Tác giả bản báo cáo này lúc đó là viện trưởng Viện xã hội học Việt Nam, thành viên Tổ Nghiên cứu Đổi mới của Thủ tướng Chính phủ (Tổ này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giải tán vào mùa hè năm 2006).
Tác giả bản báo cáo này lúc đó là viện trưởng
Viện xã hội học Việt Nam, thành viên Tổ Nghiên cứu Đổi mới của Thủ tướng
Chính phủ (Tổ này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giải tán vào mùa hè
năm 2006).
Bản báo cáo này đã được tác giả công bố toàn văn trên mạng Bauxite Việt Nam ngày 30.1.2012.
Sự kiện đêm 26 rạng ngày 27/6/1997 ở xã An Ninh, huyện Quỳnh
Phụ tỉnh Thái Bình như một hồi chuông báo động khiến chúng ta cần tỉnh
táo nhìn nhận lại về hậu phương vững chãi của chúng ta để có những suy
nghĩ nghiêm túc về vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân trong sự
nghiệp Ðổi mới và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn,
nông nghiệp.
An Ninh là lá cờ đầu của huyện Quỳnh Phụ, và cũng có thể nói
là lá cờ đầu của Thái Bình, một điển hình tiên tiến đã từng là quê hương
của phong trào 5 tấn trước đây và hiện nay luôn luôn là lá cờ đầu của
nhiều phong trào quần chúng chiếm lĩnh đỉnh cao thành tích về kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, v.v. Gần đây Thái Bình càng nổi bật trong
việc triển khai chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt với 4
công trình lớn : Ðiện, Ðường, Trường, Trạm [trạm y tế] cùng tiến hành
đồng thời và thu được những thành tích lớn, tạo ra một diện mạo khang
trang đẹp đẽ của một tỉnh lúa đồng bằng sông Hồng mà khách tham quan có
thể ngồi trên ô tô đi khắp các xã trong tỉnh trên con đường quốc lộ,
tỉnh lộ, huyện lộ đã rải nhựa hoặc lát gạch phẳng lì !
Ấy thế rồi, đêm 26, rạng 27/6/97 hàng ngàn nông dân nổi dậy
đập phá chậu cảnh tường hoa, bàn xa lông tiếp khách, bát đĩa dùng liên
hoan và chiêu đãi, kính tủ bàn của trụ sở ủy ban xã, một tòa nhà uy
nghi, lộng lẫy vừa xây tốn hơn 800 triệu đồng. Rồi sau đó, dân kéo đi
đập phá 8 ngôi nhà của bí thư Ðảng ủy, Chủ tịch ủy ban, cán bộ địa chính
và các bậc chức sắc khác nhau của xã (chỉ có một nhà của một người dân
làm việc nấu nướng phục vụ hội nghị và khách của xã). Sau đêm hỗn loạn,
giận dữ, đốt phá, sáng mai hoạt động của xã lại bình thường, người ta
lại vẫn ra đồng họp chợ, đi lại chuyện trò vô tư !
Ba ngày sau sự kiện nói trên, theo yêu cầu của Tổ Nghiên cứu
Ðổi mới của Thủ tướng Chính phủ thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, đoàn cán bộ xã hội học chúng tôi về xã An Ninh, được Bí thư Ðảng
ủy tiếp tại trụ sở mà kính vỡ, mảnh bát đĩa vỡ, chậu cảnh vỡ vẫn ngổn
ngang, kể cả một tượng Bác Hồ bằng thạch cao trắng bị vỡ vẫn nằm ở góc
bàn trong hội trường và theo lời của Bí thư Ðảng ủy xã thì “Hiện trường
vẫn được giữ nguyên” như để nói lên tính phản loạn không thể dung tha
được và cần phải trấn áp ngay của vụ bạo động 26-27/6/97.
Vấn đề gì đã diễn ra ở đây ? Nguyên nhân vì đâu ? Hậu quả ra
sao ? Diễn biến sắp tới sẽ thế nào ? Cần có kiến nghị gì đây từ sự tiếp
cận xã hội học ? Ðó là vấn đề đặt ra cho chúng ta, ba nhóm nghiên cứu
gồm 10 người.
Một nhóm về ở ngay trong lòng điểm nóng : xã An Ninh gồm 4
người (1 Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ, Trưởng phòng Xã hội học nông thôn, 1
Bí thư chi bộ và là Trợ lý của Viện trưởng, 1 Phó Tiến sĩ Trưởng phòng
Tổ chức và Đào tạo cán bộ, đảng viên, 1 nữ cán bộ nghiên cứu của Phòng
Xã hội học nông thôn, đảng viên).
Một nhóm gồm ba cán bộ, do một Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ và là
Phó Viện trưởng phụ trách khoa học dẫn đầu, một cán bộ nghiên cứu, Phó
Phòng Xã hội học nông thôn, một cán bộ trẻ (cả hai đều là người quê ở
Thái Bình, đang có họ hàng ở Thái Bình) đi theo tuyến rộng, dọc theo
đường Hà Nam, Nam Ðịnh, qua Tiền Hải, vòng về thị xã, qua Ðông Hưng,
Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Kiến Xương để tìm hiểu âm vang và độ nhiễm cảm của
các sự kiện bạo động trong tỉnh.
Một nhóm xuất phát sau một tuần, đến huyện Thái Thụy nơi có
điểm nóng Thái Thịnh để đo sự diễn biến sau sự kiện An Ninh và dư luận
quần chúng về các giải pháp của chính quyền Tỉnh đã áp dụng. Nhóm này
gồm một Phó Giáo sư, ba Phó Tiến sĩ đều là đảng viên, trong đó có một
chuyên gia đã từng có công trình nghiên cứu sâu về nông thôn và về Thái
Bình, đang làm luận án Tiến sĩ sẽ bảo vệ tại Pháp về đề tài nông thôn
Việt Nam.
Ðồng thời với các nhóm đi khảo sát tại Thái Bình, Viện trưởng
Viện Xã hội học đã giao nhiệm vụ cho một Phó Tiến sĩ Phó Trưởng Phòng
Xã hội học dân số và Gia đình đang cùng với các cán bộ triển khai một đề
tài nghiên cứu về hộ kinh tế gia đình và địa vị của người phụ nữ kết
hợp khảo sát thêm về chủ đề như nhóm nghiên cứu sâu ở Thái Bình đang
làm, hiện triển khai tại Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cũng như thế, sau khi kết
thúc nghiên cứu ở Thái Bình một tuần, Viện trưởng Viện Xã hội học đã
trao nhiệm vụ cho một đoàn nghiên cứu tại 10 xã trong 3 tỉnh (Hà Nam,
Nam Ðịnh, Ninh Bình) về đề tài biến động dân số thu thập thêm tư liệu về
chủ đề như đã nghiên cứu ở Thái Bình, người phụ trách này là một nghiên
cứu sinh đang làm luận án Tiến sĩ ở Mỹ về dân số, là đảng viên, kết hợp
với đồng chí Bí thư chi bộ đã từng nghiên cứu ở Quỳnh Phụ, Thái Bình
cùng tiến hành, và cũng chỉ hai đảng viên này thu thập số liệu để báo
cáo trực tiếp cho Viện trưởng. Công việc đang được triển khai và sẽ bổ
sung vào báo cáo tổng kết này.
Bản báo cáo tổng kết này là dựa trên các tư liệu thu thập
được qua phỏng vấn sâu, quan sát trực tiếp, các văn bản của tỉnh, huyện,
xã (băng ghi âm ghi lời người được hỏi và tập hồ sơ ghi lại nội dung đã
thu vào băng) cùng với 8 báo cáo của các cán bộ đi khảo sát và sơ kết
của nhóm khảo sát. Vì đây chỉ là thông tin được thu thập qua phỏng vấn,
chuyện trò và lời người kể có thể là người trong cuộc, người chứng kiến,
người nghe kể lại không khỏi bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan, cho
nên các số liệu (cho dù ghi thành con số) cũng chỉ có ý nghĩa phỏng
chừng, tương đối khác với thống kê và báo cáo chính thức của người có
trách nhiệm ở địa phương. Người viết báo cáo, trong trường hợp có dẫn ra
các số liệu cũng là để gợi lên tình huống, không mang tính biểu đạt
thật chính xác.
I. Tổng quan về các sự kiện dẫn đến sự bùng nổ ở Thái Bình
Những ngày cuối cùng của tháng 6 năm 1997 đã cho thấy tính
nghiêm trọng của một loạt những sự biến đã xảy ra ở một phần lớn các
vùng nông thôn tỉnh Thái Bình. Ðã có tới 5 (Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền
Hải, Ðông Hưng, Thái Thụy) trên 7 huyện và thị của tỉnh có phản ứng và
khiếu kiện của nông dân về những vấn đề dân chủ và công bằng xã hội
trong nông thôn. Nội dung chủ yếu của những khiếu kiện này tập trung
xung quanh việc đòi thanh tra và công khai hóa việc phân chia ruộng và
nhất là việc thu và chi những khoản đóng góp mà chính quyền địa phương
(xã và huyện) thu của nông dân trong những năm qua để xây dựng cơ sở hạ
tầng kỹ thuật trong nông thôn, chủ yếu là các công trình : Ðiện – Ðường –
Trường – Trạm.
Xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó đặc biệt là các công trình
Ðiện – Ðường -Trường – Trạm là một chủ trương đúng đắn của tỉnh, rất
hợp với nguyện vọng của dân. Người dân Thái Bình nói chung rất tự hào về
hệ thống đường giao thông liên tỉnh, liên huyện và liên xã của họ.
Ðiều đáng nói ở đây là các công trình này đã được thực hiện
trong 5 năm qua với một tốc độ và nhịp điệu quá nhanh. Do đó các khoản
thu từ nhân dân cũng tăng nhanh chưa từng thấy. Năm 1991, tỉnh chủ
trương chỉ đảm bảo cho 65 % các hộ trong tỉnh có điện dùng vào năm 1995.
Nhưng cuối năm 1992 đã có 70 % số hộ (báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh,
tháng 10 năm 1992) và năm 1996, 100 % số hộ trong tỉnh đã có điện dùng,
toàn bộ đường tỉnh đã được nhựa hoặc xi măng hóa hết và 2/3 số trường
học trong tỉnh đã là nhà cao tầng. Nguồn vốn để chi cho các công trình
này chủ yếu lấy từ các nguồn trong tỉnh.
Trong ba năm 1988-1990, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở vật chất
kỹ thuật là 39,5 tỉ đồng, trong đó 9,5 tỉ là do Trung ương cấp, 30 tỉ
là từ huy động ngân sách trong tỉnh. Nhưng phần vốn huy động từ sự đóng
góp của nhân dân và tập thể cũng rất lớn. Ngoài ra, các quỹ giao thông
xóm xã cũng ra sức phát triển. Có nơi còn chủ trương “cứng hóa kênh
mương” để tăng nhanh các nguồn thu từ nhân dân (Thái Thụy). Phải chăng
các khoản thu này là quá lớn so với khả năng đóng góp của người nông dân
Thái Bình vốn chỉ có nguồn thu từ hạt thóc là chủ yếu ?
Cơ cấu thu nhập của tỉnh vào năm 1991 cho thấy 81 % là thu từ
nông nghiệp. Các khoản thu này lên tới chừng trên dưới 35 khoản, thay
vì 14 khoản theo quy định của huyện và 7 khoản theo quy định của tỉnh.
