Truyện Ngắn & Phóng Sự
Vùng Trời Biên-Trấn!
…Kể từ ngày cuộc chiến leo thang, và để đáp ứng cho nhu cầu đòi  hỏi của chiến trường, theo với đà bành trướng của Quân Lực Việt Nam  Cộng-Hòa, quân-chủng Không-Quân cũng đã nâng cấp số đơn-vị từ Không-Đoàn  thành Sư-Đoàn Không-Quân. Cho tới năm 1970 thì KQ đã có 4 sư-đoàn, chia  đều cho 4 quân-khu, và căn-cứ 92 KQ nằm trong lãnh thổ của Quân Khu 2,  đã trở thành căn-cứ KQ Pleiku trực thuộc Sư-Đoàn 2 KQ, với hai  Không-Đoàn chủ lực là Không-Đoàn 72 chiến-Thuật và Không-Đoàn Yểm-Cứ  PleiKu.

Trước kia, căn cứ 92CT/BTLKQ đồn trú tại phi-trường Cù-Hanh; ngoài  những quân nhân thường trú thuyên chuyển lên đây, căn cứ này còn là nơi  tiếp nhận những đơn-vị biệt-phái ngắn hạn. Các biệt đội quan-sát,  trực-thăng, vận-tải, và khu-trục thường được biệt-phái lên PleiKu từ 2  đến 3 tuần lễ, để yểm trợ cho nhu cầu chiến trường của quân-khu 2, hoặc  cho các cuộc nhẩy toán của Biệt-Kích vào mật khu của địch, xuất phát từ  các căn-cứ B15 ở KonTum, và B50 ở Ban Mê-Thuột. Nếu những người được đổi  lên làm việc tại PleiKu coi như là bị “đi đầy”, thì đối với dân biệt  phái, nhiều người lại thích cuộc sống xa đơn-vị gốc này; một cuộc sống  xa nhà, nhưng phảng phất một chút gì bồng-bềnh lãng-mạn, để thỏa cái chí  “Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái” của người trai thời loạn:
PleiKu gió núi mưa rừng
Mây Trường-Sơn phủ mù vương cuộc đời.
PleiKu được giới giang-hồ khoác cho một cái hỗn danh là “vùng đất  trích”! Tuy là một vùng đất nghiệt-ngã, kể cả về khí-hậu lẫn địa-dư,  nhưng PleiKu lại là miền “linh địa”, nên cũng là nơi những “kỳ-nhân  dị-hán” đến ẩn mình, để khi gặp dịp là thỏa sức vẫy vùng, tung hoành  ngang dọc…Họ là những người một thời đã viết lên bản “Huyền-Sử-Ca” bi  hùng trên những trang quân sử máu của dân-tộc. Một trong những “Kỳ Nhân”  mà tên tuổi sáng chói trên vòm trời Không-Lực, đó là “Cửu-Long  Đại-Hiệp” Trung-Tướng Trần Văn-Minh.
Thủa ấy, ai đã từng ghé qua căn cứ 92CT vào mùa mưa, khi đi ngang qua  cổng Phi-Vân, nhìn về phía bên trái, sẽ thấy một dẫy cư xá lẫn lộn  trong khu nhà trên con đường bùn lầy đất đỏ, có một gian nhà nhỏ trông  đơn-sơ thanh-tịnh, nhưng lại có một sức thu hút kỳ lạ, khiến cho khách  lữ-hành phải dừng chân đứng ngắm. Đó là tư-thất của “Ngọa Long  Tiên-Sinh”…Thiếu-Tá Lê Bá-Định, cử-nhân Luật, khóa 58 SVSQ/KQ Trần  Duy-Kỷ, một “Đại Hiệp” của ngành khu-trục. Thuộc mẫu người  “văn-võ-song-toàn”, phong độ hào-sảng, coi trọng cái khuôn thước mẫu-mực  của đạo nghĩa trong xã-hội, luôn luôn ưu-tư đến đại-cuộc, thích cuộc  sống ngang-tàng khí-phách, dám làm những chuyện “lấp biển vá trời”, và  biết thưởng thức cái vẻ đẹp qua những đường nét đan-thanh của văn  chương, thơ, phú…Lúc chưa gặp thời, người vẫn ung-dung tự-tại nhận một  chức vụ thật khiêm-nhường của phòng Tâm-Lý-Chiến trong cái căn-cứ quanh  năm gió bụi, mưa bùn lầy lội này. Rồi sau đó, người đã về đầu quân dưới  trướng một thiên tài lỗi-lạc của ngành “Không-Quân-Chiến-Thuật” là  Trung-Tá Nguyễn-Văn-Bá, để chiêu nạp những “anh-hùng hào-kiệt” từ các  nơi đổ về, dựng nên một “Không-Đoàn Biên-trấn” lừng danh vùng biên-thùy  của miền Tây Nguyên đất Việt; với các phi-đoàn Khu-Trục Thái-Dương 530,  Trực-Thăng Lạc-Long 229, Sơn-Dương 235, và Quan-Sát BlackCat 118, mà sau  này đổi danh-hiệu là Bắc-Đẩu.

Nói đến dân biệt-phái của Không-Quân, thì không thể không nhắc tới  những tên tuổi lẫy lừng một thời như: Nguyễn Ngọc-Oánh, Vũ Văn-Ước, Trần  Phước, Đằng-Vân Đặng Văn Hậu, Đỗ Trang-Phúc, Dương Hùng-Cường, Ôn Văn  Tài, Nguyễn Ngọc-Biện, Huỳnh Văn-Vui, Ngô Văn-Kim, Nguyễn Quốc-Thành,  Nguyễn (Trần) Phước-Hội, Lê Mộng-Hoan, Nguyễn Ngọc-Thức, Nguyễn Văn  Trang, Đàm Thượng-Vũ, Võ Công-Minh, Lưu Đức-Thanh, Lê Như-Hoàn, Phạm  Đình-Anh, Phạm Bính, Dương Ngọc-Ẩn (Cọp), Trần Văn-Lân, Nguyễn  Phú-Chính, Lưu Huy-Cảnh, Nguyễn Phúc-Hưng, Hồ Danh-Lịch, Nguyễn Tuấn-Dị,  Đinh Sinh-Long, Nguyễn Quan Vĩnh, Phạm V. Thặng, Nguyễn Văn Huynh, Đinh  Trần Chính, Ấn (Đen), Hoàng Mạnh Dũng, Nguyễn Hoàng Mai (Râu), Trần  Thanh-Long (TiTi), Lê Quốc-Đức, Nguyễn Văn Thắng, Phạm Công-Khanh, Đoàn  Văn Quang, Lê Văn Bút, Trần Văn Nghiêu, Nghiệp, Thịnh, Võ Ý, Vĩnh-Quốc,  Huỳnh Hải-Hổ, và hàng trăm những “Hiệp-Sĩ Không-Gian, và dưới đất” khác…
“Khu-Trục Đại-Hiệp” Lê Như-Hoàn, khóa 61 SVSQ/KQ. Xuất thân từ trường  Hải-Quân Phi-Hành Pensacola, Florida Hoa-Kỳ; anh là một phi-tuần-trưởng  khu-trục trẻ tuổi, tài hoa và đầy nhiệt tình. Con Hồng-Điểu  (Phượng-Hoàng Rosa) của vùng trời xứ Bưởi, cùng với các Đại-Hiệp của  Không-Lực VNCH trên khắp 4 vùng chiến-thuật như: Phạm Đình-Anh, Dan  Hoài-Bửu, Lê Quốc-Hùng, Phạm Đăng-Cường, “Hiệp-Sĩ Say” Nguyễn Văn-Phong,  Phạm B. An, Việt, Cung, Nguyễn Tiến-Thành, Nguyễn Văn-Mười, Nguyễn  Đình-Lộc, Trần Mạnh-Khôi, Huỳnh Thanh-Minh, Lê Thanh Hồng-Vân, Nguyễn Q.  Chấn, Nguyễn Đạm-Thuyên, Nguyễn Quốc-Đạt, Lê Văn Thặng, Sử Ngọc-Cả, BS.  Phước thuở ấy, và sau này có: Nguyễn Quý-An, Nguyễn Gia-Tập, Bùi  Đại-Giang, Đào Giang-Hải, Phan Hiền-Tính, Trần Văn-Nghiêm, Hồng  Khắc-San, Thái Phương-Thủy, Tạ Thượng-Tứ, Ngô Đức-Cửu, Nghiêm Ngọc-Ẩn,  Nguyễn Kim-Năm, Vũ V. Cần, Phan Đắc-Huề, Khưu V. Phát, Nguyễn Văn Xuân,  Dương Thiệu-Chí, Lê Thuận-Lợi, Vũ Công-Hiệp, Nguyễn Du, Bạch Diễn-Sơn,  Trần Như-Đẩu, Trịnh Đức-Tự, Đoàn-Toại, Đào Bá-Hùng, Trương-Phùng, Trần  Thế-Vinh, Tự (Điên), Lê V. Luận, Nguyễn Văn-Sung, Vũ Ngô Khánh-Truật,  Nguyễn Văn Trót, Đoàn-Phan, Đinh Đức-Bản, Phạm Gia-Đôn, Nguyễn Văn Hai  (Còi), Lê Bình-Liêu, Nguyễn T. Thụy, Đỗ V. Dự, Thành, Nguyễn Thanh-Sơn,  Trần V. Toàn, Hùng Phan, Trương Nguyên-Thuận, Nguyễn Đình-Xanh, Nguyễn  Tài-Cơ, Phạm H. Lộc, Thống, Đệ, Nguyễn Q. Hải, Độ, Phạm Nghị-Luận, Lạc,  Vĩnh-Thuận, WingmanF5, Thành536, An-Vũ-Dương, Nguyễn Phát-An, Xuân (tóc  đỏ), Tuấn (Bocassa), Phúc (Cháy), Nguyễn Công-Phúc (Gangdhi), Trần K.  Long, Phạm M. Xuân, Trung (Mọi), Dương Huỳnh-Kỳ, Tơ (gìa) Togia9, Hoàng  Trọng-Hùng, Nhân (hạt ni), Phạm Vương-Thục, Long (Ghiền), Vũ Ngọc-Huyên,  Trang V. Thành, Tào-Thuận, Thái-Ngùng, Nguyễn mạnh-Khang, Trịnh  Trọng-Khang, Phan Vũ-Điện, Đào Quang-Vinh, Trịnh Minh-Nhựt, Nguyễn M.  Dũng, BS. Khanh, BS. Kỳ và biết bao nhiêu những “tài hoa son trẻ”  khác…là những ngôi sao sáng trong ngành phi-hành, cũng như không  phi-hành, sẵn sàng nối tiếp bước chân của các bậc đàn anh tài danh như  Phạm Ngọc-Sang, Nguyễn Quang-Tri, Phạm Long-Sửu, Võ Xuân-Lành, Từ Văn  Bê, Phan Phụng-Tiên, Dương Thiệu-Hùng, Nguyễn Hồng-Tuyền, Đặng  Văn-Phước, Ông Lợi-Hồng, Trần Doãn-Hoành, Bồ Đại-Kỳ, Nguyễn Văn-Cử, Lê  Xuân-Lan, Thái Bá-Đệ, Nguyễn Ngọc-Khoa, Nguyễn Văn Tường (Mực), Lê  Văn-Thảo, Nguyễn Quốc-Hưng…Người đã từng vạch lên những đường bay  hào-hùng, lả lướt như những nét chấm phá tuyệt-vời, trong một bức tranh  thủy mạc trên vòm trời Tây-Nguyên mịt mù khói lửa, vào những năm anh làm  Biệt-Đội Trưởng biệt-đội khu-trục ở PleiKu. Sau này Lê Như Hoàn đã đem  cái phong-độ “Hào-hùng trên không – Hào-hoa dưới đất” của người “Hiệp-Sĩ  Không-Gian” nơi vùng trời biên-trấn, về truyền lại cho những cánh chim  non, trong thời-gian anh phục vụ tại Trung-Tâm Huấn-luyện KQ Nha-Trang,  cùng với Phi-Hổ Nguyễn Hồng Tuyền.
 PleiKu  không phải chỉ là nơi đồn trú của dân KQ, mà nó còn là nơi dừng chân  của những đơn-vị thiện chiến của QLVNCH như: Nhẩy Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ  Binh, TQLC, Thiết Giáp, Biệt-Kích Dù, Lôi Hổ…Với những tên tuổi mà khi  nhắc tới, là người ta thấy ngất ngây say theo cái hào-khí của tráng-sĩ,  như: Mũ đỏ “Song Kiếm Trấn Ải” Nguyễn Đình-Bảo, Mễ, Đoàn Phương-Hải,  Sông Lô, Nguyễn Viết-Thanh (Tây lai), BS. Hiệp, “Đệ Nhất Ẩm Sĩ” BS. Tô  Phạm-Liệu của Nhẩy Dù…Minh, Rĩnh, Vũ Xuân-Thông, Nguyễn Sơn, Triều, Long  của Lôi-Hổ…Mũ nâu Đại-Hiệp Đào Trọng-Vượng, Vương Mộng-Long, Chánh,  Hậu, Cầu, Phong, Bình, Thủy, Bác-Sĩ Thại, BS. Ý, Quán, Song…Những con  Cọp xám của vùng “rừng núi xình lầy”, và biết bao nhiêu những tên tuổi  lẫy lừng khác, để sau một lần dừng chân, đối ẩm cùng “người phố núi”:
PleiKu  không phải chỉ là nơi đồn trú của dân KQ, mà nó còn là nơi dừng chân  của những đơn-vị thiện chiến của QLVNCH như: Nhẩy Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ  Binh, TQLC, Thiết Giáp, Biệt-Kích Dù, Lôi Hổ…Với những tên tuổi mà khi  nhắc tới, là người ta thấy ngất ngây say theo cái hào-khí của tráng-sĩ,  như: Mũ đỏ “Song Kiếm Trấn Ải” Nguyễn Đình-Bảo, Mễ, Đoàn Phương-Hải,  Sông Lô, Nguyễn Viết-Thanh (Tây lai), BS. Hiệp, “Đệ Nhất Ẩm Sĩ” BS. Tô  Phạm-Liệu của Nhẩy Dù…Minh, Rĩnh, Vũ Xuân-Thông, Nguyễn Sơn, Triều, Long  của Lôi-Hổ…Mũ nâu Đại-Hiệp Đào Trọng-Vượng, Vương Mộng-Long, Chánh,  Hậu, Cầu, Phong, Bình, Thủy, Bác-Sĩ Thại, BS. Ý, Quán, Song…Những con  Cọp xám của vùng “rừng núi xình lầy”, và biết bao nhiêu những tên tuổi  lẫy lừng khác, để sau một lần dừng chân, đối ẩm cùng “người phố núi”:
Tôi người lính trận từ xa tới
Gặp em nơi phố núi sương mù
Quán nhỏ ngây buồn nghe tâm-sự
Một buổi chiều mưa rơi…PleiKu
Rồi sáng hôm sau các anh lại lạnh lùng quay lưng cất bước lên đường khi:
“Gió Lào dậy tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng gìa bạt núi non
Mùa chinh chiến theo chân thù nghịch 
Ta về theo cho dậm chiến trường.” (1)
Chiến trường Tây-Nguyên quanh năm mịt mù khói lửa, với những địa danh  ngang dọc bước quân hành in dấu chân của tráng-sĩ, cùng với những:
“Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
lớp lớp tràn lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh-phụ
Cô đơn chót núi đứng bồng con
Khu chiến trập-trùng cơn bão lửa
Đá vọng phu mọc khắp biên-cương.” (1)
Lồng vào cái khung cảnh đất trời quay cuồng trong cơn bão loạn đó,  “Không-Đoàn 72 chiến-thuật” đã trưởng-thành, và vươn lên cùng với khí  thế ngút-ngàn của những anh-hùng, hảo-hán chốn sa trường…Chỉ sau một  thời-gian ngắn hoạt-động, mà tên tuổi đã danh trấn giang-hồ. Pleiku thuở  đó cũng đã thu hút được nhiều phóng-viên nổi tiếng của các hãng  thông-tấn quốc-tế…Cùng các phóng-viên chiến trường quốc-nội như Sao Bắc  Đẩu, Quỳnh-Như, Kiều-Mỹ-Duyên, Phan N. Nam, Nguyễn Ngọc Hạnh…đến tận nơi  sinh-hoạt, làm phóng-sự, ghi lại những hình ảnh hào-hùng, sống động của  người lính chiến vùng trời Tây Nguyên. Tờ báo quân đội “Diều Hâu” của  nhà văn Trung-Tá Nguyễn Đạt-Thịnh hồi đó đã nhận xét về KĐ 72CT qua bài  viết “Tìm hiểu hiện-tượng nhổ giò của KQVN”  như sau: 
 
