Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
"Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu luận văn về ngôn ngữ VN từ thượng cổ của Abel des Michels
(1833-1910). Tác giả ADM thông thạo Hán tự đã viết bằng tiếng Tàu và là
tác giả nhiều sách viết bằng tiếng Việt, người đầu tiên dịch Kiều. Luận
văn của ADM gần 20 trang bằng tiếng Pháp và các chữ Hán đọc theo quan
thoại, chúng tôi tìm mọi cách đọc ra âm Hán Việt, dễ chịu hơn.
Người Âu Châu, mấy trăm năm rồi, đã không hiểu Hán Tự và dịch Giao Chỉ (交趾) là sắc dân có hai ngón chân cái tách rất xa với ngón nhỏ kế. Hai ngón chân cái nầy chĩa vào nhau, giao nhau (Pieds bifurqués).
ADM cho biết mới nhất cuối thế kỷ 19, Aubaret, khi dịch “Gia Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức
cũng nói như vậy trong bản phụ đính. ADM đã từ trần năm 1910 để không
biết rằng người Việt, từ học giả cho đến bình dân đều tin theo như vậy,
tổ tiên người Việt có hai ngón chân cái chĩa vào nhau.
ADM
cho rằng khắp vùng Đông Dương ngay trong những sắc dân ít pha trộn nhất
không ai có hai ngón chân chỉa vào nhau, huống hồ là một khối lớn; như
vậy làm sao đi? Đó là nói hai ngón cái hai chân. Về một chân – thì chữ
“Giao”’ (交) có nghĩa ngược lại với tách rời nhau, chia thành hai ngánh; trái lại “Giao” là hợp với nhau. Người Pháp hiểu ngược nên nói “pied bifurqué” (bifurquer:
đổi hướng, tách thành hai ngánh). Khoảng cách giữa ngón cái và ngón thứ
là dấu hiệu tự nhiên, không có gì trầm trọng để thành một dị tướng thân
thể, irrégularité anatomique;
và thường xẩy ra ở các xứ mang dép có quay móc vào. Khi đi chân đất,
ngón cái có khuynh hướng phát triển nhiều hơn và hướng ngoại với một góc
độ rất nhỏ, ngõ hầu tăng diện tích bàn chân để cùng chia sức nặng thân
thể và các thứ mang theo.
ADM đã đọc rất nhiều, nhiều sách xưa của VN và của Tàu, không có chỗ nào nêu một yếu tố hình tướng (anatomie) về danh tự Giao Chỉ, Giao Châu, Lạc Việt, Việt Thường, Bách Việt, Nam Giao.
[Từ đây đến cuối là bản dịch phần còn lại của luận văn].
Mối nghi của tôi được giải trừ nhờ từ điển Anh Hoa của Wells Williams. Nhà bác học Anh Quốc không bàn luận chữ “Chỉ” theo lối viết 趾 có bộ “túc” (足,) ngón chân, toe / orteil; Williams dùng chữ 阯với bộ “ấp” (⻏) về đất, địa điểm, có nghĩa là nền móng hay chân tường (the base of a wall). Chữ nầy có thể thay bộ ấp bởi bộ “thổ” (土) là 址, có nghĩa như nhau: nền móng của ngôi nhà, giới hạn một lô đất, căn bản, quê nhà (foundation, limit of a lot, fundamental, one’s country).
Không chỉ chừng đó thôi. Nay trở lại chữ 趾, nó còn có nghĩa ngưng, chận (to stop), nền móng (foundation). Đồng thời nó có nghĩa như chữ “Chỉ” đơn độc 止, bị chận ở cuối giới hạn, cư ngụ, bị ngăn chận (to be stopped, as by the edge of a lot of land, to dwell, hindered).
Giao Chỉ dù viết theo sử gia Mã Đoan Lâm triều Tống và một số tác giả khác - 交趾- hay viết theo Wells Williams - 交阯 - chữ “Chỉ” có nhiều nghĩa nhưng không nghĩa nào liên quan đến ngón chân cái.
1.- 止 – ngưng, ngăn chận.
2.-趾/ 址- móng tường
3.-止 / 趾 / 址– giới hạn lô đất
4.-址/ 阯 – xứ sở, quê hương.
Mặt khác, chữ “Giao” (交) có nghĩa là hiệp nhất, kết nối. Phải chăng hai chữ “giao” và “chỉ”
gộp vào nhau để muốn nói một điểm, một khu vực biên giới giữa hai quốc
gia, là một giới hạn chung, là điểm dù là binh đoàn hai nước hay cá nhân
phải ngừng chân nếu không được phép qua biên giới. Đó là vùng giáp
tuyến, ai lo canh nấy để duy trì giới hạn chung.