Ðiều cần lưu ý là các khoản thu và chi này đã không được sử dụng một
cách công khai và dân chủ. Các khoản thanh toán được công bố lại cho
thấy có dấu hiệu của sự lạm dụng công quỹ, bởi nó vượt quá xa các định
mức chi phí trên thị trường (giá của các công trình xây dựng thường cao
gấp nhiều lần giá trị thực tế của chúng). Một chiếc cống thoát nước do
chính quyền xã xây đã quyết toán tới 21 triệu đồng, nhưng khi dân đập đi
xây lại thì chỉ mất 7,5 triệu đồng (xã Quỳnh Hồng). Trong khi đó, một
số cán bộ chủ chốt ở một số địa phương lại có biểu hiện giàu lên nhanh
quá mức bình thường trong năm năm qua, cùng với sự giàu lên trông thấy
qua nhà cửa, các phương tiện sử dụng trong sinh hoạt là những nét xa hoa
kệch cỡm về lối sống của một số người dễ dàng gây phản ứng trong quần
chúng.
Nhân dân một số địa phương đã có đơn khiếu kiện lên xã,
huyện, thậm chí cả tỉnh với các hình thức hợp pháp, từ đưa đơn có nhiều
chữ ký cho một người đi gặp các cấp lãnh đạo có thẩm quyền (Tiền Hải, xã
Ðông Trà), tới việc tập trung vài chục hay vài trăm người trước cổng Ủy
ban tỉnh từ cuối năm 1996 (Quỳnh Hội : tháng 10/1996, 700 người lên
tỉnh 2 đêm 1 ngày để trình đơn khiếu kiện, sau đó là đợt 2, với 1.500
người, đòi thanh tra lại đất 5 % vào tháng 4/1997). Người ta ước tính có
chừng 120/260 xã trong tỉnh có biểu tình đưa đơn và từ chỗ đi lẻ tẻ,
dần dần hình thành tổ chức quy mô hơn, người ta cho rằng có chừng 40
cuộc biểu tình lên tỉnh được tổ chức có quy củ và trật tự.
Những cuộc khiếu kiện này thường được tiếp đón một cách không
nhiệt tình. Cách trả lời thường là sự im lặng kéo dài, hoặc lờ đi, hoặc
cho thanh tra công khai nhưng kết luận không có gì. Những vấn đề này,
thực ra, đã nảy sinh từ những năm 86-90 song cách giải thích chính thức
của các cấp chính quyền từ xã, đến huyện, đến tỉnh về những sự kiện trên
thường cho đó là “những biểu hiện tiêu cực nảy sinh do một số cán bộ,
đảng viên thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền tham nhũng, đè nén
dân, làm mất uy tín của Ðảng và Nhà nước. Mặt khác cũng là do một số
người lợi dụng việc mở rộng dân chủ trong quá trình đổi mới và những khó
khăn đang gặp phải đã có hành động cực đoan quá khích, thậm chí tiếp
tay cho địch, gây rối nội bộ, nói xấu Ðảng và Nhà nước”. Những cách giải
thích này không thuyết phục được quần chúng, nhất là vì nó chưa đưa ra
được những giải pháp có hiệu quả thiết thực.
Từ tháng 5 năm 1997, những sự biến xảy ra dồn dập hơn, mãnh
liệt hơn, và có chiều hướng sử dụng bạo lực từ cả hai phía, để răn đe
hoặc để giải quyết những vấn đề đang tồn tại.
Sự xuất hiện của cảnh sát cơ động dường như đã đặt các cuộc
biểu tình hợp thức vào tình thế bế tắc. Xu hướng bạo lực ngày càng có
khả năng trở thành hiện thực. Sự kiềm chế và tính tổ chức ở những người
biểu tình càng giảm sút thì các sự biến xã hội càng khó kiểm soát. Người
ta chứng kiến một cuộc khủng hoảng chính trị xã hội thực sự trong nhiều
xã và huyện của nông thôn Thái Bình.
Ngày 11 tháng 5 năm 1997, theo lời ước đoán thì có khoảng
2000 nông dân Quỳnh Phụ thuộc trên dưới 36 trong 38 xã của huyện đã tham
gia vào cuộc biểu tình từ xã lên tỉnh bằng xe đạp và sau đó ở lại tỉnh 2
ngày 1 đêm, gây ảnh hưởng lớn trong toàn tỉnh. Cũng theo lời kể lại thì
trong khi cuộc biểu tình này đang cố gắng thể hiện thái độ nghiêm túc
và thận trọng trong việc bày tỏ nguyện vọng của đông đảo nhân dân trong
huyện, thì ở trước trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện Quỳnh Phụ, cuộc tập
trung của nhân dân nhiều xã trong huyện, cứ đông dần lên vì người các
nơi ùn ùn kéo đến, có người ước lượng là có đến 1 vạn (?) người. Khi đám
đông đã đến quy mô như vậy, chỉ cần một hành động quá khích là có thể
dẫn đến những bùng nổ không sao kiềm chế được.
Theo lời người kể lại, thì do cách xử sự thiếu khôn ngoan và
không thỏa đáng của một số người đại diện cho quyền lực nhà nước, dân
phẫn nộ đã dùng bạo lực, phá trụ sở công an huyện, tấn công bằng gạch đá
vào lực lượng an ninh có trang bị xe phun nước và chó béc-giê. Trước
500 công an, với 3 xe vòi rồng, dùi cui lá chắn, dân bảo nhau chuẩn bị
nếu bị phun nước thì cả đàn ông, đàn bà sẽ cởi hết quần áo ra tắm. Công
an ném 10 quả lựu đạn cay, dân phá hỏng một xe vòi rồng trong tiếng kêu
“thế này thì dân chết mất”, lại có tiếng “thà chết còn hơn sống khổ”.
Công an được lệnh không đánh lại dân. Nhưng khi trời tối, dân phát hiện
có công an mặc thường phục trà trộn vào đám đông quần chúng. Thế là diễn
ra cảnh bi hài, dân hô : “cứ xem thằng nào đi giày da, sờ vào bụng
thằng nào to tức là không phải dân, nhằm vào nó mà nện”. Công an bị
thương 9, 10 người, dân bị thương vài chục. Công an bị thương được đưa
vào bệnh viện, nhưng dân bị thương thì không vào vì sợ bị phát hiện nên
khiêng về làng tất.
Dẫn đến cuộc bạo động này là chuyện dân bao vây Viện Kiểm sát
huyện Quỳnh Phụ đòi thả hai người đánh kẻng tập hợp dân, đã bị bắt.
Cuộc xô xát này, cho dù không để xảy ra tử vong song đã là bước ngoặt
dẫn đến những sự biến sau này ngày càng bạo liệt hơn, bạo lực nhiều hơn
và ngày càng mang tính trả thù hơn là đấu tranh hợp pháp.
Ðiều đáng lo ngại nữa là các huyện khác trong tỉnh đều coi
cuộc đấu tranh này của người dân Quỳnh Phụ đã trở thành mô hình cho cách
đặt vấn đề và phương thức đấu tranh của họ. Một mặt, những người khởi
xướng cuộc khiếu kiện, rồi biểu tình bày tỏ sự nhiệt thành với cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, giữ gìn sự trong sáng của Ðảng, bảo vệ sức mạnh
của chính quyền dân chủ nhân dân do Ðảng và nhà nước phát động. Mặt khác
họ kêu gọi tinh thần cố kết cộng đồng làng xã vốn tiềm tàng trong đầu
óc của mỗi người dân để buộc mọi người phải tham gia vào cuộc đấu tranh
chống tham nhũng theo cách nghĩ và cách làm của họ. Chẳng hạn như : ai
không đi biểu tình, khiếu kiện thì tùy, nhưng nhà có người chết đừng có
gọi dân khiêng, có cháy nhà đừng gọi người dập lửa. Phương thức đấu
tranh ấy, chính là sự quay trở về với “lệ làng”, mà buộc “phép vua”
trước đây đã phải thua. Một khi mà kỷ cương, phép nước do những cán bộ
xã, huyện và cả tỉnh đại diện đã không yên được lòng dân, thì tính tự
phát của lệ làng, của đám đông có tổ chức hay không có tổ chức, dẫn đến
sự manh động, là điều không thể tránh khỏi.
Bước chuyển từ “đối thoại” sang “đối đầu” đã thực sự chia rẽ
một bộ phận lớn nhân dân với chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ
trật tự là công an. Xu hướng manh động của những người nông dân mất bình
tĩnh với sự tham gia của những trẻ em vị thành niên và những người kém
kinh nghiệm xã hội đã được thổi bùng lên bởi các phần tử cực đoan quá
khích và những thành phần bất hảo trong xã hội, điều ấy cũng không có gì
lạ.
Ví dụ như, người ta kể lại rằng, ngày 8 tháng 6 năm 1997,
chừng 300 thanh niên tuổi từ 13 đến 17 đã trói Chủ tịch và Bí thư xã
Quỳnh Hoa, dong lên huyện dưới trời mưa mà không cho đội mũ. Họ phá cổng
Ủy ban huyện làm Chủ tịch huyện phải bỏ chạy. Họ la hét và hạ nhục bằng
những câu hỏi khiêu khích : vì sao mà “giàu lên nhanh thế”, vì sao mà
“chóng béo” đến thế.
Khoảng 10 ngày sau là sự kiện lên đến cao trào bằng việc đốt
phá đêm 26 rạng 27/6/97 tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ. Rồi sau Quỳnh
Phụ, một loạt các huyện khác đã nổ ra đấu tranh dưới nhiều hình thức kể
cả biểu tình, khiếu kiện như ở Ðông Hưng (xã Ðông Cường) lẫn tấn công
bằng bạo lực vào các cán bộ xã bị coi là phần tử tham nhũng. Người ta
cho rằng tại ba xã Thái Thịnh, Thái Tân và Mĩ Lộc của huyện Thái Thụy là
đỉnh cao của những cuộc tấn công bằng bạo lực. Phần đông các cán bộ xã
bị tấn công đã phải trốn chạy. Những người còn lại đã phải dùng hình
thức tự vệ bằng vũ khí và sự hỗ trợ của họ hàng, người cùng xóm gắn bó
với họ.
Sau những bùng nổ đó, huyện, tỉnh (và có thể cả Trung ương)
đã có những giải pháp, thêm vào đó, khung cảnh khủng bố và sự phá phách
của những phần tử quá khích cũng đã làm cho nhiều người phải suy nghĩ
lại về mục tiêu và phương thức của những cuộc đấu tranh đang diễn ra. Sự
trấn áp những phần tử quá khích và những lời hối lỗi của họ trên màn
ảnh truyền hình địa phương được đưa liên tục có thể cũng đã răn đe những
hành vi bạo lực, manh động. Trong nhân dân cũng đã có người nhận ra
hành động “luồn gió bẻ măng”, có thể thấy rằng đám đông đã bị lợi dụng
bởi những kẻ cực đoan, những kẻ muốn đục nước béo cò, trả thù cá nhân,
thậm chí những hành vi lưu manh, cướp bóc. Tình hình tạm lắng xuống,
song những nguyên nhân đẩy tới sự khủng hoảng và bùng nổ vừa qua vẫn còn
nguyên, nếu chưa nói là đây đó, nơi này nơi khác được nung nấu thêm !
Màn kịch bạo lực dường như đã đi quá những giới hạn có thể chấp nhận cả
từ phía chính quyền lẫn từ phía nông dân, hậu quả xã hội thật nặng nề.
Ðể tỉnh táo giải quyết hậu quả nặng nề này đòi hỏi một sự
dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, mổ xẻ phân tích để dám cắt bỏ ung nhọt,
thuốc thang bổ dưỡng cho cơ thể xã hội lành mạnh với một đường lối
đúng, giải pháp đúng.
Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào đây để giải quyết những mâu
thuẫn đã tích lũy nhiều năm ở nông thôn mà không phải sử dụng đến bạo
lực ? Ðể trả lời câu hỏi này, việc đánh giá lại những sự biến vừa xảy ra
một cách khách quan, tỉnh táo và thực sự cầu thị là tiền đồ quan trọng
nhất.