“…Chỉ vào một hố bom khá sâu, Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh nói với tôi:
- Anh biết quả bom này bỏ cách chiếc thiết giáp của mình bao nhiêu không?
- …?
- Ba thước.
Thao thao bất tuyệt, vị Tư lệnh trẻ nhất Việt Nam kể cho tôi nghe  trận đánh khó khăn nhưng vô cùng hào hứng, vừa xẫy ra tại ngọn đồi mà  chúng tôi đang đứng.
Một Tiểu đội Cộng quân, trang bị bằng một khẩu đại bác, một khẩu đại  liên phòng không, đã chiếm giữ ngọn núi đá trên đường 14, cách Pleiku  khoảng 20 cây số về hướng Bắc. Cây đại bác được nhét thật sâu vào lòng  núi, bom bỏ bao nhiêu cũng không suy xuyển. Sư đoàn 23 đã phái một đơn  vị có chiến xa yểm trợ tiến lên núi, để diệt khẩu pháo đang gây khá  nhiều trở ngại cho xe cộ di chuyển từ Pleiku đi Kontum. Một trong những  chiếc thiết giáp yểm trợ bị bắn cháy. Xạ thủ B-40 chỉ khai hỏa cách  chiếc xe ba thước. Khu trục được gọi đến can thiệp, và nhiệm vụ của  người phi công là phải bỏ lọt trái bom vào một miệng hầm nhỏ, mà không  làm tổn thương đến những người có thể còn sống trong thiết giáp. Lắc đầu  tỏ vẻ thán phục, Đại tá Bá tiếp:
- Chiếc AD-6 bay với tốc độ mấy trăm cây số một giờ, mà anh chàng  phi công này thả bom như để. Trái bom rơi hẳn vào hầm rồi mới nổ, không  gây một hư hại nào bên ngoài cả.
 
Những lời khen ngợi của Đại tá Lý Tòng Bá khêu gợi lòng tò mò và tôi  đã tìm đến Không đoàn 72 Chiến Thuật, để gặp người phi công “bỏ bom như  để”, Thiếu tá Lê Quốc Đức. Ngoài 30 tuổi, Thiếu tá Đức trông hiền như  ông thầy giáo. Anh tỏ ra hơi ngượng khi tôi lập lại với anh những lời  của Đại Tá Bá. Giọng anh nhỏ nhẹ:
- Thật ra thì việc tôi làm tại Núi Đá, bất cứ người phi công nào cũng làm được. Dĩ
nhiên, sự chính xác này đòi hỏi đôi chút cố gắng.
Câu nói chỉ là một câu khiêm nhường. Tôi nghĩ như vậy. Nếu quả thật  tất cả mọi phi công Việt Nam đều “khéo tay” như Thiếu tá Đức, thì có lẽ  chúng ta nên nghĩ đến những loại kỹ nghệ đòi hỏi sự chính xác, khéo tay  như kỹ nghệ làm đồng hồ chẳng hạn, để thiết lập sau khi chiến tranh chấm  dứt. 
 
Thấy tôi có vẻ không tin được rằng bất cứ người phi công nào cũng  thả bom chính xác như Thiếu tá Đức, vị Tư lệnh Không đoàn 72, Trung tá  Nguyễn Văn Bá bảo tôi:
- Anh còn đi nhiều, còn gặp nhiều đơn vị Bộ binh. Những người đó sẽ  là nhân chứng cho sự chính xác hay không chính xác của anh em phi công.  Riêng phần tôi, tôi nghĩ rằng có một điểm anh nên đào sâu hơn, tìm hiểu  hơn là tinh thần của người phi công Việt Nam. Qua hai chữ tinh thần, tôi  muốn nói cả tinh thần đồng đội với những người bạn họ yểm trợ mà không  hề bao giờ biết mặt, cả tinh thần nhập cuộc trọn vẹn, chấp nhận mọi nguy  hiểm. Tôi đi tìm hiểu cái tinh thần đồng đội, tinh thần nhập cuộc ấy  qua những nhân chứng khác…
Bốn trăm phi công, một ngàn chuyên viên làm việc quần quật. Máy bay  được bảo trì, tu bổ cả đêm để mờ sáng hôm sau lại cất cánh, đáp ứng  những nhu cầu yểm trợ của Bộ Binh. Một vị Tướng lãnh đã dẫn chứng cho  tôi thấy Cộng quân đặt rất nặng yếu tố bất ngờ. Trong mỗi trận đánh, họ  đều dành cho ta ít nhất là một bất ngờ. Tết Mậu Thân, yếu tố bất ngờ có  thể được ghi nhận trên ba bình diện: Thời gian, không gian và vũ khí. Về  thời gian, Cộng quân đã đánh vào cái lúc mà chúng ta không chờ đợi  nhất: Những ngày đình chiến Tết. Về không gian, chúng đã chọn những  chiến trường mà từ trước đến nay chưa bao giờ chúng chọn: Thành phố. Và  yếu tố bất ngờ cuối cùng là những khẩu AK, B-40, B-41 lần đầu tiên được  đem xử dụng ồ ạt. Trong trận Hạ Lào, cái bất ngờ mà địch quân dành cho  chúng ta là những chiếc PT-76 khá lợi hại trước những thiết vận xa M-113  trang bị kém hơn. Lần này, sự bất ngờ có tính cách chiến thuật. Không  ai có thể ngờ được rằng quân đội Bắc Việt lại công khai vượt tuyến và  đánh trận địa với chúng ta. Những khẩu đại bác 130, 122 ly, những chiến  xa hạng nặng T-34, T-54 cũng có thể kể là những bất ngờ chiến cụ.
Nhưng lần này, chính địch quân cũng bị bất ngờ. Họ bất ngờ trước sự  trưởng thành đột ngột của Không Quân Việt Nam. Là Quân Chủng rất nặng về  kỹ thuật, Không Quân không thể xé quy luật lớn, vượt lên, ra ngoài  những công thức ước tính rất toán pháp.
Sau ba lần thử lửa, người ta có thể khẳng định rằng tình trạng “nhổ  giò” của Không Quân là một “thực tế” (xin mượn tiếng của ông Tướng Không  quân Nguyễn Cao Kỳ để nói về Không Quân đấy nhé) và thực tế này không  chỉ làm cho địch quân bất ngờ mà thôi. Nó còn là sự bất ngờ của người Mỹ  và người Việt Nam nữa. Vì thật ra, trước khi có những minh  chứng hôm nay, chắc chắn không ai dám tin được rằng, những người lính  rất ít chất lính, rất bay bướm lại có thể là người lính tốt.
Trên ba mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên và Bình Long hàng trăm ngàn  người lính Việt Nam, hàng trăm ngàn người lính Cộng đang chứng kiến cái  vươn vai Phù Đổng của Quân chủng Không Quân.
KBC xin ghi nhận sự chuyển mình quan trọng đó.”
*****
…Rời khỏi phòng họp của Không-Đoàn 62CT/SĐ2KQ, thì trời bắt đầu mưa  lâm râm. Lân qúa giang ông Liên-Đoàn Trưởng LĐ62 Tác-Chiến để ra phi-cơ.  Là một phi-tuần trưởng khu-trục tài hoa son trẻ, lại thêm phong độ  hào-sảng của một tráng-sĩ, qua những lần dẫn biệt-đội đi biệt phái  PleiKu, ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của LĐ62TC/KĐ62CT Trần Văn-Lân đã  lọt vào cặp mắt xanh của con “Ngọa-Long” vùng đất trích. Anh-hùng ngộ  anh-hùng, để rồi sau những đêm “Tri-kỷ tương phùng như sương khói –  Trăng tàn chưa nghĩ chuyện chia tay”, Lân đã được Thiếu-Tá Định dàn trải  tâm-tình, ngỏ ý muốn mời anh cùng vung gươm, vẫy vùng nơi quan tái…Ai  tráng-sĩ mà không mê say đại cuộc. Sinh ra giữa thời ly loạn, tới lúc  trưởng thành, cũng như bao nhiêu những nguời trai cùng thế-hệ, đã gắn  liền cuộc đời mình với kiếp sống“Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”,(2) cùng cái hào-khí của tiền nhân “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa – Gieo Thái-Sơn nhẹ tựa hồng mao” (3)… Để rồi qua những lần lang thang làm “Anh khách lạ, đi lên đi xuống” (*) trên con đường ngắn ngủi mà chỉ “Đi dăm phút đã về chốn cũ” (*), trước cửa hiệu thuốc tây có tấm bảng đề chữ “Cao-Nguyên”…Cho đến một ngày “Anh Khách Lạ” chợt thấy “May mà có em, đời còn dễ thương” (*),  thì cái vùng đất gió núi mưa rừng này đã trở thành miền quê ngoại của  cánh chim bằng miền thùy-dương cát trắng. Nay lại gặp tri-kỷ mở lời thì  hiểm nguy nào ngăn cản được con thần ưng, chỉ mong xoải cánh bay vào  vùng trời dông bão…
Chiếc khu-trục cơ AD5 không gắn bom, và hỏa-tiễn dưới cánh, trông gồ  ghề như một con quái điểu nằm trong ụ đậu, chờ hai ông phi-công lên nổ  máy cất cánh. Thấy Long đang đứng đợi mình dưới cánh phi-cơ, Lân cười  chạy tới bắt tay Long nói:
- Thật là thất lễ, làm ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của PĐ 530 phải vất vả.
Long cười giọng hào-sảng:
- Có gì đâu, chỉ là chuyện nhỏ. Ông Định dặn tôi bằng mọi giá phải đưa bạn lên PleiKu hôm nay.
Lân cảm động trước tấm chân tình của những người lính chiến  Không-Quân. Anh nhớ hôm về Nha-Trang họp để làm nốt thủ-tục bàn giao  biệt đội Khu-Trục cho KĐ-72CT tân lập, Thiếu-Tá Định đưa Lân ra tận bãi  đậu Trực-Thăng. Trước khi lên phi-cơ, ông ân cần dặn dò Lân:
- Toa về trong ấy họp, lo thu xếp công việc rồi lên đây bay cùng anh em.
- Vâng, tôi sẽ ráng thu xếp mọi chuyện cho được mau chóng.
- Cũng không cần phải vội vàng lắm; cần nhất là phải lo cho chị nhà  và cháu bé trước. Có tề gia rồi mới nghĩ đến chuyện “bình thiên hạ” được  chứ…
Cử chỉ chăm sóc kín đáo, và những lời bộc lộ chân tình, đã nói lên  mối quan tâm của Th/Tá Định đối với các chiến hữu, và ông đã thu phục  được cánh chim trời bạt gió của vùng biển Nha-trang ngút ngàn sóng nước…
Long và Lân leo lên hai bên cánh phi-cơ để bước vào phòng lái. Cột  xong giây dù và nón bay, Long đưa ngón tay ra hiệu cho người cơ-trưởng  đứng dưới đất để quay máy. Tiếng động cơ gầm lên, chiếc AD5 lừng-lững di  chuyển ra phi-đạo. Long liên-lạc với đài kiểm-soát Nha-Trang xin cất  cánh. Chiếc phi-cơ phóng về phía trước rồi vụt bốc lên, biến mình mất  hút vào trong màn mây, mưa mịt mù dầy đặc…

