũng lần hồi trở về. Giáo sƣ Đặng Vũ Biền dậy Vật Lý và phụ trách phòng thực tập tại lầu hai. Giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu dậy về Thực Vật và Ẩn Hoa học. Giáo sƣ Nguyễn Văn Hƣợt chia với tôi giảng dậy môn Sinh Hóa. Những năm sau có giáo sƣ Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ giảng dậy môn Dƣợc Lực Học, giáo sƣ Trƣơng Mạnh Khải giảng dậy môn Sinh Lý Học. Và giáo sƣ Nguyễn Hiệp cùng giảng dậy Dƣợc Liệu Học với giáo sƣ Nguyễn Văn Dƣơng. Từ nay, trƣờng có tuyển thêm giảng nghiệm trƣởng, giảng nghiệm viên, giảng nghiệm viên dậy giờ nên nhân viên giảng huấn cũng tạm đủ cho một số ban đã đƣợc thiết lập.
Là trƣởng ban Sinh Hóa, tôi coi thêm phần thực tập cho năm cuối. Thật may vì tôi đƣợc các giáo sƣ Quản Trọng Lạng và Phạm Huy Chƣơng, và vào năm 1967, có thêm giáo sƣ Nguyễn Lê Thi phụ tá cho tôi. Phòng thí nghiệm này gồm Sinh Hóa Học, Thủy Học, Độc Chất Học và Thực Phẩm Học. Giáo sƣ Lạng hòa nhã và có tài tổ chức, giáo sƣ Chƣơng giỏi và chăm chỉ. Giáo sƣ Lê Thi tuy mới ra trƣờng nhƣng rất xuất sắc, về sau còn phụ trách giảng dậy thêm phần lý thuyết Sinh Hóa. Riêng ông Huỳnh Văn Tƣ nghiệm chế viên cũng đắc lực từ khi phòng đƣợc thành lập cho tới khi trƣờng cho ông nghỉ việc năm 1973 vì có liên hệ với cộng sản. Vào năm 1966, hội đồng khoa bầu giáo sƣ Niên làm Khoa Trƣởng và giáo sƣ Biền làm Phó Khoa Trƣởng. Hai ông đƣợc bầu lại trong chức vụ nhiều lần cho tới đầu năm 1975. Giáo sƣ Niên hiền hậu, siêng năng, cẩn thận và ƣa việc hành chánh. Cuối năm 1974, ông đƣợc bổ nhiệm Phó Viện Trƣởng Học Vụ Viện Đại Học Sài Gòn, với giáo sƣ Viện Trƣởng Nguyễn Ngọc Huy. Giáo sƣ Biền nhiều tài ba và sáng kiến, ƣa hoạt động xã hội từ khi ông còn là sinh viên Hà Nội. Ông là Chủ Tịch Dƣợc sĩ Đoàn trong nhiều nhiệm kỳ, và năm 1968 làm Đổng Lý Văn Phòng Bộ Quốc Gia Giáo Dục thời Tổng Trƣởng Nguyễn Văn Thơ. Từ sau cách mạng, văn phòng nhà trƣờng đƣợc Tổng Thƣ Ký Huỳnh Văn Quí điều hành hoàn hảo và liên tục cho đến ngày Sài Gòn đổi chủ. Ông Vƣơng Trọng Tị coi Thƣ Viện, ông Oánh, bà Tiền,... phòng Học Vụ, ông Đát các giảng đƣờng.
Trƣớc tết Mậu Thân 1968, trƣờng có ý định thêm vào chƣơng trình dƣợc khoa các chứng chỉ đệ tam cấp đƣa đến việc làm khảo cứu và luận án Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp. Sau khi chờ đợi mãi, có lẽ dự thảo nghị định thiết lập đã bị bỏ quên tại một ngăn tủ nào đó, tôi phải đích thân lên Bộ để xin ban hành. Tôi muốn kể lại một chuyện bên lề ở thời điểm này. Đang lúc tôi chấm thi khóa hai năm 1968, thì giáo sƣ Niên đƣa cho nghị định của Viện hủy bỏ tên tôi trong phái đoàn đi quan sát nền giáo dục đại học Hoa Kỳ của Viện Đại Học Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Đà Lạt và Vạn Hạnh. Thật là quá chán ngán. Lên Bộ thì nói tùy Viện, xuống Viện thì bảo tùy Bộ. Lý do là không có tiền Viện Trợ Mỹ! Thế mà ngƣời tôi chƣa từng quen biết, ông Hoàng Sĩ Bình, phụ tá cho cố vấn Hoshall, nói hộ giùm tôi thì việc lại xong. Tuy đại học đƣợc tự trị, nhƣng nhiều thủ tục hành chánh quả là lỗi thời. Nhất là về vấn đề xuất ngoại du học hay tu nghiệp. Đƣợc trƣờng chấp thuận hay đề cử chỉ là bƣớc nhỏ ban đầu. Trở lại chƣơng trình đệ tam cấp. Chứng chỉ đầu tiên là Kỹ Thuật Lý Hóa. Sự thành công của chƣơng trình này do một số giáo sƣ tại trƣờng đã
không ngần ngại ghi danh theo học: các giáo sƣ Nguyễn Đại Dzƣơng, Huỳnh Hữu Tạo, Quản Trọng Lạng, Phạm Huy Chƣơng, và một số dƣợc sĩ xuất sắc lúc đó: Lê Phục Thủy, Hoàng Ngọc Giao. Chúng tôi đã nhiều lần cùng học tập trong khi Sài Gòn còn đang bị pháo kích! Chứng chỉ thứ hai là Sinh Học Cao Cấp do các giáo sƣ Phan Thế Trân, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Nguyễn Vĩnh Niên có thêm các giáo sƣ tại trƣờng theo học nhƣ Nguyễn Lê Thi, Đỗ Thị Thuần Bích. Chứng chỉ thứ ba là Vi Trùng Học Thâm Cứu có các giáo sƣ Trần Ngọc Tiếng, Trƣơng Mạnh Khải, Nguyễn Hiệp phụ trách. Các bạn Dzƣơng, Tạo, Lê Thi, Thuần Bích, Lý Công Tuấn... sau này đã hoàn tất luận án Tiến Sĩ Dƣợc Khoa Đệ Tam Cấp.
Trƣờng Dƣợc thời đệ nhị cộng hòa
Thời đó nam sinh viên, nếu không đậu vào đại học y nha dƣợc khoa, thƣờng bị gọi đi quân dịch. Tôi chắc cógiáo sƣ và sinh viên còn ít nhiều kỷ niệm khó quên về kỳ thi nhập học dƣợc khoa. Các sinh viên có bằng tú tài hai, Pháp hay Việt, đều đƣợc phép dự thi tuyển. Thông thƣờng, mỗi kỳ thi có cả năm bảy ngàn thí sinh. Ba bài thi là Lý Hóa, Vạn vật, và Sinh Ngữ. Thi kiểu trắc nghiệm, gồm mƣời câu hỏi ngắn. Lý Hóa, Vạn Vật hệ số hai. Sinh Ngữ, có thể chọn hoặc Anh hoặc Pháp, hệ số một. Chính vì số lấy đậu rất ít nên điều tiếng về việc ăn tiền, gian lận trở thành rất nhiều. Tôi không phải muốn trần tình cho trƣờng, nhƣng nhân đây kể lại một hai câu chuyện liên hệ đến thi tuyển. Chuyện thứ nhất vào năm 1972 là một chuyện buồn. Tôi lúc đó làm chánh chủ khảo, nhƣng thƣờng chỉ trông coi ban Lý Hóa mà thôi. Buổi sáng hôm thi tuyển, ban Lý Hóa chúng tôi mỗi ngƣời ngồi lựa một hay hai trong mƣời câu hỏi để buổi trƣa đánh máy rồi in ra đề cho thí sinh thi buổi chiều. Nhƣ vậy đề thi khó có thể bị tiết lộ. Giáo sƣ Nguyễn Bỉnh Tiên ngồi bên tôi bỗng nghẹn ngào nói nhƣ khóc là chúng tôi rất bất nhẫn khi bắt ông phải chấm kỳ thi tuyển này. Ông trách chúng tôi không giúp đỡ một ai nên cậu con trai ông kỳ trƣớc không đậu, phải đi quân dịch. Ông vừa đƣợc tin con bị mất tích hay đã trở thành tù binh cộng sản tại Quảng Trị. Ai nấy đều bàng hoàng. Tôi chỉ còn cách xin ông cứ về nghỉ ngơi, miễn phải chấm kỳ này, và cầu chúc con ông sớm đƣợc yên ổn trở về. Ông ở trong ban giám khảo mà cũng không giúp đƣợc con mình thi đậu. Chính vì việc này mà về sau hội đồng khoa đặc cách chấp thuận cho giáo sƣ có thể xin một chỗ cho con học để sau tiếp nối trông coi dƣợc phòng của mình. Con số này sẽ không tính vào số sinh viên đƣợc phép tuyển lựa. Nhƣng chƣa thấy đã có trƣờng hợp ngoại lệ nào nhƣ vậy.
Chuyện thứ hai là những việc vui. Trƣờng thƣờng phải mƣợn thêm nhiều trung tâm giáo dục để tổ chức kỳ thi tuyển. Khi phong trào tranh đấu sôi sục, chúng tôi lo sợ nhất là ngày thi bị ngƣời ta quấy phá. Năm tôi trông các phòng thi tại trƣờng Văn Khoa, giáo sƣ Niên cho biết có thể không thi đƣợc vì sẽ bị ném đá. May có giáo sƣ Nguyễn Cộng Hòa phụ tá tôi đã rất đắc lực trong việc điều hành. Và với sự tích cực của toàn thể nhân viên giảng huấn, chƣa hề có lần nào trƣờng phải cho thi tuyển lại. Cũng thời gian ấy, giáo sƣ Đào Hữu Giao có nói với tôi là chuyện ăn tiền trong kỳ thi tuyển chắc chắn có đấy. Vì ông lúc ấy còn là Dân Biểu nên rõ hơn tôi Giáo sƣ Nguyễn Ngọc Sƣơng bên Khoa Học cũng thắc mắc về vấn đề này. Tôi có mời cả hai giáo sƣ làm việc trong ban Lý Hóa và dự chấm kỳ thi tuyển, từ lúc lựa đề thi, làm bảng chấm điểm, cho đến lúc tuyên bố kết quả. Sau đó cả hai giáo sƣ đều công nhận tổ chức thi chặt chẽ nhƣ vậy thì khó gian lận lắm. Nhƣng nếu có chuyện ăn chặn hay ăn có, thì thật không cách nào tránh cho hết đƣợc. Vào năm 1972, trƣờng Dƣợc nhận thấy cần phải đào tạo những dƣợc sĩ sao cho theo kịp đà tiến triển của ngành Dƣợc trên thế giới, cùng đáp ứng đƣợc nhu cầu của cộng đồng và xã hội lúc đó. Muốn đạt mục tiêu này, những ngày Hội Thảo Dƣợc Khoa đã đƣợc tổ chức tại trƣờng. Việc
ẩm thực cho các hội thảo viên có sự giúp đỡ của các bà trong Hội Phụ Nữ Thiện Chí. Cuộc hội thảo nhiều ngày quy tụ rất nhiều dƣợc sĩ đại diện đủ mọi ngành. Ngoài các giáo sƣ trƣờng Dƣợc còn có nhiều dƣợc sĩ uy tín trong ngành Quân Y và Bộ Y Tế. Và các dƣợc sĩ tên tuổi của ngành bào chế Việt Nam nhƣ Nguyễn Thị Hai, Dƣơng Thành Quới, Nguyễn Chí Nhiều, Nguyễn Phạm Ấn, Bùi Đình Nam.
Trƣớc hết là xem xét lại khả năng của các dƣợc sĩ do trƣờng đào tạo có thích hợp với các nhu cầu dân sự và quân sự thời điểm đó không. Những khuyết điểm nào cần huấn luyện bổ túc? Làm thế nào cập nhật hóa kiến thức? Hiện đại hóa việc giáo dục dƣợc khoa cách nào? Cuộc hội thảo đƣợc chia làm nhiều khu vực mà ngƣời dƣợc sĩ hoạt động hay phục vụ, mỗi khu vực có một chủ tọa và hai ba điều hợp viên. Thuyết trình, thảo luận rồi đúc kết. Trong chƣơng trình còn có các cuộc thăm viếng một số cơ sở y tế và viện sản xuất dƣợc phẩm. Bộ Y tế có Đổng Lý Trần Văn Nhiều, Giám Đốc Nha Dƣợc Khoa Nguyễn Đức Trang, Quân Đội có Dƣợc sĩ Trung Tá Cao Thiện Chánh, các Dƣợc sĩ Thiếu Tá Nguyễn Phúc Bửu Tập, Phạm Kỳ, Thí Nghiệm có giáo sƣ Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Bán Lẻ có giáo sƣ Thái Tƣờng, Nhập Cảng có các dƣợc sĩ Phan Nhàn, Lâm Xuân Quang. Tôi đƣợc yêu cầu điều khiển phần hội thảo về ngành Sản Xuất, đồng chủ tọa với dƣợc sĩ Dƣơng Thành Quới, Chủ Tịch Nghiệp Đoàn này. Tôi cảm thấy phấn khởi vì sự góp mặt cùng tài năng của các dƣợc sĩ Bộ Y tế nhƣ Dƣơng Quang Nhàn, Phạm Doãn Huề, Nguyễn Tiến Đức, Mai Duy Cát...
Nhất là trong việc điều hành và ghi ác đề mục, các thảo luận, các biên bản. Ngƣời ta nhận thấy ngay sự cần thiết của môn quản trị và kỹ thuật trong ngành bào chế, của ngành thí nghiệm trong các viện khảo cứu hay nhà thƣơng, của việc bảo trì trong các cơ quan tiếp liệu quân và dân y, và kiến thức dƣợc học trong việc phục vụ cộng đồng. Thêm vào đó là nâng cao trình độ sinh ngữ để ngƣời dƣợc sĩ có thể dễ dàng giao dịch với các hãng ngoại quốc. Bản đúc kết từng phần rồi tổng kết những ngày Hội Thảo Dƣợc Khoa đã đƣợc in ra. Không hiểu tài liệu quí giá này bây giờ còn không và ở đâu? Một số các điều đƣợc mọi giới khuyến khích từ ngày đó đã dần dần đƣợc áp dụng. Quyển chƣơng trình Dƣợc Khoa đầu tiên với chi tiết của từng môn học đã do các giáo sƣ viết lại. Nếu phải tóm lƣợc về chƣơng trình thì trƣớc 1962 theo chƣơng trình Pháp, sau đó thay đổi nhiều lần. Vào thời gian 1962-1969 có thêm môn Toán Xác Suất và Thống Kê, với những năm 1969-74 thì các môn tập sự/thực tập đều thực hiện ngay tại nhà trƣờng kể cả việc bào chế tại Dƣợc phòng lẻ, và từ niên khóa 1974 năm cuối Dƣợc khoa đƣợc chia làm ba ngành Thí Nghiệm, Cộng Đồng, Kỹ Nghệ. Ngành Thí Nghiệm đƣợc sự hỗ trợ của nhiều giáo sƣ thỉnh giảng từ Viện Thí Nghiệm Trung Ƣơng, Trung Tâm Tiếp Huyết, Nhà Thƣơng Nguyễn Văn Học, Viện Pasteur, Trƣờng Y Khoa Sài Gòn và Minh Đức: các bác sĩ Bạch Toàn Vinh, Trịnh Văn Chính, Cao Xuân An, Nguyễn Đức Hạnh, các giáo sƣ Lê Phục Thủy, Nguyễn Tiến Đức...
Riêng ngành Dƣợc Khoa Kỹ Nghệ chỉ nhận chừng 40 sinh viên mỗi năm, trƣờng đã xây phòng thực tập và mua dụng cụ thí nghiệm mới. Giáo sƣ Nguyễn Hiệp làm trƣởng ban, với một giảng nghiệm viên rất tài ba vừa đƣợc tuyển chọn là giáo sƣ Phạm Ngọc Lân.
*
Trƣờng Dƣợc những tháng cuối của đệ nhị cộng hòa
Vào mùa đông năm 1974, rất nhiều giáo sƣ trƣờng Dƣợc đƣợc cử đi tu nghiệp từ ba tới sáu tháng tại Pháp, kể cả Khoa Trƣởng Niên và Phó Khoa Trƣởng Biền. Lúc đó giáo sƣ Niên còn kiêm nhiệm Phó Viện Trƣởng Học Vụ tại Viện Đại Học Sài Gòn.
Tình hình đất nƣớc bấy giờ rất đen tối, ai cũng lo lắng không biết tƣơng lai rồi sẽ ra sao. Tôi đƣợc bổ nhiệm làm Xử Lý Thƣờng Vụ Khoa Trƣởng, công việc không có gì bận rộn, ngoài những chuyện xã giao nhƣ nhận sách giáo khoa do Pháp viện trợ, tiếp đón phái đoàn Pháp về điện toán trong việc ghi danh sinh viên, hay thỉnh thoảng họp hành tại Viện hay tại Bộ. Nhƣng gần nhƣ tôi không dùng công xa, một chiếc Ford Falcon đen cũ kỹ. Ngƣời tài xế của trƣờng nặng gánh gia đình với chín đứa con đã có thì giờ chạy taxi kiếm thêm. Tuy vậy, thời gian này cũng có một vài tin đồn vui vui. Đất nƣớc rồi sẽ hòa bình trở lại, và có nhiều quốc gia sẽ viện trợ tái thiết.
Viện Trƣởng Nguyễn Ngọc Huy lúc đó hay rủ tôi và một vài Khoa Trƣởng, thƣờng là giáo sƣ Lê Thành Trị, cùng đi với ông thăm viếng các trại gia binh vì một mai những trại này sẽ đƣợc biến cải thành Khu Đại Học, có cả nơi ăn chốn ở cho sinh viên. Gia đình binh sĩ sẽ rời ra ngoại ô thành phố, trong các chung cƣ mới. Trƣờng Dƣợc Khoa có thể đƣợc Đan Mạch viện trợ cả chục triệu mỹ kim để xây trƣờng sở, giảng đƣờng, phòng thí nghiệm, cƣ xá sinh viên. Nhƣng nhiều tin thật thì rất xấu. Khi Phƣớc Long là tỉnh đầu tiên bị mất hồi đầu năm 1975, nhà trƣờng có làm lễ truy điệu những dân quân cán chính vị nƣớc vong thân. Bàn thờ tổ quốc đƣợc bầy ngay tại giảng đƣờng lớn. Tôi làm chủ tế và đọc bài văn do Tổng Thƣ Ký Huỳnh Văn Quí soạn trƣớc. Có hai giáo sƣ Tần Ngọc Tiếng và Phan Thế Trân phụ tế. Buổi lễ đơn giản mà cảm động, tuy chỉ có một số nhân viên, giáo sƣ và sinh viên đến dự.
Tết năm đó, trƣờng tổ chức mừng tân niên theo thông lệ, có cây Mùa Xuân, diễn văn chúc tụng, lì xì, nhân viên và ban giảng huấn cùng ăn uống buổi trƣa. Tôi còn đƣợc dự tết cùng ban Vi Trùng của giáo sƣ Tiếng, và đƣợc nghe lần đầu tiếng đàn guitar điêu luyện của giáo sƣ Phạm Ngọc Lân. Ban Sinh Hóa do giáo sƣ Lạng tổ chức tại một nhà hàng cũng vui nhộn không kém, có đến hơn hai chục ngƣời tham dự. Nhiều ban khác đều tổ chức riêng mừng Xuân, tuy không khí chiến tranh vẫn lảng vảng đâu đây.
Từ cuối 1974 trƣờng đã có nhu cầu bầu một ban lãnh đạo mới. Nhƣng bầu theo thể thức nào? Mỗi phân khoa của Viện Đại Học đều có lề lối riêng, mỗi trƣờng một luật lệ. rƣờng Dƣợc muốn tránh việc ứng cử bất ngờ, việc đề cử bị ép buộc, hay cuộc bầu cử không đƣợc chuẩn bị chu đáo từ trƣớc. Vấn đề này phải đợi tới khi các giáo sƣ Niên, Biền, Thái Tƣờng và Hƣơng Thƣ đang tu nghiệp hay công cán tại Paris trở về. Riêng giáo sƣ La Thành Trung vì bận chức vụ Chủ Tịch Hội Hồng Thập Tự Việt Nam, và giáo sƣ Nguyễn Đại Dzƣơng đang làm luận án với giáo sƣ Dumazert tại Marseille nên không có mặt trong hội đồng khoa. Sau mấy tháng thảo luận và hội ý rộng rãi với tất cả nhân viên giảng huấn, một thể thức đã đƣợc chấp thuận. Hội đồng khoa sẽ bầu ra Khoa Trƣởng, và hai Phó Khoa Trƣởng, một về Học Vụ, một về Kế Hoạch và Phát Triển. Nhiệm kỳ là ba năm. Hội đồng khoa gồm tất cả các giáo sƣ, và đại diện các ngành giảng nghiệm trƣởng, giảng nghiệm viên. Tùy theo số ngƣời, mỗi ngành này có thể cử ra một số đại diện. Danh sách ứng cử viên phải đƣợc phổ biến và báo lên viện một tháng trƣớc khi bầu cử. Và không chấp nhận bầu liên danh.
Biên bản số 5/75 của Hội Đồng Khoa có chữ ký của giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên chủ tọa và giáo sƣ Đặng Vũ Biền thƣ ký ghi lại phiên họp Hội Đồng Khoa ngày 4 tháng 4 năm 1975. Có 19 vị giáo chức tới dự phiên họp: Nguyễn Vĩnh Niên, Đặng Vũ Biền, Tô Đồng, Trần Ngọc Tiếng,
Phan Thế Trân, Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Nguyễn Thị Lâu, Trƣơng Mạnh Khải, Nguyễn Hiệp, Võ Phi Hùng, Nguyễn Văn Trang, Nguyễn Bỉnh Tiên, Châu Thanh Thủy, Huỳnh Hữu Tạo, Nguyễn Lê Thi, Đỗ Thị Thuần Bích, Nguyễn Văn Dƣơng, Trƣơng Bá Trƣớc, Lý Công Tuấn. Hai giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu và Nguyễn Bỉnh Tiên đƣợc đề cử làm kiểm soát viên kiểm phiếu. Tôi đắc cử Khoa Trƣởng, giáo sƣ Võ Phi Hùng và giáo sƣ Phan Thế Trân đắc cử Phó Khoa Trƣởng, tất cả đều đƣợc đắc cử trong vòng đầu với đa số tuyệt đối.
Trong thâm tâm tôi không có ý định ứng cử Khoa Trƣởng. Ngƣời mà tôi nghĩ rằng ở vị thế thuận lợi hơn tôi và sẽ làm cho trƣờng phát triển mạnh mẽ là giáo sƣ Võ Phi Hùng, trƣởng ban Hóa Dƣợc Học. Ông yêu nghề, có tài tổ chức, nhiều nhiệt tâm, tính tình nghiêm cẩn. Với giáo sƣ Phan Thế Trân thông minh, quảng giao và nhiều sáng kiến, việc Kế Hoạch và Phát Triển sẽ tiến hành dễ dàng. Tiếc rằng chúng tôi không có cơ hội làm việc chung. Chƣơng trình dài hạn thì nhiều tuy chƣa chắc thực hiện đƣợc. Cần kiện toàn phòng học vụ, in lại học bạ. Cố tuyển đƣợc nhân viên giảng huấn giỏi, và kiếm hết cách cho giáo sƣ đƣợc đi tu nghiệp. Cần xác định ngay danh từ khoa học dƣợc khoa của từng bộ môn, tuy đã có sẵn Ủy Ban Soạn Thảo Danh Từ Khoa Học. Khuyến khích việc viết và ấn hành các sách giáo khoa tiếng Việt. Nên tăng cƣờng sự liên hệ giữa nhà trƣờng và kỹ nghệ dƣợc phẩm. Vân vân và vân vân... Nhƣng việc trƣớc mắt ũng thôi đành chịu. Muốn tổ chức gấp rút kỳ thi tốt nghiệp cho năm cuối, để sinh viên sau 5 năm học đỡ thiệt thòi mà không kịp. Muốn tìm phƣơng tiện để cùng tránh cơn binh lửa cũng không xong. May mắn là giáo sƣ Lý Công Tuấn sau mấy năm tôi hƣớng dẫn đã trình xong luận án Tiến sĩ đệ tam cấp Sinh Hóa vào ngày gần chót, báo Chính Luận còn đăng đƣợc tin này. Chính Phủ thay đổi đột ngột, giáo sƣ Nguyễn Duy Xuân lên làm Bộ Trƣởng Giáo Dục thay dƣợc sĩ Ngô Khắc Tỉnh. Sài Gòn Chợ Lớn đang dần trở thành một thành phố chết. Tin tức loan báo khi mất Huế, Đà Nẵng rồi Nha Trang và lối bình luận một chiều của đài BBC làm tan rã cả một chế độ. Làm sao ra khỏi Sài Gòn bây giờ? Mạnh ai nấy chạy, tìm cách thoát thân. Cuối cùng do Khoa Trƣởng Y Khoa Vũ Quí Đài giới thiệu, chúng tôi còn hi vọng Tiến sĩ Ira Singer, cố vấn cho Y Khoa Sài Gòn, có thể giúp một số nhân viên trƣờng Dƣợc muốn đi di tản.