Phải chăng là, không thể quy mọi nguyên nhân của các sự biến
trên cho những kẻ quá khích, cực đoan hay những tên lưu manh chỉ thèm
trả thù, cướp bóc và đập phá. Bởi lẽ nếu đúng là bọn này thì chúng không
có uy tín, không có lẽ phải, không có khả năng tập hợp nông dân trong
những cuộc biểu tình hợp pháp, nghiêm túc và đầy ý thức chính trị như
vừa qua. Nếu đúng như câu chuyện được kể lại thì với một tập hợp trên
dưới hai ngàn người, từ hơn 30 xã trong huyện, tập hợp ở một địa điểm và
thời điểm bí mật đã được định trước chắc chắn là một hoạt động có tổ
chức chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất.
Người ta kể lại rằng họ diễu hành hàng đôi bằng xe đạp lên
tỉnh để tránh những trục trặc và ách tắc giao thông do họ gây ra hoặc do
hoàn cảnh đưa lại. Cứ khoảng từ 30 đến 50 người lại có một người chữa
xe đạp để tránh những trục trặc kỹ thuật. Ðến trụ sở Ủy ban tỉnh, họ
ngồi thành hàng trên vỉa hè, tuyệt đối không bẻ cây, vứt rác, làm mất
trật tự, trị an nơi họ có mặt. Họ kiên nhẫn chịu đựng sự căng thẳng, mệt
mỏi trong 2 ngày 1 đêm chỉ để đưa được lá đơn khiếu nại tới tay ông Chủ
tịch tỉnh. Ðã có biết bao giai thoại về cuộc biểu tình này chỉ để tỏ
lòng khâm phục trình độ tổ chức của người lãnh đạo và ý thức tổ chức của
những người tham gia. Ở những cuộc biểu tình này tuyệt nhiên không có
xung đột, đụng độ nào cho dù có sự hiện diện của cảnh sát dã chiến (chỉ
có xung đột ở huyện, xã).
Người ta cho rằng ở các cuộc biểu tình này có sự tập hợp đông
đảo các tầng lớp nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh, từ người
già, trẻ em, phụ nữ, tới những cựu chiến binh, đảng viên, cán bộ về hưu
vốn đã từng lăn lộn, chiến đấu và hy sinh xương máu của mình qua hai
cuộc kháng chiến. Nếu thế thì phải chăng, tính quần chúng rộng rãi của
cuộc đấu tranh này cho phép nhìn nhận rằng đây là một phong trào xã hội,
chứ không phải là những mâu thuẫn cục bộ, càng không là sự phản loạn
chống lại chế độ.
Sự tham gia của đông đảo các đảng viên, các cựu chiến binh,
những người về hưu, một lực lượng xã hội có trình độ nhận thức chính trị
và xã hội tương đối cao trong nông thôn càng giải thích rõ tính chất và
quy mô của cuộc đấu tranh của nông dân trong sự biến vừa qua và có lẽ
chưa tắt hẳn.
Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực mà điển hình là cuộc đấu
tranh chống tham nhũng và sự mất công bằng, mất dân chủ trong nông thôn,
lực lượng này có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, họ không chỉ là nạn
nhân trực tiếp của những tệ nạn cường hào, tham nhũng mà còn là những
người có khả năng nhận biết. Chính vì thế, họ dễ trở thành những người
khởi xướng và lãnh đạo cuộc đấu tranh mà chúng tôi đã nói ở trên.
Qua tìm hiểu các cán bộ xã, thấy rõ một điều là họ biết rất
rõ những ai đứng đằng sau các cuộc tấn công vào bộ máy cán bộ lãnh đạo
đương quyền. Nhóm chủ yếu phát động là những cán bộ trước cũng làm cán
bộ nhưng nay không còn đương chức nữa. Thuộc về nhóm chủ yếu này ở một
số nơi có cán bộ hưu trí, những người tương đối có trình độ cả về học
vấn, tổ chức, còn sức lực nhưng thiếu việc làm. Cũng không nên quên
rằng, Thái Bình, với đặc điểm đất chật, người đông, có một số lượng rất
lớn người đi thoát ly làm cán bộ và nay về hưu. Ðược đảm bảo tương đối
về đời sống, và cũng có hiểu biết, có nhiều thời gian những người thuộc
nhóm này thường hay đề xuất ý kiến trong đời sống nông thôn.
Cũng chính vì vậy, cách đưa tin của Đài Truyền hình Thái Bình
làm cho người ta nghĩ rằng bọn “côn đồ” xúi giục, nay bọn chúng đã bị
bắt và ăn năn hối lỗi và nhận tội thì những người nhẹ dạ cả tin và manh
động theo đuôi bọn quá khích đã nhận ra sai lầm. Cách đưa tin đó hình
như không đạt được mục đích, mà ngược lại, trong khía cạnh nào đó lại
như tích tụ thêm sự phẫn nộ.
Sau 10 năm tiến hành công cuộc Ðổi mới, rõ ràng là đời sống
vật chất của mọi tầng lớp nông dân đã được nâng lên, nông thôn đã từng
bước chuyển mình. Thái Bình lại càng nổi trội lên với bao lá cờ đầu, bao
nhiêu vẻ khang trang, nề nếp. Vậy cái gì đã lôi kéo nông dân vào một
cuộc đấu tranh dữ dội và rộng khắp như vậy ? Theo chúng tôi có lẽ không
chỉ đơn thuần là lý do kinh tế. Những khiếu kiện kinh tế chỉ là điểm
xuất phát khi một số cán bộ xã bị nghi ngờ có hành vi tham nhũng lại tự
cho mình cái quyền tự phán xét, tự hợp thức hóa những quyết định đáng
nghi ngờ của họ. Những người này tự cho họ là đại diện cho Ðảng bởi họ
chính là bí thư hay các đảng ủy viên quan trọng của đảng bộ, tự cho là
đại diện cho Chính quyền nhân dân, khi họ là chủ tịch hay các phó chủ
tịch, trưởng thôn, tự xem là đại diện cho pháp luật khi họ là chủ tịch
hay các thành viên của Hội đồng nhân dân xã. Những người này triệt để sử
dụng các thiết chế hiện hành đang bị quan liêu hóa để hợp thức hóa
những quyết định của họ thay vì trực tiếp tham khảo, lắng nghe ý kiến
của nhân dân, dần dần một bộ phận những người có quyền lực này xa lạ và
đối lập với dân.
Một khi mà sự việc đã diễn ra đến tình huống như vậy thì ở
những nơi này, nội bộ Ðảng bị chia rẽ vì phe cánh và quyền lợi, mất dần
sức sống, không còn uy tín. Chính quyền rơi vào nguy cơ mất mối liên hệ
với các tổ chức quần chúng. Giữa dân với Ðảng và Chính quyền mất dần
kênh liên lạc vốn có. Người ta phải sử dụng đến các hình thức khiếu kiện
vượt cấp để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của họ. Khi mọi hình thức
đó không đi đến kết quả thì xung đột nổ ra dưới mọi hình thức. Các phần
tử cực đoan quá khích có cơ hội để đưa cuộc đấu tranh nhanh chóng đi
đến bế tắc bằng các hình thức bạo lực và sự trả thù.
Hãy dừng lại ở sự kiện xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, đi vào
diễn biến dẫn đến sự bùng nổ để qua đó, chứng minh cho những phân tích
nói trên.
Sự việc bắt đầu bằng những đụng độ căng thẳng xung quanh yêu
cầu của Thanh tra Nhân dân xóm 10, thôn Kiến Quan, đòi ông Khương,
nguyên Xóm trưởng giao nộp hồ sơ sổ sách để kiểm tra mà chưa được đáp
ứng. Ngày 24/6/97, trước sức ép của nhiều người, ông Lương Văn Quang,
thành viên Tổ Thanh tra Nhân dân xóm đã đánh kẻng họp dân toàn xóm mà
chưa có sự đồng ý của người có trách nhiệm. Ðiều này đã dẫn đến tranh
chấp, đôi co trong việc lập biên bản và giữ ông Quang tại trụ sở Ủy ban
vào ngày 26/6/97. Việc này do Chủ tịch Nguyễn Mạnh Hàm và Bí thư Ðảng ủy
Vũ Xuân Chiếm chủ trương.
Bị kích động bởi một lời thách đố của Chủ tịch xã khi nóng
giận, dân xóm 10, và sau đó kèm theo là hàng nghìn người từ các thôn xóm
khác trong và ngoài xã đã tràn đến bao vây trụ sở xã vào cuối ngày hôm
đó. Những hành động quá khích vượt quá giới hạn của cuộc đấu lý đã dẫn
đến bạo lực. Ðám đông hàng trăm người trong đó có những người bịt mặt
với sự reo hò, cổ xúy của hàng nghìn người vây Ủy ban (cỡ chừng vài ba
nghìn người, có người cho rằng có tới 6 nghìn người) đã tràn vào trụ sở
Ủy ban Nhân dân xã, đập phá bàn ghế, tủ công tác, bàn hội nghị, phòng
ốc, chậu hoa, cây cảnh, bát đĩa, v.v. và săn đuổi cán bộ xã đang có mặt
tại trụ sở. (Khi thấy sự việc có chiều hướng nguy hiểm, hệ thống đèn
chiếu sáng đã phải vụt tắt, tất cả các cán bộ xã đều đã phải trốn chạy
tháo thân).
Thế rồi từ 7h tối ngày hôm đó cho tới rạng sáng ngày hôm sau
(chừng 3h30′) là một cuộc bạo động của đám đông hàng nghìn người rầm rập
trên đường lần lượt đi phá, đốt nhà cửa, lấy tài sản của các cán bộ chủ
chốt trong xã.
Trình tự của cuộc đập phá : Thoạt đầu là Ủy ban xã, ngay sau
đó là nhà chị Ly, liền kề Ủy ban (đây là gia đình thường thổi nấu cơm
khách, phục vụ ăn uống cho Ủy ban xã). Người ta nói rằng việc đập phá
nhà chị Ly là để cho bõ tức vì không tìm thấy ông Chủ tịch Hàm tại đó.
Tại nhà này, đám đông đã đốt xe máy phân khối lớn của một cán bộ công an
tỉnh biệt phái theo dõi cơ sở. Từ nhà chị Ly, đám đông ầm ầm đi tới xóm
11 dập phá nhà Chủ tịch Hàm. Sau đó, chuyển xuống xóm 6, phá nhà ông
Trung, cán bộ quản lý địa chính xã, sang xóm 8, đập phá tài sản nhà ông
Lự, Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh
Thái Bình. Tại đây, đã diễn ra cuộc đụng độ quyết liệt giữa thân nhân
của chủ nhà với người đi đập phá, cả hai phía đều có người bị thương,
đám đông đã bắt đầu nổi lửa đốt từ nhà này trở đi. Tiếp đó đám đông vượt
đồng sang xóm 9, xóm 10 để đập phá và đốt nhà ông Hoa, Phó Chủ tịch phụ
trách nội chính xã, quay trở về gần nhà Chủ tịch Hàm để đốt phá nhà ông
Ðăng, Chỉ huy trưởng quân sự xã, sau đó tới các xóm khác đốt phá nhà
ông Trừ (nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân khóa trước, nay là Trưởng
ban Tài chính xã) rồi tới đốt phá nhà ông Hứa, Phó Chủ nhiệm hợp tác xã
nông nghiệp. Ðiểm đốt phá cuối cùng là nhà Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm,
huyện ủy viên huyện Quỳnh Phụ… Tại đây, đám đông giải tán vào lúc
khoảng 3h30′ sáng ngày 27/6/1997.