Dán mắt vào bảng phi-cụ trước mặt, Long bấm máy nói với Lân:
- Trời xấu toàn vùng, mình sẽ lên cao độ 12,000 bộ. Lấy hướng đi Phú-Bổn, rồi từ Phú-Bổn lấy hướng thẳng về PleiKu.
Lân quay sang Long nói:
- Tiếc thật, chiều nay gía tụi mình còn ở lại Nha-Trang, tôi sẽ mời  bạn thưởng thức món chả cá đặc biệt của vùng biển. Trời mưa rả rích,  ngồi trong chiếc quán lá bên gềnh đá, nghe trùng dương rì rào vỗ sóng,  nhâm nhi ly rượu cùng bạn hữu, kể chuyện “tình người lính chiến”, thì  còn gì thú vị bằng.
Long cười trong máy:
- Cám ơn bạn, tôi cũng thích món chả cá xóm Bóng lắm, nhưng xin hẹn lần sau. Hiện nay phi-đoàn đang thiếu người.
- Tôi đâu dám dụ dỗ ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của phi-đoàn. Nhưng  vào mùa này thì thời tiết buổi sáng cũng không khá hơn buổi chiều đâu  nhé.
Cả hai người đều bấm máy cười sảng khoái. Phi-cơ đội mưa lên đến cao  độ bình phi. Long rà núm điều chỉnh cần lái, để phi-cơ bay lướt trên  những cụm mây xám bồng bềnh như sóng nước của dòng sông thiên-hà dưới  cánh. Bỗng có tiếng vô-tuyến dồn-dập trong ống nghe của nón bay:
- Thái-Dương 03 đây Peacock gọi. Chúng tôi vừa được Trung-Tâm HQKT-2  chuyển lệnh khẩn cấp cho bạn liên-lạc để làm việc với BlackCat trên  tần-số FM…
Long đưa mắt nhìn Lân rồi bấm máy trả lời:
- Peacock, Thái-Dương 03 nhận bạn 5/5. Tôi sẽ liên-lạc với Blackcat, tần số FM…
Long kiểm soát thật nhanh bảng phi-kế, điều khiển cần lái chúi mũi  làm “penetration” cho phi cơ xuyên mây xuống cao độ, rồi quay qua nhìn  Lân nói:
- Chắc có chuyện làm ăn lớn, lần này bạn có dịp biểu diễn tài tác xạ…
Phi cơ xuống tới 4,000 bộ, nhìn bản đồ Long thấy mình đang ở trên Phú-Nhơn, anh bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- Blackcat đây Thái-Dương 03 gọi, tôi đang ở trên Phú-nhơn, cao độ 4,000 bộ, bạn cho biết vị trí.
Tiếng người phi-công quan sát dồn-dập vọng lên:
- Thái-Dương 03, Blackcat nghe bạn 5/5. Chúng tôi đang ở cao độ 3,000  bộ, về hướng Đông – Bắc của Phú nhơn 2 dậm…OK! Chúng tôi thấy bạn rồi.  Hiện tại Black Cat đang ở hướng 10 giờ của Thái-Dương, bạn cho biết  trang bị.
- Thái-Dương 03 chỉ có 800 viên đại-bác 20ly. Bạn cho biết chi tiết mục tiêu.
- Thái-Dương 03, mục tiêu được ghi nhận là nơi đóng quân của địch. Chúng tôi sẽ cho bạn một trái khói mầu cam…
 Chiếc  L19 đảo cánh, làm một vòng quẹo thật gắt, rồi bất thần chúi mũi xuống  khu rừng cây. Một cột khói mầu cam bốc lên cùng với tiếng điều-chỉnh  tọa-độ của người phi-công quan-sát:
Chiếc  L19 đảo cánh, làm một vòng quẹo thật gắt, rồi bất thần chúi mũi xuống  khu rừng cây. Một cột khói mầu cam bốc lên cùng với tiếng điều-chỉnh  tọa-độ của người phi-công quan-sát:
- Thái-Dương 03, bạn sẽ oanh-kích ngay trái khói, trải dài theo hướng Đông – Tây 300 thước.
- Thái-Dương 03 nhận rõ. Từ trái khói, dọc theo hướng Đông-Tây 300 thước.
Nói xong Long liếc mắt kiểm soát lại các đồng hồ phi-cụ, điều chỉnh  cần hòa-khí về vị thế chiến đấu, bật nút khai hỏa lên nòng 4 khẩu  đại-bác, rồi làm một vòng “roll” 360 độ, lao xuống mục tiêu. Long bấm  nút tác xạ, những họng súng đại bác hai bên cánh khạc lửa, tung ra từng  tràng đạn 20ly công phá, cầy nát một khoảng rừng…Bỗng một cột lửa bung  tỏa ra, rồi một tiếng nổ long trời lở đất dội lên như một ngọn hỏa-diệm  sơn trong cơn phẫn nộ chuyển mình, làm xao động cả một vùng khí quyển.  Long kéo mũi phi-cơ thẳng đứng, làm một “nửa vòng số 8” rồi đưa phi-cơ  lên cao độ của vòng chờ. Tiếng ngưòi phi-công quan-sát dồn dập trên tần  số:
- Tuyệt cú mèo! Thái-Dương 03 đánh qúa đẹp. Bạn đã oanh kích đúng hầm chứa vũ khí của địch rồi đó.
Long bấm nút vô-tuyến cười nói:
- Chỉ là chuyện nhỏ, cám ơn bạn qúa khen.
- Thái-Dương 03, lần này bạn sẽ đánh về hướng Tây – Nam của trái khói  100 thước. Mục tiêu được ghi nhận có nhiều xe Molotova của địch được  ngụy trang dưới lùm cây.
- Thái-Dương 03 hiểu. Tây Nam trái khói 100 thước.
Nói xong Long quay sang nhìn Lân nói qua máy:
- Xin nhường bạn chiêu này.
Lân cười…chuyển nút điều khiển cần lái, rồi lật ngược phi-cơ lao  xuống mục tiêu. Đạn phòng không từ dưới phóng lên tua tủa như một mạng  lưới lửa đan chéo thân tầu. Tiếng người phi-công quan-sát dồn dập gọi:
- Thái Dương 03 coi chừng phòng không từ hướng Tây.
Lân mím môi bấm nút khai hỏa. Chiếc khu-trục cơ gầm lên theo với nhịp  bắn. Bỗng một tiếng nổ chát chúa vang lên, con tầu như khựng lại. Lân  liếc mắt nhìn qua bên phải, anh thấy cánh phải của chiếc AD5 trúng đạn  phòng không rách toạc ra, rồi một ngọn lửa phực lên từ ổ súng đại-bác  gắn trên cánh. Lân vội vàng trả cần lái về vị thế thăng bằng, kéo mũi  phi-cơ lên để lấy cao độ. Con tầu rung lên dữ dội…Ổ đạn chứa trong cánh  phi-cơ phát nổ làm gẫy lìa một nửa cánh phải, ngọn lửa cháy lẹm qua ống  dẫn thủy điều vào buồng máy, bùng lên như một ngọn đuốc khổng lồ trên  không. Phi-cơ nghiêng hẳn về bên trái, quay tròn rồi rơi vào vị thế  triệt nâng…
Với một phản-ứng vô cùng nhậm lẹ, và bén nhậy của một phi-công  khu-trục dầy dạn chiến trường, Long chụp vội cần lái, lấy lại phần điều  khiển phi-cơ bên ghế trái, bấm nút vô-tuyến gởi tín hiệu khẩn cấp  “MayDay”, rồi ra hiệu cho Lân bung dù…
Lân cảm thấy mình bị hút vào khoảng không-gian vô tận, và quay lộn  nhiều vòng rồi bị ngất đi vì lực “G” qúa mạnh…Khi tỉnh dậy Lân thấy mình  đang lơ lửng giữa vòm trời. Anh đảo mắt nhìn quanh, thấy chiếc dù của  Long ở phía xa. Lân mừng thầm là người bạn đồng hành với mình cũng đã  thoát ra khỏi chiếc phi-cơ lâm nạn. Bỗng Lân thấy bầu trời nhạt-nhòa như  một màn mưa phùn che trước mặt, Lân liếm môi anh thấy mùi vị tanh tanh  và mặn, anh đưa tay vuốt mặt và thấy bàn tay mình đầy máu. Tấm kiếng che  mặt trên nón bay đã bị bể nát; một giòng máu nóng từ trên trán chẩy  xuống, anh tháo vội chiếc khăn quàng cổ, cuốn lại rồi nhét vào bên trong  chiếc nón bay để ngăn dòng máu đang rỉ xuống làm mờ mắt, rồi anh co  duỗi hai chân để thử, và thấy an tâm là chân không bị gẫy. Lân đưa tay  làm dấu Thánh Gía trên mình, thầm cám ơn Chúa đã mang anh và Long ra  khỏi giây phút hiểm nghèo…
Lân nhìn xuống dưới, thấy cánh dù đang rơi đúng chỗ những đám khói  nơi trận địa, anh kéo dây điều khiển cho cánh dù lạng về phía Đông để  tránh vị trí của địch. Cánh dù từ từ hạ xuống, Lân co hai chân, kéo mạnh  dây dù rồi buông ra để giảm tốc độ. Anh nhắm mắt, chụm hai cánh tay che  lấy mặt. Cả thân hình anh rớt xuống và vướng vào ngọn cây. Lân cảm thấy  hai bên xườn bị đau nhói vì sức va chạm qúa mạnh. Lân mở mắt thấy mình  bị treo trên cành cây cách mặt đất chừng bốn năm thước. Lân nhìn xung  quanh không thấy cánh dù của Long, anh nhìn lên trời thấy hai chiếc  khu-trục cùng chiếc L19 như những con diều hâu quần thảo trên đầu mình,  anh thấy vững bụng.
Lân tháo dây dù rồi đu theo cành cây nhẩy xuống đất. Anh bỗng thấy  một đám khói mầu bốc lên cách chỗ anh đứng khoảng 100 thước, rồi chiếc  khu-trục đâm bổ xuống và nhả ra một trái bom, anh vội vàng chạy vòng ra  sau thân cây để núp. Một tiếng nổ vang dội như tiếng sấm cùng những mảnh  bom bay rào rào như một trận cuồng phong, cắt đứt cành cây ngọn cỏ.
Đứng nép mình sau thân cây, Lân thấy tim mình đập như muốn văng ra  khỏi lồng ngực. Chưa kịp hoàn hồn thì một tiếng nổ kế tiếp lại ầm vang  lên, lần này gần chỗ Lân núp hơn. Lân thấy mặt đất rung lên dữ dội như  đang trải qua một cơn địa chấn. Anh cảm thấy ù tai và ngộp thở vì sức ép  của qủa bom. Sỏi đá và những cành cây gẫy đổ ào ào rơi xuống như trời  xập…Chiếc khu-trục xuống thật thấp, lao vút đi, rít lên như một mũi tên  xé gió, nhả từng tràng đạn đại bác 20ly cầy tung mặt đất. Lân có thể  nhìn thấy chiếc nón bay của người phi-công ngồi trong phòng lái. Lằn đạn  nổ gần đến nỗi anh có cảm tưởng như da thịt mình bị bỏng rát. Đây là  lần đầu tiên Lân được chứng kiến cảnh bom nổ, đạn bay nơi chiến địa ngay  bên cạnh mình. Một luồng cảm khái rần rật chạy khắp toàn thân, anh thầm  cảm phục sự gan dạ và dũng-cảm của những người bạn đồng ngũ…
Khi những chiếc khu-trục đã làm xong công việc giải tỏa bãi đáp cho  trực thăng, và phóng lên trời để bao vùng. Lân chạy ra khỏi chỗ núp, anh  thấy một chiếc UH1 đang lừng lững bay tới. Lân mừng rỡ chạy ra khoảng  đất trống, đưa tay vẫy…Chiếc trực-thăng đảo một vòng ngay chỗ Lân đứng,  rồi bất thần lao xuống. Khi chiếc phi-cơ cấp cứu còn cách mặt đất khỏang  chừng nửa thước, thì Lân phóng tới bám lấy thành tầu, một cánh tay từ  trong khoang tầu vươn ra nắm chặt lấy tay Lân rồi kéo thốc anh lên. Lân  lăn mình trên sàn phi-cơ, ngước nhìn lên anh tưởng mình nằm mơ, Th/Tá Lê  Bá-Định và Đức (Điên) một cao thủ trong giới cơ-phi Xạ-thủ phi-hành của  vùng trời biên-trấn, đứng xừng-xững như hai ông Hộ-Pháp, chắn ngang  hông phi-cơ cho Lân dựa người vào khi chiếc phi-cơ nghiêng mình chao đi  như một chiếc lá, bay về phía chiếc dù thứ hai đang treo lơ lửng trên  cây. Cánh quạt gió khổng lồ quay vùn vụt, chém vạt những cành cây như  một con quái điểu đang đập cánh vồ mồi. Chiếc trực-thăng nghiêng ngả,  tìm cách đáp xuống để bốc người phi-công lâm nạn…Đưa mắt nhìn xuống bên  dưới, Lân thấy cánh tay của Long cố vươn lên như muốn kéo chiếc  trực-thăng xuống thấp thêm một chút nữa…Mọi người trên tầu đang hồi hộp  theo dõi chiếc phi-cơ tròng trành lên xuống như bị nhồi sóng, thì một  loạt tiếng nổ chát chúa vang lên. Con tầu cấp cứu đã lọt vào ổ phục  kích, và lãnh trọn luồng đạn thù nghịch từ những hầm trú ẩn của địch bắn  lên…