Vào ngày 16 tháng 4, tôi và giáo sƣ Trần Ngọc Tiếng đánh máy danh sách, xé bỏ giấy carbon, đƣa ông Ira Singer một bản, tôi giữ một bản. Ông Singer có hứa sẽ nhờ tòa đại sứ Mỹ lo, nhƣng có lẽ đã quá trễ. Phần tôi cũng tìm thêm nhiều đƣờng. Nghĩ bụng phải thoát khỏi Việt Nam đã, khi đất nƣớc tự do thật sự mình còn có cơ trở về. Dƣợc sĩ Dƣơng Thị Đây tức bà Nguyễn Chí Nhiều nói chúng tôi có thể vô nhà bác sĩ Dƣơng Quỳnh Hoa ở tạm tránh lúc giao thời. Giáo sƣ Huỳnh Hữu Tạo tính cho cùng trốn xuống miền Hậu Giang, chờ đến khi có dịp ra ngoại quốc. Chúng tôi cũng có thể đi với ông anh là Trung Tá Vũ Nhân bằng tầu Hải quân, chạy với dƣợc sĩ Bùi Đình Nam bằng phƣơng tiện Bộ Quốc Phòng, hay nhờ giáo sƣ Nguyễn Tiến Đức theo Bệnh Viện Cơ Đốc. Nhƣng tôi vẫn có linh tính sẽ chạy đƣợc dù không biết cách nào và lúc nào. Tại vì ông Minh Lộc đƣờng Trần Quý Cáp đã bảo thế! Tôi thƣờng hỏi ông về tử vi hoặc nhờ ông gieo quẻ dịch mỗi khi có việc thắc mắc, mà việc nào cũng thấy nghiệm đúng. Tin nhƣ vậy, nên vào tối ngày 22 tháng 4, tôi và nhà tôi có tới nhà ông bà giáo sƣ Võ Phi Hùng ở 210 Yên Đổ Quận Ba để từ biệt trƣớc. Tôi buồn rầu nói là chúng tôi không có duyên làm việc cùng với nhau, chỉ cầu mong rồi ra mọi sự đƣợc bình an. Câu chuyện có vẻ nhƣ trong tiểu thuyết. Chiều ngày 23 tôi còn đi tìm giáo sƣ Trƣơng Bá Trƣớc tại dƣợc phòng ông, để bàn tính đôi điều về sinh hoạt sinh viên nhƣng không gập. Giáo sƣ Trƣớc, vui vẻ, cởi mở, tuy là một đệ tử của Lƣu Linh nhƣng rất đƣợc sự ƣu ái của sinh viên. Bất ngờ tôi gập dƣợc sĩ Nghiêm Xuân Hàm trên đƣờng Đinh Tiên Hoàng.
Ông Hàm nhờ tôi kiếm một dƣợc sĩ để ông giao cho điều hành viện bào chế của ông, vì ông đang tìm cách ra đi. Nhƣng tìm đâu ra ngƣời trong lúc dầu sôi lửa bỏng bấy giờ? Tôi về nhà thì nhận đƣợc điện thoại nói phải đi ngay. Ông Phạm Quang Toàn, anh cột chèo của tôi vì làm cho Cơ Quan Quân Sự Hoa Kỳ, đã xin dần đƣợc đủ chỗ cho cả nhà di tản rồi. Mấy anh chị em đã vô ở nhờ nhà kỹ sƣ Cung Tiến Công trong cƣ xá hàng không dân sự từ hôm trƣớc. Tôi chở gia đình vào Tân Sơn Nhất thì thấy chỉ có ông Toàn làm cho DAO đƣợc vô trong, bà Toàn cùng hai cụ thân sinh bị giữ lại ở cổng. Tôi vội vàng đi tìm Đại Tá Đặng Hữu Hiệp coi An Ninh Không Quân, bà vợ và các con ông đã ra đi từ trƣớc, nhƣng ông phải ở lại với nhiệm vụ cho tới lúc chót. Ông ở nhà đang tắm, xong đã đích thân ra lệnh để lính cho vô. Thật là hú vía, nếu không có ngƣời bạn tốt này thì chúng tôi sẽ ra sao? Rồi tối hôm đó chúng tôi đƣợc chở vô phi đạo trên những xe bus quân sự mầu vàng. Và những ngƣời lính Mỹ trẻ, rất tử tế, đã kéo chúng tôi lên ngồi sàn của những chiếc C130 nổ máy sẵn. Và máy bay vụt ra khỏi vùng trời Sài Gòn đang lấp lóa ánh đèn phố lẫn ánh hỏa châu.
Dƣợc sĩ trên đƣờng xa, xứ lạ
Kể từ đó, ngƣời may mắn tha phƣơng trên con đƣờng xa, cố nhập dòng với cuộc sống mới nơi xứ lạ. Kẻ không may kẹt lại rồi học tập cải tạo, hoặc vài năm sau đó liều mạng tìm cách vƣợt biên, cả đƣờng bộ lẫn đƣờng biển. Một số thoát đƣợc nhƣ thuyền nhân, nhƣng cũng có giáo sƣ không may đã yên nghỉ trong lòng biển Thái Bình. Cùng thời gian, các nhân viên giảng huấn cũ đã ra đi gần hết, dùng đủ diện xuất ngoại. Chỉ còn rất ít giáo sƣ kỳ cựu ở lại với trƣờng. Tại các nƣớc ngụ cƣ, ngay lúc khởi đầu, giới dƣợc sĩ đã cùng nhau tìm cách trở lại nghề cũ. Chỗ dễ chỗ khó. Vào năm 1980, nhiều hội đoàn đƣợc thành lập. Hội Ái Hữu Dƣợc Sĩ Ngƣời Việt Hải Ngoại tại Paris với giáo sƣ Đặng Vũ Biền làm Chủ tịch, giáo sƣ Thái Tƣờng làm Tổng thƣ ký. Hội Ái Hữu Dƣợc Sĩ Canada với dƣợc sĩ Lâm Xuân Quang Chủ tịch và dƣợc sĩ Mai Tâm Tổng thƣ ký. Hội Dƣợc Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ với tôi làm Chủ tịch và dƣợc sĩ Trần Đức Hiếu Tổng thƣ ký. Kể từ đó có thêm nhiều hội ở mọi nơi, đƣa đến những Đại hội Quốc Tế Dƣợc sĩ và các sinh hoạt Liên Hội trong thế giới tự do. Tôi còn nhớ một phát biểu nhiệt tình về Voeux et Espérances của giáo sƣ Nguyễn Lê Thi tại Paris vào năm 1992. Dƣợc sĩ thuộc đủ lớp tuổi, ai cũng mong đóng góp cho tập thể và quê hƣơng. Câu chuyện trở thành bất tận. Và riêng tôi thật sự cảm phục sự cố gắng bền bỉ của giáo sƣ Đặng Vũ Biền và các dƣợc sĩ Đỗ Thị Kim, Trần Đức Hiếu. Qua những tin tức mà bè bạn kể lại, tôi cũng biết qua loa những chuyện xẩy ra tại Sài Gòn thời đó. Nhà tôi số 3 Trần Doãn Khanh, đƣợc vị tân Khoa Trƣởng là giáo sƣ Nguyễn Kim Hùng tiếp thu. Trƣờng Dƣợc nằm trong cơn gió lốc, với chính sách hồng hơn chuyên. Chính trị đã xen lấn thô bạo vào ngành giáo dục, và nền Đại Học đã mất đi tƣ thế tự trị.
Mục tiêu chân thiện mỹ khó mà đạt đƣợc, và tính cách nhân bản, khoa học, đại chúng của một bộ môn bỗng nhiên mang thêm vẻ giáo điều. Làm sao giữ đƣợc sự tự do trong ngành giảng huấn, gây đƣợc tinh thần cầu tiến và thể thao cho tất cả giáo sƣ sinh viên? Đƣợc nhƣ vậy thì học lối tuyển lựa hay theo hệ tín chỉ đều khả thi, mà chƣơng trình còn có thể cập nhật hóa dễ dàng theo những kiến thức mới và những đòi hỏi thời trang của cộng đồng và xã hội. Viết về một thời loạn lạc xa xôi, việc xƣa cảnh cũ nhƣ bao phủ trong một màn sƣơng. Hình và bóng đều phai mờ, ai nói hay cũng đƣợc, mà nói dở có sao đâu! Chuyện có ngƣời mới thấy là phải đã có ngƣời cho ngay là trái. Tuy nhiên tại những miền đất hứa bốn phƣơng, nghĩa thầy trò rồi đồng nghiệp theo lề cũ lối xƣa, vẫn kết tụ thành tình bằng hữu. Tôi làm sao nhớ hết kể hết đƣợc những ngƣời bạn
thân mến này, mà tôi đã may mắn gập từ khung trời Trƣờng Dƣợc Sài Gòn. Có lẽ tôi phải hỏi lại các dƣợc sĩ Mai Văn Thông, Vƣơng Lan Hƣơng, Phan Lƣơng Quới, Nguyễn Xuân Lâm, Trịnh Thị Ngọc Lang, Đào Diệp Khanh, Tôn Nữ Chi Đính, Phùng Thị Khánh Ngọc, Đỗ Thị Nguyệt Minh, Nguyễn Đức Năng, Mai Tâm, Hồ Duy Thiện, Nguyễn Thúc Mẫn,... rồi mới viết tiếp đƣợc. Để hình bóng sáng trở lại khi màn sƣơng tan dần, vì vật nào có ảnh ấy, cơ duyên nào sinh hiện tƣợng ấy. Với những tin tức đan chen thật nhiều niềm vui trên xứ lạ đƣờng xa.
30 tháng 4 năm 2003
CHƢƠNG CHÍN
Một Kỷ Niệm Về Ngành Bào Chế
Lời nói đầu
Mỗi lần nói đến Viện Bào Chế Tenamyd, tôi lại nhớ đến một ngƣời bạn thân, anh Bùi Đình Nam. Nam là sinh viên của dƣợc phòng Chƣơng Văn Vĩnh, tôi học tập sự với dƣợc sĩ Nghiêm Xuân Hàm, nên chúng tôi biết nhau từ kỳ thi Tập Sự Dƣợc Khoa khóa 52-53 của trƣờng Y Dƣợc Đại Học Hà Nội. Từ năm thứ nhất Dƣợc Khoa, vì cùng học một lớp, chúng tôi bắt đầu thân nhau hơn. Nam thƣờng lại nhà tôi ôn bài, hay cùng ra vƣờn dƣợc thảo trong khuôn viên đại học để thực học về cây cỏ. Vào lúc có hiệp định Genève năm 1954, tôi theo trƣờng Quân Y Trung Ƣơng vô Sài Gòn trƣớc, Nam ra đi sau, cả hai đều bỏ lại bố mẹ anh chị em ở Hà Nội. Từ cuộc di cƣ này, chúng tôi cùng ăn, cùng ở, cùng học, tại Đại Học Xá Chợ Lớn. Và vì vậy, chúng tôi có chung bao nhiêu là bè bạn và kỷ niệm, khi tuổi còn xanh, môi còn hồng. Biết làm sao kể lại cho đƣợc! Khi ra trƣờng năm 1957, Nam đƣợc trƣng dụng về Quân Y Viện Cần Thơ rồi mở Nhà Thuốc tại đây với ông Quang, tôi ra Đà Nẵng coi Kho Y Dƣợc 21 cho tới khi đi Pháp vào cuối năm 1958. Chúng tôi thƣ từ liên lạc thƣờng xuyên, nên biết Nam đã mở Viện Bào Chế Tenamyd và rất thành công với các thuốc sirô trị sán lải Telmin, thuốc gói trị ban nóng trẻ em hiệu chuông vàng Mékomin. Tên Viện Bào Chế có lẽ ám chỉ Trân Nam Y Dƣợc, Trân là tên ngƣời bạn gái cùng lớp. Nguyễn Lƣơng Trân là cô gái yểu điệu xứ Huế, ngƣời nhỏ nhắn xinh xắn nhƣ một con búp bê. Cô ăn nói dịu dàng nhỏ nhẹ, đi đứng từ tốn khoan thai, lúc nào cũng nhƣ mơ nhƣ mộng. Cô chơi thân với một bạn học là Đoàn Thị Ninh. Nam có vẻ đẹp của một chàng trai đất Bắc, cao ráo sáng sủa, mày rậm, mắt tinh. Anh rất tháo vát, nhanh nhẹn, tốt tính, có biệt tài kinh doanh. Bạn bè ai cũng đinh ninh rồi hai ngƣời sẽ lấy nhau, tuy vẫn cho rằng hai ngƣời tính tình khác biệt nhƣ vậy chắc khó mà hòa hợp, và nếu lấy nhau chƣa chắc gì đã có hạnh phúc.
Mỗi tết tôi lại đƣợc Nam gửi sang các báo Xuân, có Sáng Tạo, Tự Do, Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong. Thỉnh thoảng tôi cũng gửi về vài ba mẫu thuốc hay hóa chất để Nam làm thử một vài công thức đặc chế. Bỗng một hôm anh báo tin sẽ lập gia đình với cô Đào Ngọc Khánh mới gập gần đây ở Đà Lạt. Cô là cháu xinh đẹp và rất trẻ của một ngƣời bạn cũng là ngƣời mai mối, anh Nam Anh. Tôi nghĩ con ngƣời ta có số mệnh. Sau này, chính cô Khánh là một nhân vật quan trọng nhất để đƣa Tenamyd lên hàng cơ sở bào chế có tầm vóc quốc tế thời đó. Gia đình bên vợ cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công này, trong đó phải kể song thân của chị Nam là ông bà tham Miện. Ông tính giản dị chịu khó, bà thì mẫu mực và hiền hậu.
Khi biết tôi sẽ về Sài Gòn nhận làm Giảng Sƣ tại Dƣợc khoa và để lập gia đình, Nam có viết thƣ sang Paris mời tôi hợp tác với Tenamyd. Tôi nhận lời làm cùng, lo về kỹ thuật, nhƣ bè bạn thân quen giúp đỡ lẫn nhau. Tôi không hề nghĩ đến điều kiện hay biết tính toán hơn thiệt. Bây giờ, nếu có thể đi ngƣợc trở lại thời đó, chắc tôi cũng xử sự nhƣ vậy. Vào cuối tháng 7 năm 1962, Nam đón tôi ở phi trƣờng Tân Sơn Nhất, rồi đƣa tôi về ngôi biệt thự anh chị đang thuê ở đƣờng Hồng Thập Tự. Anh dành cho tôi một căn phòng riêng biệt trên gác, có máy lạnh và đầy đủ tiện nghi, thƣờng ngày có hoa tƣơi đẹp bầy trong bình pha lê. Tôi ăn ở với gia đình anh cả tháng trời, cho đến khi thuê đƣợc căn nhà số 62/4 đƣờng Duy Tân. Tôi rất ngạc nhiên vì thấy chị Nam tuy rất trẻ nhƣng đã giỏi về nhiều phƣơng diện, nhất là điều hành, giao thiệp và đặc biệt là có khiếu về thẩm mỹ. Tôi mừng đƣợc chứng kiến cảnh hạnh phúc của anh chị, trai tài gái sắc, con trai đầu lòng kháu khỉnh. Tôi không nhắc lại những sự đối đãi đặc biệt của anh chị với tôi ngày ấy, vì e rằng có nói ra cũng sẽ không hết.
Cơ sở tại đƣờng Nguyễn Thái Học
Ngay buổi trƣa hôm tôi về nƣớc, Nam đã bàn luận với tôi những tài liệu nói về cách bọc đƣờng các thuốc viên. Tôi đến thăm Tenamyd vào buổi chiều, trƣớc khi đi qua thăm làng đại học Thủ Đức và đi ăn tối tại nhà cô chú Khoa. Cơ sở là một nhà lầu hai tầng ở góc đƣờng Nguyễn Thái Học, trong khu chợ Cầu Ông Lãnh. Tầng trệt có nhà thuốc bán lẻ. Bên hông có gác đi thẳng lên khu bào chế. Tầng một gồm một phòng nhỏ có mấy dụng cụ kiểm phẩm, một phòng rộng để gói thuốc bột, vô chai thuốc nƣớc, rồi dán nhãn, vô bao vô hộp. Tầng hai có phòng nấu si rô, phòng làm thuốc viên có máy trộn, máy sấy, máy dập viên, chảo bọc đƣờng.
Máy móc còn thô sơ, kỹ thuật bọc đƣờng các viên Multivitamin còn yếu kém. Bà Miện trông coi thợ làm việc tại đây. Tôi có bàn giấy làm việc ở ngay phòng kiểm phẩm cho tới khi Tenamyd đƣợc tập trung về cơ sở sản xuất Thủ Đức vào năm 1967. Từ khi còn đi học, điều mà tôi lo sợ nhất là hữu danh vô thực. Với Tenamyd, tôi có đất dụng võ, nghĩa là áp dụng đƣợc ít nhiều sở học của mình. Đối với tôi, nhƣ vậy là quá đủ. Còn Nam thì lúc nào cũng tin tƣởng ở khả năng của tôi, có lẽ vì thế việc điều hành kỹ thuật trở thành dễ dàng. Nhƣng sự thành công của Tenamyd là do tài tổ chức, điều khiển, giao tế và kinh doanh của anh chị Nam. Tôi không biết nhiều để ghi lại khía cạnh này, do đó tôi chỉ xin kể lại đôi dòng kỷ niệm về cơ sở, sản phẩm, nhân vật trong thời điểm đó.
Tôi thấy ngay việc mình phải làm tại Tenamyd. Cần mua gấp hay mua dài hạn, đủ các sách về kỹ nghệ dƣợc phẩm mỹ phẩm, về Chế Dƣợc Thƣ và Dƣợc Thƣ của tây phƣơng. Ngoài các sách thông dụng quen thuộc nhƣ tự điển đặc chế Vidal, Pharmacopée Française của Pháp, British Pharmacopoeia của Anh, The Pharmacopoeia of Japan của Nhật, các tài liệu Mỹ phải đƣợc coi là nòng cốt. Thí dụ Remington‟s Practice of Pharmacy, Journal of Pharmaceutical Sciences của APhA, The National Formulary NF, The US Pharmacopeia USP, New Drug Applications NDA, Physicians‟ Desk Reference PDR, Merck Index... Thời đó, PDR còn chƣa liệt kê các chất phụ dƣợc đƣợc dùng cho những đặc chế đƣợc lƣu hành của Hoa Kỳ. Cần xin nhập cảng ngay những thuốc thử và dụng cụ kiểm phẩm tối thiểu cho phòng thí nghiệm. Các máy định phân, các quang phổ kế, các máy thử độ ẩm, độ cứng, độ tan rã. Khi Nam gập vấn đề gì khó khăn về kỹ thuật thì tôi lại tra cứu sách vở, rồi chúng tôi bàn tính với nhau để cùng thực hành. Tại hãng tôi thấy ai cũng vui vẻ hăng say làm việc. Anh chị Jean Damasse là những trình dƣợc viên đầu tiên, vừa lo quảng cáo vừa lo bán thuốc cho các dƣợc phòng lẻ. Tài xế Uẩn, một ngƣời tin cẩn và điềm đạm
thƣờng đƣa đón tôi đi mọi công việc. Anh Bẩy, ngƣời thợ chạy máy nhỏ nhƣng tài ba, hỏi han bàn cãi với tôi đủ điều. Chị Loan, ngƣời phụ dọn dẹp phòng thí nghiệm thật hiền lành chăm chỉ. Lúc đầu có Nam và tôi là dƣợc sĩ, rồi thêm Trần Nhƣ Nguyên. Nam là Tổng Giám Đốc Tenamyd, tôi làm Phó Tổng Giám Đốc. Nguyên trông coi thợ làm thuốc theo đúng phƣơng thức cân đo ghi trong phiếu sản xuất, và giao dịch với giới chức y tế bên ngoài. Anh là một ngƣời bạn tốt, dễ tính, nhƣng dù có làm đúng mà cũng chẳng cần biết hoặc tin là đúng hay sai. Coi nhƣ mình không liên can, ai bảo đâu làm vậy. Nhƣng xét cho cùng thì sự ƣa đùa rởn của anh cũng cần thiết cho thời buổi đó, và đã làm cho cuộc sống đỡ phần nào tẻ nhạt. Tôi hệ thống hóa những tài liệu bào chế từng thứ thuốc. Mỗi phiếu sản xuất ghi chép các giai đoạn liên tiếp, từ nguyên liệu qua các sản phẩm trung gian tới thuốc đặc chế hoàn bị. Mỗi giai đoạn có kèm theo sự kiểm phẩm liên hệ. Nhƣ vậy phải làm hồ sơ ghi rõ các phần đƣợc kiểm soát, cách lấy mẫu thử, cách định tính, và kết quả định phân. Hai năm sau, dƣợc sĩ Hà Dƣơng Thị Quyên ra trƣờng 1964 có đến phụ tôi phần kiểm phẩm. Chị Quyên hiểu việc, thông minh nhanh nhẹn. Rồi tới dƣợc sĩ Nguyễn Bích Ngọc bắt đầu làm kiểm phẩm từ cuối năm 1965. Chị Ngọc giỏi giang, chăm chỉ, nhƣng cũng thƣờng hay thắc mắc. Chị phụ tá trực tiếp cho tôi đến khi tôi rời Tenamyd. Tôi có đề nghị chị thay thế cho tôi, nhƣng không biết vì sao chị lại xin thôi ngay sau đó. Giáo sƣ Võ Đăng Đài sau này cũng có thời làm việc với Tenamyd. Thời gian đầu cần phát triển thêm nhiều thứ thuốc mới. Tôi kiếm phƣơng thức bào chế, làm hồ sơ phân tích, viết toa nhãn hộp cho các thuốc này. Chị Nam lo trình bầy cùng một họa sĩ. Anh Nam lo đặt tên. Anh Nguyên lo chạy giấy má bộ Y tế. Làm ve chai có hãng Đại Thành. Đồ nhựa dẻo có hãng Phƣớc Lợi. In trên bìa giấy có hãng Cẩm Phát. Chúng tôi thƣờng có dịp thảo luận về nhiều khía cạnh mỗi khi đƣợc phép ra một thuốc mới. Mỗi tháng trung bình Tenamyd có thêm vài ba đặc chế chữa đủ thứ bệnh đƣờng hô hấp, bộ máy tiêu hóa, bệnh tai mắt mũi họng, bệnh ngoài da. Và đủ loại thuốc bổ, thuốc kháng sinh, thuốc trụ sinh, thuốc an thần.
Cơ sở tại đƣờng Cách Mạng
Lúc này Tenamyd đã mua thêm một biệt thự trong hẻm đƣờng Cách Mạng để sửa thành cơ sở sản xuất rộng rãi tiện nghi hơn. Với rất nhiễu máy móc tự động tối tân làm thuốc gói, thuốc viên, thuốc viên bọc đƣờng, thuốc con nhộng mua từ Pháp, Mỹ, Nhật và Ý. Sự sản xuất gia tăng từng năm, mỗi năm lại gấp bội năm trƣớc, nên nhiều cơ sở mới về hành chánh, phát hành, quảng cáo, thăm dò thị trƣờng đã đƣợc thành lập thêm. Số nhân viên mọi ngành tăng lên. Ông Miện trông coi thợ bào chế, Kỹ sƣ Nguyễn Văn Ba lo việc bảo trì máy móc. Dƣợc sĩ Đào Diệp Khanh, chị của chị Nam, là Tổng Giám Đốc Tenamyd vào cuối năm 1965. Chị Khanh trung thực, nhanh nhẹn, ƣa hoạt động, có tài điều hành. Công Ty Tƣờng Nhật tại Hồng Thập Tự lo việc phát hành có thêm các dƣợc sĩ Hà Thị Phấn, Vũ Thị Mỹ Châu, Nguyễn Thị Hải, Nguyễn Đỗ Thúy Hƣơng. Chị Phấn giỏi giao thiệp, lúc nào cũng vui vẻ dễ dàng. Chị trông coi các hoạt động của trình dƣợc viên, lúc đó có nhiều cô nhiều bà, có cả những mệnh phụ phu nhân. Chị Châu thì trầm tĩnh hiền hòa. Chị Hải, chị Hƣơng, đều rất nhanh nhẹn vui tính. Cơ sở đƣờng Nguyễn Thái Học quá nhỏ và đi lại bất tiện vì gần khu chợ đông đúc ồn ào, cơ sở đƣờng Cách Mạng nguyên là biệt thự đổi thành viện bào chế, nên còn luộm thuộm. Cả hai nơi gồm lại cũng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển nhanh chóng của Tenamyd. Nam có bàn với tôi là làm sao tập trung cả về một chỗ cho dễ làm việc, rồi sau anh mua đƣợc hai khu đất trống tiếp giáp làng đại học Thủ Đức. Khu đất rộng mấy mẫu làm cơ sở bào chế. Khu đất nhỏ hơn có ao thả cá, dự tính sẽ xây nhà nghỉ mát cuối tuần để xả hơi, và sân quần vợt.