Từ những thông tin mà chúng tôi nắm được qua cuộc khảo sát
nhanh được trình bày tóm tắt ở trên chúng tôi nghĩ có thể gợi lên một số
nguyên nhân để giải thích các sự biến vừa rồi. Ðương nhiên ở đây cũng
chỉ là sự suy nghĩ chủ quan của chúng tôi từ cách tiếp cận xã hội học. Ở
những cách tiếp cận khác, có thể có sự nhìn nhận khác. Tuy vậy, chúng
tôi cứ mạnh dạn nêu lên như sau :
II. Sức dân bị khai thác quá mức, bị sử dụng lãng phí và bị tham nhũng quá mức
Nghĩa trang liệt sỹ hoành tráng
Là một tỉnh nông nghiệp, mật độ dân số quá cao và có một thời
tỉ lệ phát triển dân số quá lớn. Thái Bình cho đến nay vẫn chỉ trông
chờ vào việc trồng lúa. 102.360 ha đất nông nghiệp của Thái Bình đã được
thâm canh đến mức tối đa và nhìn chung năng suất cũng đã đạt đến mức
tối đa : 10-15 tấn/ha/năm ; tức là khoảng từ 2 cho đến 2,5 tạ/sào/vụ.
Bình quân đất canh tác mỗi khẩu dao động từ 1 tới 1,5 sào/người. Ước
tính năm 1997 trung bình mỗi người dân Thái Bình xuất khẩu không quá 15
đô la, trong đó một phần không nhỏ trông chờ vào xuất khẩu lúa. Ðược mùa
nên giá lúa đã rơi mạnh ; giá lúa trung bình tại các chợ là 1.200 đ/kg
thóc và sau vụ Ðông xuân 1997 Thái Bình còn hàng chục vạn tấn chưa có
thị trường tiêu thụ.
Nhìn từ góc độ hộ gia đình, tình hình lúa ít sáng sủa hơn.
Theo nhiều người đánh giá, nếu cần mua 200 đ thuốc lào cũng phải bán lúa
và 5 cân mới mua nổi 1 bao Vinataba (Thời báo Kinh tế, 16/7/1997).
Những nguồn thu nhập khác ngoài lúa như chăn nuôi là thấp và ít ỏi.
Chúng tôi dẫn ra đây trường hợp một nông dân đã từng tham gia biểu tình ở
xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Gia đình anh ta 5 người
với 7,5 sào ruộng có thể có thu nhập tối đa là :
7,5 sào x 4 tạ = 30 tạ = 3 tấn = 3.600.000đ
2 tạ lợn x 10.000đ/kg = 2.000.000đ
Các khoản khác : = 2.000.000đ
Tổng cộng : = 7.600.000đ
Trong lúc đó, các khoản chi phí chủ yếu là :
7,5 sào x 1 tạ = 7,5 tạ = 1.000.000đ
2 tạ lợn X 5.000đ/kg = 1.000.000đ Tổng cộng : = 2.000.000đ
Các khoản đóng góp cho chính quyền:
Vụ đông : 71,1 tạ = 850.000đ
Vụ mùa : 5,7 tạ = 680.000đ
Cộng : = 1.530.000đ
Tổng cộng: = 4.100.000đ Thu nhập bình quân 800.000 đ/người
Có lẽ đây là một trường hợp không mấy cá biệt, mà có thể xem như khá phổ biến đối với Thái Bình.
Với nguồn thu tối đa là 1.000.000 đ/người/năm, người nông dân
phải chi cho ăn, mặc, học hành của con cái, chữa bệnh, sửa chữa nhà cửa
và vô vàn các khoản khác nữa. Trong lúc đó hệ thống nhu cầu lại được mở
rộng, theo kênh truyền thông đại chúng về lối sống đô thị và theo mạng
lưới giao thông nối liền nông thôn với đô thị. Ví dụ, nước giải khát chè
xanh không còn trong khi xuất hiện “bia Ong” (Thái Bình) cũng như các
loại nước có ga khác. Người nông dân trên những thửa ruộng với nhiều
mảnh cách xa nhau cũng không thể cày sâu hơn, cuốc bẫm hơn vì họ đã
nghiệm ra là càng như thế thì thu nhập của họ càng ít đi. Trong khi đó,
đường nhựa và thông tin đại chúng truyền tải liên tục về cho họ những
sản phẩm mới và những hình ảnh mới mà họ ít có cơ hội để hưởng dụng
chúng. Ðặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục đại học và y tế nhà nước, rất
khó để người nông dân có thể hưởng được những thành quả của sự phát
triển trong hai hệ thống đó.
Trong lúc đó, người nông dân cũng tận mắt thấy sự đồng đều
truyền thống mà họ yêu mến không còn nữa. Nhóm cán bộ xã đã giàu lên
nhanh chóng và bắt đầu có một lối sống khác: “chiều chiều họ cưỡi xe dim
[xe honda Dream], đeo vạt [cà vạt], mặt đỏ như ông tiên sư, ra cánh
đồng đứng chỉ trỏ” (lời kể của một lão nông, huyện Quỳnh Phụ). Thế rồi
vợ con của những cán bộ kiểu này bắt đầu có những đua đòi, kệch cỡm
trong lối sống mà bà con lối xóm cho là “hợm của”. Và không thể nào lý
giải được nguồn gốc của số của cải đó. Trong các khiếu nại, nhiều người
nông dân chỉ yêu cầu các cán bộ lãnh đạo xã dạy cho họ biết cách làm thế
nào để cũng có thể giàu lên nhanh chóng như cán bộ.
Thành tựu về tăng trưởng kinh tế ở Thái Bình là rõ ràng :
người nông dân từ chỗ đói ăn, nhà tranh vách đất nay đã chuyển sang đủ
ăn, nhà kiên cố. Tuy nhiên, do hệ thống nhu cầu được mở ra nên từng
người cụ thể không cảm nhận được sự tăng trưởng đó. Có chăng là với
người già, khi họ ngồi nhớ lại rằng ngày xưa đời sống khổ cực hơn.
Một thành tựu cơ bản của Thái Bình cho đến tận hôm nay là đẩy
nhanh các chương trình xã hội. Trong năm năm qua những công trình
“Ðiện, đường, trường, trạm” đã là những thành tựu nổi bật nhằm mục tiêu
phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển xã hội. Tuy nhiên, nếu phát
triển các chương trình đó trong bối cảnh của nền kinh tế không phát
triển đạt đến mức tương ứng thì sẽ đem lại một sự thụt lùi cả trên bình
diện kinh tế lẫn xã hội. Ðiều này thì nhiều lãnh đạo nào cũng có thể
hiểu.
Thế nhưng, dường như lãnh đạo Thái Bình muốn thông qua những
chương trình xã hội để phần nào đảm bảo lại sự phân phối lại công bằng
hơn cho người dân. Có lẽ chưa có tỉnh nào phát triển hệ thống giao thông
nông thôn tốt được như Thái Bình : đường liên xã đều được rải nhựa. Hơn
thế, Thái Bình còn phát triển cả bốn công trình điện, đường, trường,
trạm cùng một lúc. Quả thực điều này đã tạo cho nông thôn Thái Bình một
diện mạo rất tươi sáng. Nhìn từ ngoài vào, ấn tượng thật nổi bật. Song
nếu đi sâu phân tích sẽ bật ra nhiều vấn đề.
Ðiểm đầu tiên cần hiểu : từ nguồn vốn nào để thực thi các
công trình lớn đó ? Không thể từ đâu khác, kể cả nguồn vốn cho việc xây
dựng trụ sở, hội trường, nhà tưởng niệm, v.v. đều chủ yếu lấy từ sự đóng
góp của nông dân. Cùng với nó là từ các nguồn có thể xoay xở được như
bán đất cho những người có tiền làm nhà. Ðặc biệt là khoản tiền vay của
ngân hàng với hy vọng sẽ trả dần về sau này. Ước tính số tiền nợ vay
ngân hàng theo những người được hỏi có thể chiếm 10 % tổng số tiền sử
dụng để triển khai các chương trình trên. Gánh nặng trả nợ về sau thì
rồi cũng đè trên vai người dân chứ còn ở đâu khác. Mà những khoản đóng
góp thì rất đa dạng.
Ví dụ : tại xã Tây Phong huyện Tiền Hải, người ta nói với
chúng tôi rằng : mỗi con trâu 1 vụ phải đóng 40 kg thóc về tiền giao
thông, tức là mỗi chân trâu 10 kg thóc cho 1 vụ ; mỗi đàn vịt từ 30 con
trở lên phải đóng thuế trồng cỏ. Còn nhiều khoản đóng góp khác nữa, ví
như một cuộc họp phổ biến kiến thức nói về nông nghiệp cũng đòi mỗi gia
đình phải đóng góp 7 kg thóc, v.v.
Những xã càng là tiên tiến, lá cờ đầu, thì sự đóng góp của
dân càng nặng hơn. Cũng người nông dân tại xã Tây Phong, Tiền Hải, Thái
Bình, người đã tham gia cuộc biểu tình bày tỏ ý kiến trên huyện đã nói ở
trên, anh ta cho biết : “Theo quy định vụ Ðông xuân 97 gia đình anh
phải đóng 7,1 tạ thóc cho hộ 5 người. Nhờ quyết định 279 (**) nên vụ
Ðông xuân này hộ chỉ còn phải đóng góp 2,2 tạ thóc mà thôi. Và các gia
đình trong xã bắt đầu tổ chức ăn mừng việc “giảm sản”. Ở xã là nơi mà sự
đóng góp đó đè lên vai người nông dân với tất cả sức nặng của nó, hầu
như tất cả các xã của Thái Bình đều nằm trong tình trạng mang công mắc
nợ ngân hàng. Xã nợ chừng 1-2 tỷ là chuyện thường. Tại xã Quyết Tiến
huyện Kiến Xương, một xã có khoảng hơn 3 000 dân, mức nợ nằm ở khoảng
trung bình cũng là chừng 400 triệu. Theo lời bình của một cán bộ xã :
“Nếu xã nợ chừng 100 triệu trở lại thì còn có thể xoay xở được chứ quá
100 triệu thì sẽ rất nan giải”.
Cần nhớ rằng, nội dung đích thực của các chương trình xã hội
không phải nằm ở phần cứng của nó, mà là nội dung bên trong cái khung
hào nhoáng đó. Chẳng hạn, với trường học thì phần cơ bản phải là đời
sống và giáo viên để cho họ thực sự là giáo viên chứ không phải là người
nông dân có nghề phụ là dạy học ! Với trạm xá thì tay nghề của các cán
bộ y tế cùng những trang thiết bị tối thiểu cho họ hành nghề mới là cái
chức năng đích thực. Nếu thế thì một câu hỏi được đặt ra : Liệu có cần
phải xây nhiều trạm xá đến như thế không trong khi đã có một hệ thống
giao thông tốt và thuận lợi đến như vậy ? Cũng có nghĩa là cho đến hôm
nay, thực chất các chương trình phát triển xã hội cũng mới chỉ hoàn tất
bước đầu ở phần dễ thấy nhất và tương đối ít tốn hơn. Ấy thế mà cũng đã
kiệt sức. Câu hỏi đặt ra sẽ là, phát triển các chương trình xã hội có
kịp mang lại động lực mới cho phát triển kinh tế nông thôn Thái Bình hay
không, hay đang là gánh nặng quá sức đối với người dân khi mà bình quân
thu nhập của họ chỉ trên dưới xấp xỉ 1 triệu đồng cho 1 người trong 1
năm ? Hậu quả của sự đóng góp quá sức đó là gì, chúng ta đã tìm thấy
trong các sự biến vừa rồi. Nói cách khác, theo chúng tôi, đó chính là
một trong những nguyên nhân đẩy tới sự biến Thái Bình.