 Từng  tràng AK tiếp tục xối xả phóng tới xuyên thủng buồng lái, trúng chân  của người trưởng phi-cơ. Đầu gối của anh bị vỡ nát. Máu và thịt xương  bắn tung tóe, văng lên mặt mọi người….Anh hét lên một tiếng cực kỳ đau  đớn, buông tay chụp lấy mảng thịt nhầy nhụa…trước những con mắt kinh  hoàng của phi-hành-đoàn. Con tầu mất thăng bằng, chao đảo như muốn qụy  xuống. Gương mặt của người trưởng phi-cơ co rúm lại, toàn thân anh rung  lên như bị một luồng điện cao thế chạy qua, mồ hôi trên trán rịn ra, anh  cắn chặt vành môi cố nén cơn đau, với tay nắm lấy cần lái để giữ cho  con tầu khỏi đâm xuống đất…Chiếc trực-thăng chao đảo, lạng ra khỏi tầm  đạn của kẻ thù…
Từng  tràng AK tiếp tục xối xả phóng tới xuyên thủng buồng lái, trúng chân  của người trưởng phi-cơ. Đầu gối của anh bị vỡ nát. Máu và thịt xương  bắn tung tóe, văng lên mặt mọi người….Anh hét lên một tiếng cực kỳ đau  đớn, buông tay chụp lấy mảng thịt nhầy nhụa…trước những con mắt kinh  hoàng của phi-hành-đoàn. Con tầu mất thăng bằng, chao đảo như muốn qụy  xuống. Gương mặt của người trưởng phi-cơ co rúm lại, toàn thân anh rung  lên như bị một luồng điện cao thế chạy qua, mồ hôi trên trán rịn ra, anh  cắn chặt vành môi cố nén cơn đau, với tay nắm lấy cần lái để giữ cho  con tầu khỏi đâm xuống đất…Chiếc trực-thăng chao đảo, lạng ra khỏi tầm  đạn của kẻ thù…
Trong một khoảnh khắc chưa đầy một giây đồng hồ, Lân quên hẳn vết  thương trên đầu, anh chồm tới tháo giây cột trên ghế ngồi, kéo người  trưởng phi-cơ ra, đẩy về phía Thiếu-Tá Định và Đức (Điên), rồi anh với  tay đập mạnh lên vai người phi-công phụ đang ngồi bất động như chết cứng  trên ghế…Cú đập bất thần đã kéo người phi-công phụ ra khỏi con mê lộ  của tử thần; bản năng tự-vệ dành lấy mạng sống cho anh, cùng mọi người  trên con tầu trúng đạn bùng dậy, anh chụp vội cần lái, đưa chiếc  trực-thăng bốc mình lên, lấy lại thăng bằng, chúi mũi lao thẳng về phía  trước, rồi bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- BlackCat, đây Lạc-Long 04 gọi. Báo cho bạn biết chúng tôi bị lọt ổ  phục kích của địch, chỉ bốc được một phi công nhẩy dù. Tầu bị bắn bể ống  dầu, trưởng phi-cơ bị thương nặng, chúng tôi phải rời vùng.
Giọng nói trầm ấm của người phi-công quan-sát vọng lên qua ống nghe như để vỗ về, chia xẻ cùng mọi người trên con tầu lâm nạn:
- Lạc-Long 04, Blackcat nhận rõ. Xin hỏi phi hành đoàn Lạc-Long 04 là những ai đó.
- Trưởng phi-cơ Đại-Úy Huyên, Phi-Công phụ Trung Úy Long.
- Có phải “Thần Điêu Đại-Hiệp Vũ Ngọc-Huyên và “Đại-Hiệp Long Ghiền”  đấy không. Xin được tỏ lòng ngưỡng mộ đến “Lạc-Long Đại-Hiệp”, các bạn  vừa hoàn thành một phi-vụ cấp cứu vô cùng khó khăn và nguy-hiểm.
- Chỉ là chuyện nhỏ thôi. Cám ơn bạn qúa khen. Chúng tôi sẽ bay dọc  theo QL 14. Phi cơ có thể bốc cháy bất cứ lúc nào, nhờ bạn theo dõi phi  trình.
- BlackCat nhận rõ. Xin báo cho Đại-Hiệp biết là Thái-Dương 31 đã  thanh toán gọn ổ phục kích của địch cho bạn rồi, và sẽ hộ tống Lạc-Long  04 về PleiKu. Chúng tôi cũng đã nhờ Trung-Tâm Không-Trợ 2 báo cho phòng  Hành-Quân-Chiến-Cuộc của KĐ72CT cho xe cứu thương đón Lạc-long 04 tại  bãi đáp. Chúc Đại-Hiệp về đáp an toàn. Chúng tôi ở lại bao vùng, để tiếp  tục công việc cấp cứu Thái-Dương 03.
Trong khoang tầu bê bết máu, Thiếu-Tá Định kéo Đức (Điên) lại, ra  hiệu cho anh ngồi vào chỗ trống của trưởng phi-cơ trên ghế trái, rồi nắm  chặt vai Long, như để ngầm gởi gấm sinh mạng những người trên tầu vào  tay người phi-công trẻ, xong ông quay xuống săn sóc Huyên và Lân…“Long  Ghiền” lấy lại bình tĩnh, vận dụng hết khả-năng và kinh-nghiệm của mình,  điều khiển con tầu bị thương, mang các chiến hữu lâm nạn về căn cứ…
*****
 …Lân nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, vết thương trên trán bắt đầu  hành vì mất nhiều máu. Lúc khâu vết thương, bác-sĩ nói anh thật là may  mắn, vì nếu mảnh đạn đi chệch xuống khoảng 1 đốt ngón tay thì anh có thể  sẽ mất hai con mắt. Lân mừng là mình đã thoát nạn, nhưng khi nghĩ đến  những người bạn vừa cùng anh chia xẻ những nhọc-nhằn nguy-hiểm nơi chiến  địa, anh thấy lòng mình quặn thắt.…Cánh dù của Long rơi đúng vào ổ phục  kích của VC, bị địch bắt mang đi, không biết sống chết ra sao. Huyên bị  trọng thương, và sẽ trở thành một Phế Binh tàn tật suốt đời. Sự có mặt  của Lê Bá-Định trên chiếc trực-thăng cấp cứu, trong lúc mạng sống của  mọi người như sợi chỉ treo chuông. Long (Ghiền) “đơn thương độc mã, tả  xung hữu đột” điều khiển con tầu định-mạng, dìu mọi người thoát ra khỏi  vòng tay oan-nghiệt của Tử-Thần…Tất cả những sự hy-sinh, gắn-bó, và tinh  thần nhập cuộc trọn vẹn, cùng với phong độ hào-sảng của những người bạn  Quan-Sát, Khu-Truc, Trực-Thăng, Cơ-Phi Xạ-Thủ phi-hành nơi sa trường,  những người lính chiến đã được tinh luyện trong những lò luyện thép của  quân-đội, để sẵn sàng thi-hành những công-tác cực kỳ khó-khăn và  nguy-hiểm, mà cái gía phải trả cho sự thành-công, đôi khi là chính mạng  sống của họ, đã làm con tim anh rúng động…
Có tiếng người lao xao ngoài cửa phòng, Lân đưa mắt nhìn ra, anh thấy  Oanh, vợ mình tay dắt bé Luân, đứa con trai đầu lòng vừa được hai tuổi  tất tả bước vào. Vừa nhìn thấy Lân trên đầu quấn băng trắng xóa, Oanh  chạy ào tới bên cạnh giường bệnh rồi khóc òa lên:
- Chúa ôi! Anh có sao không? Em được anh Định báo tin nên vội vàng dẫn con vào đây.
Lân gượng ngồi dậy, dựa lưng vào thành giường, dang tay đón vợ và con, nói giọng an ủi:
- Anh không sao cả, em đừng lo, làm con nó sợ.
Oanh vòng tay ôm lấy Lân rồi gục đầu lên ngực chồng, giọng thổn thức:
- Anh ơi em sợ lắm! Anh hứa với em là đừng để đứa con của chúng mình ra đời mà không được nhìn thấy mặt cha của nó nghe anh.
Lân lặng người khi nghe Oanh nói. Anh nhẹ vuốt tóc vợ, mái tóc mềm óng ả, một thời mang huyền-thoại người “Em PleiKu má đỏ môi hồng” (*), từng  làm thổn-thức con tim của biết bao lữ-khách hơn một lần dừng chân nơi  phố núi, bây giờ đã là người vợ ngoan hiền của anh, và sắp làm mẹ của  đứa con thứ hai:
- Em đừng sợ, anh không sao cả mà.
Vòng tay của Oanh xiết chặt hơn như không muốn để cho con đại bàng  thêm một lần xoải cánh. Lân cười dịu dàng đặt tay lên bụng vợ nói:
- Em coi này, con nó đang đạp chân mừng bố về nè.
Bé Luân kiễng chân chồm lên giường, ôm cánh tay bố khóc thút thít.  Nhìn những giọt nước mắt tình cảm của vợ con, Lân thấy lòng hụt hẫng,  xót xa…Anh thấy mình đã nợ những người thân, và các đồng đội món nợ qúa  lớn:
Những món nợ suốt đời không trả hết
Nợ ba sinh nợ những mối chân tình
Nợ đại-cuộc nợ những lời ủy thác
Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu linh.
Cuộc chiến này còn dài, Tổ-Quốc đang kỳ-vọng vào các anh, những đứa  con yêu của đất nước…Rồi đây có thể nào anh bỏ được những người bạn đồng  ngũ của anh, những người trai trẻ nhìn đời bằng tia nhìn khinh bạc,  lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay, lao vào vùng lửa đạn, bỏ lại một  ngày cho đời mình, một ngày cho những quằn-quại đau thương của dân-tộc,  và một ngày cho những đôi mắt vời-vợi chờ trông nơi chốn chân mây tận  cuối trời…
Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Một thời ly loạn.)
Chú-Thích: (1) Thơ Phạm Ngọc Lư
(2) Kiều của Nguyễn Du
(3) Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn
(*) Thơ Vũ Hữu-Định. Bài thơ này VHĐ lấy cảm hứng qua hình ảnh tuyệt-vời  của một người con gái tên Nguyễn Thị Hoàng-Oanh nơi tiệm thuốc tây  “Cao-Nguyên” trên PleiKu. Bài thơ được nhạc-sĩ Phạm-Duy phổ nhạc…Lời thơ  và ý nhạc đã làm hình ảnh của người “ Em PleiKu…” tồn tại mãi với thời-gian.
Vùng Trời Biên-Trấn!
…Kể từ ngày cuộc chiến leo thang, và để đáp ứng cho nhu cầu đòi  hỏi của chiến trường, theo với đà bành trướng của Quân Lực Việt Nam  Cộng-Hòa, quân-chủng Không-Quân cũng đã nâng cấp số đơn-vị từ Không-Đoàn  thành Sư-Đoàn Không-Quân. Cho tới năm 1970 thì KQ đã có 4 sư-đoàn, chia  đều cho 4 quân-khu, và căn-cứ 92 KQ nằm trong lãnh thổ của Quân Khu 2,  đã trở thành căn-cứ KQ Pleiku trực thuộc Sư-Đoàn 2 KQ, với hai  Không-Đoàn chủ lực là Không-Đoàn 72 chiến-Thuật và Không-Đoàn Yểm-Cứ  PleiKu.