Cơ sở tại Thủ Đức
Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu đồ án xây cất cơ sở Tenamyd ở Thủ Đức, nhất là lo việc thực hiện khu bào chế riêng biệt có thể vô chai thuốc trụ sinh chích. Nhƣ vậy phải kiến tạo một khu vực vô trùng đúng theo tiêu chuẩn của Mỹ. Nhƣ tiền phòng là khóa khí air lock cho nhân viên sau khi đã khử trùng phải đi qua trƣớc khi vào khu vô trùng, nơi đặt giàn máy tự động vô thuốc tối tân của Đức. Và các cửa riêng biệt đƣa bột thuốc, ve chai, nút nhựa, riềng nhôm đi vô, với cửa đƣa chai thuốc hoàn bị đi ra. Trong phòng vô thuốc, áp xuất phải lớn hơn bên ngoài, có các máy tạo nhiều lớp gió phẳng laminar flow, thành một luồng hay một dòng cuốn đẩy các hạt bụi ra phía ngoài. Sau cùng, chai thuốc sẽ qua phòng dán nhãn, vô hộp với toa chỉ dẫn. Vật liệu đặc biệt và sơ đồ xây cất đƣợc tính toán để giải quyết thích hợp vấn đề nhiệt độ và độ ẩm mong muốn. Sơn nƣớc đƣợc dùng cho tất cả các phòng, để có thể lau chùi và khử trùng dễ dàng. Ngoài ra, cơ sở này còn gồm các khu bào chế tất cả các loại thuốc thông thƣờng mà Tenamyd hiện đang sản xuất tại Nguyễn Thái Học và Cách Mạng. Và một khu kiểm phẩm, có phòng nghiên cứu, phòng họp, phòng khách. Cơ sở có giếng nƣớc riêng, tháp chứa nƣớc, máy làm hơi nƣớc, máy làm nƣớc cất dùng cho tất cả các khu bào chế, và máy điện riêng. Vấn đề đào giếng và phân tích nƣớc đƣợc sự cố vấn giá trị của giáo sƣ Nguyễn An Cƣ, một giáo sƣ nổi danh về thủy học và đang làm cho Viện Pasteur. Các kỹ sƣ Vũ Hữu Doanh, Nguyễn Văn Thành lo việc ráp máy, cho máy chạy, và bảo trì. Anh Doanh là kỹ sƣ rất giỏi giang, việc gì cũng hiểu rõ và làm ến nơi đến chốn. Anh Thành vui tính và chịu khó nghiên cứu đủ thứ chuyện, kể cả chữ nho. Chị Hà Dƣơng Thị Duyên quản trị thợ thuyền. Chị sinh hoạt dễ dàng với nhân viên, sau này sang Canada theo chồng. Chồng chị, Tiến sĩ Điện học kỹ thuật Lê Phụng, là một ngƣời bạn học với tôi từ nhỏ.
Từ xa lộ rẽ vào chừng vài trăm thƣớc, qua hãng kem sữa Foremost thì tới Tenamyd. Bộ trƣởng Kinh Tế Âu Ngọc Hồ có lúc làm Giám Đốc Thƣơng Mại cho sở làm kem phục vụ quân đội Mỹ này. Khi có dịp thăm hàng xóm Foremost, chúng tôi lại đƣợc tặng ít hộp kem thật ngon. Cơ sở Tenamyd rộng lớn có tƣờng cao bao quanh, đƣờng ở trong đều trải nhựa, vƣờn trồng hoa mọi chỗ, có cột đèn điện đêm. Từ cổng đi thẳng vào phía tay phải có hồ thả cá vàng, có hoa súng, trên xây một chiếc cầu nhỏ dẫn tới dẫy nhà khách, thƣ viện và các phòng của khu kiểm phẩm, phòng phân tích lý hóa rồi tới phòng thử nghiệm vi sinh vật. Phía sau có các dẫy nhà bào chế sắp xếp theo các loại máy, khu nấu sirô, khu trộn và xấy thuốc, khu dập thuốc viên. Giữa những dẫy nhà có thảm cỏ trồng các cây móng bò, lá xanh tƣơi mát và hoa đỏ hồng thật đẹp. Bên tay trái có khu vô trùng riêng biệt để vô chai thuốc chích bột trụ sinh. Vào phía sâu trong cùng có nhà máy làm nƣớc nóng và hơi nƣớc, nhà máy điều hòa không khí, nhà máy điện, tháp nƣớc ăn. Các nhà máy này có năng xuất cao, đáp ứng đƣợc nhu cầu của toàn thể cơ sở. Tenamyd-Unitex tại Thủ Đức bắt đầu hoạt động khoảng năm 1967. Dƣợc sĩ Vũ Thị Ngọc Diệp làm Tổng Giám Đốc Unitex. Chị Diệp tính tình tốt, cẩn thận và tin cậy đƣợc. Nhà tôi là dƣợc sĩ Nguyễn Loan cũng bắt đầu hợp tác với Tenamyd từ lúc đó. Tất cả các máy móc nhân viên hiện đang làm việc tại Nguyễn Thái Học và Cách Mạng đều đƣợc chuyển dần về nơi đây. Dƣợc sĩ Phùng Thị Khánh Ngọc tuy là Tổng Giám Đốc Công Ty Tƣờng Nhật nhƣng làm việc tại cơ sở Thủ Đức. Chị Khánh Ngọc vui vẻ, chăm làm, trọng tình nghĩa. Unitex là tên viện bào chế các thuốc chích gồm những trụ sinh loại penicillin, streptomycin, dihydrostreptomycin. Chất sau cùng sau này bị loại khỏi Dƣợc Thƣ vì độc tính. Nguyên liệu lúc đầu mua của hãng Yaron. Tôi cũng tìm phƣơng thức bào chế, cách định tính chất thuốc và định lƣợng đơn vị theo đúng USP và Code of Federal Regulations, CFR Title 21, viết toa nhãn hộp cho các thuốc trụ sinh này. Đại để các dƣợc sĩ Đào Diệp Khanh, Vũ Thị Ngọc Diệp, Phùng Thị Khánh Ngọc, Tôn Nữ Chi Đính, Đỗ Gia Huấn phụ
trách việc bào chế. Các dƣợc sĩ Nguyễn Loan, Bích Ngọc, Hà Dƣơng Thị Quyên phụ trách kiểm phẩm. Phần thuốc chích có giáo sƣ Nguyễn Hiệp và hai dƣợc sĩ Phạm Thế Biểu, Phạm Thế Gia coi việc sản xuất, các dƣợc sĩ Võ Thị Phƣớc, Nguyễn Thị Kim Thƣ, Nguyễn Hữu Huệ lo việc phân chất. Chị Chi Đính hiền hậu dịu dàng. Chị Kim Thƣ vui vẻ trẻ trung. Tất cả các dƣợc sĩ đều làm việc trong tinh thần đồng đội thoải mái. Họ có xe đƣa rƣớc, và ăn trƣa tại phòng ăn tại đây. Đầu năm 1968, xẩy ra vụ tấn công tết Mậu Thân. May mắn là Tenamyd-Unitex Thủ Đức không bị thiệt hại gì, tuy khu Hàng Xanh gần xa lộ bị tàn phá. Công việc ngƣng trệ ít lâu rồi lại tiếp tục. Về loại thuốc chích, dàn máy tự động vô chai bột trụ sinh gồm nhiều máy ráp liên tiếp. Có máy rửa chai, rửa nút, máy xấy khô và tráng silicon, máy vô thuốc, đóng nút, đóng riềng nhôm. Dàn máy này có năng xuất một giờ khoảng 6 tới 8 ngàn chai, mỗi ngày làm 2 hay 3 ca, trung bình mỗi tháng sản xuất từ 2 tới 3 triệu chai. Về loại thuốc uống, các máy của Nhật, của Ý, của Mỹ để làm thuốc gói, thuốc viên hay thuốc nƣớc sản xuất gần trăm đặc chế đủ loại, có thứ cả chục triệu đơn vị một tháng. Phải kể thêm rất nhiều loại thực phẩm gia súc. Tenamyd-Unitex trở thành một viện bào chế tầm cỡ lớn của Đông Nam Á. Tổ hợp này khánh thành vào giữa năm, có cả một số phóng viên Việt Pháp Mỹ phỏng vấn. Từ đó, cơ sở đƣợc nhiều sinh viên dƣợc khoa, dƣợc sĩ, bác sĩ, thƣơng gia và khách ngoại quốc tới thăm viếng. Toàn thể nhân viên trên dƣới 500 ngƣời. Số thƣơng vụ mỗi năm lên đến cả một hai tỷ bạc, tƣơng đƣơng với hai ba triệu Mỹ Kim thời đó. Điều mà Tenamyd có thể hãnh diện là tất cả công việc bào chế đều do dƣợc sĩ kỹ sƣ đƣợc đào tạo trong nƣớc điều khiển, cùng với những bàn tay khéo léo và óc sáng kiến của công nhân Việt Nam. Số đặc chế dùng bản quyền ngoại quốc gần nhƣ không có, trừ thuốc erythromycin stearate của Abbott. Số chuyên viên ngọai quốc để tham khảo cũng rất ít. Đôi khi trong lúc hội họp và bàn luận, còn có sự hiện diện của kỹ sƣ Võ Đức Diễn, một giáo sƣ đại học kỹ thuật, nhiều kiến thức và giỏi về ngoại ngữ. Một số tài liệu giao dịch bằng tiếng Mỹ đã đƣợc dƣợc sĩ Nguyễn Khánh Tƣờng phụ trách. Năm 1969, Tenamyd gửi hai dƣợc sĩ Nguyễn Loan và Vũ Thị Mỹ Châu đi nghiên cứu thị trƣờng tại Hồng Kông và Nhật Bản. Đó là thời cực thịnh của Tenamyd.
Cố nhiên một khi cây đơm hoa kết quả thì nhiều ngƣời có thể nhận là mình đã vun trồng. Nhƣng có lẽ phải lấy sự thành công của Tenamyd để đánh giá trị tập thể chuyên viên thì đúng hơn. Những dƣợc sĩ kỹ sƣ tài năng và thân thiết tại đây, lâu dần đã đƣơng nhiên trở thành nhóm Tenamyd. Đƣợc tạo nên theo tình đồng đội trong công việc, và sự thủy chung trong tình nghĩa. Sau này tuy phân tán vì đủ mọi duyên cớ, nhƣng mỗi khi gập nhau, nhóm nòng cốt của Tenamyd luôn luôn giữ đƣợc thực thể thuần nhất. Ít lâu sau anh Nam mang gia đình sang Canada lập nghiệp. Trƣớc khi đi, anh nhắc nhở tôi là ở nhà lo trông nom cho phẩm chất của các thuốc Tenamyd. Anh có than là nơi chốn này có làm nhiều rồi nƣớc lã cũng trôi ra sông biển. Nhƣng tôi không hỏi và không muốn biết lý do vì sao anh ra đi. Ở nhà có chị Nam lo liệu đủ công việc, có dƣợc sĩ Nguyễn Thanh Nhàn phụ giúp. Nhàn cùng lớp với Nam và tôi, thƣờng hay kể cùng tôi về sự thủy chung bè bạn trong cuộc sống. Vào những năm đó, cơ sở sản xuất còn có thêm nhiều nhân vật mới, giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu, các dƣợc sĩ Dƣơng Thị Quỳnh, Ngô Thị Ngà. Chị Quỳnh là phu nhân của dƣợc sĩ Đào Trọng Hiếu. Tôi sẽ không kể những dƣợc sĩ làm ngắn hạn với tôi nhƣ Nguyễn Hồng Loan, sau ra làm cho công ty nhập cảng IPC của dƣợc sĩ Đặng Quốc Cơ. Tới khi anh Nam về lại Sài Gòn vào cuối năm 1972, thì giáo sƣ Nguyễn Hiệp ra cộng tác với dƣợc sĩ Phạm Hy Tân rồi mở riêng viện bào chế Biothera, dƣợc sĩ Hà Dƣơng Thị Quyên đi lập công ty mỹ phẩm Lan Sơn. Lúc này, dƣợc sĩ Nguyễn Tuyết Bích, phu nhân của bác sĩ Nguyễn Văn Thiệu, bắt đầu gia nhập Tenamyd, mà nhiệm vụ là sắp xếp công việc bào chế mỹ phẩm, dự trù hợp tác với công ty Coty của Pháp.
Thời gian anh Nam đi sang Canada, tôi dần dà mất đi ứng thú làm việc tại Tenamyd. Nhiều lý do đƣa chúng tôi đến việc quyết định ra mở viện bào chế Pharmekon vào đầu năm 1972. Vì cơ sở đƣờng Tự Đức đƣợc dƣợc sỉ Nguyễn Chí Nhiều cho mƣợn không điều kiện? Vì sự chung vốn góp sức của dƣợc sĩ Tạ Văn Quang, ngƣời bạn thân và hiền hậu từ thuở trung học? Vì chị Quang là Đặng Thị Hòa, một giáo sƣ mẫu mực của trƣờng trung học Lê Văn Duyệt? Còn bao lý do khác nhƣng tiếc rằng chúng tôi đều không có tài quản trị điều hành. Những khó khăn xuất hiện vì thời buổi buôn bán không còn dễ dàng, vì luật pháp ngày một thêm phức tạp rắc rối. Mà xƣa nay cũng đâu có thấy sự kết nghĩa vƣờn đào trong lãnh vực kinh doanh? Tôi còn nhớ những ngƣời thợ đầu tiên, anh Loong, chị Sánh, chị Chín, cô thƣ ký Ánh. Ít lâu sau, một việc mới lại bắt đầu đến với tôi kể từ khi Pharmekon đƣợc mở rộng mà dƣợc sĩ Nguyễn Loan là Tổng Giám Đốc. Với trên sáu chục cổ đông tên tuổi, tổ chức và điều hành theo một khuôn mẫu mới, có sự hỗ trợ của Tổng Giám Đốc Dƣơng Ngọc Xuân trong Phƣơng Nam Ngân Hàng. Tổ hợp này có các bác sĩ Lƣơng Trọng Cửu lý tƣởng, Nguyễn Đức Liên nhiều tài vận động tổ chức, Nguyễn Ngọc Kỳ có đầu óc xã hội, Vỏ Thƣơng rắn giỏi đầy nam tính. Có các bác sĩ Phạm Ngọc Tỏa, Tạ Thúc Phú, Đặng Ngọc Thuận, Đặng Huy Lƣu, Tô Văn Nghiễn, Hoàng Quý Kế, Phạm Ngọc Giao, và Trần Văn Khang trắng trẻo đẹp trai, Nguyễn Hoàng Hải hay cả y khoa lẫn tử vi. Còn phải kể các dƣợc sĩ Tạ Văn Quang, Nguyễn Thị Ngọc Trâm, Trần Ngọc Du, và Nguyễn Tiến Đức vui vẻ hoạt bát, Vƣơng Lan Hƣơng nhanh nhẹn quán xuyến. Có luật sƣ Tạ Văn Tài thông minh và nổi danh. Và còn nhiều các bạn khác mà tôi không thể kể hết ở đây. Đại hội cổ đông mới họp mặt và ăn tết vui vẻ đƣợc một lần đầu năm 1975. Nhƣng cơ sở này thƣơng vụ chƣa thật tốt đẹp để đánh giá phƣơng cách tổ chức mới, sản phẩm còn ít sản xuất chƣa nhiều để kể lại, thì Sài Gòn đã thất thủ. Từ đó, nhóm Pharmekon đa số bỏ của chạy lấy ngƣời và thoát dần ra ngoại quốc, rồi đều an cƣ lạc nghiệp. Và thế hệ thứ hai đã thành công trong nhiều lãnh vực ở xứ ngƣời, mang lại niềm kiêu hãnh cho dòng Việt ly hƣơng.
Chuyện xƣa chuyện nay
Nhiều tài liệu giá trị về dƣợc khoa thời Cộng Hòa có thể tìm thấy trong các bản phúc trình tại Hiệp Hội Dƣợc Sĩ Á Châu vào năm 1974. Về Kỹ nghệ dƣợc phẩm của dƣợc sĩ Nguyễn Phạm Ấn, về Dƣợc Phòng lẻ của dƣợc sĩ Lâm Xuân Quang. Sau năm 1975, các dƣợc sĩ Nguyễn Phạm Ấn của Viện Bào Chế TVT và Phạm Gia Uy của Viện Bào Chế OPV đã viết lại về ngành sản xuất trong các tập san ở hải ngoại. Những dƣợc sỉ phụ trách kỹ thuật thời đó còn có Ngô Ngọc Anh, Vũ Ngọc Phách của Roussel, Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Quý Thái của Vanco, Từ Viêm Đại của Biofarmo. Dân Y phải kể dƣợc sỉ Vũ Văn Hiến, Quân Y cũng có dƣợc sỉ Tạ Văn Quang. Phần tôi cũng có vài dịp để mô tả sơ lƣợc về vấn đề này trong cuộc Hội Thảo Dƣợc Khoa Sài Gòn năm 1972, trong Đại Hội Quân Y Toàn Quốc tại Cần Thơ cuối năm 1973. Phải nói ngành bào chế tại Việt Nam đã phát triển mau lẹ và mang lại niềm hãnh diện cho giới chúng ta. Nhờ các dƣợc sĩ tiên phong tài ba Nguyễn Thị Hai, Nguyễn Cao Thăng, Bùi Đình Nam. Và các dƣợc sĩ Dƣơng Thành Quới, Trƣơng Văn Chôm, Đặng Quốc Cơ, La Thành Trung, Phan Nhàn, Chƣơng Văn Vĩnh, Nguyễn Chí Nhìêu, Thái Tƣờng, Hà Ngọc Hải, Nguyễn Xuân Duyệt, Phan Huy Sáng. Những năm gần cuối thì OPV thiết lập đƣợc dàn máy tối tân sản xuất chai huyết thanh sinh lý tại cơ sở vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Riêng viện bào chế Trang Hai có tổng hợp đƣợc chloramphenicol, chừng 40 tấn mỗi năm. Tuy nhiên, chúng ta còn luôn luôn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập cảng. Sau năm 1975, tình trạng ngành bào chế trong Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã đƣợc giáo sƣ Đặng Vũ Biền tóm tắt sơ lƣợc. Bài này đăng ở nội san của Aphavina vào năm 1995. Tenamyd trở thành Xí Nghiệp Dƣợc Phẩm 23.
Trƣớc tết Mậu Thân 1968, Nam có bàn với tôi là tại sao giới chúng ta lại không mở rộng lãnh vực hoạt động sang một vài ngành công kỹ nghệ khác? Anh lúc nào cũng tính toán làm thêm một chuyện gì, nhƣ hóa phẩm, mỹ phẩm. Tôi nghĩ vấn đề không phải vì tiền, mà vì anh là con ngƣời rất hiếu động. Anh cho rằng nếu lập cơ sở chế tạo bột giặt, thì có thể dễ thành công. Lúc đó nhu cầu thì nhiều, bột giặt Vifon mà hoa kiều làm chủ không có đƣợc phẩm chất nhƣ Tide. Anh nhờ tôi viết dự án tổng hợp chất bột giặt từ các tài liệu ngoại quốc, rồi nộp cho cơ quan Phát Triển Kỹ Nghệ Sofidi của bộ Tài Chánh xin cho vay tiền đầu tƣ 24 triệu đồng, lúc đó bộ trƣởng là Trần Văn Kiện. Chúng tôi sẽ áp dụng kỹ thuật của Ý trong việc sản xuất. Kỹ thuật này độc đáo, vì dùng phản ứng sulfon hóa trực tiếp các hydrocarbure đặc bởi hơi SO3 thay vì acid sulfuric. Nghĩa là chỉ cần hai nguyên liệu là dầu cặn và lƣu hoàng. Tiếc rằng dự án đó đã không đƣợc chấp thuận. Khi Tenamyd đã nổi tiếng, thôi thì đủ chuyện thị phi. Và chuyện kiện cáo cũng khó thể tránh đƣợc, nhƣng giải quyết xong thì vui vẻ cả làng. Có lần hãng Pfizer vì tranh dành thị trƣờng, đã kiện Tenamyd khi bào chế Tetramycin là mạo thuốc Terramycin của họ. Thật ra hai đặc chế khác nhau rất nhiều. Thứ nhất vì khác thuốc, Tetramycin là tetracyclin trong khi Terramycin là oxytetracyclin. Thứ hai vì khác cách trình bầy, Tetramycin ở dạng thuốc viên bọc đƣờng mà Terramycin có dạng thuốc con nhộng. Thứ ba là sự chỉ dẫn trong toa thuốc khác nhau. Và vân vân. Chúng tôi phải đích thân trình bầy những lý do này với Luật Sƣ Vƣơng Văn Bắc để ông lo bào chữa. Kết cục Tenamyd đƣợc vô can. Nếu chúng tôi thỉnh thoảng có chuyện lo nghĩ chung về công việc, thì cũng có lúc chúng tôi cùng tìm cách xả hơi, hay ăn chơi vui vẻ. Khi Nam từ Canada trở về cuối năm 1972, chúng tôi nhiều lần hàn huyên và đứng uống nƣớc dừa của ngƣời bán rong trƣớc cửa công ty Tƣờng Nhật, đi đánh tennis tại Câu lạc bộ Thể Thao Sài Gòn, hay đi trƣợt nƣớc trên sông Sài Gòn. Anh Võ Đức Diễn, phu quân của chị dƣợc sĩ Đào Diệp Khanh, đã dậy chúng tôi đi monoski này. Trƣợt nƣớc và cắt sóng có lẽ là môn thể thao chúng tôi ƣa thích nhất, vì sau khi đi về thấy gân cốt thƣ giãn nhƣ đƣợc tẩm quất. Nam thƣờng hay đi qua đón tôi tại căn nhà đƣờng Trần Dõan Khanh. Nhiều khi chúng tôi đang trƣợt sóng trên sông thì gập tầu của Tổng Thống Thiệu và đoàn Giang Cảnh cũng tới. Nam phải sang đi với ông Thiệu, còn tôi tiếp tục lộ trình của mình. Di tản sang Mỹ, tôi vẫn tiếc không có dịp trƣợt nƣớc nữa. Muốn kiểm lại dung nhan ngày ấy, mà ảnh cũ cũng không còn. Kể cả chiếc xe Peugeot 304 Tenamyd tặng cho tôi thời ấy!
Sau 1975, nhóm Tenamyd đã mỗi ngƣời một ngả. Có lần dƣợc sĩ Khánh Ngọc đến thăm chúng tôi tại tƣ gia ở San Diego. Chị bị kẹt lại ở Sài Gòn mấy năm sau tháng tƣ đen. Chị cũng kể sơ qua những sự việc tại Tenamyd thời đó. Có lúc chị bị khám xét, bị tố cáo, bị bắt giam. Nghe thấy chán nản và sợ hãi. Những sự đối xử tệ hại nhƣ vậy sao lại có thể xẩy ra giữa nhân viên trong cùng một hãng? Hay là vì hoàn cảnh, vì chế độ, con ngƣời ta đã đánh mất đi bản năng lƣơng thiện của mình? Cho đến nay, có nhiều dân Tenamyd và thân hữu định cƣ ở hải ngọai. Đông nhất ở Mỹ, rồi đến Canada. California có Tô Đồng & Nguyễn Loan ở San Diego, Nguyễn Văn Thiệu & Nguyễn Tuyết Bích và Hà Dƣơng Thị Quyên ở Quận Cam, Nguyễn Thị Kim Thƣ ở San Francisco. Texas có Phùng Thị Khánh Ngọc, Nguyễn Bích Ngọc, Phạm Thế Biểu, Nguyễn Khánh Tƣờng. Florida có Võ Thị Phứơc. Kansas có Nguyễn Đỗ Thúy Hƣơng. Maryland có Vũ Thị Ngọc Diệp. Chị Diệp trở thành một khoa học gia làm việc cho cơ quan Y Tế Quốc Gia NIH. Chị vẫn cho rằng những tháng ngày làm cho Tenamyd là đẹp nhất. Tuy không phải là nghị gật, tôi cũng hoàn toàn đồng ý với chị. Montréal, Canada có Võ Đức Diễn & Đào Diệp Khanh, Tôn Nữ Chi Đính, Trịnh Đình Thiện & Hà Thị Phấn, Vũ Thị Hải, Ngô Thị Ngà. Paris có Trần Nhƣ Nguyên. Riêng Bùi Đình Nam & Đào Ngọc Khánh, hai nhân vật quan trọng nhất của Tenamyd
thì trở về lại Hà Nội-Sài Gòn! Ôi, mỗi ngƣời một phận. Nhƣng thật là may mắn, mỗi khi chúng tôi có dịp gập lại nhau, là nhóm Tenamyd đi ăn uống cùng, đi du lịch cùng, hay kể lại những kỷ niệm thật là vui nhộn. Chúng tôi vẫn đặc biệt giữ đƣợc tình thân ái ngày cũ, cho dù không gian nay cách trở và năm tháng qua nhanh nhƣ bóng câu. Tin tƣởng nhƣ vậy, và quên đi sự thành bại xƣa nay, tôi đã viết lại những dòng trong bài này.