III. Cán bộ và cơ chế
UBND xã An Ninh, H. Quỳnh Phụ, Thái BÌnh
1. Về người cán bộ
Ðiều mà mọi người thường giải thích, do cán bộ xã tham nhũng
quá đáng, ức hiếp dân để dân không chịu nổi nên tức nước thì vỡ bờ thôi.
Trăm sự là đều do cán bộ xã hư hỏng mà ra. Nói vậy cũng có chỗ đúng
song cách nhìn nhận ấy không thỏa đáng, và nói cho cùng, cũng chưa đi
vào nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng ở Thái Bình, một điển hình
nổi bật nhiều năm của sự nghiệp phát triển nông thôn. Rốt cuộc lại thì
những người cán bộ là ai, phải chăng họ chính là những thành viên cấp
cuối cùng thực thi mọi đường lối chính sách của Ðảng và Nhà nước ? Mà
thật ra, với người nông dân ở xã thì Ðảng và Nhà nước cũng là một, nó là
hiện diện cho những người có quyền lực đang trực tiếp tổ chức và chi
phối đời sống của họ. Ở một khía cạnh nào đó, người cán bộ xã phải gánh
trên vai toàn bộ gánh nặng của hệ thống quản lý về chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng… Chính họ là người chuyển tải mọi
chủ trương đường lối của Ðảng và Nhà nước đến trực tiếp với người dân,
nói đúng hơn, đến 80 % dân số của cả nước. Không có họ khó hình dung
được sự hoạt động của hệ thống quản lý. Cho nên, không thể chỉ có sự phê
xét về họ, mà quan trọng hơn, là sự thẩm định lại cái cơ chế đang điều
hành họ, đúng hơn, cái cơ chế mà họ được đặt vào, và rồi, bản thân họ
góp phần làm cho cái cơ chế ấy vận hành và cũng bị sự vận hành của cơ
chế ấy chi phối.
Ðương nhiên, họ phải chịu trách nhiệm với những hoạt động của
họ, hành vi của họ, phẩm chất của họ. Không ai có thể biện hộ cho hành
vi tham nhũng và ức hiếp dân của những cán bộ xã hư hỏng. Họ phải bị xử
lý, người khác sẽ được thay thế vào, và guồng máy tiếp tục được vận hành
theo cái cơ chế đã từng chi phối những cán bộ vừa bị xử lý (sa thải
hoặc kỷ luật, ví dụ thế). Thế rồi sao nữa ?
Một bộ máy quản lý ở cấp xã cũng đủ lệ bộ như đã quy định từ
Trung ương, chỉ có điều, tiền phụ cấp công tác hoặc lương mà họ được
hưởng không tương xứng với công việc mà họ phải gánh vác. Ví dụ như, với
280.000đ, một chủ tịch xã chỉ có thể chi phí cho việc đi họp ở huyện, ở
tỉnh, giao tiếp, khách khứa (xăng xe, thuốc lá, thuốc lào, giải khát
dọc đường, sửa xe, v.v.). Nhưng họ cũng phải sống chứ, phải nuôi vợ con,
rồi nhà cửa, giỗ chạp, cưới xin, chữa bệnh, học hành cho con cái, v.v.
Tiền lấy đâu ra ? Ấy vậy mà, xem ra, không mấy cán bộ có chức, có quyền ở
xã lại chịu sống trong cảnh bần hàn nhưng liêm khiết cả. Nói chung thì,
ở những xã vừa bùng lên những vụ khiếu kiện, những vụ biểu tình, những
sự đập phá, v.v. các cán bộ xã đều có mức sống tương đối cao so với mặt
bằng mức sống chung của dân trong xã (trừ những cá biệt).
Trong cuộc phỏng vấn một ông giáo về hưu tại thị trấn Kiến
Xương, người đang đi khắp nơi nộp đơn đòi thành lập Hội Chống tham
nhũng, thì ông ta chia tham nhũng ra làm ba loại, trong đó loại 2, loại 3
thì chỉ cảnh cáo. Chính ông cũng thừa nhận rằng, các cán bộ xã đã làm
việc rất nhiều nhưng phần tặng thưởng cho họ về công lao hoạt động là
quá ít ỏi. Cũng có nghĩa là ông mặc nhiên thừa nhận những cái mà những
người cán bộ có được cũng một phần là công sức lao động của họ, công sức
ấy chưa được Nhà nước bồi hoàn thích đáng, và vì vậy tham nhũng là điều
dễ hiểu và khá phổ biến. “Nếu cách chức cả thì lấy ai làm việc”, ông ta
kết luận !
Cũng có thể thấy rằng, công quỹ được hình thành nên, để trong
đó có thu nhập của cán bộ xã, có thể có được từ 3 nguồn (ở những xã
không có dịch vụ phát triển) :
– Tiền phần trăm do các bên nhận thầu “lại quả” khi thực thi
các công trình phúc lợi công cộng. Khoản tiền này rất lớn và khó xác
định. – Tiền bán đất cho nông dân xây nhà. – Những khoản thu phí trong
các hoạt động sản xuất của nông dân.
Những khoản tiền này được chi để trang trải mọi hoạt động của
một bộ máy hành chính rất cồng kềnh, song không được trả đủ lương để
tồn tại. Ðấy là chưa nói để chứng minh sự tồn tại của mình là hợp lý, bộ
máy này luôn luôn xáo động bằng sự thay đổi nhân sự, bằng sự thăm viếng
thường xuyên để chứng tỏ tính chất tập trung tuyệt đối của họ. Phần còn
lại sau khi chi phí cho sự hoạt động của bộ máy cồng kềnh đó sẽ thuộc
về những người quản lý cấp cơ sở.
Như vậy có nghĩa là khoản thu nhập thêm của cán bộ xã có tính
hai mặt. Một mặt, nó là sự trả công cho lao động cường độ rất cao của
họ. Mặt khác, nó là sự tước đoạt của cộng đồng. Và do tính chất tuyệt
đối của quyền lực hiện hữu, hoàn toàn không có khả năng kiểm soát được
về sự tước đoạt này, gắn với sự bất hợp lý của nền hành chính. Sự lạm
dụng công quỹ được hình thành nên do những đóng góp nói trên là điều tất
yếu, không thể khác được. Và, sự lạm dụng đó rất lớn, chẳng hạn như,
người ta nói và chắc là không ngoa, sau hai năm công tác, một trưởng
thôn có thể kiếm được 17 tấn thóc. Nói cách khác, cùng với việc sử dụng
công quỹ để nuôi một bộ máy quản lý quá cồng kềnh ở cấp xã, để tạo ra sự
khang trang cho cả cộng đồng, người cán bộ xã cũng tìm cách làm giàu
cho gia đình họ.
Vấn đề đặt ra không chỉ là phẩm chất của người cán bộ xã mà
chủ yếu là cơ chế nào đã cho phép họ cái quyền được tạo ra công quỹ đó
và được phép sử dụng công quỹ đó. Sự phẫn nộ của nông dân không phải chỉ
là những khoản họ phải đóng góp, và còn là, và chủ yếu là việc chi dùng
sự đóng góp đó, trong đó có sự tham nhũng như đã phân tích ở phần II.
2. Sự đối đầu giữa cán bộ quản lý và dân
Sự đối đầu giữa cán bộ cấp cơ sở và nông dân là một thực tế
rõ nét. Mà những sự biến ở Thái Bình vừa qua đã được phơi bày, cần phải
được mạnh dạn chỉ ra. Cần chú ý đến một câu ngạn ngữ phương Tây : “Quyền
lực có xu hướng tham nhũng, và quyền lực là tuyệt đối thì tham nhũng là
tuyệt đối”. Ở cơ sở cộng đồng xã hội nông thôn hiện nay, sự tập trung
quyền lực tuyệt đối, trên thực tế là ở trong tay một số người, mặc dù
trên danh nghĩa thì là tập thể lãnh đạo của tổ chức Ðảng và Chính quyền.
Trong cuộc phỏng vấn tại nhiều xã trong đợt khảo sát vừa qua
của chúng tôi, nhiều bà con nông dân đã thể hiện rõ sự phẫn nộ và quyết
liệt với một số cán bộ xã và ngược lại các cán bộ xã cũng có một thái độ
như thế đối với những người nông dân biểu tình. Sự hiểu biết lẫn nhau
giữa hai nhóm người này là quá rõ, họ rành nhau quá, biết kỹ về nhau
quá. Sau những năm dài cùng tồn tại dựa vào nhau, có lẽ chỉ có họ mới
hiểu chính xác thế nào là mối quan hệ giữa người quản lý (nhà nước) và
người bị quản lý (nhân dân). Và tuyệt đối họ không có ảo tưởng về nhau.
Những ảo tưởng về đối tượng quản lý, nếu có, chỉ bắt đầu xuất hiện tại
cấp huyện và những cấp cao hơn chứ không thể nào có được tại cấp xã. Cán
bộ cấp xã là những người có tư duy rất cụ thể (và có lẽ đó là nơi đào
tạo tốt nhất về quản ý nhà nước hiện nay hơn bất cứ học viện nào).
Bi kịch nông thôn là ở chỗ cả hai nhóm người đang đối diện
với nhau đều cùng hướng vào những mục tiêu mà xã hội theo đuổi và cơ chế
mà xã hội vận hành để theo đuổi các mục tiêu đó. Chính họ cùng chia sẻ
những mục tiêu đó mà không ý thức được về cái giá phải trả để đạt được
tới đích. Sự căng thẳng vẫn tồn tại từ rất lâu, nhưng một thời gian có
phần mờ đi vì chiến tranh, về sự hy vọng về một xã hội tốt đẹp, trong đó
mọi người đều bình đẳng như nhau, sướng khổ như nhau. Khi bắt tay vào
xây dựng cuộc sống mới sau hòa bình, những hậu quả của chiến tranh càng
được làm trầm trọng thêm trong sự vận hành cơ chế kế hoạch hóa tập trung
và bao cấp đẩy tới sự khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng và kéo
dài, đời sống nông thôn lại càng khó khăn gấp bội. Những bước khởi sắc
với Nghị quyết 10 và công cuộc Ðổi mới làm cho đời sống nông thôn có
chuyển biến mạnh. Tuy nhiên, sau thời gian khởi động, những động lực
được tạo ra không còn giữ được sức đẩy như trước nữa, động lực mới thì
chưa tạo ra được. Cơ chế vận hành của hệ thống quản lý và bộ máy hành
chính càng ngày càng bộc lộ sự bất cập của chúng. Sự bất cập càng kéo
dài thì đụng độ giữa người quản lý và đối tượng họ quản lý càng tăng.
Những dồn nén không được giải tỏa (những khiếu kiện hợp lý và
trong khuôn khổ hiền hòa, chỉ nhận được những thái độ lẩn tránh quanh
co hoặc im lặng kéo dài của các cấp từ xã lên đến huyện, đến tỉnh thậm
chí đôi lúc cả trung ương) đến một lúc không kềm chế được đã bục ra. Và
khi nó đã bục ra thì có một thực tế phũ phàng là: bộ máy quản lý cấp xã
nhiều nơi bị vô hiệu hóa hoặc tan rã. Ðiều mỉa mai nhất, chúng thể hiện
rõ sự bục vỡ đó ở ngay những nơi đã được đánh giá là chính quyền vững
mạnh, đảng bộ bốn tốt ví như ở xã An Ninh, Quỳnh Phụ, xã Thái Thịnh,
Thái Thường của Thái Thụy và xã Tây Phong của Tiền Hải.