Trước kia, căn cứ 92CT/BTLKQ đồn trú tại phi-trường Cù-Hanh; ngoài  những quân nhân thường trú thuyên chuyển lên đây, căn cứ này còn là nơi  tiếp nhận những đơn-vị biệt-phái ngắn hạn. Các biệt đội quan-sát,  trực-thăng, vận-tải, và khu-trục thường được biệt-phái lên PleiKu từ 2  đến 3 tuần lễ, để yểm trợ cho nhu cầu chiến trường của quân-khu 2, hoặc  cho các cuộc nhẩy toán của Biệt-Kích vào mật khu của địch, xuất phát từ  các căn-cứ B15 ở KonTum, và B50 ở Ban Mê-Thuột. Nếu những người được đổi  lên làm việc tại PleiKu coi như là bị “đi đầy”, thì đối với dân biệt  phái, nhiều người lại thích cuộc sống xa đơn-vị gốc này; một cuộc sống  xa nhà, nhưng phảng phất một chút gì bồng-bềnh lãng-mạn, để thỏa cái chí  “Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái” của người trai thời loạn:
PleiKu gió núi mưa rừng
Mây Trường-Sơn phủ mù vương cuộc đời.
PleiKu được giới giang-hồ khoác cho một cái hỗn danh là “vùng đất  trích”! Tuy là một vùng đất nghiệt-ngã, kể cả về khí-hậu lẫn địa-dư,  nhưng PleiKu lại là miền “linh địa”, nên cũng là nơi những “kỳ-nhân  dị-hán” đến ẩn mình, để khi gặp dịp là thỏa sức vẫy vùng, tung hoành  ngang dọc…Họ là những người một thời đã viết lên bản “Huyền-Sử-Ca” bi  hùng trên những trang quân sử máu của dân-tộc. Một trong những “Kỳ Nhân”  mà tên tuổi sáng chói trên vòm trời Không-Lực, đó là “Cửu-Long  Đại-Hiệp” Trung-Tướng Trần Văn-Minh.
Thủa ấy, ai đã từng ghé qua căn cứ 92CT vào mùa mưa, khi đi ngang qua  cổng Phi-Vân, nhìn về phía bên trái, sẽ thấy một dẫy cư xá lẫn lộn  trong khu nhà trên con đường bùn lầy đất đỏ, có một gian nhà nhỏ trông  đơn-sơ thanh-tịnh, nhưng lại có một sức thu hút kỳ lạ, khiến cho khách  lữ-hành phải dừng chân đứng ngắm. Đó là tư-thất của “Ngọa Long  Tiên-Sinh”…Thiếu-Tá Lê Bá-Định, cử-nhân Luật, khóa 58 SVSQ/KQ Trần  Duy-Kỷ, một “Đại Hiệp” của ngành khu-trục. Thuộc mẫu người  “văn-võ-song-toàn”, phong độ hào-sảng, coi trọng cái khuôn thước mẫu-mực  của đạo nghĩa trong xã-hội, luôn luôn ưu-tư đến đại-cuộc, thích cuộc  sống ngang-tàng khí-phách, dám làm những chuyện “lấp biển vá trời”, và  biết thưởng thức cái vẻ đẹp qua những đường nét đan-thanh của văn  chương, thơ, phú…Lúc chưa gặp thời, người vẫn ung-dung tự-tại nhận một  chức vụ thật khiêm-nhường của phòng Tâm-Lý-Chiến trong cái căn-cứ quanh  năm gió bụi, mưa bùn lầy lội này. Rồi sau đó, người đã về đầu quân dưới  trướng một thiên tài lỗi-lạc của ngành “Không-Quân-Chiến-Thuật” là  Trung-Tá Nguyễn-Văn-Bá, để chiêu nạp những “anh-hùng hào-kiệt” từ các  nơi đổ về, dựng nên một “Không-Đoàn Biên-trấn” lừng danh vùng biên-thùy  của miền Tây Nguyên đất Việt; với các phi-đoàn Khu-Trục Thái-Dương 530,  Trực-Thăng Lạc-Long 229, Sơn-Dương 235, và Quan-Sát BlackCat 118, mà sau  này đổi danh-hiệu là Bắc-Đẩu.