“Chỉ”
là chân tường, một trong bốn nghĩa nêu trên gợi lên ẩn dụ cho rằng núi
đồi tách biệt Trung Hoa và vùng đất sống của tổ tiên người Việt là một
trường thành vĩ đại; cũng có thể đã có bức thành nhân tạo do người Tàu
hay Việt đắp nên. Ý niệm xây thành đã có từ đời Tần Thủy Hoàng.
Người Việt trong lịch sử gần hơn đã xây Lũy Thầy chia cắt Đàng Trong và
Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn phân tranh; biết đâu xưa kia người Việt đã
làm như vậy để chận Bắc xâm.
Lại
thêm nữa, những danh xưng Nam Việt, Việt Nam, Việt Thường, theo nghĩa
đen là đi từ hướng nam, miền Nam phải vượt qua, nơi người băng qua
thường xuyên.
Nếu Giao Chỉ
là một hình thái đặc biệt của giống Việt lấy làm quốc hiệu thì nó phải
được nhắc nhở thường xuyên trong sử quốc gia, trong sử của Tàu. Nhưng sự
việc không có vậy.
Chữ “giao” (交) được duy trì; chữ “chỉ” (趾) lâu lâu có nói tới nhưng không quan trọng. Đông Tây Dương Khảo viết:
Giao
Chỉ là Nam Giao xưa kia. Nhà Tần đổi thành Tượng Quận; nhà Hán xóa bỏ
Nam Việt, chia thành chín quận mà Giao Chỉ là một quận. Thời Quang Vũ,
một người đàn bà tên Trưng Trắc nổi dậy; Mã Viện đánh tan và đổi quốc
hiệu thành Giao Châu; nhà Tùy lấy lại tên cũ là Giao Chỉ Quận.
Tác
giả Tàu nầy nói đến Nam Giao xưa; Giao Chỉ xuất hiện về sau và không
nói đến nét đặc thù thân thể của người Việt. Sách không nói: xứ sở của
người Giao Chỉ, chỉ nói trỗng “Giao Chỉ,” một địa danh.
Từ điển Khang Hy trích “Tiền Hán Địa Dư Chí” xem Giao Chỉ chỉ là một quận của Giao Châu. Ở đấy một lần nữa cho thấy “giao” đã dùng trước từ lâu so với “chỉ.”
Thông Giám Lãm Yếu viết:
Người
Việt Thường sinh sống phía Nam Giao Chỉ. Thiếu Trưng Thông Giám ghi
nhận như vậy nhưng nói rõ thêm Giao Chỉ là một phần lãnh thổ của Nam
Giao. Nếu Giao Chỉ là tên một sắc dân thì danh xưng nầy đã phải được nêu
ra trong Sử Kinh. Trái lại cổ sử Trung Hoa không biết đến, không một
lần đề cập. Sử Kinh chép vua Nghiêu ra lệnh cho người em thứ ba lập
nghiệp ở Nam Giao.
Nam Giao
có nghĩa là nơi gặp gỡ phía Nam, có thể suy diễn còn thêm nhiều chỗ
giao tiếp khác, những giới hạn khác. Như vậy có thể rằng dân Giao Chỉ được gọi tên theo tên của nơi mình sinh sống, chứ nơi nầy không mang tên của những người đến lập cư.
Nhà bác học Wells Williams giải thích rằng “giao”
mang ý nghĩa không chia cách vì dân chúng trong khu vực nầy đàn ông đàn
bà cùng tắm chung trong dòng sông; dân chúng sống giao hòa yên vui;
không động chạm gì chuyện các ngón chân to ngón chân nhỏ chĩa chéo lung
tung.
Việc giải thích sai khác danh tự “giao chỉ”
thành hai ngón chân chĩa ra ngoài và giao nhau tuy không đúng về cơ thể
học đã ăn sâu mấy thế kỷ. Chẳng khác trường hợp gọi tên Tân Lục Địa là America. Sử sách tin rằng danh tự America là mượn tên của thuyền trưởng Amerigo / Abergigo Vespucci. Nhưng nhà địa chất học Jules Manou đưa ra một minh chứng phá hủy huyền thuyết ấy.
Tại Honduras, một ngọn núi tên là America / Ameriga
có rất nhiều đá quý. Dân hải du Tây Ban Nha đã đến thu lượm rầt nhiều
quý thạch đem về làm của giàu sang. Các thủy thủ Âu Châu tung tin nầy và
từ đó người ta gọi tân lục địa Columbus khám phá là America.
Năm 1551, Hylacomilus đưa tên Amérique lần đầu tiên trong tuyển tập địa dư “Cosmologie” xuất bản tại Saint Dié, Pháp. Nhà tuyển tập nầy đã nhầm với tên Abergigo Vespucci, tác giả nhiều phiêu lưu ký ở lục địa mới nầy.
Tôn Thất Tuệ
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Lịch Sử Tên Nước Việt Nam" - Từ Thiện - Trần Văn Giang (viết lại).
"Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu luận văn về ngôn ngữ VN từ thượng cổ của Abel des Michels
(1833-1910). Tác giả ADM thông thạo Hán tự đã viết bằng tiếng Tàu và là
tác giả nhiều sách viết bằng tiếng Việt, người đầu tiên dịch Kiều. Luận
văn của ADM gần 20 trang bằng tiếng Pháp và các chữ Hán đọc theo quan
thoại, chúng tôi tìm mọi cách đọc ra âm Hán Việt, dễ chịu hơn.
Người Âu Châu, mấy trăm năm rồi, đã không hiểu Hán Tự và dịch Giao Chỉ (交趾) là sắc dân có hai ngón chân cái tách rất xa với ngón nhỏ kế. Hai ngón chân cái nầy chĩa vào nhau, giao nhau (Pieds bifurqués).
ADM cho biết mới nhất cuối thế kỷ 19, Aubaret, khi dịch “Gia Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức
cũng nói như vậy trong bản phụ đính. ADM đã từ trần năm 1910 để không
biết rằng người Việt, từ học giả cho đến bình dân đều tin theo như vậy,
tổ tiên người Việt có hai ngón chân cái chĩa vào nhau.
ADM
cho rằng khắp vùng Đông Dương ngay trong những sắc dân ít pha trộn nhất
không ai có hai ngón chân chỉa vào nhau, huống hồ là một khối lớn; như
vậy làm sao đi? Đó là nói hai ngón cái hai chân. Về một chân – thì chữ
“Giao”’ (交) có nghĩa ngược lại với tách rời nhau, chia thành hai ngánh; trái lại “Giao” là hợp với nhau. Người Pháp hiểu ngược nên nói “pied bifurqué” (bifurquer:
đổi hướng, tách thành hai ngánh). Khoảng cách giữa ngón cái và ngón thứ
là dấu hiệu tự nhiên, không có gì trầm trọng để thành một dị tướng thân
thể, irrégularité anatomique;
và thường xẩy ra ở các xứ mang dép có quay móc vào. Khi đi chân đất,
ngón cái có khuynh hướng phát triển nhiều hơn và hướng ngoại với một góc
độ rất nhỏ, ngõ hầu tăng diện tích bàn chân để cùng chia sức nặng thân
thể và các thứ mang theo.
ADM đã đọc rất nhiều, nhiều sách xưa của VN và của Tàu, không có chỗ nào nêu một yếu tố hình tướng (anatomie) về danh tự Giao Chỉ, Giao Châu, Lạc Việt, Việt Thường, Bách Việt, Nam Giao.
[Từ đây đến cuối là bản dịch phần còn lại của luận văn].
Mối nghi của tôi được giải trừ nhờ từ điển Anh Hoa của Wells Williams. Nhà bác học Anh Quốc không bàn luận chữ “Chỉ” theo lối viết 趾 có bộ “túc” (足,) ngón chân, toe / orteil; Williams dùng chữ 阯với bộ “ấp” (⻏) về đất, địa điểm, có nghĩa là nền móng hay chân tường (the base of a wall). Chữ nầy có thể thay bộ ấp bởi bộ “thổ” (土) là 址, có nghĩa như nhau: nền móng của ngôi nhà, giới hạn một lô đất, căn bản, quê nhà (foundation, limit of a lot, fundamental, one’s country).
Không chỉ chừng đó thôi. Nay trở lại chữ 趾, nó còn có nghĩa ngưng, chận (to stop), nền móng (foundation). Đồng thời nó có nghĩa như chữ “Chỉ” đơn độc 止, bị chận ở cuối giới hạn, cư ngụ, bị ngăn chận (to be stopped, as by the edge of a lot of land, to dwell, hindered).
Giao Chỉ dù viết theo sử gia Mã Đoan Lâm triều Tống và một số tác giả khác - 交趾- hay viết theo Wells Williams - 交阯 - chữ “Chỉ” có nhiều nghĩa nhưng không nghĩa nào liên quan đến ngón chân cái.
1.- 止 – ngưng, ngăn chận.
2.-趾/ 址- móng tường
3.-止 / 趾 / 址– giới hạn lô đất
4.-址/ 阯 – xứ sở, quê hương.
Mặt khác, chữ “Giao” (交) có nghĩa là hiệp nhất, kết nối. Phải chăng hai chữ “giao” và “chỉ”
gộp vào nhau để muốn nói một điểm, một khu vực biên giới giữa hai quốc
gia, là một giới hạn chung, là điểm dù là binh đoàn hai nước hay cá nhân
phải ngừng chân nếu không được phép qua biên giới. Đó là vùng giáp
tuyến, ai lo canh nấy để duy trì giới hạn chung.