Ở những nơi này, sự đối đầu giữa người dân và bộ máy quản lý
đã đến cao độ. Và sự đối đầu này hoàn toàn không có cái gì để làm mềm đi
cả. Mặc dầu ở những nơi này người ta vẫn học thuộc lòng khẩu hiệu :
“Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Thế là diễn ra tình
huống nhà nước cấp xã quản lý theo những mục tiêu mà nhà nước cấp trên
đề ra. Nhân dân thể hiện sự làm chủ của mình bằng cách nổi lên phản
kháng. Tuy nhiên, trong cuộc xung đột đó, theo nhận xét của nhiều người,
hoàn toàn không thấy bóng dáng của đảng viên nào đứng ra can ngăn những
cơn phẫn nộ của quần chúng, bảo vệ những thành quả đã đạt được cũng như
bảo vệ nhân tính của người. Trong các sự biến, nhìn rõ sự đối đầu giữa
nhà nước, những người quản lý, và nông dân, những người bị quản lý. Tuy
vậy, không thấy có ai ca thán gì về Ðảng, tất cả mọi người vẫn nói rằng :
đường lối của Ðảng là đúng đắn ! Gần như mọi người đều nhận định rằng :
dân chỉ chống những cán bộ tham nhũng, hư hỏng, không chống lại chế độ.
Ðây là một vấn đề của chính trị học, có lẽ chúng ta cần có sự
nghiên cứu thỏa đáng để rút ra bài học về mặt thể chế và về vai trò của
Ðảng cầm quyền được hiện diện bằng xương bằng thịt ở tổ chức Ðảng cơ sở
và ở người Ðảng viên sống trong lòng quần chúng. Không thể không thấy
rằng, sự hiện diện bằng xương, bằng thịt của Ðảng cầm quyền là Nhà nước,
là chính quyền ở cơ sở cũng như ở các cấp. Ở một khía cạnh khác trong
mối quan hệ giữa cán bộ cơ sở với dân, cần phân tích đó là sự mất dân
chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một số cán bộ xã còn phản ánh ở một
chiều cạnh khác của sự bất bình đẳng xã hội mà chính họ là đại diện.
Ðó là sự cố tình phô bày một lối sống trái ngược hẳn với đạo
lý của đời sống cộng đồng vốn rất đặc trưng cho nông thôn Thái Bình.
Người dân Thái Bình chỉ chuyên nghề nông, ít va chạm với thương trường,
vì xa các trục giao thông quốc gia và quốc tế nên rất dễ phản ứng với
những gì xa lạ, nhất là những thay đổi từ trong đời sống cộng đồng của
chính họ. Họ nhìn những người cán bộ xã đang giàu lên nhanh không phải
bằng mồ hôi nước mắt của chính họ bằng con mắt nghi ngờ bao nhiêu, thì
càng tỏ ra căm uất bấy nhiêu khi chứng kiến sự xa hoa đua đòi và kênh
kiệu của những người này.
Người dân thể hiện sự căm tức ấy qua cách mô tả những ngôi
nhà cao to có trang bị đắt tiền kiểu thành phố, những chiếc xe máy đời
mới nhất, đến cách ăn diện của các bà vợ các cán bộ xã đi liền với những
câu nói hợm hĩnh, rồi đồ trang sức ở những đứa con cán bộ, v.v. (Một ví
dụ : vợ của một cán bộ xã đứng giữa chợ gọi điện thoại di động về cho
chồng con xem muốn ăn gì đổi món để mua khiến cho bà con nhìn họ với đôi
mắt phẫn nộ và dè bỉu). Rõ ràng là cùng với sự phẫn nộ trước những bất
công và tham nhũng về kinh tế trước sự lộng quyền mất dân chủ về chính
trị và xã hội, mô hình văn hóa của làng quê cổ truyền đụng độ gay gắt
với những khác lạ của lối sống của những người mới phất lên do khai thác
được cơ may, quyền lực mà họ đang có. Chiều cạnh của văn hóa này của
các sự biến cần phải nhìn cho ra để giải thích thêm về nguyên nhân cho
những màn kịch đốt nhà và đập phá của cải đầy bạo lực mà người không
theo dõi sự kiện này từ đầu khó cảm nhận được để nhìn nhận và phân tích
sự kiện bạo động vừa xảy ra.
Quả thật, cán bộ xã, người đại diện cho hệ thống quản lý nhà
nước ở cấp xã cùng với cơ chế quản lý đang vận hành đã bộc lộ những yếu
kém và bất cập để dẫn đến những vụ đụng độ gay gắt, chuyển thành những
bùng nổ xã hội khiến chúng ta buộc phải nhìn nhận trở lại một cách
nghiêm khắc về vấn đề quản lý nhà nước. Cũng cần phải lưu ý rằng những
sự kiện Thái Bình lại nổ ra vào lúc chúng ta vừa có nghị quyết Trung
ương 3 về nhà nước và cán bộ !
3. Những giải pháp bất cập từ nhiều phía
Nếu diễn biến của tình hình đã vượt quá tầm kiểm soát của
những người tổ chức và tham gia vào cuộc đấu tranh, thì đối với chính
quyền các cấp trên, đây cũng là một sự kiện hết sức bất ngờ. Cách nhận
định địch – ta trong tư duy chính trị trước đây đã có ảnh hưởng không
nhỏ tới các giải pháp tình thế. Nghi vấn về sự xúi giục hay âm mưu phá
hoại của địch đã loại trừ khả năng xử lý kịp thời những vụ tham nhũng và
vi phạm dân chủ trong nông thôn của một số cán bộ xã và có thể dập tắt
ngay từ đầu cái mầm của sự rối loạn không đáng có này. Nó cũng làm chậm
lại việc củng cố Ðảng và các tổ chức quần chúng trong nông thôn. “Không
cắt bỏ ngay cái bọc ung thư, để cho nó di căn rồi mới lo cứu chữa thì
quá chậm”, đó là một nhận xét chí lý của một cán bộ có trọng trách ở cấp
tỉnh nay đã về hưu, đã nói với chúng tôi !
Các quyết định của tỉnh cho dù là đúng, song vì không sát với
thời điểm của nó nên có khi còn gây căng thẳng thêm cho tình hình. Chỉ
thị “279” yêu cầu chính quyền địa phương chỉ được thu 7 khoản như quy
định của tỉnh, được công bố vào cuối tháng 6.97 đã làm bế tắc thêm cho
các giải pháp nếu đâu đó cán bộ cố tìm cách tháo gỡ sự đụng độ. Các công
trình đã được ký kết và khởi công. Các khoản tiền đã được vay để tạm
ứng trước, nay không còn khả năng thanh toán vì đã mất các nguồn thu.
Tỉnh đã phải ban bố tiếp một quyết định khác yêu cầu đình chỉ mọi khoản
thu và hứa cung cấp kinh phí để giải quyết những bế tắc hiện tại. Những
yêu sách của quần chúng là bức xúc và phần lớn những chính quyền cấp xã
không sao thỏa mãn, vì nếu thỏa mãn chúng thì phải phủ định chính mình:
quyền lực, lợi ích, uy thế. Tình hình dẫn tới chỗ bế tắc. Hệ thống quyền
lực ở xã lung lay và không còn chỗ dựa trong dân. Vai trò lãnh đạo bị
mờ nhạt, vô hiệu hóa.
Tình trạng thiếu lãnh đạo trong nông thôn lập tức được biến
thành cơ hội cho các lực lượng xã hội khác xuất hiện chi phối đời sống
xã hội nông thôn. Cái cơ cấu làng họ lâu nay tưởng như chìm sâu trong ký
ức giờ đây lại sống lại và trở thành chỗ dựa mạnh mẽ cho đời sống thôn
xã. Hình ảnh những cán bộ xã Mỹ Lộc (Thái Thụy) phải co cụm trên nóc nhà
mình với sự bảo vệ của những người trong gia tộc và thôn xóm phải chăng
là điều cảnh báo cho sự bất lực của bộ máy quản lý mà lâu nay chúng ta
cứ ngỡ như là vững chãi và sự phục hồi sức mạnh hệ thống thân tộc, làng
họ cổ truyền. Sự khôi phục những sinh hoạt gia tộc và làng xã truyền
thống trong những năm gần đây có mối liên hệ gì không với những sự biến
này ?
Năm 1993, các đảng viên thuộc hai chi bộ ở xã Thụy Hải (Thái
Thụy) đã tổ chức dân hai thôn cầm vũ khí đánh nhau vì tranh chấp đất.
Người ta cũng rất tích cực trong việc đòi tách hợp tác xã và đòi chia
lại ruộng đất giữa các thôn. Những câu chuyện về “chi bộ họ ta”, về sự
kế nghiệp các bí thư và chủ tịch đã nghỉ quản lý bằng con, cháu của họ
vốn không chỉ xảy ra gần đây mà nó đã tiềm tàng từ lâu trong cộng đồng
làng xã khi đi vào hợp tác hóa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc khôi
phục các quan hệ và sinh hoạt văn hóa truyền thống ấy chính là cái giá
đỡ có hiệu quả cho quá trình chính trị hóa đời sống nông thôn hiện nay.
Nó có thể có ích cho công cuộc đổi mới hiện nay, nếu nó được hướng theo
những mục tiêu chung của đất nước và thời đại. Trong tình thế ngược lại
nó sẽ là lực cản to lớn cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân và sự
đi lên của đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Cần lưu ý rằng : “Làng là tế bào của xã hội Việt Nam. Xã hội
Việt Nam là sản phẩm của tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng
cư của người dân Việt trồng trọt. Hiểu được làng Việt là có trong tay cơ
sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên hiểu xã hội Việt nói riêng và xã
hội Việt Nam nói chung trong sự năng động lịch sử của nó, trong ứng xử
cộng đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các biểu hiện văn hóa của nó,
cả trong những phản ứng của nó trước những hình thái mà lịch sử đương
đại đặt vào nó” (***).
Chúng ta đang chứng kiến “những phản ứng của làng xã” trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó.
Mô hình văn hóa “làng họ” ăn sâu vào tâm thức và thế ứng xử
của người nông dân, đặc biệt là nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Trong các
thiết chế của làng xã cổ truyền, làng – họ là mối liên hệ đặc trưng. Hệ
thống thân tộc, các phe giáp, mối quan hệ người cùng làng đã phần nào
tạo ra đời sống ổn định, trung hòa bởi những đối kháng trong xã hội. Cái
cơ cấu làng – họ với những thiết chế cổ truyền ấy tưởng đã bị xóa bỏ để
thay vào đó thiết chế quyền lực mới : Đảng và Chính quyền ở xã. Trong
thực tế, ảnh hưởng của thiết chế bền vững xưa kia không tan biến mà chỉ
chìm sâu xuống mà thôi. Một khi uy lực và tín nhiệm của bộ máy quyền lực
hiện thời bị lung lay thì sức mạnh của thiết chế cũ lại trỗi dậy. Không
thấy điều này, sẽ không tìm ra được những giải pháp mang tính bền vững
trong việc xây dựng nông thôn mới, lại là nông thôn đang hướng tới sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Thổi bùng lên ngọn lửa từ lâu âm ỉ là thiếu sót của một bộ
phận khá lớn những cán bộ cấp cơ sở và những xử lý không đúng của các
cấp trên của họ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc xử lý và kỷ luật một
số cán bộ có sai lầm khuyết điểm mà thôi thì chưa đủ. Ðiều ấy là tuyệt
đối cần thiết để yên lòng dân, song chưa giải quyết được tận gốc những
nguyên nhân tích lũy, sự bùng nổ lại tiếp tục có thể diễn ra. Vì, tiếp
theo sau sự sa thải hoặc kỷ luật những cán bộ có sai lầm, những người
mới được bổ nhiệm sẽ lại tiếp tục hoạt động trong cái cơ chế vốn là
nguyên nhân của sự tham nhũng, lộng quyền, thiếu dân chủ, không đủ trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực thi chúc năng nhà nước tại cơ sở thì
con đường dẫn đến sai lầm của lớp cán bộ mới này là không tránh khỏi.