Nói đến dân biệt-phái của Không-Quân, thì không thể không nhắc tới  những tên tuổi lẫy lừng một thời như: Nguyễn Ngọc-Oánh, Vũ Văn-Ước, Trần  Phước, Đằng-Vân Đặng Văn Hậu, Đỗ Trang-Phúc, Dương Hùng-Cường, Ôn Văn  Tài, Nguyễn Ngọc-Biện, Huỳnh Văn-Vui, Ngô Văn-Kim, Nguyễn Quốc-Thành,  Nguyễn (Trần) Phước-Hội, Lê Mộng-Hoan, Nguyễn Ngọc-Thức, Nguyễn Văn  Trang, Đàm Thượng-Vũ, Võ Công-Minh, Lưu Đức-Thanh, Lê Như-Hoàn, Phạm  Đình-Anh, Phạm Bính, Dương Ngọc-Ẩn (Cọp), Trần Văn-Lân, Nguyễn  Phú-Chính, Lưu Huy-Cảnh, Nguyễn Phúc-Hưng, Hồ Danh-Lịch, Nguyễn Tuấn-Dị,  Đinh Sinh-Long, Nguyễn Quan Vĩnh, Phạm V. Thặng, Nguyễn Văn Huynh, Đinh  Trần Chính, Ấn (Đen), Hoàng Mạnh Dũng, Nguyễn Hoàng Mai (Râu), Trần  Thanh-Long (TiTi), Lê Quốc-Đức, Nguyễn Văn Thắng, Phạm Công-Khanh, Đoàn  Văn Quang, Lê Văn Bút, Trần Văn Nghiêu, Nghiệp, Thịnh, Võ Ý, Vĩnh-Quốc,  Huỳnh Hải-Hổ, và hàng trăm những “Hiệp-Sĩ Không-Gian, và dưới đất” khác…
“Khu-Trục Đại-Hiệp” Lê Như-Hoàn, khóa 61 SVSQ/KQ. Xuất thân từ trường  Hải-Quân Phi-Hành Pensacola, Florida Hoa-Kỳ; anh là một phi-tuần-trưởng  khu-trục trẻ tuổi, tài hoa và đầy nhiệt tình. Con Hồng-Điểu  (Phượng-Hoàng Rosa) của vùng trời xứ Bưởi, cùng với các Đại-Hiệp của  Không-Lực VNCH trên khắp 4 vùng chiến-thuật như: Phạm Đình-Anh, Dan  Hoài-Bửu, Lê Quốc-Hùng, Phạm Đăng-Cường, “Hiệp-Sĩ Say” Nguyễn Văn-Phong,  Phạm B. An, Việt, Cung, Nguyễn Tiến-Thành, Nguyễn Văn-Mười, Nguyễn  Đình-Lộc, Trần Mạnh-Khôi, Huỳnh Thanh-Minh, Lê Thanh Hồng-Vân, Nguyễn Q.  Chấn, Nguyễn Đạm-Thuyên, Nguyễn Quốc-Đạt, Lê Văn Thặng, Sử Ngọc-Cả, BS.  Phước thuở ấy, và sau này có: Nguyễn Quý-An, Nguyễn Gia-Tập, Bùi  Đại-Giang, Đào Giang-Hải, Phan Hiền-Tính, Trần Văn-Nghiêm, Hồng  Khắc-San, Thái Phương-Thủy, Tạ Thượng-Tứ, Ngô Đức-Cửu, Nghiêm Ngọc-Ẩn,  Nguyễn Kim-Năm, Vũ V. Cần, Phan Đắc-Huề, Khưu V. Phát, Nguyễn Văn Xuân,  Dương Thiệu-Chí, Lê Thuận-Lợi, Vũ Công-Hiệp, Nguyễn Du, Bạch Diễn-Sơn,  Trần Như-Đẩu, Trịnh Đức-Tự, Đoàn-Toại, Đào Bá-Hùng, Trương-Phùng, Trần  Thế-Vinh, Tự (Điên), Lê V. Luận, Nguyễn Văn-Sung, Vũ Ngô Khánh-Truật,  Nguyễn Văn Trót, Đoàn-Phan, Đinh Đức-Bản, Phạm Gia-Đôn, Nguyễn Văn Hai  (Còi), Lê Bình-Liêu, Nguyễn T. Thụy, Đỗ V. Dự, Thành, Nguyễn Thanh-Sơn,  Trần V. Toàn, Hùng Phan, Trương Nguyên-Thuận, Nguyễn Đình-Xanh, Nguyễn  Tài-Cơ, Phạm H. Lộc, Thống, Đệ, Nguyễn Q. Hải, Độ, Phạm Nghị-Luận, Lạc,  Vĩnh-Thuận, WingmanF5, Thành536, An-Vũ-Dương, Nguyễn Phát-An, Xuân (tóc  đỏ), Tuấn (Bocassa), Phúc (Cháy), Nguyễn Công-Phúc (Gangdhi), Trần K.  Long, Phạm M. Xuân, Trung (Mọi), Dương Huỳnh-Kỳ, Tơ (gìa) Togia9, Hoàng  Trọng-Hùng, Nhân (hạt ni), Phạm Vương-Thục, Long (Ghiền), Vũ Ngọc-Huyên,  Trang V. Thành, Tào-Thuận, Thái-Ngùng, Nguyễn mạnh-Khang, Trịnh  Trọng-Khang, Phan Vũ-Điện, Đào Quang-Vinh, Trịnh Minh-Nhựt, Nguyễn M.  Dũng, BS. Khanh, BS. Kỳ và biết bao nhiêu những “tài hoa son trẻ”  khác…là những ngôi sao sáng trong ngành phi-hành, cũng như không  phi-hành, sẵn sàng nối tiếp bước chân của các bậc đàn anh tài danh như  Phạm Ngọc-Sang, Nguyễn Quang-Tri, Phạm Long-Sửu, Võ Xuân-Lành, Từ Văn  Bê, Phan Phụng-Tiên, Dương Thiệu-Hùng, Nguyễn Hồng-Tuyền, Đặng  Văn-Phước, Ông Lợi-Hồng, Trần Doãn-Hoành, Bồ Đại-Kỳ, Nguyễn Văn-Cử, Lê  Xuân-Lan, Thái Bá-Đệ, Nguyễn Ngọc-Khoa, Nguyễn Văn Tường (Mực), Lê  Văn-Thảo, Nguyễn Quốc-Hưng…Người đã từng vạch lên những đường bay  hào-hùng, lả lướt như những nét chấm phá tuyệt-vời, trong một bức tranh  thủy mạc trên vòm trời Tây-Nguyên mịt mù khói lửa, vào những năm anh làm  Biệt-Đội Trưởng biệt-đội khu-trục ở PleiKu. Sau này Lê Như Hoàn đã đem  cái phong-độ “Hào-hùng trên không – Hào-hoa dưới đất” của người “Hiệp-Sĩ  Không-Gian” nơi vùng trời biên-trấn, về truyền lại cho những cánh chim  non, trong thời-gian anh phục vụ tại Trung-Tâm Huấn-luyện KQ Nha-Trang,  cùng với Phi-Hổ Nguyễn Hồng Tuyền.
 PleiKu  không phải chỉ là nơi đồn trú của dân KQ, mà nó còn là nơi dừng chân  của những đơn-vị thiện chiến của QLVNCH như: Nhẩy Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ  Binh, TQLC, Thiết Giáp, Biệt-Kích Dù, Lôi Hổ…Với những tên tuổi mà khi  nhắc tới, là người ta thấy ngất ngây say theo cái hào-khí của tráng-sĩ,  như: Mũ đỏ “Song Kiếm Trấn Ải” Nguyễn Đình-Bảo, Mễ, Đoàn Phương-Hải,  Sông Lô, Nguyễn Viết-Thanh (Tây lai), BS. Hiệp, “Đệ Nhất Ẩm Sĩ” BS. Tô  Phạm-Liệu của Nhẩy Dù…Minh, Rĩnh, Vũ Xuân-Thông, Nguyễn Sơn, Triều, Long  của Lôi-Hổ…Mũ nâu Đại-Hiệp Đào Trọng-Vượng, Vương Mộng-Long, Chánh,  Hậu, Cầu, Phong, Bình, Thủy, Bác-Sĩ Thại, BS. Ý, Quán, Song…Những con  Cọp xám của vùng “rừng núi xình lầy”, và biết bao nhiêu những tên tuổi  lẫy lừng khác, để sau một lần dừng chân, đối ẩm cùng “người phố núi”:
PleiKu  không phải chỉ là nơi đồn trú của dân KQ, mà nó còn là nơi dừng chân  của những đơn-vị thiện chiến của QLVNCH như: Nhẩy Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ  Binh, TQLC, Thiết Giáp, Biệt-Kích Dù, Lôi Hổ…Với những tên tuổi mà khi  nhắc tới, là người ta thấy ngất ngây say theo cái hào-khí của tráng-sĩ,  như: Mũ đỏ “Song Kiếm Trấn Ải” Nguyễn Đình-Bảo, Mễ, Đoàn Phương-Hải,  Sông Lô, Nguyễn Viết-Thanh (Tây lai), BS. Hiệp, “Đệ Nhất Ẩm Sĩ” BS. Tô  Phạm-Liệu của Nhẩy Dù…Minh, Rĩnh, Vũ Xuân-Thông, Nguyễn Sơn, Triều, Long  của Lôi-Hổ…Mũ nâu Đại-Hiệp Đào Trọng-Vượng, Vương Mộng-Long, Chánh,  Hậu, Cầu, Phong, Bình, Thủy, Bác-Sĩ Thại, BS. Ý, Quán, Song…Những con  Cọp xám của vùng “rừng núi xình lầy”, và biết bao nhiêu những tên tuổi  lẫy lừng khác, để sau một lần dừng chân, đối ẩm cùng “người phố núi”:
Tôi người lính trận từ xa tới
Gặp em nơi phố núi sương mù
Quán nhỏ ngây buồn nghe tâm-sự
Một buổi chiều mưa rơi…PleiKu
Rồi sáng hôm sau các anh lại lạnh lùng quay lưng cất bước lên đường khi:
“Gió Lào dậy tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng gìa bạt núi non
Mùa chinh chiến theo chân thù nghịch 
Ta về theo cho dậm chiến trường.” (1)
Chiến trường Tây-Nguyên quanh năm mịt mù khói lửa, với những địa danh  ngang dọc bước quân hành in dấu chân của tráng-sĩ, cùng với những:
“Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
lớp lớp tràn lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh-phụ
Cô đơn chót núi đứng bồng con
Khu chiến trập-trùng cơn bão lửa
Đá vọng phu mọc khắp biên-cương.” (1)
Lồng vào cái khung cảnh đất trời quay cuồng trong cơn bão loạn đó,  “Không-Đoàn 72 chiến-thuật” đã trưởng-thành, và vươn lên cùng với khí  thế ngút-ngàn của những anh-hùng, hảo-hán chốn sa trường…Chỉ sau một  thời-gian ngắn hoạt-động, mà tên tuổi đã danh trấn giang-hồ. Pleiku thuở  đó cũng đã thu hút được nhiều phóng-viên nổi tiếng của các hãng  thông-tấn quốc-tế…Cùng các phóng-viên chiến trường quốc-nội như Sao Bắc  Đẩu, Quỳnh-Như, Kiều-Mỹ-Duyên, Phan N. Nam, Nguyễn Ngọc Hạnh…đến tận nơi  sinh-hoạt, làm phóng-sự, ghi lại những hình ảnh hào-hùng, sống động của  người lính chiến vùng trời Tây Nguyên. Tờ báo quân đội “Diều Hâu” của  nhà văn Trung-Tá Nguyễn Đạt-Thịnh hồi đó đã nhận xét về KĐ 72CT qua bài  viết “Tìm hiểu hiện-tượng nhổ giò của KQVN”  như sau: 
 