19 tháng 11, 2003
CHƢƠNG MƢỜI
Đƣờng về quê mẹ
Cuối năm 1994, đúng vào ngày sinh nhật thứ sáu mƣơi mốt, tôi nhận đƣợc thƣ của cháu gái Xuân Dung, con đầu lòng của bà chị ruột tôi. Trong thƣ có những đoạn nhƣ sau: "Chú có biết không, cháu vẫn còn nhớ lần đầu tiên khi mẹ cháu nói cháu biên thƣ cho chú, hồi đó cháu còn bé lắm, mới đi học cấp một. Mẹ cháu cho cháu xem tập ảnh gia đình, chỉ ảnh chú cho cháu xem và khen chú hết lời. Dù chƣa hề gặp mặt chú, nhƣng cho đến nay cháu vẫn giữ nguyên những tình cảm từ buổi đó đối với chú. Cháu thấy chú gần gũi và đáng tự hào và cháu đã ao ƣớc thật sự để đƣợc khoe chú với bè bạn cháu. Kỷ niệm tuổi thơ là nhƣ vậy đấy chú ạ...Bây giờ cháu cũng rất mong chú về, mong da diết, nhƣng không phải là mong cho bản thân cháu nữa. Giờ đây cháu ao ƣớc chú về đƣợc để gập bà ngoại cháu. Bà không nói ra nhƣng bà đang mong gặp chú từng ngày, từng ngày một. Mắt bà đang kém dần nhƣng bà vẫn còn nhìn thấy, không biết còn nhìn đƣợc bao lâu nữa. Năm nay cháu đã ngoài bốn mƣơi, thời gian bà xa cách chú còn dài hơn thế nữa. Cháu chỉ mong cuối năm nay chú đƣợc gặp bà, để bà toại nguyện và chú cũng đƣợc thảnh thơi nhẹ nhõm trong lòng,... Cháu gửi tặng cô chú tấm ảnh bà vào chơi Sài Gòn và chụp ảnh chung với mẹ cháu và chúng cháu hồi năm kia. Lúc đó bà còn khỏe nhiều, và trông bà rất đẹp lão. Bây giờ bà yếu đi nhiều, mắt mờ rồi, nhƣng vẫn còn minh mẫn chú ạ,... Và cũng một lần nữa, cháu mong mỏi chú thu xếp về thăm bà sớm, vì bà đang mong chờ chú, từng ngày, từng ngày một."
Lá thƣ của cháu Dung đã làm cho tôi mất ăn mất ngủ nhiều ngày. Cũng không phải đây là lần đầu tôi phải ray rứt về một bổn phận mà tôi cố tình lần lữa. Tuy tôi hằng mơ ƣớc đến ngày đƣợc gập lại mẹ, chị em, cùng các cháu mà tôi chƣa hề quen mặt nhớ tên, và tất cả bà con trong họ qua bao năm xa cách. Vào ngày Giáng sinh năm trƣớc, một bạn thân tại Hà Nội, anh Bùi Đình Nam, sau khi đến thăm mẹ tôi, có gọi điện thoại nhắc nhở tôi phải về ngay, vì mẹ tôi đã yếu lắm rồi, không về e không kịp. Vả lại, tôi đã mang tội bất hiếu khi phải vắng mặt lúc bố tôi mất, hơn mƣời bốn năm về trƣớc rồi. Nhƣng chả hiểu tôi trả lời lúng túng ra sao để anh cúp máy đến rụp. Anh ấy cũng có nỗi khổ tâm, vì khi về đƣợc nhà thì chỉ gập lại ông bố, và bà mẹ đã không còn nữa. Các em tôi cũng nhiều lần nhắc nhở bây giờ có thể về dễ dàng, cho rằng chỉ là chuyện viển vông nếu tôi nghĩ sớm muộn sẽ đƣợc gập mẹ, thí dụ ở một thế giới nào khác. Riêng mẹ tôi bảo là tôi nhát nhƣ cáy nên cố kiếm cớ thoái thác. Và những hình ảnh cũ của ngày 12 tháng 7 năm 1954 lại hiện ra nhƣ mới ngày hôm qua. Hà Nội đang đi vào giữa mùa hoa phƣợng, khi những kỳ thi cuối năm của khóa thứ nhất đã chấm dứt. Chúng tôi, những sinh viên sĩ quan của trƣờng Quân Y Trung Ƣơng Việt Nam, theo thƣờng lệ, phải đi Đà Lạt học tập quân sự một tháng hè. Sáng hôm đó nắng chói chang, trời oi bức, không có lấy một làn gió nhẹ. Chúng tôi leo lên mấy chiếc quân xa để sang phi trƣờng Gia Lâm, lấy máy bay dân sự của hãng Cosara đi Đà Lạt. Chiếc GMC vừa vƣợt qua cổng trƣờng phố hàng Chuối, thì ngay tại góc đƣờng Trần Hƣng Đạo, tôi đã bắt gặp
những cái vẫy tay của bố mẹ tôi và hai bác Nguyễn Tƣờng Phƣợng. Ôi một cảnh biệt ly nhung nhớ, tôi vẫy vẫy tay nhƣ cố gửi lại một cữ chỉ từ biệt. Một anh bạn ngồi cạnh lấy làm ngạc nhiên sao bố mẹ à hai bác tôi lại bầy vẽ chuyện tiễn đƣa. Vì chúng tôi chỉ phải đi Đà Lạt có một tháng hè, rồi sau đó sẽ trở về Hà Nội để tiếp tục học chữ. Nhƣng sự thực dạo ấy đã có quá nhiều tin đồn về việc chia cắt đất nƣớc làm hai, nên gia đình tôi có lẽ linh cảm rằng tôi sẽ phải đi biền biệt không biết ngày nào trở lại. Trƣớc đó mấy hôm, anh bạn thân Dƣơng Minh Châu có chụp cho bố mẹ và anh em tôi một số ảnh mới. Tôi vội vã đem đi rửa tại một hiệu ảnh ở phố nhà thờ mỗi cảnh lấy hai tấm, một để lại và một mang theo. Tôi còn lựa thêm một số ảnh cũ của gia đình, kể từ lúc tôi mới một vài tuổi, và của bè bạn thời niên thiếu.
Thế mà quả thật chỉ tám ngày sau, Hiệp Định Genève chia đôi đất nƣớc đƣợc ký kết, để không biết đến bao giờ tôi mới có dịp về lại mái ấm gia đình thân yêu tại Hà Nội. Thấm thoát mới đó mà đã hơn 40 năm. Bây giờ, tôi phải cố trở về bằng mọi giá, dù đã có lúc nghĩ rằng sẽ phải về một mình, để nhà tôi ở lại Hoa Kỳ cùng với các con. Thật là may mắn, vào dịp đó, tôi đƣợc biết chị Khánh Hoài, một ngƣời học trò thân cũ, đứng ra tổ chức chuyến du lịch đầu tiên về thăm Việt Nam. Sau khi bè bạn đã có dịp về nƣớc trƣớc đó đoan chắc là sẽ không gặp khó khăn gì, tôi và nhà tôi bèn hăng hái ghi tên. Tôi vội điện về gia đình cho chị em biết chƣơng trình du lịch và ngày giờ chúng tôi sẽ về thăm nhà. Để có thể khởi hành vào giáp ngày Giáng sinh, chúng tôi đã mở quà tối hôm trƣớc, ăn bánh Noel của tiệm Pierre và chụp mấy tấm hình kỷ niệm. Tôi đem theo máy hình mới đƣợc thay pin, và cả chục cuộn phim. Sáng sớm hôm sau, sửa soạn lại hành lý xong, hai cháu Bảo Châu và Hoàng đƣa bố mẹ ra phi trƣờng San Diego. Trời lâm râm mƣa. Khi đến quầy American Airlines, máy bay chuyển hoán nhỏ đã bán lố 2, 3 vé, nên phải chờ đến gần 8 giờ mới chắc là có chỗ ngồi để lên Los Angeles. Tới đây, cháu Huy và vợ Cara đón ở phi trƣờng rồi cùng đi sang ga chót Bradley.
Đến 9 giờ 30 mới thấy chị Khánh Hoài ra tới, và giới thiệu những ngƣời trong chuyến du lịch. Tất cả hơn mƣời ngƣời, có cụ Huỳnh Bân, cô Nguyễn Ánh Tuyết em Khánh Hoài, anh chị Pierre Paul Dansoreau và Ngô Phi Bằng, các chị Koster Ngô Phi Phụng, Thanh Vân, Thị Nhiễu,Yvonne Lê Hồng và anh Victor Marcel. Chuyến bay của Thái International rất êm với Boeing 747, và phải mất 13 giờ 30 mới tới Seoul. Lúc đó, vì có một vụ lộn xộn xẩy ra giữa Bắc và Nam Hàn, nên ngay khi xuống phi trƣờng trong ngày Noel, chúng tôi đã bị giữ tại một khu riêng biệt, để chờ tiếp tục chuyến bay dài 5 giờ 15 đi Bangkok. Tới phi trƣờng nơi đây vào lúc 11 giờ đêm. Cả nhóm lấy hành lý rồi làm thủ tục nhập cảnh tạm cho ba đêm. Về khách sạn Mandarin, 662 Rama IV, Bangkok, phòng khách chăng đèn kết hoa rực rỡ mừng mùa Giáng sinh. Một không khí tƣng bừng nhƣ đón chào khách du lịch từ thập phƣơng. Không hiểu sao tôi cả đêm trằn trọc, dù đã uống thuốc ngủ mà vẫn chợt thức dậy từ lúc 4 giờ sớm. Theo chƣơng trình, chúng tôi đƣợc thăm viếng Thái Lan mấy ngày trƣớc khi về Hà Nội. Xuống khách sạn ăn điểm tâm, rồi ra xe đi thăm cung điện Grand Palace và chùa Emerald Buddha. Sau khi đi xem nữ trang tại Intar International Center, chúng tôi ăn bữa trƣa muộn với các món ăn đồ biển thật tƣơi ngon, rồi về lại khách sạn nghỉ chừng 1-2 giờ. Chiều đến lại đi xem "Phật bốn mặt". Đến bữa cơm tối, chúng tôi lại chọn đồ biển với tôm, cua còn thật tƣơi, giá khoảng $12-15 một phần.
Sáng ngày hôm sau, 27 tháng chạp, theo chƣơng trình, cả nhóm đi thăm viếng nền văn hóa và coi ca múa của xứ này tại Làng Thái. Chúng tôi ra đi từ lúc 7 giờ sáng cùng cô hƣớng dẫn Sunee Gabbua, trên một chiếc xe Van lớn đầy đủ tiện nghi. Hai bên đƣờng xuyên qua các ruộng muối, có đầy hoa râm bụt, hoa bông xứ đủ mầu, với những cây bàng, cây bông giấy. Phong cảnh tựa
nhƣ một miền quê Việt Nam với rất nhiều sông lạch và các rặng dừa. Đi ăn trƣa, kiểu nhiều ít tùy theo sở thích, món ăn thật ngon và có những trái cây tráng miệng miền nhiệt đới đủ loại nhƣ dừa, măng cụt, doi, chôm chôm, ổi xá lị. Tại "chợ nổi", từng cặp hai ngƣời đƣợc ngồi trên một con thuyền đuôi tôm, để chú tài rồ ga phóng theo các con lạch ngoằn ngoèo của đồng ruộng, làm nƣớc bắn lên tung tóe. Trên bờ, thợ ảnh chụp sẵn cảnh đi thuyền này, rồi dán hình trên đĩa sứ, kỳ kèo giá cả từng đồng khi bán cho khách hàng làm kỷ niệm. Bữa trƣa chúng tôi ăn ở làng Thái, rồi quan sát các tiểu công nghệ về đồ mộc, sơn mài, lụa Thái. Xem trình diễn múa sạp, lễ cƣới, múa các ngón hay móng tay ở vƣờn Hồng. Lúc về, tối đi ăn đồ biển vừa rẻ vừa ngon, uống nƣớc dừa tƣơi mát, tại một hàng ăn ở ngay gần khách sạn Mandarin.
Sáng ngày 28, đoàn chúng tôi ra phi trƣờng để đi Nội Bài. Trong lúc ngồi chờ máy bay từ Bangkok, thấy một vài ngƣời Việt về nƣớc cùng chuyến này. Họ nói đúng giọng Bắc, nhƣng chẳng ai trong nhóm chúng tôi muốn bắt chuyện. Chờ đợi một lúc lâu ở cổng số 6, cuối cùng nhân viên hãng máy bay đột ngột cho đổi chúng tôi sang cổng số 2 để lấy Airbus đi Hà Nội. Chuyến bay rất êm, và trời hôm đó trong sáng thật đẹp. Tôi ngồi ghế sát phía cửa sổ, lơ đãng nhìn những cuộn mây trắng bồng bềnh trải dài trên bầu trời xanh lơ. Lúc phi cơ xuống thấp và sắp hạ cánh, tôi nhoài ngƣời ra ô cửa để ngắm cảnh Việt Nam từ trên cao. Nhiều vùng cây xanh thẫm phía dƣới đan chen với những mảnh đồng ruộng xanh nhạt. Và kià dòng sông Hồng đỏ quạch đất phù sa, đang uốn khúc chảy lững lờ. Quê hƣơng tôi đó. Quê hƣơng thƣơng mến của tôi còn đó. Lòng tôi bỗng nôn nao hồi hộp, một cảm giác khó tả nên lời của ngày trở về. Tôi sẽ đƣợc gập lại mẹ và chị em sau bao năm xa cách, và nhà tôi sẽ gập gia đình bên chồng lần đầu tiên. Rồi tới lúc viết giấy má khai báo.
Khi máy bay đáp xuống phi đạo thật êm, rẽ vào con đƣờng nhỏ để tiến dần về nơi nhà ga. Trong khi tôi còn đang mải quan sát sự quá thô sơ của phi trƣờng Nội Bài, thì phi cảng đã hiện ra sừng sững trƣớc mắt. Chúng tôi xếp hàng để làm thủ tục nhập cảnh. Chị Khánh Hoài đi trƣớc rồi đến cụ Bân. Chỉ tƣơng đối vui vẻ thoải mái thôi. Công an Hải quan tuy không hạch hỏi nhiều, nhƣng lời lẽ và lối xƣng hô không lịch sự cho lắm. Còn có một vài rắc rối nhỏ nhƣ thiếu ảnh, visa không đủ số, thành thử những ngƣời xếp hàng phía sau nhƣ chị Sáu, các anh Victor và Pierre Paul đâm ra lo lắng. Sau cùng cũng yên ổn, cô Vân không bị bắt phải chụp ảnh thêm. Rồi kiếm hành lý, đem ra quầy để công an kiểm soát... Nhƣng nói thế nào thì những tình cảm hân hoan về thăm quê nhà sau bao năm xa cách cũng bị giảm đi rất nhiều khi qua phi cảng này. Ra phía ngoài, xe đủ loại và ngƣời đón đƣa mời chào tấp nập. Có nhiều du khách ngoại quốc, các ông tây balô. Chúng tôi mang hành lý lên xe minibus và xe chạy thẳng ra vịnh Hạ Long. Trên xe, tôi gập chị Nhân là chị chồng của Khánh Hoài, và là ngƣời hƣớng dẫn chuyến du ngoạn này. Chị hiện làm việc cho Bộ Ngoại Thƣơng, em chị là chị Niệm, bạn học của chị tôi khi gia đình tôi còn cƣ ngụ ở tỉnh Hải Dƣơng. Ăn trƣa qua loa trên đƣờng đi. Tới gần tỉnh Hải Dƣơng, xe qua cầu Phú Lƣơng bắc ngang sông Thái Bình. Rồi qua hai phà, phà thứ nhất ngắn, phà thứ hai qua Bạch Đằng Giang lúc chập tối thì dài hơn. Đến Hạ Long gần 9 giờ khuya, đi ăn tại một nhà hàng trƣớc khi về ngủ tại khách sạn Vƣờn Đào khu Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh. Phía bên kia là Hòn Gay.
Sáng hôm sau, 29 tháng chạp, tôi gọi cho cô em gái hay là tối nay chúng tôi sẽ về ăn cơm với gia đình. Chúng tôi đã không vội vã về nhà ngay khi xuống phi trƣờng Nội Bài, cốt để giữ cho lòng mình bình thản, bớt đƣợc nỗi xúc động, nhƣ thể vừa vắng nhà mới đây thôi. Sau bữa sáng ăn bún gà tại Vƣờn Đào, cả nhóm đi thuyền dạo thăm vịnh Hạ Long, thắng cảnh đẹp nhất của Việt Nam. Nƣớc biển trong xanh biếc, núi lớn núi nhỏ mọc lên sừng sững từ lòng vịnh, nhiều hang động
nay thành thần thoại. Hòn Trống Mái, hòn Oản, hòn Ấu. Hang Dấu Gỗ, hang Bƣớm. Cảnh thần tiên này đã có biết bao nhiêu văn nhân mô tả. Chúng tôi chụp ảnh liên miên, thăm viếng nhiều nơi. Rồi cùng ăn uống vui vẻ trên thuyền, cho tới trƣa mới lên xe để trở về Hà Nội, sau khi qua thăm nơi biệt thự mà Catherine Deneuve đã đóng phim Indochine. Xe tạt qua tỉnh lỵ Hải Dƣơng, nơi tôi đã học nhiều năm tiểu học. Chỉ thấy nhà cửa lớn nhỏ xây cất nhƣ đan chen, xe cộ đông nghẹt và bụi bậm khắp nơi. Những ngƣời lại ngƣời. Đƣờng về lối cầu Chƣơng Dƣơng, một cây cầu mới xây trên sông Hồng, khá xa cầu Long Biên cũ. Tới Hà Nội, chúng tôi ghi tên ở khách sạn Thắng Lợi, do Cuba viện trợ xây cất. Căn phòng chúng tôi ở đầy đủ tiện nghi, trông ra hồ Tây. Trời giá lạnh nhƣng máy sƣởi ấm áp. Tắm rửa xong, xuống phòng khách, chúng tôi gập lại anh Nam sau hai mƣơi năm xa cách. Cũng là một chuyện lạ, vì không thiếu gì dịp nơi xứ ngƣời kể từ năm 1975, mà đến nay mới gập nhau. Anh đến để đƣa chúng tôi về với gia đình, rồi sẽ cùng nhóm du lịch đi ăn chả cá Lã Vọng, trên một chiếc xe ca nhỏ của Hanoi Tourism.
Từ nay, chúng tôi tạm thời tách ra khỏi nhóm. Hà Nội đã lên đèn, nhƣng trời vẫn nhá nhem tối. Xe vừa đậu phía đối diện gần nhà số 46 phố Thợ Nhuộm, tôi thấy lố nhố các em tôi đứng đón tại cổng. Nhƣng đƣờng phố còn nhiều xe máy, xe đạp chạy nhƣ mắc cửi, chúng tôi thật khó khăn mới dắt nhau qua đƣợc an toàn. Anh em gập nhau tay bắt mặt mừng, vui nhƣ chợt thấy lại cả quãng đời niên thiếu. Đi vào tới sân, có các em dâu em rể, các cháu đông đủ chào đón. Căn nhà cũ bây giờ đƣợc xây cất thêm nhiều gian, có đến ba gia đình các em tôi ở đấy. Chúng tôi bƣớc vào chào mẹ tôi. Cụ đứng đợi trong phòng, đang nao nức gập chúng tôi tối nay. Mẹ tôi 89 tuổi rồi, tuy còn minh mẫn nhƣng đã già yếu. Từ nhiều năm qua các chị em phải khuyến khích cụ cố gắng ăn uống, giữ gìn sức khỏe, để còn mong có dịp này. Gập lại tôi là con trƣởng, thất lạc đã hơn 40 năm. Và gập nhà tôi là con dâu trƣởng, lần đầu tiên sau hơn 32 năm chúng tôi lấy nhau. Tôi ôm lấy mẹ tôi, thƣa mẹ rằng chúng con đã về đây. Vâng chúng con đã về đây. Cả nhà mừng vui nhƣ chúng tôi mới vừa đi du ngoạn trở về. Mà không một ai để nƣớc mắt trào ra. Mẹ tôi cố ngăn sự xúc động, bình thản bảo tôi xoay mặt về phía đèn sáng để cụ dễ nhận. Rồi cụ thoáng vui lên, sai tôi thắp hƣơng lên bàn thờ, để lễ cụ Đốc Đông Tô Huân, lễ bố, lễ em Đang.
Sau đó, tất cả chúng tôi xuống nhà cô em Ngọc Loan để ăn tối. Bữa cơm thịnh soạn, có vài món nấu, có nem chua, chả cua bể, gà rán, giò lụa. Mẹ tôi ngồi giữa tôi và nhà tôi. Chú Đằng nói mấy
câu chúc mừng chúng tôi đã về đƣợc thăm mẹ và cả nhà, rồi lần lƣợt giới thiệu các em dâu em rể, các cháu. Tất cả nâng ly mừng cho ngày gập mặt tƣơi đẹp này. Chúng tôi ăn uống vui vẻ thoải mái, bất kể rau sống quả xanh. Rồi chụp ảnh. Mẹ tôi nói đủ chuyện, những việc gia đình, những ngày sơ tán chạy bom đạn. Và cũng hỏi đủ chuyện, nhƣng không hề phàn nàn hay trách móc điều gì. Mẹ tôi dặn khi nào chúng tôi thấy mệt thì cứ việc về khách sạn mà nghỉ, tới lúc đó mẹ mới lên phòng mình để ngủ.
Tôi hỏi mẹ:
-"Mẹ có điều gì dậy bảo con dâu trƣởng không?"
Mẹ tôi trả lời:
-"Cô ấy giữ đƣợc anh là giỏi rồi."
Tôi tiếp:
-"Ở nhà đã có em Đằng lo mọi công chuyện rồi, nên tuy ở xa con cũng không lấy gì làm lo lắng cho lắm."
Mẹ tôi nói:
-"Anh là trƣởng nhƣng là trƣởng giả, em nó là thứ nhƣng là thứ thiệt đấy."
Rồi mẹ tôi bảo:
-"Anh hay đƣợc cái giỏi nói thôi, lúc nào cũng căn dặn các em đẻ ít. Các em ai cũng chỉ có hai con, mà anh thì có những ba đứa."
Mẹ tôi còn nói vui đùa là có ba điều ƣng ý: thiếu vi quan nữ, trƣởng vi quan phụ, lão vi quan mẫu. Lúc nhỏ là con quan, lúc lớn lấy chồng quan, lúc già là mẹ quan. Nhƣng có lẽ chỉ thời nhỏ mẹ tôi mới sung sƣớng nhất thôi, vì là con gái một, nên đƣợc ông bà ngoại nuông chiều. Từ lúc lập gia đình trong một thời đại nhiễu nhƣơng, mẹ tôi đã phải cùng chồng lo toan biết bao nhiêu công việc. Cho một gia đình đông con với bốn trai bốn gái. Sáng hôm sau, anh Chu Thế Nhƣơng đạp xe đạp lại thăm chúng tôi. Gập lại anh, tự nhiên nƣớc mắt tôi chạy vòng quanh. Chúng tôi ôm lấy nhau, lời nói nghẹn ngào nhƣ kể lể cho chính mình. Hai chúng tôi bỗng nhớ tiếc thời học trò, thời mới tản cƣ về quê. Anh học trung học Đỗ Hữu Vị trên tôi hai lớp, và là học sinh giỏi thời đó. Sau anh theo trƣờng lên Đào Giã Phú Thọ, đi tòng quân và nay là một tƣớng lãnh hồi hƣu. Anh nói với tôi là lúc nhỏ, ông ngoại xem số đã nói rồi anh sẽ theo binh nghiệp. Trong kháng chiến, thỉnh thoảng khi anh có dịp về thăm nhà, tôi còn đƣợc xem nhật ký của anh. Những cảnh nhà sàn, những con suối nƣớc độc đầy lá mục rữa. Và các con vắt bám lấy ngƣời để hút máu, các con chim hót "bắt cô trói cột" trong rừng già Việt Bắc. Anh qua khỏi những cơn sốt rét thập tử nhất sinh là nhờ bàn tay giúp đỡ của các cô gái miền sơn cƣớc. Anh ghi vội cảm xúc vào ngày cuối năm tây này khi đƣợc gập lại tôi, là ngƣời em và ngƣời bạn tuổi niên thiếu, qua mấy câu thơ sau:
Nửa thế kỷ, nửa vòng trái đất,
Đến hôm nay gập mặt mừng vui
Suy trong cuộc sống mỗi người,
Mối tình cốt nhục, suốt đời ghi sâu.