IV. Dân chủ và dân trí, sự vi phạm quyền dân chủ tại nông thôn
Nếu khởi đầu từ cấp cơ sở đi lên, thì thật sẽ hết sức ngạc
nhiên tại sao người nông dân lại có thể chịu đựng lâu đến như thế sự mất
dân chủ. Trước hết là vấn đề ruộng đất. Nếu việc trả lại ruộng đất cho
người nông dân tự quản là nền tảng lớn nhất và sơ khởi cho bất cứ loại
hình dân chủ nào thì hiện thực ở Thái Bình là, người nông dân thường
không biết được thật chính xác số đất họ có và với số đất đó họ phải nộp
những khoản gì, bao nhiêu và trên văn bản nào. Tất cả đã được tính sẵn
trong một quyển sổ bởi ai đó và hộ gia đình ở nhiều nơi không được giữ
quyển sổ đó, mà là do trưởng xóm giữ.
Chẳng thế mà sau những sự biến, ở nhiều nơi cán bộ xã (có thể
dưới sự chỉ đạo của cấp trên) đã lẳng lặng đến tuyên bố hoặc gạch bỏ
những khoản mục mà dân phải đóng góp và đã được ghi vào sổ. Bà con kháo
nhau, nếu cứ đà này thì vài năm là chúng ta có thể giàu ! Bằng những
chuyện thật mà cứ tưởng như đùa này, quyền làm chủ đất đai, ước mơ nghìn
đời của người nông dân trên thực tế đã bị vi phạm nghiêm trọng và khiến
cho mọi sự bàn cãi về thành tích dân chủ của một nông thôn mới quả là
một điều xa xỉ. “Nhà nước bảo thuế ruộng loại A nộp 19 kg/sào, xã thu
hơn 30 kg/sào, dân cứ phải đóng. Một gia đình có 3 mẹ con, một đứa con
đang đi học lớp 7, một đứa học lớp 4. Bà mẹ không may ngã gãy chân. Thế
là tiền thuốc men ngốn hết số thóc trong nhà, chưa thể đóng thuế được,
chỉ còn 20kg thóc trong nhà, xã cũng vào vét sạch thì còn dân với chủ gì
nữa”. Ðấy là lời của một cán bộ lão thành ở Thái Bình nói với chúng
tôi.
Tiếp đó, những dấu hiệu thông thường của nền dân chủ, dù chỉ
là hình thức, càng khó có thể nói là được tôn trọng. Một việc đơn giản
nhất là bầu trưởng xóm, một chức vụ được quy định bởi nhà nước và quy
trình bầu cũng được quy định bởi nhà nước, một nhân vật sống sát nhân
dân nhất, thì ngay việc bầu cử này người dân cũng không thật có quyền.
Hay đúng hơn là, người dân có quyền bầu ra một ông trưởng xóm làm đúng
những gì cấp trên quy định. Nếu không ông trưởng xóm đó sẽ được bãi
miễn, để thay bằng một ông trưởng xóm khác dễ bảo hơn (xã Tây Phong,
Tiền Hải).
Do vậy, khó có thể nói nền dân chủ mà chúng ta triển khai có
gì khá hơn nền dân chủ làng xã vốn đã tồn tại nghìn đời ở nông thôn Việt
Nam mà ngay cả chính quyền đô hộ thực dân Pháp trước năm 1945 cũng ngần
ngại không dám xóa bỏ. Ở một chiều cạnh khác của việc thực thi dân chủ
là ở tinh thần luật pháp. Ở đây cũng lại thể hiện một sự bất cập. Một số
cán bộ tin chắc rằng quyết nghị của Hội đồng nhân dân xã có thể là cơ
sở pháp lý tuyệt đối cho mọi hành vi của họ. Vì thế, chỉ cần thao túng
Hội đồng nhân dân là họ có ngay được những văn bản pháp lý cho những
quyết định mất dân chủ của họ. Còn ở phía một bộ phận nhân dân thì dường
như chế độ dân chủ bằng pháp luật chỉ có tính hình thức. Họ chỉ tin vào
một chế độ dân chủ trực tiếp, nơi mà họ có thể trực tiếp phát biểu ý
kiến và nguyện vọng của họ. Họ đã làm nên một sự kiện gần như cuộc “đảo
chính” khi họ giằng micro từ tay một cán bộ (xã Thái Thịnh, tháng 6/97)
để đọc bản đề nghị phế truất vị chủ tịch xã do chính họ bầu ra trước đây
và đề cử một người khác. Những cách quan niệm khác nhau và bất cập về
dân chủ trong xã hội không thể không dẫn tới những rối loạn chức năng
của tổ chức bộ máy nhà nước ở cấp xã, cái cần làm thì không làm, cái
không được phép thì cứ làm bừa.
Một đặc trưng khác của nền dân chủ là sự kiểm soát hữu hiệu
hoạt động của nền hành pháp. Và không thể nói người nông dân, hay thanh
tra nhân dân được bầu ra, lại có thể làm được điều nàỵ Một kiểm soát hữu
hiệu phải có thông tin, ấy vậy mà, chưa có cơ chế nào quy định để người
dân nắm được thông tin cần thiết. Với cơ chế “Ðảng lãnh đạo” được hiểu
một cách thô thiển theo kiểu đảng viên phải nắm tất cả mọi chức vụ, sự
kiểm tra cũng bị những người nhân danh Ðảng thao túng. Như vậy thì sự
dân chủ đã bị vi phạm trắng trợn.
Sự kiện Thái Bình diễn ra với đủ mọi lời đồn đại lan tràn,
nhưng truyền thông của tỉnh trong một thời gian dài đã không hề cung cấp
bất kỳ một thông tin nào về việc “vậy thì cái gì đang lan truyền trong
toàn thể các xã ở Thái Bình”. Còn khi được phép đưa tin thì lại đưa theo
một sự lựa chọn phiến diện, không phản ảnh được tình hình, không đáp
ứng được đòi hỏi của dân. Ðể nói về cái quyền sơ đẳng của nhân dân nhiều
nơi bị xâm phạm thô bạo, xin dẫn ra đây một ví dụ : Một trường hợp đẻ
con thứ ba (xã Tây Phong, Tiền Hải) bị phạt theo quy định. Nhằm nhanh
chóng thu tiền phạt, xã đã tự mình đặt tên cho con của gia đình bị phạt
và dẫn đến trường hợp rất hy hữu trong lịch sử : đứa bé có hai tên, tên
chính do chính quyền đặt và tên khác do bố mẹ đặt cho !
Quyền dân chủ bị xâm phạm, điều ấy quá rõ, điều ấy cũng lại
gắn với vấn đề dân trí. Có một sự thật phải chấp nhận, khi trình độ dân
trí chưa được nâng cao thì việc thực thi dân chủ không tránh khỏi những
lệch lạc. Ðiều dễ trông thấy nhất là chủ nghĩa bình quân trong dân chủ
làng xã, trong quan niệm dân chủ đó, phần lớn mọi người vẫn chỉ chia sẻ
một giá trị là sự chia đều cho tất mọi người những quyền lợi về vật chất
và về tinh thần mà xã hội đạt được và người ta có quyền duy trì và thực
hiện các quyền đó. Người ta không chấp nhận rằng có những người khác
lại có khấm khá hơn họ. Và sự phát triển dân trí trong những năm vừa qua
chỉ đủ đưa những người lãnh đạo phong trào nông dân, trong trường hợp
tốt nhất là tư tưởng thành lập một Hội Chống tham nhũng. “Bọn tham nhũng
như lũ chuột. Hội Chống tham nhũng là con mèo. Chỉ cần có hơi mèo là
chuột sợ”. Khởi đầu với lý lẽ như thế, rõ ràng là dễ đi vào lòng người,
sẽ được những kẻ quá khích cổ vũ cho cái triết lý trong cơ chế hiện nay
thì cứ Chí Phèo là được tất. Và đám đông bùng lên. Những người cầm đầu
với ý định rất tốt đẹp ban đầu không còn làm chủ được tình hình nữa.
Còn bên kia, các cán bộ chính quyền, nhất là cấp xã, cũng có
cùng mặc cảm dân chủ ấy, ngần ngại hành động. Và họ rất hận với chỉ thị
279 giảm đóng góp của dân xuống. Vì theo họ, đấy là chỉ báo cho cái sự
dân chủ Chí Phèo phát triển.
V. Những nhu cầu khác chưa được đáp ứng
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, đảm bảo
dân chủ nâng cao dân trí, xã hội hiện đại cần đến một loạt các thiết chế
xã hội để đảm bảo sự hiểu biết lẫn nhau tốt hơn giữa con người trên căn
bản tôn trọng cá nhân. Xã hội hiện đại còn là một sự hài hòa giữa lao
động và sử dụng hợp lý thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là khi có sự tăng
trưởng kinh tế.
Chúng ta đứng trước hiện tượng là Thái Bình là một trong
những tỉnh khá nhất của nông thôn Bắc Bộ, kinh tế có lên tuy chưa nhiều
so với tiêu chuẩn hiện đại nhưng là rất cao so với những ngày trước năm
1945. Học vấn cũng vậy. Ấy thế mà việc tạo ra những điều kiện để sử dụng
thời gian nhàn rỗi là gần như con số không. Thanh niên sau khi được học
hành đã không thể tìm được một cách giải trí tích cực nào ngoài việc
giải trí thụ động là xem tivi. Trong khi đó tuổi kết hôn lại được nâng
cao đến thừa sinh lực. Thanh niên cũng không có chỗ để thực thi trình độ
hiểu biết của mình do phải tuân thủ truyền thống “trọng xỉ”, dù cho đã
có văn hóa, nhưng xem ra vẫn còn “trẻ quá” để thay thế các bậc cha chú
do vậy họ cũng chưa có chỗ để sử dụng. Trong các đám đập phá ở nông thôn
Thái Bình người ta quan sát thấy chủ yếu là thanh niên, với những mô
hình hiệp khách du nhập một cách bập bõm qua các phương tiện thông tin
đại chúng cũng là điều để chúng ta suy nghĩ kỹ hơn về nguyên nhân.
Ðối với các nhóm tuổi khác, đặc biệt là phụ nữ, tình hình còn
bi kịch hơn. Ruộng đất còn ít, nghề phụ không có, người ta không biết
sử dụng lao động của mình làm gì. Những truyền thống và tập tục văn hóa
ngày xưa thì phần lớn đã bị tiêu vùi trong những năm tháng trước đây.
Việc phá đình chùa cuối cùng ở Thái Bình là vào những năm đầu thập kỷ
80. Một sự trống trải trên bình diện văn hóa tinh thần, cái dù sao đi
chăng nữa cũng đào tạo cho con người ta một nhân cách, dù là nhân cách
cam chịu, sự trống trải đó sẽ dẫn tới những hệ lụy mà không phải lúc nào
người lãnh đạo cũng cảm nhận được. Và không có cái gì dễ thay thế nó.
Văn hóa mới, hướng nhiều về vật chất, lại cao hơn mức mà kinh tế nông
thôn Thái Bình cho phép.
Những tổ chức, thể chế xã hội được xây dựng nên trong những
năm tháng đã qua. Ðoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Phụ lão, v.v. dần dần
rơi vào trạng thái phần nào hữu danh vô thực. Những tổ chức này có một
thời đã đóng một vai trò rất tích cực nhưng giờ đây hình như không còn
sức hấp dẫn người dân nữa. Tất cả những thiết chế xã hội này đều vẫn
đang hoạt động, nhưng có vẻ như nó đã không đáp ứng được mục tiêu : tạo
một sự đồng cảm xã hội.