“…Chỉ vào một hố bom khá sâu, Đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh nói với tôi:
- Anh biết quả bom này bỏ cách chiếc thiết giáp của mình bao nhiêu không?
- …?
- Ba thước.
Thao thao bất tuyệt, vị Tư lệnh trẻ nhất Việt Nam kể cho tôi nghe  trận đánh khó khăn nhưng vô cùng hào hứng, vừa xẫy ra tại ngọn đồi mà  chúng tôi đang đứng.
Một Tiểu đội Cộng quân, trang bị bằng một khẩu đại bác, một khẩu đại  liên phòng không, đã chiếm giữ ngọn núi đá trên đường 14, cách Pleiku  khoảng 20 cây số về hướng Bắc. Cây đại bác được nhét thật sâu vào lòng  núi, bom bỏ bao nhiêu cũng không suy xuyển. Sư đoàn 23 đã phái một đơn  vị có chiến xa yểm trợ tiến lên núi, để diệt khẩu pháo đang gây khá  nhiều trở ngại cho xe cộ di chuyển từ Pleiku đi Kontum. Một trong những  chiếc thiết giáp yểm trợ bị bắn cháy. Xạ thủ B-40 chỉ khai hỏa cách  chiếc xe ba thước. Khu trục được gọi đến can thiệp, và nhiệm vụ của  người phi công là phải bỏ lọt trái bom vào một miệng hầm nhỏ, mà không  làm tổn thương đến những người có thể còn sống trong thiết giáp. Lắc đầu  tỏ vẻ thán phục, Đại tá Bá tiếp:
- Chiếc AD-6 bay với tốc độ mấy trăm cây số một giờ, mà anh chàng  phi công này thả bom như để. Trái bom rơi hẳn vào hầm rồi mới nổ, không  gây một hư hại nào bên ngoài cả.
 
Những lời khen ngợi của Đại tá Lý Tòng Bá khêu gợi lòng tò mò và tôi  đã tìm đến Không đoàn 72 Chiến Thuật, để gặp người phi công “bỏ bom như  để”, Thiếu tá Lê Quốc Đức. Ngoài 30 tuổi, Thiếu tá Đức trông hiền như  ông thầy giáo. Anh tỏ ra hơi ngượng khi tôi lập lại với anh những lời  của Đại Tá Bá. Giọng anh nhỏ nhẹ:
- Thật ra thì việc tôi làm tại Núi Đá, bất cứ người phi công nào cũng làm được. Dĩ
nhiên, sự chính xác này đòi hỏi đôi chút cố gắng.
Câu nói chỉ là một câu khiêm nhường. Tôi nghĩ như vậy. Nếu quả thật  tất cả mọi phi công Việt Nam đều “khéo tay” như Thiếu tá Đức, thì có lẽ  chúng ta nên nghĩ đến những loại kỹ nghệ đòi hỏi sự chính xác, khéo tay  như kỹ nghệ làm đồng hồ chẳng hạn, để thiết lập sau khi chiến tranh chấm  dứt. 
 
Thấy tôi có vẻ không tin được rằng bất cứ người phi công nào cũng  thả bom chính xác như Thiếu tá Đức, vị Tư lệnh Không đoàn 72, Trung tá  Nguyễn Văn Bá bảo tôi:
- Anh còn đi nhiều, còn gặp nhiều đơn vị Bộ binh. Những người đó sẽ  là nhân chứng cho sự chính xác hay không chính xác của anh em phi công.  Riêng phần tôi, tôi nghĩ rằng có một điểm anh nên đào sâu hơn, tìm hiểu  hơn là tinh thần của người phi công Việt Nam. Qua hai chữ tinh thần, tôi  muốn nói cả tinh thần đồng đội với những người bạn họ yểm trợ mà không  hề bao giờ biết mặt, cả tinh thần nhập cuộc trọn vẹn, chấp nhận mọi nguy  hiểm. Tôi đi tìm hiểu cái tinh thần đồng đội, tinh thần nhập cuộc ấy  qua những nhân chứng khác…
Bốn trăm phi công, một ngàn chuyên viên làm việc quần quật. Máy bay  được bảo trì, tu bổ cả đêm để mờ sáng hôm sau lại cất cánh, đáp ứng  những nhu cầu yểm trợ của Bộ Binh. Một vị Tướng lãnh đã dẫn chứng cho  tôi thấy Cộng quân đặt rất nặng yếu tố bất ngờ. Trong mỗi trận đánh, họ  đều dành cho ta ít nhất là một bất ngờ. Tết Mậu Thân, yếu tố bất ngờ có  thể được ghi nhận trên ba bình diện: Thời gian, không gian và vũ khí. Về  thời gian, Cộng quân đã đánh vào cái lúc mà chúng ta không chờ đợi  nhất: Những ngày đình chiến Tết. Về không gian, chúng đã chọn những  chiến trường mà từ trước đến nay chưa bao giờ chúng chọn: Thành phố. Và  yếu tố bất ngờ cuối cùng là những khẩu AK, B-40, B-41 lần đầu tiên được  đem xử dụng ồ ạt. Trong trận Hạ Lào, cái bất ngờ mà địch quân dành cho  chúng ta là những chiếc PT-76 khá lợi hại trước những thiết vận xa M-113  trang bị kém hơn. Lần này, sự bất ngờ có tính cách chiến thuật. Không  ai có thể ngờ được rằng quân đội Bắc Việt lại công khai vượt tuyến và  đánh trận địa với chúng ta. Những khẩu đại bác 130, 122 ly, những chiến  xa hạng nặng T-34, T-54 cũng có thể kể là những bất ngờ chiến cụ.
Nhưng lần này, chính địch quân cũng bị bất ngờ. Họ bất ngờ trước sự  trưởng thành đột ngột của Không Quân Việt Nam. Là Quân Chủng rất nặng về  kỹ thuật, Không Quân không thể xé quy luật lớn, vượt lên, ra ngoài  những công thức ước tính rất toán pháp.
Sau ba lần thử lửa, người ta có thể khẳng định rằng tình trạng “nhổ  giò” của Không Quân là một “thực tế” (xin mượn tiếng của ông Tướng Không  quân Nguyễn Cao Kỳ để nói về Không Quân đấy nhé) và thực tế này không  chỉ làm cho địch quân bất ngờ mà thôi. Nó còn là sự bất ngờ của người Mỹ  và người Việt Nam nữa. Vì thật ra, trước khi có những minh  chứng hôm nay, chắc chắn không ai dám tin được rằng, những người lính  rất ít chất lính, rất bay bướm lại có thể là người lính tốt.
Trên ba mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên và Bình Long hàng trăm ngàn  người lính Việt Nam, hàng trăm ngàn người lính Cộng đang chứng kiến cái  vươn vai Phù Đổng của Quân chủng Không Quân.
KBC xin ghi nhận sự chuyển mình quan trọng đó.”
*****
…Rời khỏi phòng họp của Không-Đoàn 62CT/SĐ2KQ, thì trời bắt đầu mưa  lâm râm. Lân qúa giang ông Liên-Đoàn Trưởng LĐ62 Tác-Chiến để ra phi-cơ.  Là một phi-tuần trưởng khu-trục tài hoa son trẻ, lại thêm phong độ  hào-sảng của một tráng-sĩ, qua những lần dẫn biệt-đội đi biệt phái  PleiKu, ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của LĐ62TC/KĐ62CT Trần Văn-Lân đã  lọt vào cặp mắt xanh của con “Ngọa-Long” vùng đất trích. Anh-hùng ngộ  anh-hùng, để rồi sau những đêm “Tri-kỷ tương phùng như sương khói –  Trăng tàn chưa nghĩ chuyện chia tay”, Lân đã được Thiếu-Tá Định dàn trải  tâm-tình, ngỏ ý muốn mời anh cùng vung gươm, vẫy vùng nơi quan tái…Ai  tráng-sĩ mà không mê say đại cuộc. Sinh ra giữa thời ly loạn, tới lúc  trưởng thành, cũng như bao nhiêu những nguời trai cùng thế-hệ, đã gắn  liền cuộc đời mình với kiếp sống“Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”,(2) cùng cái hào-khí của tiền nhân “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa – Gieo Thái-Sơn nhẹ tựa hồng mao” (3)… Để rồi qua những lần lang thang làm “Anh khách lạ, đi lên đi xuống” (*) trên con đường ngắn ngủi mà chỉ “Đi dăm phút đã về chốn cũ” (*), trước cửa hiệu thuốc tây có tấm bảng đề chữ “Cao-Nguyên”…Cho đến một ngày “Anh Khách Lạ” chợt thấy “May mà có em, đời còn dễ thương” (*),  thì cái vùng đất gió núi mưa rừng này đã trở thành miền quê ngoại của  cánh chim bằng miền thùy-dương cát trắng. Nay lại gặp tri-kỷ mở lời thì  hiểm nguy nào ngăn cản được con thần ưng, chỉ mong xoải cánh bay vào  vùng trời dông bão…
Chiếc khu-trục cơ AD5 không gắn bom, và hỏa-tiễn dưới cánh, trông gồ  ghề như một con quái điểu nằm trong ụ đậu, chờ hai ông phi-công lên nổ  máy cất cánh. Thấy Long đang đứng đợi mình dưới cánh phi-cơ, Lân cười  chạy tới bắt tay Long nói:
- Thật là thất lễ, làm ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của PĐ 530 phải vất vả.
Long cười giọng hào-sảng:
- Có gì đâu, chỉ là chuyện nhỏ. Ông Định dặn tôi bằng mọi giá phải đưa bạn lên PleiKu hôm nay.
Lân cảm động trước tấm chân tình của những người lính chiến  Không-Quân. Anh nhớ hôm về Nha-Trang họp để làm nốt thủ-tục bàn giao  biệt đội Khu-Trục cho KĐ-72CT tân lập, Thiếu-Tá Định đưa Lân ra tận bãi  đậu Trực-Thăng. Trước khi lên phi-cơ, ông ân cần dặn dò Lân:
- Toa về trong ấy họp, lo thu xếp công việc rồi lên đây bay cùng anh em.
- Vâng, tôi sẽ ráng thu xếp mọi chuyện cho được mau chóng.
- Cũng không cần phải vội vàng lắm; cần nhất là phải lo cho chị nhà  và cháu bé trước. Có tề gia rồi mới nghĩ đến chuyện “bình thiên hạ” được  chứ…
Cử chỉ chăm sóc kín đáo, và những lời bộc lộ chân tình, đã nói lên  mối quan tâm của Th/Tá Định đối với các chiến hữu, và ông đã thu phục  được cánh chim trời bạt gió của vùng biển Nha-trang ngút ngàn sóng nước…
Long và Lân leo lên hai bên cánh phi-cơ để bước vào phòng lái. Cột  xong giây dù và nón bay, Long đưa ngón tay ra hiệu cho người cơ-trưởng  đứng dưới đất để quay máy. Tiếng động cơ gầm lên, chiếc AD5 lừng-lững di  chuyển ra phi-đạo. Long liên-lạc với đài kiểm-soát Nha-Trang xin cất  cánh. Chiếc phi-cơ phóng về phía trước rồi vụt bốc lên, biến mình mất  hút vào trong màn mây, mưa mịt mù dầy đặc…