Buổi trƣa hôm đó, mấy anh chị em chúng tôi ăn tại nhà cô em Ngọc Châm. Còn có thêm anh Đại, anh ruột nhà tôi. Có món bánh chƣng luộc nóng thật ngon. Chúng tôi uống bia, riêng ly của mẹ tôi có pha thêm một chút bột ngọt.
Tôi cảm thấy sảng khoái, và nói với mẹ:
-"Nếu xa nhà mà con thành hƣ hỏng thì mẹ nghĩ sao?"
Mẹ tôi bỗng nghiêm nét mặt lại, và bảo:
-"Con không có quyền nói rỡn với mẹ, con mẹ không thể thành ngƣời vô dụng đƣợc."
Tôi hỏi tiếp:
-"Nếu phân tán vì loạn lạc rồi anh chị em chia rẽ và oán ghét lẫn nhau thì mẹ tính sao?"
Mẹ tôi đáp ngay:
-"Thôi anh lại say rồi chăng?"
Sau bữa ăn trƣa, em Đằng, anh Nhƣơng vừa nằm xuống giƣờng mẹ tôi nghỉ là ngủ đƣợc ngay. Tôi nằm cạnh, không chợp mắt đƣợc lấy dăm ba phút. Lại ngồi dậy nói chuyện với mẹ tôi. Cụ thƣờng không nghỉ trƣa, và đang ngồi ghế kế bên. Cụ bảo tôi đi xa rồi thì ở nhà chán lắm, không có ngƣời nghe mẹ trò chuyện. Chắc các em tôi mải lo bao công việc khác. Còn tôi thì từ lúc nhỏ, tôi đã biết chia sẻ nỗi lo lắng hoặc mừng vui với mẹ. Tôi hỏi mẹ có nhớ thơ của ông ngoại làm không? Mẹ tôi liền đọc cho tôi chép bài thơ sau đây về chùa Yên Tử:
Tục niệm trần tâm tiếu tuyết thu
Vị tăng bán vũ khấu la phù
Sơ hoài nhân tự đăng kiều nhạc
Kế mộ gia đình bộ thắng du
Đan quế phương lan thành quán diện
Thuần lan tuấn lĩnh tẩn hanh cù
Nhị tôn tràng tử sinh dân thập
Đại đại nhai nhai kỷ ngã chu
Rồi đọc tiếp lời dịch, vì biết rằng tôi đã quên hết chữ nho:
Thuở trước đường tu rộng xiết bao,
Núi Yên mấy bận đứng non cao
Thẻ hương tay thắp, nam mô Phật,
Lá sớ đầu dâng, kính lễ sao.
Lội suối trèo non đâu dám quản,
Nâng công giúp quả biết nhường nào.
Con con cháu cháu nên ghi lấy,
Bia tạc chùa đồng thích chữ tao.
Buổi trƣa hôm sau, anh chị Nam mời chúng tôi và cả nhóm du lịch ăn tại khách sạn Sofitel Métropole. Đƣợc nghe các bạn vui kể lại chuyện các thắng cảnh đã xem, rồi hẹn gập nhau tại Sài Gòn để trở về Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Pháp hay Đức.
Trong mấy ngày ở Hà Nội, chúng tôi có xe hơi của chú Đằng mƣớn, đƣa đi mọi chỗ. Hồ Hoàn Kiếm không thay đổi mấy và vẫn đẹp nhƣ xƣa. Vào đền Ngọc Sơn lễ Phật, chụp ảnh trên cầu Thê Húc. Hàng Trống, hàng Đào, hàng Bạc, phố xá nhƣ chật hẹp hơn ngày trƣớc, vì quá đông ngƣời và có nhiều quán bán tạp hóa tràn ra lề đƣờng. Nhà hát lớn cũ còn đang tu sửa. Viện bảo
tàng xƣa vẫn nằm im lìm. Chúng tôi cũng có dịp nhìn ngắm ngôi nhà 151B phố Huế của nhà tôi xƣa, và đi thăm bà con phía nhà tôi. Có hôm chúng tôi đi lễ chùa Trấn Quốc, thắp hƣơng khấn vái. Rồi vào một tiệm ăn ở đƣờng Cổ Ngƣ, cùng mấy anh chị em thƣởng thức món bánh tôm đặc biệt tại đây. Vừa ăn uống vừa nói chuyện vui nhƣ pháo ran. Có bia Tiger, nƣớc ngọt Coca Cola. Tuy nhiên, hƣơng vị bánh tôm không đƣợc nhƣ ngày cũ. Gần khu đê Yên Phụ nay có những quán bán thịt chó nối tiếp nhau từ đầu phố đến cuối phố. Đầy biển quảng cáo đủ loại, trông không mấy hấp dẫn. Nơi phủ Tây Hồ, vẫn còn những vƣờn trồng đầy đào, cây và cành có hoa nở tƣơi thắm để bán vào ngày tết.
Nhân dịp chúng tôi về thăm nhà, mẹ tôi mời bà con trong họ dùng cơm trƣa tại hiệu Maria phố Huế. Mẹ tôi tay vịn cầu thang, tay nắm tay tôi, còn từ từ leo lên đƣợc tới lầu hai. Có khoảng sáu chục ngƣời. Tôi gập lại bác Úy, chị Mai Quý Hiên, các chị Toàn, Dung, Kha, Phú, Lê, Yến, các anh Phiến, Long, Hồng, Tộ, Vũ Oánh, Thảo, Tuấn, các em Sửu, Toán, các cháu Tô Tần, Tô Hùng, Nguyễn Hà Hoạt... Em Đằng thay mặt mẹ tôi đứng lên cám ơn mọi ngƣời có mặt. Mẹ tôi thật vui vẻ, phần vì tôi về đƣợc, phần vì hãnh diện với họ hàng có cô con dâu trƣởng hiền thục. Rồi tất cả ăn uống rất thoải mái, chụp ảnh lƣu niệm và kể mọi chuyện xƣa nay. Anh Nhƣơng mừng mẹ tôi bài thơ sau:
Mừng bà 89 tuổi xuân,
Đông vui con cháu quây quần bên nhau.
Nghĩa tình trọn vẹn bền lâu,
Đó là phúc lớn Xuân Cầu-Kim Ngưu.
*
Anh Phiến có tặng chúng tôi một cuốn sách về thân phụ anh, một nhà văn xã hội tiểu thuyết sớm nhất của nƣớc ta: Văn thơ Đặng Trần Phất. Về thăm nhà tôi mới biết là ngƣời em trai út của tôi cũng hay làm thơ. Lúc tôi rời Hà Nội, "bé" Đang mới 12 tuổi. Bây giờ, khi tôi về, Đang đã mất từ mƣời năm trƣớc vì ung thƣ gan, để lại ngƣời vợ trẻ, và hai con nhỏ. Thơ của Đang nhƣ quá mong manh. Đây là bài "Đẹp", 1966:
Suối chảy hoài chảy hủy,
Mây bay miệt bay mài,
Gió vít cành cuốn lá,
Đi về đâu? Tìm ai?
Mây bay qua lưng đèo
Ôm quanh người em gái,
Bộ ngực căng nhựa đời
Làm xanh nương xanh bãi.
Gió tìm lên đỉnh núi
Nơi tiếng hát tươi vui,
Tự lòng người em gái
Ấm tình đời, sinh sôi.
Suối chảy xuống chân đồi
Nơi người em gái tắm,
Tóc mềm như suối trôi
Da hồng như sắc nắng.
Suối mây và gió ơi
Người đi tìm cái đẹp,
Có biết điều hay nhất
Nàng sống đời thủy chung.
Bài “Anh viết", 1971:
Xa em, xa thị xã
Anh nhớ tháng, nhớ ngày.
Bây giờ anh về đây
Lại giữa lòng thị xã.
Giữa ba bề lối nhỏ
Vài bước là đến em
Hết ngày rồi hết đêm
Nhà em, anh chẳng đến.
Anh viết về ngày tháng,
Xa thị xã, xa em.
Căn phòng con rủ kín
Suy nghĩ và nhớ mong.
Ngoài phố người có đông?
Bước chân em có đợi.
Cơn gió đông tìm thổi
Ánh đèn không đứng yên.
Anh viết, rồi viết thêm,
Về nỗi mong gập lại.
Thơ dẫn anh đi mãi,
Hết tháng lại hết mùa.
Đông đi tự bao giờ,
Mùa Xuân choàng áo mới.
Hoa xuân choàng xe cưới,
Đón em đi, em đi.
Trang giấy và dòng Thơ,
Không rời căn phòng nhỏ.
Tình anh và tình Thơ,
Vẫn như nguồn tuôn đổ
Anh viết và viết nữa,
Hết ngày rồi hết đêm.
Và "Dâng mẹ", 1973:
Tròn ba mươi tuổi xuân đầy,
Con dâng lên Mẹ tháng ngày.
Khúc ca!
Dãi dầu tháng hạ, con qua
Gió thu se...
Đến mặn mà chất quê!
Khúc ca kia...
Khúc ca kia...
Đã nồng lối nắng con đi,
Đã tanh quãng rét, đã ghê gió lồng,
Đã như quê
Đến cháy lòng,
Đất trùm bom lửa suốt vòng tuổi xuân.
Ấy mà, con đã lớn lên!
Ấy mà, Đất Mẹ bình yên đã về!
Tối hôm đó, chúng tôi đƣợc ăn ở nhà bác Úy, một nhà báo tên tuổi của Hà Nội, gần hồ Thiền Cuông. Tôi từng đạp xe đạp dọc bên hồ mỗi buổi trƣa để đến học dƣơng cầm với cụ Duyệt tại Âm Nhạc Học Xá. Hồ này còn là nơi xƣa tôi thƣờng bơi thuyền vào những sáng mùa hè. Lúc ra về nhà, chúng tôi dắt nhau rảo bƣớc qua những con phố im vắng, trong cái se lạnh của ngày cuối năm. Nửa đêm về khách sạn, cây cối chung quanh đƣợc chăng đèn kết hoa sáng rực, tất cả nhƣ chào mừng tết Dƣơng lịch mới đến.
Sáng mồng một, chúng tôi lên hai chiếc xe ca cùng gần ba chục anh chị em bà con ở Hà Nội để về làng Xuân Cầu. Trời mƣa phùn gió bấc từ đêm hôm trƣớc, khi mƣa khi tạnh. Tại nhà thờ tổ, xây dựng lại trên nền đất nhỏ của hậu cung cũ đƣợc gập bà con nơi quê nội. Em Tô Thế, em Sửu, em Khánh, cháu Tô Sách,... Chúng tôi lễ cụ cố Tô Huân, rồi ra nghĩa trang của làng thăm mộ bố, em Đang, chú Mỹ, em Phục,... Mƣa vẫn còn sùi sụt, trời giá lạnh. Chỉ qua một cánh đồng là tới làng Kim Ngƣu quê ngoại, mà chúng tôi đành chờ dịp khác về thăm. Vì có ít thì giờ, và cũng vì anh em bên ngoại lúc đó còn đang phải tìm kiếm phần mộ của ông bà đã bị dời đi đâu mất trong thời cải cách. Tối hôm ấy, mấy anh em chúng tôi đi lễ tại chùa Quán Sứ, lâm râm khấn vái. Cảnh tƣợng trang nghiêm từ bao năm, với khói nhang nghi ngút.
Sáng 3 tháng 1, 1995, chúng tôi về xin phép từ biệt mẹ, chào các em các cháu, rồi ra phi trƣờng Nội Bài lấy Airbus của Việt Nam Airlines đi vào Sài Gòn. Chuyến bay thật êm. Tới Tân Sơn Nhất lúc 3 giờ chiều. Phi cảng không khác xƣa mấy, vẫn còn cảnh nghèo nàn, nhƣng hành khách có đông đảo hơn. Chị em và mấy cháu ra đón chúng tôi tại phi cảng, nỗi mừng vui gập lại nhau không nói hết lời. Lần cuối gập chị Xuân Nhân trong thời kháng chiến vào năm 1949, nay đã hơn 45 năm. Xa em Hoa, em Hoàn từ ngày rời Hà Nội năm 1954, cũng đã hơn 40 năm. Ôi thời gian qua nhanh với bao nhiêu vật đổi sao dời. Về tới khách sạn Saigon Lodge Hotel 215 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, chúng tôi đƣợc gập hai giáo sƣ Vũ Khánh và Nguyễn Vĩnh Niên. Tay bắt
mặt mừng. Giáo sƣ Khánh nay là Khoa Trƣởng, vừa là bà con, vừa là bạn học cũ. Giáo sƣ Niên tuy tôi đã đƣợc gập lại tại Pháp vào năm 1992 ở nhà giáo sƣ Đặng Vũ Biền, mà lạ thay, thấy nhƣ đã xa từ lâu lắm. Dƣợc sĩ Phạm Hữu Hiền cũng có đến thăm và mang cho ít cà phê Đà Lạt.
Tối chúng tôi đến nhà chị Nhân ăn cơm chiều cùng các em các cháu trong Nam. Em "bé" Hoa lúc tôi rời Hà Nội còn nhỏ xíu, nay đã có chồng và hai cháu, hiền lành nhƣ hồi còn nhỏ. Cũng nhƣ bé Hoa, chị Cảnh nay thành ngƣời lớn, nhà cửa yên vui. Chị Nhân có bốn cháu gái duyên dáng và nhanh nhẹn, đều có gia đình con cái ấm cúng. Tôi tiếc không đƣợc gập ông anh rể, đã mất mấy năm trƣớc vì đau yếu. Và cháu Thanh Bình, con giai lớn của chị, đã hy sinh tại Huế vào những ngày đen tối năm 1975. Chúng tôi nói không dứt chuyện cho đến nửa khuya.
Sáng hôm sau đi thăm Sài Gòn, nơi đã cho chúng tôi biết bao kỷ niệm êm đềm. Nhà thờ Đức Bà, nhà Bƣu Điện. Đƣờng Tự Do, Quốc Hội, nhà hàng Continental cũ. Sở Thú, viện Bảo Tàng xƣa. Em Đằng lại bay từ Hà Nội vô đây để đƣa đi thăm tiếp mọi nơi. Cũng xem Múa Rối Nƣớc. Trƣa ăn cơm nhà Hoàn, tại hiệu thuốc Yến Hƣơng. Hoàn là một dƣợc sĩ, chồng là bác sĩ Liệu. Gập lại cháu Trung cũng từ đại học Berkeley về chơi.
Buổi chiều mồng 4, có xe trƣờng Dƣợc đến đón đi với hai giáo sƣ Nguyễn Vĩnh Niên và Vũ Khánh. Tôi đến trƣờng cũ đƣợc gập ban lãnh đạo mới, và giáo sƣ Trần Ngọc Tiếng thân quen. Giáo sƣ Vũ Khánh và toàn ban giảng huấn tiếp tôi thật ân cần, nói chuyện cởi mở. Trƣờng có xây cất thêm, nhƣng nhiều dụng cụ đã hƣ hao và các hóa chất còn thiếu thốn. Sau đó, tôi xin đến thăm giáo sƣ Nguyễn An Cƣ tại nhà riêng đƣờng Sƣơng Nguyệt Ánh.
Ông đang ngồi ngoài vƣờn đọc chữ nho, trong một cái am nhỏ. Thật là một ngƣời thoát tục, không vƣớng bụi trần. Rồi ông đƣa chúng tôi đến thăm cô em ông là giáo sƣ Nguyễn Thị Lâu. Nhanh thật, thấm thoát đã hơn hai mƣơi năm xa cách. Chuyện trò đủ thứ, thăm hỏi đủ ngƣời. Cô Lâu tuy đã phải dùng nhiều loại thuốc, nhƣng tinh thần còn rất trẻ trung. Buổi tối, hai giáo sƣ Khánh và Niên mời tôi và nhà tôi dùng cơm tại nhà hàng Thanh Trà, 12 Nguyễn Trãi, quận 5. Một bữa ăn thật ngon miệng, nhiều món quê hƣơng đặc biệt, nhất là món ếch chiên bơ. Khu này
ban đêm, ngƣời đông nhƣ mở hội. Đâu đây thỉnh thoảng từng tràng pháo nổ vang liên hồi, dù lệnh cấm đốt đã ban hành.
Sáng mồng 5, chúng tôi lại có dịp đi thăm mọi nơi, ở Sài Gòn rồi Chợ Lớn. Đƣờng Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi cũ. Rạp Rex, tòa Đô Sảnh xƣa. Chợ Bến Thành, chợ Bình Tây. Nhà cửa bên đƣờng Lục Tỉnh chạy dài ra tận miền ruộng Phú Lâm. Ngƣời đi đông nghẹt phố. Xe đủ loại chạy nhƣ mắc cửi. Bụi bậm và ồn ào. Nhƣng đô thị có mở rộng, nhiều khu mới mọc ra nhƣ nấm. Trƣa đến ăn nhà chị Cảnh, đƣợc ăn món canh rau rút khoai sọ. Mùa thu đã qua lâu rồi, nhƣng thú quê thuần húc bén mùi vẫn còn đó. Buổi chiều chúng tôi đi thăm khu giải trí thiếu nhi Đầm Sen, có sân khấu ca nhạc, chỗ nuôi cá sấu, thủy cung. Trong hồ rộng sen còn nở bông, lá xanh tƣơi tốt. Có một cây phƣợng vĩ hoa còn nở muộn lẻ loi, cố khoe sắc đỏ thắm ngày hè. Buổi tối, chúng tôi gập tất cả họ hàng đến ăn cơm tại nhà em Hoa. Có các em con chú Du, cháu Hòa con anh Tảo. Vui nhƣ một ngày tết xƣa. Chuyện cũ chuyện mới, hết đông lại tây. Cũng chụp ảnh, đàn địch, video kỷ niệm. Rồi chia tay trong niềm hân hoan hội ngộ. Lúc ra về, xe chạy lòng vòng qua bến Bạch Đằng rồi đi sâu vào trong lòng thành phố đã lên đèn, để xem qua cảnh sinh hoạt Sài Gòn ban đêm.
Sáng 6 tháng giêng, gập lại cả nhóm du lịch. Cùng ăn sáng tại khách sạn, ai nấy đều vui vẻ trong chuyến đi đầy kỷ niệm. Lúc 11 giờ ra phi trƣờng Tân Sơn Nhất để đi Bangkok. Rồi hôm sau trở lại Los Angeles. Tới nơi, trời đổ mƣa tầm tã. Vợ chồng cháu Huy ra đón tại phi trƣờng, đƣa đi ăn trƣa ở Tiểu Sài Gòn. Chúng tôi đành bỏ chuyến bay nối tiếp về San Diego, tạm ở lại nhà anh chị Nguyễn Đức Hạnh tại Irvine, để buổi tối còn ăn cƣới cháu Tâm con anh chị Trang Kiên tại quận Cam. Cháu Bảo Châu lái xe lên đón chúng tôi đi. Dạ tiệc tổ chức thật đẹp, quan khách bè bạn đông vui. Mãi 1 giờ đêm mới về tới nhà ở San Diego.
Từ nay, tôi khỏi ân hận sao đất nƣớc đã thống nhất mà vẫn không tìm về gập mẹ lúc sinh thời. Khi chia tay, mẹ tôi nói một lần về cũng thỏa nỗi nhớ mong, con khỏi phải lo trở lại nữa. Trong suốt thời gian ở nhà, tôi chƣa hề thấy mẹ tôi trách móc các con cháu. Hoặc than vãn lấy một câu về sự đau yếu hay buồn chán lúc tuổi già. Có lẽ tinh thần khí khái ấy, xƣa nay đã giúp tôi thêm nghị lực để phấn đấu với đời. Trở lại Hoa Kỳ, tôi tiếp tục công việc khảo cứu khoa học thƣờng ngày. Sự bận rộn trong cuộc sống đã làm tôi chậm trễ viết thƣ về nhà. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận đƣợc một số thƣ từ của chị em bà con, nhân cuộc thăm viếng này.
Thơ chị tôi có đoạn sau:
Các em đã về đây, người em trai của chị.
Các em đã về đây, Loan, em như người em gái chị thân thương...
Thăm được mẹ rồi, suốt cuộc đời thanh thản,
Gập chị em rồi, tình cảm khỏi khát khao...
Thƣ một cô em có những câu viết về nhà tôi:
Em gập chị có ít ngày... nhưng những ấn tượng tốt đẹp về chị không bao giờ em quên. Em đã có một người chị dâu cả yêu quí chồng con và gia đình chồng... Chị tuy nhiều tuổi nhưng vẫn giữ được nét đẹp thời con gái. Chị là tấm gương cho chúng em về đức tính nhanh nhẹn tháo vát, nhưng lại nhẹ nhàng hiền dịu...
Bao nhiêu lần tôi cầm bút định viết rồi lại thôi. Hay tại lúc này liên lạc thƣ từ điện thoại đã thƣờng xuyên dễ dàng. Không nhƣ thời di cƣ vào Nam, chỉ có thể viết vài dòng trên một tờ bƣu thiếp nhỏ bé và bỏ ngỏ, hay là hồi mới di tản sang Mỹ, có lá thƣ đi mất mấy tháng mới tới nhà. Nhƣng vào tháng 4, 1995, tôi gửi về lá thƣ, xin đƣợc trích ra mấy dòng dƣới đây:
Thưa mẹ,
Chúng con đã trở về San Diego được mấy tháng, nay mới viết thư về thăm nhà được. Thật là chúng con đã may mắn có được những ngày vui bên mẹ, chị Nhân, các em, các cháu.. và với tất cả bà con họ hàng mà đã bao năm không có cơ hội gặp gỡ. Ngồi bên mẹ, con vẫn có cảm nghĩ như hồi còn nhỏ, được che chở và bảo vệ. Chúng con có được phúc đức của nhà nhiều lắm...
Em Đằng,
Lúc nào anh cũng nghĩ rằng anh được yên tâm vì có Đằng ở nhà, thật là anh không lầm. Đằng có đến mười hoa tay mà anh chỉ có một. Giang vẫn vui tính như ngày nào. Các cô con dâu nhà họ Tô đảm đang và tài ba cả. Các em Châm, em Loan, anh chị thấy được hạnh phúc trong sự giản dị. Nhưng tất cả các em đã làm cho anh chị ngạc nhiên và vui sướng, đó là thấy các cháu đều học giỏi, đẹp đẽ, sáng sủa, và nhất là dễ thương. Phải kể cả các cháu dâu cháu rể... Cũng như các con chị Nhân, các con cô chú Hoa Thọ trong Nam. Có một điều đáng tiếc là anh chị có quá ít thì giờ nói chuyện với các cháu. Tất cả các quà của mẹ, các em, các cháu, anh chị đều rất quí vì rất đẹp hay hữu dụng. Một vài ngày vui đã mang lại biết bao giá trị cho cuộc đời. Đằng cho anh chị cám ơn tất cả. Hai bác Úy vẫn giữ được phong độ thuở nào.
Cũng xin gửi lời thăm Tô Tần, Tô Hùng, Nguyễn Hà Hoạt, Tô Sách, em Thạch, em Toán, em Sửu, em Thế, em Khánh.. và các ông chồng, bà xã. Qua những nhân vật trong họ, anh chị còn thấy được vượng khí của chúng ta. Cho dù cuộc đời dâu biển. Cho anh chị cám ơn chị Mai Quí Hiên, và chúc mọi tốt lành.
Chị Nhân,
Chúng em xin gửi lời thăm chị, cô chú Hoa Thọ, cô chú Hoàn Liệu, chị Cảnh, cháu Hòa và tất cả các cháu. Chị cũng cho chúng em gửi lời thăm các em con chú Du, Hoàng và Nguyệt và gia đình. Chị đã viết thư cho em nhiều lần, mà em thật là bận rộn, mãi không viết ra lời. Em đã nhận được video cháu Trung mang sang. Bé Hoa vẫn thanh thản như hồi nhỏ, thật là tốt. Cháu Diệu Vân có tài đàn đấy... Trong những năm qua, và cả bây giờ, bao giờ em cũng hãnh diện về chị. Em chỉ không nói ra mà thôi. Chị là người có lý tưởng. Em chỉ có được sự may mắn, được bố dậy bảo lúc nhỏ, được mẹ cho thêm trí nhớ. Trong nhiều năm xa nhà, ở những nơi phong tục tập quán và lối suy tư khác biệt, em
cũng e rằng không giữ được như xưa. Nếu có sai lầm điều gì thì mẹ chắc cũng bỏ qua cho....