Trong khi đó, những loại hình tổ chức khác bắt đầu được lập
ra : các hội từ thiện, các tổ chức phi chính phủ, v.v. lại cũng chưa
phát huy được tác dụng bao nhiêu. Người ta dường như cũng cảm nhận rằng
những loại hình thức tổ chức đó cũng chẳng đáp ứng được gì cho nhu cầu
tinh thần và giao tiếp xã hội của người dân vì vẫn là những con người cũ
làm những việc đó.
Do vậy, một mặt người dân tiêu chỗ tiền phụ trội ít ỏi có
được của họ vào ma chay, cưới xin và những cái hủ tục khác nữa như uống
rượu hoặc đánh số đề. Và mặt khác, tâm linh họ lại hướng mạnh về tôn
giáo tín ngưỡng. Có thể thấy ở nông thôn tất cả các bà, các chị từ 30
tuổi trở lên đều chăm chỉ tham gia lễ chùa hoặc đi nhà thờ đều đặn.
Nên chỉ riêng quan sát ngôi chùa ở nông thôn thì có thể thấy
thiết chế này trong bối cảnh hiện nay là trở nên rất hữu ích cho người
dân nông thôn : thỏa mãn phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần, rèn luyện
tình người cho con người. Hơn thế, nó còn là nơi cưu mang cho những cuộc
đời bất trắc, cái mà ở thời nào cũng có. Ðặc biệt là với một nông thôn
mà không có gia đình nào không có người phải nằm xuống trong cuộc chiến
tranh. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các sư giữ chùa làng là những
người phụ nữ có số phận dở dang, trong số đó có nhiều người trở về sau
những năm tháng chiến đấu trong trong hàng ngũ thanh niên xung phong,
chống Mỹ cứu nước.
Và nhà thờ Thiên chúa giáo cũng đang hoạt động tích cực như
một lực lượng cứu rỗi linh hồn. Họ có đủ đức tin và nguồn tài chính để
đi vào trong quần chúng. Ðiều này thật đáng phải suy nghĩ.
Kết luận
Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ
hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế,
văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách
lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa
và hiện đại hóa.
Khi cái nhọt đã bục vỡ, nếu biết cách xử lý, nỗi đau sẽ giảm
nhẹ đi rất nhiều và phần cơ thể nhiễm khuẩn sẽ lành mạnh trở lại. Ðiều
ấy là dễ hiểu song không dễ chấp nhận, không dễ có một thái độ dám nhìn
thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật với một sự dũng cảm mổ xẻ, phân tích
để tìm ra đúng nguyên nhân. Nếu không tìm ra đúng nguyên nhân của sự
kiện, chỉ dừng lại trên bề mặt của hiện tượng, đối phó bị động và tạm
thời bằng những giải pháp chắp vá, thì nhất thời có thể tạm yên được sự
bùng nổ, nhưng cái đẩy tới sự bùng nổ thì vẫn còn nguyên, thậm chí còn
nung nấu them, đây là một logic tất yếu mà mọi sự bưng bít, che đậy hay
xuyên tạc sẽ gánh chịu những hệ lụy khó lường.
Hơn nữa, sự kiện Thái Bình không là ngẫu nhiên và duy nhất.
Cái đáng ngạc nhiên – nếu có ai đó có sự ngạc nhiên – thì tại sao lại
xảy ra đúng ở Thái Bình, lá cờ đầu của sản xuất nông nghiệp và xây dựng
nông thôn mới, cái xót xa là ở những điểm nóng nơi dân đòi hạ bệ hoặc
bắt dẫn lên huyện cán bộ Ðảng và Chính quyền xã mà không gặp sự phản
kháng nào của Ðảng viên, mà những nơi ấy lại vừa được tuyên dương là
đảng bộ vững mạnh! Sự kiện Thái Bình có những nguyên cớ ngẫu nhiên, đặc
thù, song vấn đề nông dân trỗi dậy đòi quyền lợi về kinh tế, về chính
trị, về xã hội thì không còn là cá biệt và ngẫu nhiên chỉ xảy ra ở Thái
Bình. Do đó, giải quyết đúng sự kiện Thái Bình cũng chính là giải quyết
đúng vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân hiện nay. Trên cơ sở khảo
sát nhanh sự kiện Thái Bình, từ sự tiếp cận xã hội học, chúng tôi hình
dung các kịch bản có thể diễn ra như sau:
1. Kịch bản thứ nhất :
Bị động đối phó bằng cách, một mặt giảm bớt các khoản phải
đóng góp của dân, mặt khác trấn áp những đối tượng được nhận định là
người cầm đầu, người kích động dân, người có hành vi hung đồ phạm pháp.
Tiếp đó dần dần xem xét và kỷ luật hoặc loại bỏ một số cán bộ tham nhũng
mất lòng dân, xem xét lại một số văn bản, quyết định từ cấp xã, cấp
huyện, cấp tỉnh để có sửa đổi hợp lý, hợp lòng dân, kiện toàn lại bộ máy
Đảng và Chính quyền ở cấp xã, loại bỏ những người tham nhũng quá đáng,
quá mất phẩm chất, không có khả năng quản lý, bổ sung những cán bộ tốt,
có phẩm chất, có năng lực, được dân tin.
Ðộng viên sức dân, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế – xã
hội, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn, nông
nghiệp, cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nông dân.
2. Kịch bản thứ hai :
Trung ương và tỉnh cử người về tại những điểm nóng, họp toàn
thể nhân dân, công khai tiếp nhận kiến nghị, trực tiếp trả lời cho dân
một số vấn đề có thể trả lời được ngay, ghi nhận những điểm cần tiếp tục
xem xét để trả lời dân sau đó. Ở những nơi khác, cũng có thể làm tương
tự với đại diện của tỉnh, huyện và một số ngành chức năng. Cách chức
những cán bộ Ðảng và Chính quyền đã có bằng chứng là tham nhũng nặng,
mất hết uy tín trong dân ; công khai tự phê bình những sai lầm về chủ
trương, giải pháp không đúng với đường lối chính sách của Ðảng và nhà
nước, làm thiệt hại đến lợi ích của dân. Cùng với việc đó, xử lý trong
pháp luật những phần tử manh động và kích động quần chúng gây thiệt hại
về vật chất và tinh thần cho cán bộ và cho dân, cho tài sản công cộng.
Kiện toàn bộ máy quản lý cấp xã, Đảng và Chính quyền bổ sung
những cán bộ có phẩm chất được dân tín nhiệm. Sửa đổi và hoàn thiện cơ
chế mới phát huy được sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh sản xuất phát triển
kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông
dân, từng bước thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.
3. Kịch bản thứ ba
Công khai phê bình và tự phê bình về những sai lầm của cán bộ
lãnh đạo xã, huyện và tỉnh trong việc ban hành và áp đặt những chủ
trương, giải pháp không phù hợp với đường lối Ðổi mới của Ðảng, làm mất
lòng dân, gây phẫn nộ trong quần chúng. Xử lý thích đáng những cán bộ
Ðảng và Nhà nước ở các cấp xã, huyện, tỉnh mắc sai lầm nghiêm trọng đã
được dân chỉ ra, những người chịu trách nhiệm về việc ban hành những văn
bản, chỉ thị sai lầm, gây thiệt hại cho dân, làm mất uy tín của Ðảng và
Nhà nước. Song song với công việc trên, dựa vào pháp luật để xử lý
thích đáng những người lợi dụng phong trào quần chúng nhằm thực hiện
những mưu đồ cá nhân, vi phạm luật pháp, làm hại đến lợi ích vật chất và
tinh thần của cán bộ, nhân dân và tài sản công cộng.
Nhanh chóng xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải tạo cơ bản bộ
máy hành chính trên căn bản hoạt động theo chức năng, do vậy, phải bổ
nhiệm những cán bộ được đào tạo nghiệp vụ hành chính, có phẩm chất đạo
đức và được dân tin. Phân định rõ chức năng của cơ quan Ðảng và cơ quan
hành chính Nhà nước để có hệ thống kiểm tra, chỉ huy thông suốt đến cấp
xã, nơi trực tiếp với công sản hàng ngày của dân.
Trên cơ sở ổn định xã hội mà mấu chốt là sự đồng thuận xã
hội, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế và xã hội theo cơ chế thị
trường của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được vận dụng sáng tạo
trên địa bàn nông thôn. Tạo ra động lực phát triển bằng việc xử lý thỏa
đáng mối quan hệ lợi ích của người nông dân và nghĩa vụ xã hội, nghĩa vụ
với đất nước trên căn bản của nhận thức đúng về vai trò và lực lượng
của người nông dân trong giai đoạn lịch sử mới. Từ đó, có những sửa đổi
lớn về mặt chính sách trên hướng Ðổi mới và sáng tạo để thực sự phát huy
sức mạnh nội sinh, đưa nông nghiệp, nông thôn, nông dân vào công nghiệp
hóa và hiện đại hóa.
Ba kịch bản nói trên cũng chỉ là những dự báo căn cứ vào
những gì đang diễn ra. Ðương nhiên, điều mong muốn của người làm khoa
học là muốn được thấy kịch bản thứ hai được chuyển dần sang kịch bản thứ
ba.
Nông thôn và nông nghiệp của chúng ta từ sau Nghị quyết 10
vẫn đang phát triển trên căn bản của kinh tế hộ gia đình nông dân. Ðể
cho hộ kinh tế gia đình chuyển dần từ hộ sản xuất tự cấp tự túc sang hộ
kinh tế sản xuất hàng hóa còn là những phấn đấu gian khổ với rất nhiều
điều kiện được tạo ra. Một trong những điều kiện tiên quyết nhất là phải
có những thể chế thích hợp với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước bằng các
cơ chế chính sách vĩ mô.
Sự biến Thái Bình sẽ là một cái hích mạnh mẽ cho những quyết
sách đúng đắn để giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Mà
nếu như vậy thì trong cái rủi có cái may.
Một điều tưởng như đã chìm vào trong quá khứ : mọi chính
quyền nhà nước qua các biến thiên của lịch sử đều phải đối diện với nông
dân, nông thôn, nông nghiệp ở một nước mà hệ văn minh lúa nước ở vùng
nhiệt đới gió mùa chi phối toàn bộ đời sống. Từ tháng 8 năm 45, chúng ta
cứ tưởng là với công nông liên minh là nền tảng, nhà nước ta đã không
phải lo sự đụng độ và đối đầu với cái biển nông dân mênh mông và mãnh
liệt ấy. Thế mà giờ đây, hóa ra chính nhà nước công nông của ta cũng vẫn
đang đứng trước một thách đố mới của câu chuyện cũ. Chỉ có điều, lịch
sử phát triển theo đường xoáy trôn ốc. Vì vậy, lịch sử lại càng đòi hỏi
bản lĩnh của Ðảng và nhà nước mà sứ mệnh của mình là xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng văn minh đi lên chủ nghĩa xã hội phải giải quyết một cách
thỏa đáng và vững chắc vấn đề nông dân. Ðặc biệt là, khi chúng ta quyết
tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ta, một
nước mà 80% cư dân sống ở nông thôn, thì vấn đề công nghiệp hóa và hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn càng là vấn đề bức xúc. Không làm sáng tỏ
vấn đề này thì chưa thể định hướng được rõ đường lối công nghiệp hóa và
hiện đại hóa. Một lần nữa vấn đề nông dân lại được đặt ra !
Ngày 8 tháng 8 năm 1997
Chú thích:
(*) Theo kế hoạch kinh tế năm 1992 của tỉnh – tháng 1.1992.
(**) Chỉ thị của chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình ký ngày 11.6.97
“Về việc chấn chỉnh, thu, quản lý và sử dụng các loại quỹ, các khoản
thu của xã, phường, thị trấn và hợp tác xã nông nghiệp”.
(***) Nguyễn Từ Chi “Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người” – Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội, 1996, trang 177.