“Chỉ”
là chân tường, một trong bốn nghĩa nêu trên gợi lên ẩn dụ cho rằng núi
đồi tách biệt Trung Hoa và vùng đất sống của tổ tiên người Việt là một
trường thành vĩ đại; cũng có thể đã có bức thành nhân tạo do người Tàu
hay Việt đắp nên. Ý niệm xây thành đã có từ đời Tần Thủy Hoàng.
Người Việt trong lịch sử gần hơn đã xây Lũy Thầy chia cắt Đàng Trong và
Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn phân tranh; biết đâu xưa kia người Việt đã
làm như vậy để chận Bắc xâm.
Lại
thêm nữa, những danh xưng Nam Việt, Việt Nam, Việt Thường, theo nghĩa
đen là đi từ hướng nam, miền Nam phải vượt qua, nơi người băng qua
thường xuyên.
Nếu Giao Chỉ
là một hình thái đặc biệt của giống Việt lấy làm quốc hiệu thì nó phải
được nhắc nhở thường xuyên trong sử quốc gia, trong sử của Tàu. Nhưng sự
việc không có vậy.
Chữ “giao” (交) được duy trì; chữ “chỉ” (趾) lâu lâu có nói tới nhưng không quan trọng. Đông Tây Dương Khảo viết:
Giao
Chỉ là Nam Giao xưa kia. Nhà Tần đổi thành Tượng Quận; nhà Hán xóa bỏ
Nam Việt, chia thành chín quận mà Giao Chỉ là một quận. Thời Quang Vũ,
một người đàn bà tên Trưng Trắc nổi dậy; Mã Viện đánh tan và đổi quốc
hiệu thành Giao Châu; nhà Tùy lấy lại tên cũ là Giao Chỉ Quận.
Tác
giả Tàu nầy nói đến Nam Giao xưa; Giao Chỉ xuất hiện về sau và không
nói đến nét đặc thù thân thể của người Việt. Sách không nói: xứ sở của
người Giao Chỉ, chỉ nói trỗng “Giao Chỉ,” một địa danh.
Từ điển Khang Hy trích “Tiền Hán Địa Dư Chí” xem Giao Chỉ chỉ là một quận của Giao Châu. Ở đấy một lần nữa cho thấy “giao” đã dùng trước từ lâu so với “chỉ.”
Thông Giám Lãm Yếu viết:
Người
Việt Thường sinh sống phía Nam Giao Chỉ. Thiếu Trưng Thông Giám ghi
nhận như vậy nhưng nói rõ thêm Giao Chỉ là một phần lãnh thổ của Nam
Giao. Nếu Giao Chỉ là tên một sắc dân thì danh xưng nầy đã phải được nêu
ra trong Sử Kinh. Trái lại cổ sử Trung Hoa không biết đến, không một
lần đề cập. Sử Kinh chép vua Nghiêu ra lệnh cho người em thứ ba lập
nghiệp ở Nam Giao.
Nam Giao
có nghĩa là nơi gặp gỡ phía Nam, có thể suy diễn còn thêm nhiều chỗ
giao tiếp khác, những giới hạn khác. Như vậy có thể rằng dân Giao Chỉ được gọi tên theo tên của nơi mình sinh sống, chứ nơi nầy không mang tên của những người đến lập cư.
Nhà bác học Wells Williams giải thích rằng “giao”
mang ý nghĩa không chia cách vì dân chúng trong khu vực nầy đàn ông đàn
bà cùng tắm chung trong dòng sông; dân chúng sống giao hòa yên vui;
không động chạm gì chuyện các ngón chân to ngón chân nhỏ chĩa chéo lung
tung.
Việc giải thích sai khác danh tự “giao chỉ”
thành hai ngón chân chĩa ra ngoài và giao nhau tuy không đúng về cơ thể
học đã ăn sâu mấy thế kỷ. Chẳng khác trường hợp gọi tên Tân Lục Địa là America. Sử sách tin rằng danh tự America là mượn tên của thuyền trưởng Amerigo / Abergigo Vespucci. Nhưng nhà địa chất học Jules Manou đưa ra một minh chứng phá hủy huyền thuyết ấy.
Tại Honduras, một ngọn núi tên là America / Ameriga
có rất nhiều đá quý. Dân hải du Tây Ban Nha đã đến thu lượm rầt nhiều
quý thạch đem về làm của giàu sang. Các thủy thủ Âu Châu tung tin nầy và
từ đó người ta gọi tân lục địa Columbus khám phá là America.
Năm 1551, Hylacomilus đưa tên Amérique lần đầu tiên trong tuyển tập địa dư “Cosmologie” xuất bản tại Saint Dié, Pháp. Nhà tuyển tập nầy đã nhầm với tên Abergigo Vespucci, tác giả nhiều phiêu lưu ký ở lục địa mới nầy.
Tôn Thất Tuệ