Bình an thư,
Tôi có ý định ghi lại những kỷ niệm trên đường về quê mẹ từ lâu nay, mà sự bận rộn trong cuộc sống đã làm tôi chậm trễ mãi. Chúng tôi phải cám ơn chị Khánh Hoài, cụ Bân cùng tất cả các bạn đồng hành trong chuyến đi kỳ thú này. Chị Hoài thật tháo vát. Cụ Bân hơn 80 tuổi còn tráng kiện tinh tường. Anh Victor hoạt bát dễ tính. Các anh các chị đều nhanh nhẹn vui vẻ. Con đường dài hầu như ngắn lại, sự xét hỏi khó chịu nơi phi cảng trở thành thoáng qua, và cuộc du ngoạn rất vui càng thấy vui hơn. Tuy có bao nhiêu sự việc xẩy ra trong tám năm qua, nhưng kỷ niệm ngày ấy thật quá đẹp đối với chúng tôi. Mà đã là kỷ niệm, chỉ e để lâu sẽ quên mất, chứ lúc
nào kể lại mà chẳng được. Thời gian đâu có thể làm giảm bớt đi những nỗi vui ngày ấy. Và thấy như viết đã tạm đủ, sợ thêm nữa sẽ thành nhàm chán, nên tôi vội ngừng bút nơi đây.
Mùa Giáng Sinh 2002
CHƢƠNG MƢỜI MỘT
Ngành Khảo Cứu Y Dƣợc Tại Hoa Kỳ
Lời nói đầu
Tại Đại Hội Y Nha Dƣợc Việt Nam Tự Do kỳ 3 tại Paris năm 2000, tôi đã trình bày “Những cảm nghĩ về ngành khảo cứu Y Dƣợc tại Hoa Kỳ”, nhƣ một đóng góp nhỏ nhoi trong phần Dƣợc Khoa. Đề tài là một câu chuyện liên hệ đến khoa học, văn hóa và xã hội. Tôi đã kể lại một vài kỷ niệm vui buồn, một số kinh nghiệm nghề nghiệp, ít nhiều nhận xét và suy tƣ về ảnh hƣởng của môi trƣờng và xã hội, đối với công việc khảo cứu. Tại Hoa Kỳ, liên tục từ một phần tƣ thế kỷ qua, tôi đã làm những khảo cứu khoa học căn bản tại các trung tâm đại-học hay liên hệ, cùng những dự án tìm tòi thuốc mới dùng cho khoa trị liệu và chẩn đoán căn bệnh tại một số cơ sở kỹ nghệ. Một vài công việc đã đƣợc mô tả trong câu chuyện thật sơ lƣợc theo thứ tự thời gian, nhƣ những bối cảnh mang lại đôi dòng tâm tƣ của diễn giả. Tôi cũng trình bày một số giải pháp đối với các vấn đề đƣợc nêu ra, cho hợp với tƣ tƣởng của ngƣời Mỹ, chỉ ƣa nghe cách giải quyết hơn phải nghe lời chỉ trích. Nhƣ muốn môi trƣờng sinh sống trong sạch thì cần cập nhật hóa vấn đề trách nhiệm của các cơ sở kỹ nghệ và gia tăng sự tìm kiếm các nguồn gây ô nhiễm cùng phƣơng pháp giải độc. Muốn tránh phải hành hạ hoặc hy sinh các sinh vật thí nghiệm thì nên dùng những họa kiểu chính xác cần ít sinh vật hơn hay khai triển các phƣơng thức khảo cứu sinh học khác. Tôi cũng đề cập đến tính cách thực dụng trong các công trình khoa học, ảnh hƣởng của môi trƣờng và xã hội, cùng khía cạnh nghệ thuật và khoa học trong các thử nghiệm. Và cho rằng những điều nói ra thƣờng có tính cách chủ quan, đúng hay trật xin tùy thuộc sự lƣợng định của quí vị thính giả. Hơn nữa, tôi cũng đã xin sự miễn thứ, nếu có nói điều gì về riêng tôi, vì tuy nói về mình là chuyện thông thƣờng ở nƣớc Mỹ, nhƣng đối với ngƣời Việt húng ta, hay kể cả ngƣời Pháp, thì cái tôi là điều đáng ghét. Nay có thì giờ, tôi xin viết lại thêm vào đôi điều nói trong dịp ấy, đã đƣợc trình bày sơ lƣợc trong giới hạn 20 phút với một dàn bài quá ngắn.
Nhƣ những ngƣời Việt di tản sau biến cố tháng 4 năm 1975 tới Hoa Kỳ, chúng tôi phải cố gắng để gia đình sớm tự túc tại đây, mà càng sớm càng tốt. Thật ra, ở đâu cũng vậy, không tự túc đƣợc thì không có tự do! Cho dù ta có đƣợc một gia đình bảo trợ thật tốt.Tôi tự nhủ thôi hãy tạm quên Việt Nam, nay quê hƣơng đã cách xa ngàn dậm, và hãy cố thích ứng với cuộc sống mới nơi đất hứa đầy cơ hội này. Ra đi với hai bàn tay trắng, chúng tôi chỉ còn trông cậy vào vốn liếng kỹ thuật sẵn có. Nhƣng tìm đƣợc một việc gì thích hợp là điều vô cùng khó khăn, nhất là lúc tuổi không còn trẻ, thân thì nhỏ, sức thì yếu so với ngƣời bản xứ. Và tiếng Mỹ nói còn chƣa đúng giọng, nghe còn chửa thông. Tôi cũng định tâm làm tạm bất cứ việc gì mà không sao xin đƣợc. Một số bạn bè và đồng nghiệp sau khi liên lạc đƣợc đều cho rằng nếu tìm kiếm ra một lý tƣởng để phục vụ thì đời sống mới hiện nay, may còn có ý nghĩa. Thí dụ làm về Khảo Cứu Khoa Học. Lúc đó, tôi cũng tƣởng rằng nghề này sẽ ít phải nói năng, giao thiệp và tiếp xúc với nhiều ngƣời. Hơn nũa, vì đối tƣợng của khoa học không có biên giới, một chuyên gia nào mà không có thể tự hào đã từng đóng góp công trình với nhân loại, dù cho rằng đó chỉ là một hạt cát trong sa mạc,
hay một giọt nƣớc trong biển cả. Nhƣng rồi duyên may đƣa tôi trở lại việc Khảo Cứu Khoa Học, một ngành mà tôi ƣa thích khi còn làm việc tại thủ đô Paris vào cuối thập niên 50.
Một năm ở Stevens Point, WI
Ông Bà B.W. Eagon bảo trợ gia đình Tô Đồng
Đầu tháng 6 năm 1975, gia đình tôi rời trại tỵ nạn Camp Pendleton tới Stevens Point, WI. Chúng tôi ở với gia đình ngƣời bảo trợ là giáo sƣ B.W. Eagon, một Khoa Trƣởng đã từng làm cố vấn về Giáo Dục Đại Học Việt Nam trong Phái Đoàn của Đại Học Wisconsin. Lý do giản dị vì tôi có quen biết một số giáo sƣ ở đây khi đi du hành quan sát ngành quản trị Đại Học vào năm 1968. Stevens Point là một thành phố đại-học nhỏ và rất đẹp, có chừng 7 tới 8 ngàn sinh viên, dân chúng vui vẻ hiền hòa. Nhƣng rất khó kiếm việc nơi đây, kể cả việc làm chân tay. Đến tháng 7, tôi đƣợc giáo sƣ Nguyễn Thế Anh cho biết trong lúc này có thể xin grant của Ford Foundation, và giáo sƣ Nguyễn Bích Thoa gửi cho danh sách thƣ mục điện toán liên hệ. Tôi đã viết dự án khảo cứu về ảnh hƣởng của các chất diệt cỏ phenoxyherbicides đƣợc dùng tại Golden Sands, một vùng trung tâm tiểu bang Wisconsin. Các chất này có tên là 2,4-D và 2,4,5-T, đƣợc biết nhƣ những chất khai quang mầu cam thƣờng dùng trong chiến tranh Việt Nam, có một phó sản rất độc là dioxin. Dự án cũng đƣợc các giáo sƣ R. K. Anderson, B. H. Shaw, J. G. Newman của phân khoa Tài Nguyên Thiên Nhiên đại học Wisconsin-Stevens Point giới thiệu, cố vấn và hỗ trợ. May mắn đã đến ngay với tôi, khi dự án khảo cứu đƣợc Ford Foundation chấp nhận tài trợ trong niên khóa này.
Tờ báo địa phƣơng Stevens Point Daily Journal 9/19/75 có tƣờng thuật việc này, dƣới tiêu đề “Viet refugee gets foundation grant”. Họ ghi lại những điều tôi trả lời trong cuộc phỏng vấn về dự án này, và viết thêm về hiện trạng của chúng tôi khi ở với gia đình giáo sƣ Eagon. Ít lâu sau, tờ Pointer của Đại Học đăng bài họ phỏng vấn tôi, “Viet refugee begins investigation”, cùng những quan điểm của tôi về việc bảo vệ môi sinh trong thời đại mới. Trong khi làm tại đây, tôi cũng nhận đƣợc sự lƣu tâm của một số chuyên gia của cơ quan Bảo Vệ Môi Trƣờng EPA, của L. A. Norris, Research project leader tại Forestry Sciences Laboratory, OR 97331, và mẫu chất dioxin của Dow Chemical USA, Agricultural Product Dept, từ giáo sƣ Hinsdill ở Madison.
Trong mấy tháng đầu, tôi kiếm cách ly trích, tinh chế các chất diệt trùng từ các mẫu thử nghiệm, rồi định lƣợng chúng. Tôi cũng tìm ra phƣơng thức riêng và giản dị để định tính đƣợc những chất độc bằng máy sắc ký Gas Chromatograph Packard 7300, 63-Ni Electron Capture Detector. Tôi đã phân tích đƣợc cả trăm mẫu lấy từ da, thịt, mỡ, tim, gan, óc của hƣơu nai. Các mẫu thử nghiệm này đƣợc thu thập bởi các sinh viên trong mùa săn bắn tại 19 quận hạt của tiểu bang. Khi công việc hoàn tất, tôi có làm tờ trình về Ford Foundation kết quả của dự án cùng những bàn luận liên hệ. Theo tôi thì không có gì đáng quan ngại cho các sinh vật ăn cỏ trong vùng Wisconsin, khi ngƣời ta dùng chất diệt cỏ phenoxyherbicides. Sẵn có phƣơng tiện phân chất trong tay, tôi tìm hiểu thêm về 29 chất diệt trùng thuộc 11 loại, từ phenoxyherbicides tới benzene hexachlorides, đến các nhóm chlordane, aldrin, Mirex, DDT, PCB. Vài vấn đề đột nhiên xuất hiện. Tại sao ngƣời ta có thể cho phép dùng Mirex, một độc chất chỉ bị hủy diệt khi đem nung nóng trên 485°C? Và nhƣ vậy chất này sau khi bị phế thải sẽ còn hiện diện ở trong môi trƣờng mãi mãi! Quả nhiên ít lâu sau chất này bị cấm bán. Chất DDT dẫn tới một chất an định nhất là DDE, vậy muốn tìm chất cặn của thuốc diệt trừ muỗi sốt rét DDT thì chỉ việc tìm DDE. Đặc biệt là các chất trong nhóm PCB, thƣờng đƣợc dùng trong công kỹ nghệ kể từ 1930 vì tính cách điện, dẫn nhiệt, khó dẫn hỏa, có nhiều chất rất khó bị hƣ biến hay hủy hoại dù ở nhiệt độ cao 300°C. Và nhƣ thế, những chất này sẽ tác hại trong một thời gian dài tại môi trƣờng thiên nhiên, nhƣ lắng xuống bùn lầy nƣớc đọng nơi sông hồ. Cũng có thể nƣơng theo thời tiết xông lên khí quyển, bám vào mây gió, làm nhiễm độc nhiều nguồn nƣớc ở xa. Chúng tác hại trên nhiều vi sinh vật, và vì con ngƣời ở chặng cuối cùng của chuỗi thực phẩm, sẽ phải lãnh hậu quả trầm trọng nhất!
Nhƣng câu chuyện không đơn giản nhƣ vậy. Làm thế nào phát hiện đƣợc các sinh vật trong thức ăn bị nhiễm độc? Tôi có quen mấy ngƣời bạn thƣờng câu cá ở vùng Đại Hồ. Có lần họ cho chúng tôi làm quà, những con cá thu nặng cả gần chục kí. Thịt cá tƣơi ăn rất thơm ngon. Tôi vì hiếu kỳ đã lấy trứng, mỡ, thịt từ những con cá này đem đi phân tích. Thật là bất ngờ, những mẫu thử này đều chứa PCB ở nồng độ nguy hiểm, và ít nhiều DDE. Nếu so sánh với một mẫu cá ở hồ nuôi cá Lake Mills, thì trái lại tôi không tìm thấy một chút cặn dƣ hóa chất nào. Tôi làm thêm tờ trình thứ hai về Ford Foundation cho biết kết quả của sự tìm kiếm bất ngờ này với những bàn luận liên hệ, cùng thông báo cho các giáo sƣ của phân khoa Tài Nguyên Thiên Nhiên biết. Phải nhiều năm sau tôi mới thấy có các mẻ cá vùng này bị thu hồi, và thỉnh thoảng cũng thấy có giải pháp loại bỏ chất PCB đƣợc áp dụng. Thế mà mới vừa tháng 8 năm nay, tôi còn nhận đƣợc thƣ của Khoa
Trƣởng B.W. Eagon với những câu “Chắc anh còn để ý đến việc này. Bao lâu nay rồi mới thấy ngƣời ta lo liệu đến các độc chất thải vào hồ Michigan”. Kèm theo thƣ là bài báo Stevens Point ra ngày 7/29/2003 có mục nói về kế họach làm sạch PCB trong sông Fox River, với tổng số kinh phí là 400 triệu Mỹ Kim. Vấn đề ô nhiễm do hóa chất nhƣ vẫn còn đó, dù đã trải qua 28 năm.
Biết bao nhiêu hóa chất cũ mới đƣợc tổng hợp hàng năm để sử dụng, nên không thiếu các chất độc đƣợc thải ra rồi luân lƣu trong môi trƣờng thiên nhiên. Chƣa kể đến các chất độc sinh-học thiên nhiên hay từ tế bào ung thƣ, vi khuẩn. Chƣa kể các chất phóng xạ dùng trong kỹ nghệ hay thí nghiệm, nhƣ 14C và 3H mà nửa thời-gian-sống rất dài theo thứ tự là 5730 và 12 năm. Muốn giải quyết vấn đề, cần đặt nặng trách nhiệm làm trong sạch môi trƣờng của các cơ sở kỹ nghệ, phát triển thêm ngành độc chất học, gia tăng sự tìm kiếm các nguồn gây ô nhiễm và sớm áp dụng những phƣơng pháp giải độc hiệu quả.
*
Bốn năm ở Oklahoma City, OK
Tô Đồng và Lê Phục Thủy
Vào tháng 7, 1976, giáo sƣ Lê Phục Thủy cho biết chỗ ông đang làm việc tại Oklahoma Medical Research Foundation OMRF, Oklahoma City, ngƣời ta cần tuyển một nhân viên làm khảo cứu. Tôi đƣợc mời từ Wisconsin xuống để lần lƣợt mấy vị giáo sƣ, giám đốc cơ quan phỏng vấn trong suốt một ngày. Rồi nhận đƣợc giấy cho việc, theo khế ƣớc từng năm. Và tôi nhận việc bắt đầu tháng 9, trong nhóm khảo cứu sinh hóa về Biomembrane với giáo sƣ Thủy. Chúng tôi ở hàng professional staff, có chung một bà xếp là giáo sƣM. Carpenter, làm chung một đề tài Prostaglandins, tuy mục đích nghiên cứu có khác nhau. OMRF có chừng mƣời nhóm khảo cứu về những phản ứng trong sinh-học phân tử liên hệ đến các loại ung thƣ, về các gốc tự do free radicals làm hƣ hại tới chức năng của tế bào, về các chất dinh dƣỡng.
Theo cam kết khi nhận việc, tôi sẽ khảo sát các diễn biến sinh hóa dẫn tế bào đến chức năng trở thành chuyên biệt. Tạm tin là prostaglandin F gây ra hay có liên hệ. Chức năng thứ hai của tế bào là sự sinh sôi nẩy nở, coi nhƣ vì prostaglandin E. Chúng tôi thƣờng bàn tính nếu xác định đƣợc
tình trạng của tế bào ngay trƣớc khi chúng trở thành ung thƣ, may ra có phƣơng cách ngăn chặn tiến trình này.
Hay ít ít nhất cũng chẩn đoán đƣợc căn bệnh. Tôi nghiên cứu chuỗi phản ứng tổng hợp từ arachidonic acid sinh ra prostaglandin bởi prostaglandin synthetase. Nhƣ vậy phải đo nhiều loại phân hóa tố từ phosphodiesterase, cyclooxygenase, reductase, xét các thành phần sinh-học ly trích từ màng, nhân và các cơ cấu tế bào, tìm đủ chất cản phân hóa tố cyclooxygenase nhƣ aspirin, indomethacin, NSAID để gia thêm vào phản ứng. Một ngày tôi có thể đo prostagladin E và F của vài trăm mẫu thử, bằng phép phân tích miễn nhiễm phóng xạ RIA. Lƣợng đo đƣợc tuy chính các nhƣng thƣờng rất nhỏ, từ vài chục phần tỷ của gram hay picogram!
Dr. M. Carpenter, SV tập sự , Tô Đồng
Các tế bào thử nghiệm đƣợc đặc biệt lấy từ hòn dái chuột đực hay vú chuột cái. Một con chuột bạch Sprague Dawley nặng khoảng 300 tới 400 gm, giá tiền đắt gấp ba bốn lần giá một con gà. Trong hòn dái chuột đực, tế bào Sertoli sinh sản những tinh trùng, tế bào Leydig tạo kích thích tố đực testosteron. Dùng các phƣơng pháp vi phẫu và sinh-học tách riêng rồi biến chế các tế bào này để đo lƣợng prostaglandin synthetase. Tùy theo các nhóm chuột đã đƣợc nuôi bằng thức ăn mà thành phần xác định sẵn, hoặc theo một họa kiểu và thời biểu tính trƣớc, ta có thể xét sự liên hệ giữa prostagladin và chức năng chuyên biệt hoặc tăng trƣởng. Với chuột cái, ngƣời ta chỉ cần bơm một lần vào dạ dầy mỗi con một liều 10 mg chất dimethylbenzatracene DMBA, thì ít lâu sau, tất cả đều bị ung thƣ vú. Có những con mang bƣớu quá lớn, di chuyển thật nặng nề và khó khăn. Lấy những tế bào ung thƣ trong bƣớu rồi đo lƣợng prostagladin. Tùy theo các nhóm chuột đã đƣợc ăn một thực phẩm có hay không có chất chống oxid hóa nhƣ sinh tố E, có hay không có những chất béo đặc biệt, ta có thể kết luận về tác dụng của các chất này. Mỗi lần thử nghiệm phải giết từ vài con tới vài chục con chuột. Muốn vậy, ngƣời ta thƣờng dùng một máy chém nhỏ. Nhƣng sau khi một con chuột đã bị giết thì đem chuột khác vào máy rất khó. Có lẽ các chuột trong lồng bị kích động vì thấy đồng loại bị hy sinh hay máy có vị máu. Tôi đã học đƣợc một phƣơng pháp giết chuột thật nhẹ nhàng từ một ngƣời bạn, anh B. L. Magnum. Anh cầm đuôi cho chuột bò nhởn nhơ trên mặt bàn, rồi dùng bàn tay đeo găng ôm gần trọn mình chuột. Lấy bàn tay kia vỗ về hay cù vào gáy cho chuột cảm thấy an toàn và thích thú. Rồi với động tác nhanh nhẹn, anh đƣa đầu chuột vào máy và giật sập lƣỡi dao. Chuột bị giết mà không kịp có phản ứng!
Nhƣng có một lần mà tôi nhớ mãi. Vì phải dùng mấy chục con chuột, tôi giết chúng trong phòng riêng để mổ thú vật. Bỗng có một con giẫy dụa mạnh đến nỗi khi bị chặt cổ, đầu nó văng lên đến trần. Thật là thảm. Đành phải nghĩ là mình hóa kiếp cho chúng để chúng sinh sang kiếp khác tốt hơn. Tôi cũng từng thấy cảnh đàn chó sợ hãi tru tréo khi thấy có con bị ngƣời ta mang đi đặt một ống nhựa xuyên qua cổ vô cuống họng. Rồi cứ mấy hôm, ngƣời ta lại mang chó lên bàn để hút đờm ra định phân. Con nào kháng cự ít thì còn đỡ khổ. Mà lâu dần gần nhƣ chúng cũng mất hết cả phản ứng, nhƣ thể đành cam phận chịu đựng. Tôi thấy chán ngán cái cảnh phải dùng những con vật thí nghiệm trong ngành khảo cứu, và bỗng thấy sự hiện diện của các tổ chức bảo vệ súc vật là chuyện cần thiết. Cuối thập niên 80, nơi tôi làm việc cho hãng Hybritech, thay vì phải giết cả hàng chục ngàn con chuột nhắt mỗi lần để bào chế cho đủ lƣợng kháng thể chuyên biệt, chúng tôi đã biết dùng môi trƣờng nhân tạo cấy các tế bào tạo ra kháng thể này.
Vậy muốn tránh hay giảm thiểu sự hành hạ súc vật, gƣời ta cần sử dụng những họa kiểu chính xác chỉ dùng một số tối thiểu sinh vật thí nghiệm. Và cần khai triển các phƣơng thức khảo cứu sinh-học mới, có thể thực hiện trên các vi sinh vật, các thành phần của tế bào hay các mô, lấy từ các môi trƣờng cấy hay nuôi dƣỡng nhân tạo.
Trong bốn năm tại OMRF, tôi có không biết bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn. Nơi đây phƣơng tiện rồi rào, máy móc tối tân, phòng ốc sang trọng. Thời gian để làm thí nghiệm, đọc sách, họp hành, báo cáo kết quả trong nhóm, huấn luyện sinh viên xuất sắc, tham khảo tài liệu tại thƣ viện, nghe các chuyên gia diễn thuyết mỗi buổi trƣa, tất cả mọi việc đƣợc thực hiện đều đều theo một lịch trình định sẵn. Nhƣ một cái máy. Bạn bè đủ cấp bậc ở sở lâu dần cũng thành thân quen. Năm nào tôi cũng đƣợc đi dự một vài hội nghị, có khi chỉ để trình bày sơ lƣợc một công trình khảo cứu. Cũng là những lúc giải trí và quan sát xem thiên hạ hoạt động thế nào. Tuy chúng tôi đã làm theo các dự án mình viết đi viết lại cho đầy đủ chi tiết và dẫn chứng, với những phần lý luận chặt chẽ, những tiên đoán hi vọng, thế mà có việc thí nghiệm cho kết quả tốt, nhƣng cũng nhiều việc không ra làm sao cả. Cũng nhƣ nhiều khoa học gia khác, dù cân nhắc, tính toán đủ mọi cách, giả thiết để làm việc có khi khó chứng minh hoàn toàn trắng đen đƣợc. Để rồi đành kết luận là kết quả có lẽ là, nhƣ thể rõ ràng là, có nhiều phần đúng là, nghĩa là ngƣời ta còn có nỗi ngờ sai lầm! Nhƣng hẳn là làm mãi thì không ra ngô cũng ra khoai. Cũng viết lách đăng báo. Lúc rời nơi đây, tôi mang theo 17 tập vở học trò ghi đủ những thí nghiệm đã làm, định bụng có ngày mang ra nghiền ngẫm lại, may ra nhận thấy đƣợc điều gì hay ho chăng? Thôi hãy tạm giã từ tế bào, các nhóm acid béo, prostaglandins, leukotrienes
Xin nói qua vấn đề thời đại. Cách sinh hoạt lúc này khác xa thời tôi làm việc tại Paris vào cuối thập niên 1950. Lúc đó còn ít máy móc tối tân, ít dụng cụ và hóa chất tiêu chuẩn, ít phƣơng tiện tiền chế, và không có đồ khử trùng dùng xong một lần thì vất bỏ. Khoa học còn dựa nhiều vào tài năng và nghệ thuật của nhân viên, nhƣ tự điều chỉnh máy phân tích, ráp nối lấy hệ thống làm tổng hợp một hóa chất, uốn nắn các ống thủy tinh bằng lửa, cân đo pha chế chính sác các chất phản ứng. Nghĩa là thử nghiệm còn mang mầu sắc dấu ấn con ngƣời. Công việc tƣơng đối tự do hơn, họp hành ít, báo cáo ít. Phòng thí nghiệm chúng tôi trông ra vƣờn Luxembourg, mỗi xế trƣa chúng tôi thƣờng nghỉ ngơi thƣ giãn, pha trà để uống và nói chuyện tào lao. Mỗi lần đến làm việc là một lần cảm thấy vui thích. Có lẽ việc làm nhẹ nhàng, tùy mình quyết định, không bị gò bó căng thẳng, không bị ai thúc giục. Ngƣời ta không mấy khi hỏi tại sao làm việc đó, làm thế để làm gì, mất bao nhiêu thì giờ, mất bao nhiêu tiền bạc, có ích lợi cho ai? Hay là làm khoa học vì khoa học? Nhƣng tại Mỹ, tôi không thấy sự thú vị ấy, mà chỉ có đƣợc cảm giác an toàn khi ngồi
tại sở. Tại sao lạ vậy? Hay vì thời buổi bây giờ mới, vì văn hóa Pháp Mỹ không giống nhau? Nhớ lại ngày còn đi tham quan các Đại Học ở Mỹ vào cuối năm 1968, tôi đã gập một số khoa học gia và đƣợc họ giới thiệu nơi làm thí nghiệm. Tôi thấy họ dƣờng nhƣ có vẻ say mê với công việc, sống trong một xã hội xa lạ, thật riêng biệt. Họ hài lòng với môi trƣờng công việc, mà không thực sự chú ý đến cảnh bên ngoài. Tâm trí họ chắc còn lo việc khảo cứu và viết dự án, tìm đề tài thời thƣợng và dễ đƣợc tài trợ nhất. Hết dự án này tới dự án khác. Phải làm việc thật nhiều tính toán thật nhanh, lâu dần ngƣời ta mất đi sự sống hồn nhiên. Nhƣ những con ngƣời cần phải ẩn mình trong khung cảnh riêng của một nôi an bình. Có thể vì lúc đó i là một ngƣời ngoài cuộc, ở một tình trạng khác biệt, nên nhìn vào mới thấy rõ điều này. Ngƣời trong cuộc không mấy khi nhận thấy. Phản xạ có điều kiện chăng? Có phải tƣơng tự nhƣ vậy mà theo thời gian, với hoàn cảnh, bây giờ tôi đã trở thành một con ngƣời chỉ thấy sự bình an khi ngồi tại bàn giấy làm việc! Còn cách viết dự án? Ôi thiếu gì cách viết! Có lớp dậy viết, có cơ quan cố vấn. Đề tài hay dở cũng có thể tìm ra tài liệu tra cứu. Dự án tài trợ nhiều ít cũng có thể đƣợc thông báo trƣớc. Nhƣng nhiều khoa học gia Mỹ thật đáng phục, vì đặc biệt họ viết bài rất hay, lý luận rất khoa học, câu cú rất văn chƣơng. Họ viết đi viết lại, sửa đi sửa lại. Họ viết trong khách sạn, trên máy bay khi đi hội nghị. Nhƣng điều khó nhất là phải có thành tích, có quen rộng biết nhiều, có gửi gấm, thì dự án mới dễ dàng đƣợc chấp nhận.