Dán mắt vào bảng phi-cụ trước mặt, Long bấm máy nói với Lân:
- Trời xấu toàn vùng, mình sẽ lên cao độ 12,000 bộ. Lấy hướng đi Phú-Bổn, rồi từ Phú-Bổn lấy hướng thẳng về PleiKu.
Lân quay sang Long nói:
- Tiếc thật, chiều nay gía tụi mình còn ở lại Nha-Trang, tôi sẽ mời  bạn thưởng thức món chả cá đặc biệt của vùng biển. Trời mưa rả rích,  ngồi trong chiếc quán lá bên gềnh đá, nghe trùng dương rì rào vỗ sóng,  nhâm nhi ly rượu cùng bạn hữu, kể chuyện “tình người lính chiến”, thì  còn gì thú vị bằng.
Long cười trong máy:
- Cám ơn bạn, tôi cũng thích món chả cá xóm Bóng lắm, nhưng xin hẹn lần sau. Hiện nay phi-đoàn đang thiếu người.
- Tôi đâu dám dụ dỗ ông “Trưởng Phòng Hành-Quân” của phi-đoàn. Nhưng  vào mùa này thì thời tiết buổi sáng cũng không khá hơn buổi chiều đâu  nhé.
Cả hai người đều bấm máy cười sảng khoái. Phi-cơ đội mưa lên đến cao  độ bình phi. Long rà núm điều chỉnh cần lái, để phi-cơ bay lướt trên  những cụm mây xám bồng bềnh như sóng nước của dòng sông thiên-hà dưới  cánh. Bỗng có tiếng vô-tuyến dồn-dập trong ống nghe của nón bay:
- Thái-Dương 03 đây Peacock gọi. Chúng tôi vừa được Trung-Tâm HQKT-2  chuyển lệnh khẩn cấp cho bạn liên-lạc để làm việc với BlackCat trên  tần-số FM…
Long đưa mắt nhìn Lân rồi bấm máy trả lời:
- Peacock, Thái-Dương 03 nhận bạn 5/5. Tôi sẽ liên-lạc với Blackcat, tần số FM…
Long kiểm soát thật nhanh bảng phi-kế, điều khiển cần lái chúi mũi  làm “penetration” cho phi cơ xuyên mây xuống cao độ, rồi quay qua nhìn  Lân nói:
- Chắc có chuyện làm ăn lớn, lần này bạn có dịp biểu diễn tài tác xạ…
Phi cơ xuống tới 4,000 bộ, nhìn bản đồ Long thấy mình đang ở trên Phú-Nhơn, anh bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- Blackcat đây Thái-Dương 03 gọi, tôi đang ở trên Phú-nhơn, cao độ 4,000 bộ, bạn cho biết vị trí.
Tiếng người phi-công quan sát dồn-dập vọng lên:
- Thái-Dương 03, Blackcat nghe bạn 5/5. Chúng tôi đang ở cao độ 3,000  bộ, về hướng Đông – Bắc của Phú nhơn 2 dậm…OK! Chúng tôi thấy bạn rồi.  Hiện tại Black Cat đang ở hướng 10 giờ của Thái-Dương, bạn cho biết  trang bị.
- Thái-Dương 03 chỉ có 800 viên đại-bác 20ly. Bạn cho biết chi tiết mục tiêu.
- Thái-Dương 03, mục tiêu được ghi nhận là nơi đóng quân của địch. Chúng tôi sẽ cho bạn một trái khói mầu cam…
 Chiếc  L19 đảo cánh, làm một vòng quẹo thật gắt, rồi bất thần chúi mũi xuống  khu rừng cây. Một cột khói mầu cam bốc lên cùng với tiếng điều-chỉnh  tọa-độ của người phi-công quan-sát:
Chiếc  L19 đảo cánh, làm một vòng quẹo thật gắt, rồi bất thần chúi mũi xuống  khu rừng cây. Một cột khói mầu cam bốc lên cùng với tiếng điều-chỉnh  tọa-độ của người phi-công quan-sát:
- Thái-Dương 03, bạn sẽ oanh-kích ngay trái khói, trải dài theo hướng Đông – Tây 300 thước.
- Thái-Dương 03 nhận rõ. Từ trái khói, dọc theo hướng Đông-Tây 300 thước.
Nói xong Long liếc mắt kiểm soát lại các đồng hồ phi-cụ, điều chỉnh  cần hòa-khí về vị thế chiến đấu, bật nút khai hỏa lên nòng 4 khẩu  đại-bác, rồi làm một vòng “roll” 360 độ, lao xuống mục tiêu. Long bấm  nút tác xạ, những họng súng đại bác hai bên cánh khạc lửa, tung ra từng  tràng đạn 20ly công phá, cầy nát một khoảng rừng…Bỗng một cột lửa bung  tỏa ra, rồi một tiếng nổ long trời lở đất dội lên như một ngọn hỏa-diệm  sơn trong cơn phẫn nộ chuyển mình, làm xao động cả một vùng khí quyển.  Long kéo mũi phi-cơ thẳng đứng, làm một “nửa vòng số 8” rồi đưa phi-cơ  lên cao độ của vòng chờ. Tiếng ngưòi phi-công quan-sát dồn dập trên tần  số:
- Tuyệt cú mèo! Thái-Dương 03 đánh qúa đẹp. Bạn đã oanh kích đúng hầm chứa vũ khí của địch rồi đó.
Long bấm nút vô-tuyến cười nói:
- Chỉ là chuyện nhỏ, cám ơn bạn qúa khen.
- Thái-Dương 03, lần này bạn sẽ đánh về hướng Tây – Nam của trái khói  100 thước. Mục tiêu được ghi nhận có nhiều xe Molotova của địch được  ngụy trang dưới lùm cây.
- Thái-Dương 03 hiểu. Tây Nam trái khói 100 thước.
Nói xong Long quay sang nhìn Lân nói qua máy:
- Xin nhường bạn chiêu này.
Lân cười…chuyển nút điều khiển cần lái, rồi lật ngược phi-cơ lao  xuống mục tiêu. Đạn phòng không từ dưới phóng lên tua tủa như một mạng  lưới lửa đan chéo thân tầu. Tiếng người phi-công quan-sát dồn dập gọi:
- Thái Dương 03 coi chừng phòng không từ hướng Tây.
Lân mím môi bấm nút khai hỏa. Chiếc khu-trục cơ gầm lên theo với nhịp  bắn. Bỗng một tiếng nổ chát chúa vang lên, con tầu như khựng lại. Lân  liếc mắt nhìn qua bên phải, anh thấy cánh phải của chiếc AD5 trúng đạn  phòng không rách toạc ra, rồi một ngọn lửa phực lên từ ổ súng đại-bác  gắn trên cánh. Lân vội vàng trả cần lái về vị thế thăng bằng, kéo mũi  phi-cơ lên để lấy cao độ. Con tầu rung lên dữ dội…Ổ đạn chứa trong cánh  phi-cơ phát nổ làm gẫy lìa một nửa cánh phải, ngọn lửa cháy lẹm qua ống  dẫn thủy điều vào buồng máy, bùng lên như một ngọn đuốc khổng lồ trên  không. Phi-cơ nghiêng hẳn về bên trái, quay tròn rồi rơi vào vị thế  triệt nâng…
Với một phản-ứng vô cùng nhậm lẹ, và bén nhậy của một phi-công  khu-trục dầy dạn chiến trường, Long chụp vội cần lái, lấy lại phần điều  khiển phi-cơ bên ghế trái, bấm nút vô-tuyến gởi tín hiệu khẩn cấp  “MayDay”, rồi ra hiệu cho Lân bung dù…
Lân cảm thấy mình bị hút vào khoảng không-gian vô tận, và quay lộn  nhiều vòng rồi bị ngất đi vì lực “G” qúa mạnh…Khi tỉnh dậy Lân thấy mình  đang lơ lửng giữa vòm trời. Anh đảo mắt nhìn quanh, thấy chiếc dù của  Long ở phía xa. Lân mừng thầm là người bạn đồng hành với mình cũng đã  thoát ra khỏi chiếc phi-cơ lâm nạn. Bỗng Lân thấy bầu trời nhạt-nhòa như  một màn mưa phùn che trước mặt, Lân liếm môi anh thấy mùi vị tanh tanh  và mặn, anh đưa tay vuốt mặt và thấy bàn tay mình đầy máu. Tấm kiếng che  mặt trên nón bay đã bị bể nát; một giòng máu nóng từ trên trán chẩy  xuống, anh tháo vội chiếc khăn quàng cổ, cuốn lại rồi nhét vào bên trong  chiếc nón bay để ngăn dòng máu đang rỉ xuống làm mờ mắt, rồi anh co  duỗi hai chân để thử, và thấy an tâm là chân không bị gẫy. Lân đưa tay  làm dấu Thánh Gía trên mình, thầm cám ơn Chúa đã mang anh và Long ra  khỏi giây phút hiểm nghèo…
Lân nhìn xuống dưới, thấy cánh dù đang rơi đúng chỗ những đám khói  nơi trận địa, anh kéo dây điều khiển cho cánh dù lạng về phía Đông để  tránh vị trí của địch. Cánh dù từ từ hạ xuống, Lân co hai chân, kéo mạnh  dây dù rồi buông ra để giảm tốc độ. Anh nhắm mắt, chụm hai cánh tay che  lấy mặt. Cả thân hình anh rớt xuống và vướng vào ngọn cây. Lân cảm thấy  hai bên xườn bị đau nhói vì sức va chạm qúa mạnh. Lân mở mắt thấy mình  bị treo trên cành cây cách mặt đất chừng bốn năm thước. Lân nhìn xung  quanh không thấy cánh dù của Long, anh nhìn lên trời thấy hai chiếc  khu-trục cùng chiếc L19 như những con diều hâu quần thảo trên đầu mình,  anh thấy vững bụng.
Lân tháo dây dù rồi đu theo cành cây nhẩy xuống đất. Anh bỗng thấy  một đám khói mầu bốc lên cách chỗ anh đứng khoảng 100 thước, rồi chiếc  khu-trục đâm bổ xuống và nhả ra một trái bom, anh vội vàng chạy vòng ra  sau thân cây để núp. Một tiếng nổ vang dội như tiếng sấm cùng những mảnh  bom bay rào rào như một trận cuồng phong, cắt đứt cành cây ngọn cỏ.
Đứng nép mình sau thân cây, Lân thấy tim mình đập như muốn văng ra  khỏi lồng ngực. Chưa kịp hoàn hồn thì một tiếng nổ kế tiếp lại ầm vang  lên, lần này gần chỗ Lân núp hơn. Lân thấy mặt đất rung lên dữ dội như  đang trải qua một cơn địa chấn. Anh cảm thấy ù tai và ngộp thở vì sức ép  của qủa bom. Sỏi đá và những cành cây gẫy đổ ào ào rơi xuống như trời  xập…Chiếc khu-trục xuống thật thấp, lao vút đi, rít lên như một mũi tên  xé gió, nhả từng tràng đạn đại bác 20ly cầy tung mặt đất. Lân có thể  nhìn thấy chiếc nón bay của người phi-công ngồi trong phòng lái. Lằn đạn  nổ gần đến nỗi anh có cảm tưởng như da thịt mình bị bỏng rát. Đây là  lần đầu tiên Lân được chứng kiến cảnh bom nổ, đạn bay nơi chiến địa ngay  bên cạnh mình. Một luồng cảm khái rần rật chạy khắp toàn thân, anh thầm  cảm phục sự gan dạ và dũng-cảm của những người bạn đồng ngũ…
Khi những chiếc khu-trục đã làm xong công việc giải tỏa bãi đáp cho  trực thăng, và phóng lên trời để bao vùng. Lân chạy ra khỏi chỗ núp, anh  thấy một chiếc UH1 đang lừng lững bay tới. Lân mừng rỡ chạy ra khoảng  đất trống, đưa tay vẫy…Chiếc trực-thăng đảo một vòng ngay chỗ Lân đứng,  rồi bất thần lao xuống. Khi chiếc phi-cơ cấp cứu còn cách mặt đất khỏang  chừng nửa thước, thì Lân phóng tới bám lấy thành tầu, một cánh tay từ  trong khoang tầu vươn ra nắm chặt lấy tay Lân rồi kéo thốc anh lên. Lân  lăn mình trên sàn phi-cơ, ngước nhìn lên anh tưởng mình nằm mơ, Th/Tá Lê  Bá-Định và Đức (Điên) một cao thủ trong giới cơ-phi Xạ-thủ phi-hành của  vùng trời biên-trấn, đứng xừng-xững như hai ông Hộ-Pháp, chắn ngang  hông phi-cơ cho Lân dựa người vào khi chiếc phi-cơ nghiêng mình chao đi  như một chiếc lá, bay về phía chiếc dù thứ hai đang treo lơ lửng trên  cây. Cánh quạt gió khổng lồ quay vùn vụt, chém vạt những cành cây như  một con quái điểu đang đập cánh vồ mồi. Chiếc trực-thăng nghiêng ngả,  tìm cách đáp xuống để bốc người phi-công lâm nạn…Đưa mắt nhìn xuống bên  dưới, Lân thấy cánh tay của Long cố vươn lên như muốn kéo chiếc  trực-thăng xuống thấp thêm một chút nữa…Mọi người trên tầu đang hồi hộp  theo dõi chiếc phi-cơ tròng trành lên xuống như bị nhồi sóng, thì một  loạt tiếng nổ chát chúa vang lên. Con tầu cấp cứu đã lọt vào ổ phục  kích, và lãnh trọn luồng đạn thù nghịch từ những hầm trú ẩn của địch bắn  lên…
 Từng  tràng AK tiếp tục xối xả phóng tới xuyên thủng buồng lái, trúng chân  của người trưởng phi-cơ. Đầu gối của anh bị vỡ nát. Máu và thịt xương  bắn tung tóe, văng lên mặt mọi người….Anh hét lên một tiếng cực kỳ đau  đớn, buông tay chụp lấy mảng thịt nhầy nhụa…trước những con mắt kinh  hoàng của phi-hành-đoàn. Con tầu mất thăng bằng, chao đảo như muốn qụy  xuống. Gương mặt của người trưởng phi-cơ co rúm lại, toàn thân anh rung  lên như bị một luồng điện cao thế chạy qua, mồ hôi trên trán rịn ra, anh  cắn chặt vành môi cố nén cơn đau, với tay nắm lấy cần lái để giữ cho  con tầu khỏi đâm xuống đất…Chiếc trực-thăng chao đảo, lạng ra khỏi tầm  đạn của kẻ thù…
Từng  tràng AK tiếp tục xối xả phóng tới xuyên thủng buồng lái, trúng chân  của người trưởng phi-cơ. Đầu gối của anh bị vỡ nát. Máu và thịt xương  bắn tung tóe, văng lên mặt mọi người….Anh hét lên một tiếng cực kỳ đau  đớn, buông tay chụp lấy mảng thịt nhầy nhụa…trước những con mắt kinh  hoàng của phi-hành-đoàn. Con tầu mất thăng bằng, chao đảo như muốn qụy  xuống. Gương mặt của người trưởng phi-cơ co rúm lại, toàn thân anh rung  lên như bị một luồng điện cao thế chạy qua, mồ hôi trên trán rịn ra, anh  cắn chặt vành môi cố nén cơn đau, với tay nắm lấy cần lái để giữ cho  con tầu khỏi đâm xuống đất…Chiếc trực-thăng chao đảo, lạng ra khỏi tầm  đạn của kẻ thù…
Trong một khoảnh khắc chưa đầy một giây đồng hồ, Lân quên hẳn vết  thương trên đầu, anh chồm tới tháo giây cột trên ghế ngồi, kéo người  trưởng phi-cơ ra, đẩy về phía Thiếu-Tá Định và Đức (Điên), rồi anh với  tay đập mạnh lên vai người phi-công phụ đang ngồi bất động như chết cứng  trên ghế…Cú đập bất thần đã kéo người phi-công phụ ra khỏi con mê lộ  của tử thần; bản năng tự-vệ dành lấy mạng sống cho anh, cùng mọi người  trên con tầu trúng đạn bùng dậy, anh chụp vội cần lái, đưa chiếc  trực-thăng bốc mình lên, lấy lại thăng bằng, chúi mũi lao thẳng về phía  trước, rồi bấm máy liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- BlackCat, đây Lạc-Long 04 gọi. Báo cho bạn biết chúng tôi bị lọt ổ  phục kích của địch, chỉ bốc được một phi công nhẩy dù. Tầu bị bắn bể ống  dầu, trưởng phi-cơ bị thương nặng, chúng tôi phải rời vùng.
Giọng nói trầm ấm của người phi-công quan-sát vọng lên qua ống nghe như để vỗ về, chia xẻ cùng mọi người trên con tầu lâm nạn:
- Lạc-Long 04, Blackcat nhận rõ. Xin hỏi phi hành đoàn Lạc-Long 04 là những ai đó.
- Trưởng phi-cơ Đại-Úy Huyên, Phi-Công phụ Trung Úy Long.
- Có phải “Thần Điêu Đại-Hiệp Vũ Ngọc-Huyên và “Đại-Hiệp Long Ghiền”  đấy không. Xin được tỏ lòng ngưỡng mộ đến “Lạc-Long Đại-Hiệp”, các bạn  vừa hoàn thành một phi-vụ cấp cứu vô cùng khó khăn và nguy-hiểm.
- Chỉ là chuyện nhỏ thôi. Cám ơn bạn qúa khen. Chúng tôi sẽ bay dọc  theo QL 14. Phi cơ có thể bốc cháy bất cứ lúc nào, nhờ bạn theo dõi phi  trình.
- BlackCat nhận rõ. Xin báo cho Đại-Hiệp biết là Thái-Dương 31 đã  thanh toán gọn ổ phục kích của địch cho bạn rồi, và sẽ hộ tống Lạc-Long  04 về PleiKu. Chúng tôi cũng đã nhờ Trung-Tâm Không-Trợ 2 báo cho phòng  Hành-Quân-Chiến-Cuộc của KĐ72CT cho xe cứu thương đón Lạc-long 04 tại  bãi đáp. Chúc Đại-Hiệp về đáp an toàn. Chúng tôi ở lại bao vùng, để tiếp  tục công việc cấp cứu Thái-Dương 03.
Trong khoang tầu bê bết máu, Thiếu-Tá Định kéo Đức (Điên) lại, ra  hiệu cho anh ngồi vào chỗ trống của trưởng phi-cơ trên ghế trái, rồi nắm  chặt vai Long, như để ngầm gởi gấm sinh mạng những người trên tầu vào  tay người phi-công trẻ, xong ông quay xuống săn sóc Huyên và Lân…“Long  Ghiền” lấy lại bình tĩnh, vận dụng hết khả-năng và kinh-nghiệm của mình,  điều khiển con tầu bị thương, mang các chiến hữu lâm nạn về căn cứ…
*****
 …Lân nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, vết thương trên trán bắt đầu  hành vì mất nhiều máu. Lúc khâu vết thương, bác-sĩ nói anh thật là may  mắn, vì nếu mảnh đạn đi chệch xuống khoảng 1 đốt ngón tay thì anh có thể  sẽ mất hai con mắt. Lân mừng là mình đã thoát nạn, nhưng khi nghĩ đến  những người bạn vừa cùng anh chia xẻ những nhọc-nhằn nguy-hiểm nơi chiến  địa, anh thấy lòng mình quặn thắt.…Cánh dù của Long rơi đúng vào ổ phục  kích của VC, bị địch bắt mang đi, không biết sống chết ra sao. Huyên bị  trọng thương, và sẽ trở thành một Phế Binh tàn tật suốt đời. Sự có mặt  của Lê Bá-Định trên chiếc trực-thăng cấp cứu, trong lúc mạng sống của  mọi người như sợi chỉ treo chuông. Long (Ghiền) “đơn thương độc mã, tả  xung hữu đột” điều khiển con tầu định-mạng, dìu mọi người thoát ra khỏi  vòng tay oan-nghiệt của Tử-Thần…Tất cả những sự hy-sinh, gắn-bó, và tinh  thần nhập cuộc trọn vẹn, cùng với phong độ hào-sảng của những người bạn  Quan-Sát, Khu-Truc, Trực-Thăng, Cơ-Phi Xạ-Thủ phi-hành nơi sa trường,  những người lính chiến đã được tinh luyện trong những lò luyện thép của  quân-đội, để sẵn sàng thi-hành những công-tác cực kỳ khó-khăn và  nguy-hiểm, mà cái gía phải trả cho sự thành-công, đôi khi là chính mạng  sống của họ, đã làm con tim anh rúng động…
Có tiếng người lao xao ngoài cửa phòng, Lân đưa mắt nhìn ra, anh thấy  Oanh, vợ mình tay dắt bé Luân, đứa con trai đầu lòng vừa được hai tuổi  tất tả bước vào. Vừa nhìn thấy Lân trên đầu quấn băng trắng xóa, Oanh  chạy ào tới bên cạnh giường bệnh rồi khóc òa lên:
- Chúa ôi! Anh có sao không? Em được anh Định báo tin nên vội vàng dẫn con vào đây.
Lân gượng ngồi dậy, dựa lưng vào thành giường, dang tay đón vợ và con, nói giọng an ủi:
- Anh không sao cả, em đừng lo, làm con nó sợ.
Oanh vòng tay ôm lấy Lân rồi gục đầu lên ngực chồng, giọng thổn thức:
- Anh ơi em sợ lắm! Anh hứa với em là đừng để đứa con của chúng mình ra đời mà không được nhìn thấy mặt cha của nó nghe anh.
Lân lặng người khi nghe Oanh nói. Anh nhẹ vuốt tóc vợ, mái tóc mềm óng ả, một thời mang huyền-thoại người “Em PleiKu má đỏ môi hồng” (*), từng  làm thổn-thức con tim của biết bao lữ-khách hơn một lần dừng chân nơi  phố núi, bây giờ đã là người vợ ngoan hiền của anh, và sắp làm mẹ của  đứa con thứ hai:
- Em đừng sợ, anh không sao cả mà.
Vòng tay của Oanh xiết chặt hơn như không muốn để cho con đại bàng  thêm một lần xoải cánh. Lân cười dịu dàng đặt tay lên bụng vợ nói:
- Em coi này, con nó đang đạp chân mừng bố về nè.
Bé Luân kiễng chân chồm lên giường, ôm cánh tay bố khóc thút thít.  Nhìn những giọt nước mắt tình cảm của vợ con, Lân thấy lòng hụt hẫng,  xót xa…Anh thấy mình đã nợ những người thân, và các đồng đội món nợ qúa  lớn:
Những món nợ suốt đời không trả hết
Nợ ba sinh nợ những mối chân tình
Nợ đại-cuộc nợ những lời ủy thác
Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu linh.
Cuộc chiến này còn dài, Tổ-Quốc đang kỳ-vọng vào các anh, những đứa  con yêu của đất nước…Rồi đây có thể nào anh bỏ được những người bạn đồng  ngũ của anh, những người trai trẻ nhìn đời bằng tia nhìn khinh bạc,  lạnh lùng leo lên chiếc quan tài bay, lao vào vùng lửa đạn, bỏ lại một  ngày cho đời mình, một ngày cho những quằn-quại đau thương của dân-tộc,  và một ngày cho những đôi mắt vời-vợi chờ trông nơi chốn chân mây tận  cuối trời…
Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Một thời ly loạn.)
Chú-Thích: (1) Thơ Phạm Ngọc Lư
(2) Kiều của Nguyễn Du
(3) Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn
(*) Thơ Vũ Hữu-Định. Bài thơ này VHĐ lấy cảm hứng qua hình ảnh tuyệt-vời  của một người con gái tên Nguyễn Thị Hoàng-Oanh nơi tiệm thuốc tây  “Cao-Nguyên” trên PleiKu. Bài thơ được nhạc-sĩ Phạm-Duy phổ nhạc…Lời thơ  và ý nhạc đã làm hình ảnh của người “ Em PleiKu…” tồn tại mãi với thời-gian.
 
       

638974400808704309.jpg)


638973501519568371.jpg)


638974400808704309.jpg)


638973501519568371.jpg)