Và vấn đề quan trọng nhất là làm sao đo đƣợc kết quả khảo cứu sinh-học? Thật ra không dễ dàng gì. Xƣa kia vấn đề ít chuyên biệt và thí nghiệm chƣa đi tới các thành phần cực nhỏ trong các phân tử sinh-học nên còn duyệt xét lại đƣợc. Nay thì chính ngƣời tìm tòi nhiều khi thấy sự kiện khó thực hiện rồi, công việc đâu có dễ kiểm chứng nữa! Vì vậy mà một dự án có khi cần đƣợc giao cho hai nhóm khác biệt hay đối lập nhau thực hiện, đƣợc theo dõi từng giai đoạn, đƣợc đem ra mổ xẻ mỗi kết quả từng phần, để xét xem có nên thay đổi hay tiếp tục không. Tại thành phố Oklahoma City còn có một số nhân vật trong giới Y Nha Dƣợc Việt Nam đang theo các lớp tái huấn luyện của trƣờng Đại Học Oklahoma. Gia đình chúng tôi trở nên bận rộn vui nhộn hơn vì gập nhiều bạn cũ, có thêm nhiều bạn mới. Cuộc sống tạm ổn định đã làm giảm đi vẻ tị nạn. Con cái đƣợc tiếp tục học đàn dƣơng cầm với một giáo sƣ giỏi ở đây. Có những canh mạt chƣợc cuối tuần hoặc vào dịp lễ cùng các bác sĩ Nông Thế Anh, Tôn Thất Niệm, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Hải, Bùi Xuân Mẫn, Nguyễn Ý Đức. Cùng đại tá Ngô Văn Lợi, các giáo sƣ Lê Phục Thủy,
Trần Quang Hải, Nguyễn Ngọc Hƣớng. Có các buổi họp hành mạn đàm cùng các bác sĩ Lê Quốc Hanh, Dƣơng Minh Châu, Nghiêm Xuân Húc, Tôn Thất Chiểu. Có những lần ăn uống linh đình với các gia đình thiếu tƣớng Từ Văn Bê, đại tá Nguyễn Tú, các bác sĩ Đào Thế Xƣơng, Trần Quốc Toản, nha sĩ Phạm Đình Tuân, các giáo sƣ Phạm Hữu Tích, Lê Ngọc Sanh. Cũng có dịp lên Tulsa thăm hỏi các bạn dƣợc sĩ Nguyễn Thị Nghi, Vũ Ngọc Phách, Nguyễn Thị Sửu. Và thỉnh thoảng vào buổi trƣa, còn đƣợc bác sĩ Nguyễn Lƣu Viên ghé qua nơi tôi làm việc để trò chuyện trƣớc khi đi nghe thuyết trình. Chƣa kể đến những sinh hoạt cùng một số bạn bè trong Hội Việt Mỹ!
Khoảng giữa năm 1980, chúng tôi thấy cần phải đƣa gia đình về California, vì các cháu sắp sửa lên Đại Học, nếu đã cƣ trú tại tiểu bang này thì học phí đỡ nặng nề. Và nơi đây có nhiều đồng bào, bè bạn, khí hậu lại ôn hòa dễ chịu. Tôi bắt đầu nộp đơn xin việc tại các Đại Học và cơ sở kỹ nghệ ở vùng đất hứa này. Nhân dịp đi dự một hội nghị trong khu Disneyland, Annaheim, tôi có rẽ xuống San Diego thăm các bạn dƣợc sĩ Lê Phục Thủy, Trang Kiên, Bùi Quang Tiến, Lâm
Bàng. Và tôi đƣợc biết có giáo sƣ Nguyễn Hữu Xƣơng đang dậy tại Đại Học nơi đây. Thấy thành phố San Diego khí hậu mát mẻ, phong cảnh hữu tình, biển cả xanh lơ tiếp liền với đồì núi chập chùng, tôi tính sẽ xin làm việc tại đây. Nhƣng mải đánh bài và trò chuyện, về Oklahoma tôi mới vội gửi đơn xin việc tại Phân khoa Y Khoa Đại Học San Diego qua giáo sƣ Xƣơng. Ông nói cần có các giáo sƣ trƣởng khu hậu thuẫn mới dễ dàng hơn. Các giáo sƣ trƣởng khu P. B. McCay, Johnson tại nơi tôi làm việc đã vui vẻ nhận lời viết thêm giấy giới thiệu ngay. Rồi một buổi tối, tôi nhận đƣợc giáo sƣ J. Mendelsohn, M.D. gọi dây nói phỏng vấn. Ít ngày sau, ông báo cho tôi biết là Khu Hematology/Oncology chấp nhận tôi làm việc từ tháng 8 nhƣ một postdoctoral fellow, theo một chƣơng trình huấn luyện của các Cơ quan Y tế Quốc Gia NIH-NCI. Ông trở thành giám đốc Trung Tâm Ung Thƣ tại San Diego, và hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong cả chục năm sau. Tôi làm đơn xin nghỉ việc tại Oklahoma City, với đôi chút luyến tiếc. Tuy công việc tôi làm ở đây không mấy kết quả, nhƣng dẫu sao cũng đƣa đƣợc tôi lên ngạch Staff Scientist. Khí hậu tuy nóng lạnh thất thƣờng, băng tuyết vào mùa đông, nắng cháy vào mùa hè, và nhiều khi có những cơn hậu gió lốc khủng khiếp, nhƣng dân chúng đa số hiền hòa thật thà đời sống mộc mạc. Giáo sƣ William G. Thurman, một bác sĩ tài ba lỗi lạc, nguyên Viện Trƣởng Đại Học Oklahoma, nay làm President, OMRF, có mời tôi vào văn phòng thăm hỏi. Ông tin rằng tôi sẽ vui với công việc mới, và chúc tôi may mắn trong tƣơng lai. Sau đây là hai đoạn trong lá thƣ ông viết ngày 7/25/1980, phản ảnh đôi điều ông ta nhận xét về tôi, cùng tỏ ý tiếc khi thấy tôi rời khỏi nơi đây:
I have received your letter of resignation effective August 2, 1980 , with regret. Let me take this opportunity on behalf of the Oklahoma Medical Research Foundation to express our appreciation to you for your significant contributions of time and personal energy. Coming to us as you did from a most uncomfortable experience, one might have anticipated less productivity than you provided. You certainly have been a real strength for your entire stay here, and we see you leave with regret.
Our best wishes go with you and your family in your new endeavors. As they were described to me over the telephone by Dr. Mendelsohn, I know that you will be entering a field of activity in which you will be very happy, and we wish you well, both there and personally in the future.
Tôi bắt đầu nhận đƣợc những thiệp từ biệt của một số đồng nghiệp tại sở. Gia đình chúng tôi rời Oklahoma City, sau bữa tiệc giã từ của giáo sƣ M. Carpenter cùng các cộng sự viên F. L. Smith, D. Cooper, L. M. Manning, G. Simpson, G. Wallis. Rồi đƣợc tặng vài tập nhạc làm kỷ niệm, có ghi dấu một vài bài ƣa thích, nhƣ Feelings, The shadow of your smile, The impossible dream, Bye Bye Love, để khi chúng tôi có dịp dạo đàn dƣơng cầm còn nhớ đến thời gian sống động nơi đây. Cô G. Simpson, ngƣời đã phụ giúp tôi biết bao nhiêu việc nặng nhọc trong phòng thí nghiệm, đã ghi bên cạnh một bản nhạc những dòng chữ này: “Dr. To: Of all the people leaving here, I‟m going to miss you most of all. You will always have a special place in my heart. Remember me always. Love from a friend. Gwen.” Tôi tin chắc đó là những lời chân tình. Và sau nhiều buổi họp mặt, những lời chúc tụng của biết bao nhiêu bè bạn, chúng tôi tạm chia tay lên đƣờng, mang theo hình ảnh đậm nét của bốn năm cƣ ngụ ở tiểu bang Oklahoma.
*
Những năm ở San Diego, CA - Công việc tại Phân khoa Y Khoa, UCSD
Trung Tâm Khảo Cứu Ung Thư,UCSD
Nơi tôi đi làm ở trong Khu giảng dậy về Lâm Sàng CTF, gần Bệnh Viện Đại Học. Công việc khảo cứu ở đây cũng có lúc bận bịu nhƣng dễ dàng, vì thiên về khoa học ứng dụng, khác với khi tôi làm ở Oklahoma mà nhiều phần liên hệ đến khoa học cơ bản. Tôi học đƣợc những kỹ thuật ly trích các tế bào lành mạnh hay ung thƣ, các bạch huyết cầu đủ loại, các tiểu huyết cầu, lấy từ máu và tủy sống. Rồi cấy các tế bào này trong những môi trƣờng nhân tạo đặc biệt, mềm hay lỏng, và xem khả năng sinh sôi nẩy nở thành tộc đoàn của chúng. Có khi đo tính nhậy cảm của chúng đối với các thuốc trị ung thƣ và kích thích tố. Có khi phải xác định các yếu tố dinh dƣỡng cần thiết. Có khi tìm các thành phần trong tế bào để có thể dễ dàng định tính chúng. Cùng khảo sát các chất chúng tạo sinh ra, nhƣ interferons, interleukines, cytokines.
Ngành Miễn Nhiễm Học đã tăng trƣởng quá nhanh trong những thập niên vừa qua. Ngƣời ta đã biết cơ cấu của những kháng thể do lymphocytes B sinh ra, các chức năng đặc biệt của đủ loại lymphocytes T. Thêm vào đó, các máy móc vô cùng tinh sảo đƣợc các kỹ sƣ sáng chế có thể cho ta cách ly trích, phân loại các tế bào tùy theo thể tích, tỷ trọng, hay theo dấu vết hấp thu phát quang xanh đỏ riêng biệt. Tôi làm việc dƣới quyền các giáo sƣ J. Mendelsohn, I. Royston và R. Taetle. Các cộng sự viên của các giáo sƣ này cũng chỉ cho tôi một số kỹ thuật sinh học mới. Tôi cũng đƣợc gửi đi học những khóa huấn luyện về phƣơng pháp khảo cứu các loại ung thƣ. Chúng tôi đã tách bạch huyết cầu T ra thành hai nhóm T4 và T8 để nghiên cứu khả năng sinh ra tộc đoàn của chúng. Chúng tôi cũng tổng hợp một chất protein cực độc là ricin với một kháng thể đơn bản T101 để xem xét tính ngăn chặn sự tăng trƣởng các tế bào ung thƣ máu, một thí nghiệm cần thiết cho các cuộc ghép tủy sống dùng bạch huyết cầu của chính bệnh nhân. Chúng tôi cũng tìm hiểu sự liên hệ giữa các transferrin receptors của màng với ferritin trong các tế bào HL60. Đa số các khảo cứu đều đƣợc thực hiện trên các tế bào ung thƣ của máu nhƣ lymphoma, myloid leukemia, chronic lymphocytic leukemia, theo các quan niệm mới mẻ về tế bào gốc, về sự tự sinh.
Tại nơi làm việc, tôi gập lại bác sĩ Cao Xuân An, một ngƣời học rộng biết nhiều. Chúng tôi có dịp cùng ăn trƣa, nói chuyện dƣới một gốc cây bồ đề lá xanh hoa đỏ. San Diego còn có mấy bạn cũ, các bác sĩ Trần Văn Khang, Trần Duy Tôn. Trong thời gian này, tôi có đƣợc một số bè bạn
mới, những giáo sƣ từ Phi Luật Tân, Trung Hoa, Ý Đại Lợi, Thụy Sĩ tới đây tu nghiệp về khảo cứu sinh học. Vì làm việc chung nên lâu dần thành thân thiết. Phải kể các bác sĩ A. Caviles, L. Shao, K. Rhyner, các Tiến sĩ M. Pellegrino, R. Fagnani. Và nhiều gia đình các vị đó cũng rất thân với gia đình chúng tôi. Đặc biệt là giáo sƣ Rhyner, một bác sĩ có tiếng trong khoa huyết học và từng ở Việt Nam. Tôi cũng có dịp gập gỡ một số giáo sƣ Dƣợc Khoa của Đại Học San Francisco, những ngƣời đã tận tình giúp đỡ giới dƣợc sĩ tị nạn.
Công việc tại Hybritech
Một Mùa Giáng Sinh - R&D Group
Sau hơn ba năm làm việc tại Trung Tâm Ung Thƣ Đại Học San Diego, tôi thấy cần phải tìm một việc làm vững chắc hơn, mà không cần phải dựa vào tiền tài trợ của dự án. Nhƣng nơi đây hiện không có hãng bào chế và rất ít cơ sở kỹ nghệ về sinh học. Trong thời gian gần đây, một ngành sinh học kỹ thuật đã đƣợc khai sinh nhờ những tiến bộ quan trọng của một số bộ môn nhƣ sinh học phân tử, sinh hóa học, miễn nhiễm học, di truyền học. Ngành này đã ảnh hƣởng rất lớn trong khoa bào chế hai loại thuốc trọng yếu, một để định bệnh, một để trị bệnh. Dựa trên những phát minh vỉ đại của G. Kohler và C. Milstein năm 1975, hãng Hybritech đƣợc thành lập cuối năm 1978 tại San Diego để tìm cách dùng những kháng thể đơn bản nhƣ những loại thuốc vừa kể trên.
Tôi may mắn vì có làm việc cùng một số khoa học gia của hãng Hybritech nhƣ các Tiến sĩ Pellegrino, Fagnani, nhất là giáo sƣ Royston, một trong những sáng lập viên, nên tôi đƣợc tuyển làm việc cho hãng từ tháng 1 năm 1985. Lúc này hãng đã nổi danh, với thử nghiệm đầu tiên về ung thƣ nhiếp hộ tuyến bằng cách đo lƣợng sinh kháng thể PSA. Có chừng năm trăm chuyên viên làm trong hai phân khu chính, Diagnostics tìm kiếm trắc nghiệm định bệnh, và Therapeutics khám phá thuốc trị bệnh. Tôi trở thành một Senior scientist phụ trách Pilot Plant, cơ sở bào chế các thuốc trị ung thƣ từ các loại kháng thể đơn bản. Tôi trông coi một nhóm bẩy tám ngƣời, đa số có bằng BS và có kinh nghiệm bào chế trong môi trƣờng vô trùng. Tôi trực thuộc một ông giám đốc hiền hậu, Tiến sĩ K. Poggenburg, và phải tƣờng trình công việc hàng tháng với ông phó tổng giám đốc linh hoạt D. Carlos. Đƣợc các nhóm nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật về các thuốc mà
nhóm này chứng minh là có giá trị, chúng tôi phải chịu trách nhiệm tinh chế một lƣợng thuốc đủ lớn để thực hiện các thí nghiệm trên thú vật và các thử nghiệm lâm sàng. Tôi đi họp thƣờng xuyên với các khoa học gia này, theo dõi các dự án tìm kiếm kháng thể mới về ung thƣ vú, ruột già, phổi, da. Chúng tôi cắt xén, ghép nối các kháng thể này với chất kháng sinh hay phóng xạ, tạo các kháng thể gốc ngƣời, kháng thể nửa chuột nửa ngƣời, kháng thể đa hiệu. Những chƣơng trình nghiên cứu đều dựa trên các lý luận thuần lý và khả tín. Các kháng thể đơn bản đặc biệt đƣợc coi nhƣ chất dẫn thuốc, đƣa thuốc đến các trung tâm tác động, để chữa trị những bệnh về mạch máu và về ung thƣ. Công việc rất phức tạp và đầy thách đố, nhƣng mang lại hi vọng khám phá thuốc mới thật lớn lao. Nhóm khảo cứu mỗi lần phân tích cả ngàn kháng thể để phát hiện chất có đặc tính cao nhất. Nhân viên làm việc ngày đêm, thƣờng là 5, 6 chục giờ mỗi tuần. Sở đƣợc coi là nhà, công việc sở đƣợc coi là việc nhà. Họp hành, sọan thảo kế hoạch, lƣợng định kết quả luôn luôn. Đây là thời gian tôi thấy hãng náo nhiệt sống động nhất, cũng là lúc tôi có rất nhiều kỷ niệm tốt đẹp với các Tiến sĩ M. Stone, K. Burnett, J. Leung, M. Fagnani, C. Chang, C. Birdwell...
Thế mà ngay sau ít tháng đầu làm việc, tôi bị vấp phải một trở ngại lớn lao, tƣởng đành phả bỏ cuộc. Nếu tôi đƣợc một số lớn đồng nghiệp tin cẩn và hợp tác chân thành, thì có các chuyên viên trong nhóm tôi tỏ thái độ bất mãn và yêu cầu giám đốc Poggenburg giải quyết. Trong buổi họp có sự hiện diện của ông này, nhân viên của tôi trong Pilot Plant lần lƣợt phát biểu sự khó khăn mà họ gập, khi phải làm việc với tôi. Việc chỉ trích gồm nhiều điều. Nhƣng đại khái thứ nhất vì tôi thƣờng nói nhƣ ra lệnh, không có giảng giải tại sao phải làm cách này mà không nên làm cách khác. Thứ hai vì tôi không chịu bàn cãi và để tâm nghe họ trình bày, nên hiểu sai lề lối làm việc cũ. Thứ ba vì tôi thƣờng hay cao giọng làm ngƣời nghe khó chịu. Tôi chợt nhận ra sự lầm lẫn của mình, và hiểu rằng tôi đã làm xáo trộn những công việc mà họ đang quen làm trƣớc khi tôi tới. Môi trƣờng kỹ nghệ không phải nhƣ ở Đại Học. Nhƣng cũng có một số nhân viên bênh vực, cho rằng tôi nói dễ hiểu và xử sự không có gì quá đáng. Đến lƣợt, tôi trình bày quan niệm của tôi, và hứa sẽ thay đổi cách làm việc cho thích hợp với cả nhóm: Tôi sẽ lắng nghe và thảo luận với mọi ngƣời cho ra lẽ khi dùng một phƣơng pháp bào chế mới, tôi sẽ nói đều đều tránh lên giọng xuống giọng, tôi sẽ không yêu cầu thay đổi cách làm việc cũ nếu không thấy là cần thiết. Ngay sau buổi họp này, mọi ngƣời đều hài lòng vì thấy tôi phục thiện, và nhất là không một ai nghi ngờ thiện chí và khả năng kỹ thuật của tôi.
Tại hãng, tôi đƣợc học nhiều lớp về quản trị xí nghiệp, quản trị nhân viên. Cách tuyển lựa, cách phỏng vấn. Cách kiểm soát, khuyến khích, cho điểm nhân viên làm việc. Tôi nhận thấy ngay là mình không có năng khiếu về ngành này. Tôi đành chọn con đƣờng thứ nhất ít quản trị hành chánh nhƣng nặng về kỹ thuật, tuy khó lên chức lên lƣơng. Còn các khoa học gia chọn con đƣờng thứ hai thiên về quản trị thì đƣợc điều khiển đông nhân viên và dễ lên chức lên lƣơng hơn. Hảng cũng cho tôi học thêm những lớp về kỹ thuật, thôi thì đủ thứ, về sử dụng máy móc thí nghiệm, về thống kê, về điện toán, về họa kiểu các thử nghiệm. Nhờ có điện toán, tôi làm các báo cáo hàng tuần và hàng tháng của Pilot Plant thật dễ dàng, liên lạc thƣ từ với mọi nơi trong sở thật nhanh chóng. Tôi rất thấy vui thích khi học về các môn liên hệ đến toán học. Rồi nghiệm ra rằng tuy cùng đƣợc học, nhƣng chỉ một số rất ít ngƣời hiểu các môn này tới nơi tới chốn.
Công việc tại Eli Lilly
Process Development Group
Vào năm 1986, Eli Lilly bỏ ra 400 triệu mua hãng Hybritech, một hãng bắt đầu thành lập từ mấy ngàn Mỹ kim. Cây có hi vọng ra nhiều trái ngọt. Một số sáng lập viên bỗng nhiên trở thành triệu phú. Cách sinh hoạt nay mang một mầu sắc khác. Những dự án khảo cứu đƣợc kiểm soát chặt chẽ hơn. Trƣớc đây tài lực bị phân tán vào nhiều lãnh vực, nay phải tập trung vào một số thuốc có hi vọng mang lại nguồn lợi. Nhân viên phải cƣ xử theo lề lối của Lilly. Vào những buổi chiều thứ sáu trƣớc khi ra về nghỉ cuối tuần, tuy vẫn đƣợc ăn nhậu nhƣng thôi không còn đƣợc uống rƣợu vì Lilly sợ vấn đề trách nhiệm. Số nhân viên tăng dần lên cả ngàn. Tôi đã có đƣợc một ông xếp mới từ cuối năm trƣớc, Tiến sĩ R. Ning, thế tôi trông nom Pilot Plant. Ông ta giỏi về hóa-dƣợc học, có thành tích trong việc tổng hợp các thuốc ngủ benzodiazepin, có bằng quản trị xí nghiệp. Nhƣng ông không đƣợc lòng nhiều đồng nghiệp, và ông không rành môn sinh học kỹ thuật. Tôi vì không ƣa tranh chấp, thƣờng bênh vực ông, nên cũng bị bao nhiêu ngƣời chỉ trích. Có lẽ vì vậy nhóm làm việc tại Pilot Plant tan rã, ông ta đƣợc giao phó công việc khác. Tôi vẫn còn làm nhƣ cũ, nhƣng trực thuộc một ông xếp mới về miễn-nhiễm hóa-học.
Xã hội này vận chuyển theo những qui luật riêng biệt. Về việc làm, nhân viên chỉ thi hành một công tác mới nếu họ biết rõ cách thức và lý do tại sao họ phải làm thế. Tin rằng ai cũng có khả năng sáng tạo cả, nên không ai ƣa những ngƣời chỉ biết gật. Ngƣời ta ai cũng có quyền và bổn phận phải trình bày điều mình suy nghĩ, dù hay dù dở. Để đi đến một sự đồng thuận trong nhóm trƣớc khi thực hiện dự án chung. Về giao tế thì ngƣời ta ai cũng có thể kiện xếp của mình tại Phòng Nhân Viên nếu bị chèn ép, hiếp đáp khó chịu, tuy vấn đề rắc rối và ít khi rõ trắng đen. Có lẽ để tránh sự kiện tụng này, nhiều xếp khi thay đổi công việc thƣờng cố mang theo nhân viên cũ quen thuộc.
Không ai cho rằng vì là xếp nên lúc nào cũng có lý và muốn làm gì thì làm. Nếu vì một cớ nào đó muốn loại bỏ ngƣời xếp, thì chỉ cần rút hết những ngƣời dƣới quyền là đƣơng nhiên xếp ta phải xin thôi. Nhƣng ai làm đƣợc chuyện này? Đó là những ngƣời cùng nhóm thấy có vấn đề với gƣời xếp nên bỏ sang nơi khác hay không hậu thuẫn xếp ta nữa. Tôi nghĩ rằng họ có lý vì trong cuộc sống đa đoan của xã hội này, để nơi làm việc đƣợc dân chủ và lành mạnh hơn. ngƣời ta không thể chín bỏ làm mƣời đƣợc.
Nhờ có tiền điều hành đều đều, thêm phƣơng tiện dồi dào, và nhân viên quản trị giỏi đến từ hãng chính Lilly, công việc nay tƣơng đối an toàn hơn xƣa. Có một lần chúng tôi sản xuất một kháng thể chống ung thƣ đƣờng ruột ZCE025 theo cách thức của ban khảo cứu chuyển giao. Chất này chỉ có thể giữ đƣợc đặc tính trong vòng mấy tháng. Nếu vậy sau khi qua đƣợc ban kiểm phẩm thì thuốc đã gần hết hạn rồi, sao còn dùng đƣợc nữa. Tôi đƣợc lo tìm gấp phƣơng cách sản xuất kháng thể này để làm sao cho thuốc có hiệu lực khoảng vài ba năm. Tôi trình bày một họa kiểu mới để lƣợng định các yếu tố sản xuất, rồi đƣợc các chuyên viên mọi ngành liên hệ chấp thuận. Và thật may mắn, nhóm tôi đã thành công trong việc chế tạo và an định kháng thể này với một thời gian kỷ lục. Kể từ lúc này, bè bạn thƣờng nhờ tôi cố vấn về những vấn đề họa kiểu các thí nghiệm. Nhƣng có một bận vì nóng lòng làm một thử nghiệm, tôi phạm vào một lỗi lầm khó quên. Việc này đã mang đến cho tôi không biết bao nhiêu là rắc rối và phiền muộn. Nhất là lúc đó gần dịp lễ Giáng sinh, và thật ra tôi không bắt buộc phải làm thí nghiệm này mà chỉ vì tò mò muốn kiểm chứng một giả thiết. Tôi đã yêu cầu xuất kho một lƣợng lớn chất phóng xạ tia gamma. Nhƣng vì vội mang về phòng thí nghiệm cho bà phụ tá R. Clark của tôi phụ giúp, tôi đã quên đựng trong những hộp chì bao bọc che chở. Và khi đi ngang qua hành lang thì máy dò báo động réo lên ầm ĩ, nên tôi bị bắt quả tang. Không may cho tôi vì một khoa học gia có lẽ không ƣa tôi nên tìm cách làm lớn chuyện. Rồi đƣa ra bằng chứng là tôi không coi trọng luật pháp, không chú tâm đến sự an toàn của các chuyên viên phòng kế cạnh. Ngƣời ta đo đủ mọi chỗ, từ mọi góc cạnh, nhƣng không thấy có nơi nào bị nhiễm phóng xạ. Khu làm thí nghiệm còn đủ các viên gạch chì bao quanh. Tôi phải trần tình với từng ngƣời, từ kiểm soát viên cho tới các giám đốc trong ủy ban sử dụng phóng xạ và cuối cùng sự sơ xuất đƣợc bỏ qua. Tôi đoán có thể tại việc chán ngán này mà một thời gian sau, bà Clark đã tự ý xin thôi để trở về nơi làm việc cũ. Bà ta là một nhân viên giỏi, tháo vát, chăm chỉ, và cũng là một nhân viên đƣợc tƣởng thƣởng bảng danh dự cao nhất của hãng. Tôi thật quá buồn phiền vì mất đi một nhân viên tin cẩn và đắc lực, đã phụ giúp cho tôi biết bao nhiêu là công việc, liên tục trong bẩy năm trời!
Dần dần chúng tôi gập rất nhiều khó khăn rắc rối. Phân khu Therapeutics tan rã vì những hứa hẹn về thuốc trị bệnh đã không thể hiện đƣợc. Hãng phải tập trung nhân tài vật lực về phân khu Diagnostics, chỉ còn giữ những trắc nghiệm định bệnh chính đáng và bán ra có lời. Ban giám đốc thay đổi liên tục, nhiều khoa học gia cao cấp mất việc, hoặc ra mở những công ty mới, nhƣ Gensia, Corvas, Biosite, Genesys, Nanogen. Tính ra tới nay có mấy chục công ty là con đẻ của Hybritech!
Tôi còn nhớ mang máng một vài buổi họp trịnh trọng. Thứ nhất là một buổi họp chuyên viên vào cuối năm. Một cấp chỉ huy sau khi khen chúng tôi có kiến thức giỏi, kỹ thuật cao, nhắn nhủ rằng nay là lúc xem tài năng đó mang lại những lợi ích tiền bạc gì cho công ty? Rồi chúng tôi đƣợc xả hơi nhƣ đứng dậy, vƣơn vai, và kêu lên một tiếng thất thanh! Ôi, kiến thức phải đổi ra tiền mới thực sự có giá trị, xã hội hay lối nhìn tƣ bản mà! Thứ hai là một buổi tiễn đƣa mấy khoa học gia cỡ lớn, có nhiều công trình đƣợc đăng, có nhiều bằng sáng chế đƣợc cấp phát. Một chuyên viên trẻ khi tặng quà kỷ niệm, đã nói những lời cảm tạ sau đây: “Chúng tôi không khi nào quên đã đƣợc học hỏi từ các ông rất nhiều, và xin cố gắng tiếp tục công việc các ông đã làm. Bây giờ là lúc các ông có thể tự hào đã làm xong bổn phận. Các ông sẽ có thì giờ làm những việc mà các ông ƣa thích từ trƣớc nhƣng chƣa có cơ hội. Nhƣ làm phim ảnh, giồng lan, nuôi bào ngƣ, đi câu cá”. Thay đổi lãnh vực làm việc dễ dàng cũng là một đặc tính của xã hội năng động này. Hơn nữa, có lẽ sắc thái văn hóa dễ biến cải luôn luôn nên ít thấy một tập tục làm việc cố định.
Trong một đoạn trên, tôi có trình bày sơ qua sự vận huyển xã hội cơ động này về việc làm, về giao tế nhân sự. Đối với ngành khảo cứu, ngƣời ta đặt nặng tính cách thực dụng của kỹ thuật. Và một khám phá chỉ có giá trị nếu tạo ra một áp dụng nâng cao mức sinh hoạt hay đƣa đến sự phục vụ con ngƣời hữu hiệu hơn. Trong xã hội tiêu dùng, ngƣời tiêu thụ bao giờ cũng có lý và trở thành ông hoàng bà chúa. Qui luật này gắn liền với thị hiếu cùng cách hành xử thời đại, và liên quan tới việc phổ thông hóa kiến thức về khoa học ứng dụng. Phải làm sao giảm bớt đƣợc khía cạnh nghệ thuật trong mọi công việc, nghĩa là ai làm cũng có thể có kết quả nhƣ nhau. Tƣơng tự viết chữ bằng máy, khâu vá bằng máy, sang số xe bằng hộp số tự động, ai cũng nhƣ ai. Một phƣơng pháp tốt khi nhân viên ai theo đúng cách thức cũng tạo ra sản phẩm có cùng chất lƣợng cao. Một trắc nghiệm giá trị khi bệnh nhân ai cũng có thể tìm ra cùng một trị số hay một lời giải, dù thử tại gia, với vận tốc nhanh nhất.
Vì vậy khoa học gia ngành khảo cứu y dƣợc phải tìm kiếm phƣơng thức dễ thực hiện nhất, phổ quát nhất, hay ít ra, thực hiện các khóa huấn luyện liên tục cho mọi ngƣời. Họ là một thành phần đặc biệt của xã hội, đƣợc tuyển chọn từ nhiều sắc dân, với mọi thành phần, thuộc đủ ngành nghề. Họ phải làm việc trong tinh thần toàn đội, chấp nhận một đời sống luôn luôn thay đổi và đầy thách đố.
Công việc tại Beckman Coulter
Vào tháng 9 năm 1995, Lilly không còn mấy quan tâm đến Hybritech. Cơ sở tại San Diego đƣợc bán lại cho Beckman Instruments với một giá cả tƣợng trƣng, có lẽ dƣới 10 triệu Mỹ kim. Đa số nhân viên phải ra đi. Tôi đƣợc tuyển chọn sang ban Sinh Thống Kê học, dƣới quyền giám đốc R. Parson và vẫn giữ đƣợc chức vị lƣơng bổng nhƣ cũ. Ông ta có chỉ cho tôi qua loa cách thức làm việc. Sau này ông thành bạn thân và hay tâm sự với tôi. Tôi thấy vui thích vì nay có dịp dùng đến toán học và học thêm những môn mới nhƣ đại số thẳng, đại số Bool, biến số ngẫu nhiên, giải tích tổ hợp, phép tính ma trận, phƣơng pháp Bayes. Tuy tôi quen sử dụng hệ thống Research System RS, đã có sẵn một số thảo chƣơng điện toán để làm các việc thống kê hay họa kiểu thí nghiệm, nhƣng chƣa từng biết hệ thống Statistical Analysis System SAS, là chƣơng trình thƣờng đƣợc áp dụng để tính các dữ kiện cho các ban Lâm sàng và Pháp chế. Để theo kịp đà làm việc, tôi tự học hệ thống này trong một thời gian rất ngắn, dựa theo các sách vở mà tôi chất đống đầy trên bàn viết. Rồi đi học nhiều khóa liên tiếp, nhất là về cách viết thảo chƣơng.
Là một Principal scientist, tôi phải lo yểm trợ các hoạt động về tiêu chuẩn máy móc và hiệu năng chế tạo sản phẩm, với các ban kiểm định và phân chất dƣợc phẩm, với các ban khảo cứu và phát triển trắc nghiệm mới. Tôi còn thêm nhiệm vụ Biostatistician, nên công việc tôi liên quan đến nhiều nhân viên mọi ngành, ngoài các khoa học gia còn có các kỹ sƣ, các chuyên viên điện toán, các chuyên gia lâm sàng và pháp chế. Nói đến Thống kê học, ta có hai phần rõ rệt. Phần Thống-kê Mô-tả tổng kết các đặc tính của một dân số thì dễ dàng, nhƣng phần Thống-kê Suy-đoán để luợng giá, giải thích và tiên đoán những đặc tính ấy thì khó khăn. Tôi cũng cố làm sao cho việc tiên đoán này gần đúng với sự thật nhất, trong các tờ trình về các công việc khảo cứu hay sản xuất tại sở. Nhƣ xem xét tại sao có sự sai biệt về các kết quả thí nghiệm giữa các nhà thƣơng? Vì nhiệt độ phòng thí nghiệm, vì nhân viên, vì thuốc thử? Sai biệt cùng trong một lần đo hay giữa các lần đo khác nhau? Tôi cũng thỉnh thoảng huấn luyện nhân viên những điều căn bản về thống kê, cách chuyển giao dữ kiện của nhiều trung tâm từ các chƣơng trình điện toán khác nhau, tính
số lƣợng mẫu tối thiểu phải thử nghiệm. Sau này tuy tôi còn bị thuyên chuyển qua những nhóm khác, làm việc với những xếp khác, nhƣng công việc hầu nhƣ không thay đổi mấy. Kể cả khi Beckman mua hãng Coulter vào mấy năm sau để trở thành Beckman Coulter, Inc. Ngƣời ta cho rằng tôi đã kiếm đƣợc một chỗ núp an toàn trong hãng!
Nhiều lúc đi làm mà say mê nhƣ đi đánh cờ tƣớng. Tôi lo kiểm soát hay thay đổi lại một vài phƣơng trình toán học, phân tích các dữ kiện theo cách tin cậy nhất, tìm cách viết các thảo chƣơng ngắn gọn và hiệu năng hơn, dùng rất nhiều macro, vân vân và vân vân. Một lần tôi phải tính trị số cho những chất chuẩn định phân hóa tố ostase trong việc trị bệnh loãng xƣơng.
Máy móc tự động cho kết quả với thảo chƣơng viết theo một đƣờng chuẩn dựa vào 4 thông số hay four-parameter logistic curve. Dùng SAS, tôi thấy kết quả tôi đề nghị sai lệch chừng một vài phần trăm so với kết quả cho bởi máy. Đa số bạn bè nghĩ nhƣ vậy là quá đủ rồi. Nhƣng tôi vẫn thấy có điều không ƣng ý, vì tại sao cùng một cách tính mà có thể có sự sai biệt đƣợc. Sau cùng tôi viết đƣợc một thảo chƣơng cho kết quả y hệt, và nghiệm ra rằng nhóm kỹ sƣ chỉ dùng có 3 thay vì 4 thông số, một thông số đã bị áp đặt trị giá trƣớc khi tính! Sự kiện này cho riêng tôi một thích thú bất ngờ gần ngày tôi thôi việc.
Thay lời kết
Làm việc thì ở đâu mà chẳng có lúc vui, lúc buồn. Vui là khi tiệc tùng ngày lễ, khi ăn mừng một dự án thành công, khi nhận tiền thƣởng cuối năm vì hãng bán đƣợc thuốc, đƣợc tăng lƣơng, đƣợc tuyển thêm ngƣời giúp việc. Buồn là khi hãng ế ẩm vì sự cạnh tranh tàn nhẫn, khi nhân viên bị sa thải hàng loạt trong những dịp cải tổ nội bộ: Ngƣời ra đi bật khóc vì tiếc nuối nơi làm việc quen thuộc, kẻ ở lại ngơ ngác nhƣ mới thoát khỏi một cơn ác mộng. Tôi thật quá may vì tồn tại trong hãng cho tới ngày về nghỉ, tính ra qua tất cả bẩy ông bà xếp!
Tô Đồng, Biostatistics Department – 1996
Vào tháng 9 năm 1999 khi hãng chuyển cơ sở đi chỗ khác, tôi xin về hƣu sau gần 15 năm hoạt động trong ngành sinh học kỹ thuật. Nhiều bè bạn tới văn phòng tôi thăm hỏi, chúc mừng, tặng vật kỷ niệm. Cô Ngô Trâm Anh, một chuyên gia giỏi và trẻ thƣờng bàn bạc công việc hay cho
biết vài tin tức trong hãng, có hỏi tôi: “Bác không tính làm cố vấn cho một nhóm hay một hãng sao? Về hƣu thì bác làm gì cho hết thì giờ?”. Khó thật, tại xứ sở này, làm sao „vui thú điền viên‟ đƣợc? Dễ gì ‟khi chén rƣợu, lúc cuộc cờ, khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên‟ đƣợc? Nhƣng tôi thực sự đã có quyết định thôi không làm việc nữa vì thấy đã quá đủ với 25 năm trong ngành khảo cứu tại Hoa Kỳ, kể từ khi trở thành ngƣời Việt di tản.
Trong buổi một buổi tiệc giã từ tại hãng, tôi còn nhận đƣợc ột thiệp chúc tụng thật vui, xin ghi lại đôi ba dòng sau đây. Bà C. Batton, viết “Dong, Too many years with numbers - give it a rest. First Therapeutics now Operations, and we wore you out! Take a rest... Best wishes”. Bà M. De Santis của phòng Nhân viên, ngƣời đã lo cho tôi đủ việc hành chánh, đã viết “Dong, Wishing you the very best in your retirement! You will be greatly missed by all of us”. Tiến sĩ P. Lambotte, có ghi “Dong, Merci pour le bon temps passé avec toi et pour ta contribution durant ces longues années. Meilleurs voeux”. Mỗi lần đọc lại thiệp này tôi mới thấy mình thật là may mắn, đƣợc rời hãng với biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp của bè bạn ở mọi ngành. Tôi sẽ không quên R. Nielsen, D. Broyles, K. Kress, J. Killion, T. Dosenberry, J. Kull, R. Parson, R. Barton, A. Chit, P. Stuart, L. Lafaro cùng tất cả các bạn cũ đã sáng lập hay đổi sang một công ty mới !
Và làm sao quên đƣợc Hybritech, Eli Lilly, Beckman Coulter, nơi đã cho tôi một cuộc sống an toàn về vật chất, hiều thách đố về khả năng, những hi vọng lớn lao của thời đại kỹ thuật cao và những vui buồn đậm nét của ngành khảo cứu ý dƣợc.
18 tháng 10 năm 2003
CHƢƠNG MƢỜI HAI
Lời Kết
Tôi không thể kể hết những khung trời kỷ niệm trong đó có nhân vật đặc biệt mà chúng tôi đã gập trong thời gian sinh sống ở Hà Nội, Sài Gòn, Paris. Với những ngƣời bạn thân quen, thuộc đủ ngành nghề và lớp tuổi. Tại các đại học, tại nơi làm việc hay giải trí, trong thời gian mà ai nấy đều vui vẻ yêu đời, tuy các biến cố chiến tranh luôn luôn đe dọa rình rập. Cho đến khi di tản, bạn bè thất lạc, mỗi ngƣời một phƣơng. Từ ngày đó, chúng tôi cũng sinh hoạt với một số hội đoàn tại ngoại quốc, nên xin tạm ghi ở đây vài ba danh tính. Có lẽ phải chờ một dịp thuận tiện khác để viết thêm. Chƣơng Trình Tƣơng Trợ ở Michigan có giáo sƣ Nguyễn Xuân Vinh, các bác sĩ Trần Xuân Ninh, Nguyễn Ngọc Kỳ, luật sƣ Phạm Nam Sách, nhà văn Đỗ Tiến Đức, nhà lập thuyết hào hùng Nguyễn Huy Hân. Hội Việt Mỹ tại Oklahoma gồm các ông Nguyễn Đình Thƣ, Trƣơng Khánh Tạo, Phạm Văn Ca, Nguyễn Công Bình, Phạm Quân, Khƣơng Văn Trƣờng, Nguyễn Văn Cƣờng, Nguyễn Trọng, Phạm Văn Long, Phạm Quang Toàn, bác sĩ Đào Thế Xƣơng, giáo sƣ Nguyễn Ngọc Hƣớng, kỹ sƣ Phạm Hữu Quang,... Ủy Ban Cứu Ngƣời Vƣợt Biển với các giáo sƣ Nguyễn Hữu Xƣơng, Lê Phục Thủy, bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ, nhà văn Phan Lạc Tiếp,… Hiệp Hội Ngƣời Việt San Diego với các ông Nguyễn Văn Nghi, Phạm Nhƣ Bích, các kỹ sƣ Nguyễn Tấn Thọ, Bùi Anh Tuấn, các bác sĩ Lê Văn Trí, Trần Văn Khang, các dƣợc sĩ Trang Kiên, Lê Phục Thủy, Bùi Quang Tiến, các giáo sƣ Trần Cảnh Xuân, Nguyễn Thanh Trang, Trần Thƣợng Hải, các luật sƣ Đào Hữu Dƣơng, Vũ Minh Trân, Nguyễn Hữu Khang, Vƣơng Minh Quốc,... Chƣa kể đến nhiều nhân tài trên mọi lãnh vực của các hội đoàn Y Nha Dƣợc Việt Nam ở khắp mọi nơi. Riêng trong các đại hội Y Nha Dƣợc tại Paris 1992 và 2000, nhờ có anh chị Phạm Văn
Biểu & Nguyễn Thị Minh Thu, chúng tôi đã có cơ hội gập lại hiều bậc đàn anh nhƣ giáo sƣ Trịnh Văn Tuất, Trần Ngọc Ninh, và bè bạn thân quen mà nếu muốn cũng không kể hết đƣợc. Có các anh chị Nguyễn Phú Lịch & Vũ Quỳnh Trang, Trần Quang Thuận & Nguyễn Ngọc Trâm, Trịnh Cao Hải & Trƣơng Mộng Ngọc, Đặng Vũ Biền & Lê Thị Hoàng Yến, Nguyễn Bá Mƣời & Nguyễn Hạc Hƣơng Thƣ, Nguyễn Đại Dzƣơng & Phạm Thị Nhung, Phạm Ngọc Lân & Quản Mỹ Lan,... Và các anh chị Phạm Huy Chƣơng, Phạm Hy Tân, Phạm Xuân Yêm, Phạm Gia Chung, Nguyễn Văn Thành,...
Nói tới hội đoàn, tôi lại nhớ sau gần mƣời năm di tản, vào năm 1984 hội Dƣợc Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ mới xin đƣợc chƣơng trình tái huấn luyện tại San Diego. Tôi sẽ không bao giờ quên sự giúp đở tận tình của nhiều giáo sƣ trƣờng đại học Dƣợc Khoa thuộc University of California San Francisco thời ấy. Tính nhân bản và sự thông cảm sâu sắc của Phó Khoa Trƣởng Robert Day cùng các giáo sƣ David Adler, Lorie Rice, Sam Shimomura, tài điều hợp và sự giảng dậy tận tâm của giáo sƣ Elvera Richardson, tất cả sẽ gắn liền mãi mãi với sự nỗ lực phi thƣờng của các dƣợc sĩ tị nạn trong giấc mơ Hoa Kỳ. Tiếp theo là những lớp ôn tập tại University of California, Irvine, từng đƣợc kể lại qua các tài liệu, tập san, kỷ yếu liên hệ. Tôi sẽ sơ suất nếu quên cám ơn tất cả các bạn dƣợc sĩ trong những ban quản trị của hội, khi tôi đảm nhận chức vụ chủ tịch trong nhiều nhiệm kỳ liên tiếp. Tôi cũng phải ghi nhận sự tin cẩn và trung kiên của chị thủ quỹ Nghiêm Bích Vân qua mấy thập niên. Chúng ta đã đối xử với nhau dựa trên tình nhiều hơn lý, khi cùng chia sẻ nỗi vui buồn nơi đất khách. Tôi thật rất phấn khởi khi thấy sự sinh hoạt tốt đẹp tại hải ngoại của các bạn thuộc khóa dƣợc sĩ Sài Gòn 1969-1974 và 1970-1975. Và nhiều năm sẽ còn vang vọng đâu đây các bài đồng ca hùng tráng của những Ca Đoàn Áo Trắng, Áo Đỏ, Áo Xanh, những tiếng hát đầm ấm của các anh Hoàng Trọng Bình, Nguyễn Duy Ái,... những giọng ca truyền cảm của các chị Thúy An, Tâm Thƣờng, Thanh Mai, Kim Cúc,...
Năm đầu tiên cƣ ngụ tại Stevens Point, Wisconsin, anh chị Đỗ Quý Toàn & Hà Dƣơng Thị Quyên có đến thăm chúng tôi từ Canada. Anh nói với tôi rằng chúng ta bỏ nƣớc chứ không phải nƣớc bỏ chúng ta. Không biết nhận định có tính triết lý này liệu có luôn luôn đúng chăng? Nhƣng thời nào thì ngƣời ta cũng chỉ nên ở nƣớc trị mà tránh ở nƣớc loạn, và tôi hi vọng một vài bài trong quyển tập này minh chứng rằng trong tâm chúng ta lúc nào mà chẳng có nƣớc Việt.
Tôi muốn cám ơn nhà tôi và tất cả các bạn bè đã khuyến khích tôi viết lại những dòng kỷ niệm nhƣ những khung trời riêng biệt này. Đặc biệt có anh chị Nguyễn Thúc Mẫn & Kim Anh đƣa lên mạng lƣới www.VPhAUSA.org của hội Dƣợc Sĩ Việt Nam. Chị chủ tịch hội Dƣợc Sĩ tại Québec Đỗ Thị Kim, anh chủ tịch hội Dƣợc Sĩ tại Hoa Kỳ Trần Đức Hiếu, các anh tổng thƣ ký Mai Tâm, Nguyễn Đức Năng đã cho đăng một số bài trong các đặc san. Cùng sự hỗ trợ của các anh Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Tuấn Anh, Trịnh Đình Thiện, Võ Đức Diễn, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Lƣơng Tuyền, Vũ Xuân Châu, Tạ Văn Quang, Trƣơng Mạnh Khải, Tôn Thất Cần, Nguyễn Đức Thành, và các chị Trần Thị Danh, Vũ Thị Ngọc Diệp, Phùng Thị Khánh Ngọc. Nhất là anh Lê Phục Thủy, và các anh Nguyễn Khắc Minh, Đàm Quang Hƣng, Phạm Tu Chính, Lê Tất Điều, nhận giới thiệu tập bút ký với bè bạn xa gần.
- HẾT -
Link : http://www.ninh-hoa.com/Ninh-HoaDOTcom-GSToDong-NhungDongKyNiem-01.htm
Hien Ha sưu tầm @Irvine, Feb 2013

( Do Nguyễn Đắc Song Phương chuyển )

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm