Tham Khảo
“Hãy cất lên tiếng nói…”
B Huỳnh Duy Lộc
Cách đây hơn 200 năm, 13 thuộc địa của Anh ở tân lục địa đã cùng cất lên tiếng nói chống bạo quyền qua Bản Tuyên ngôn độc lập do Thomas Jefferson chấp bút. Tác giả Fawn M. Brodie đã viết về việc soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập bất hủ này:
“Ngày 11 tháng 6 năm 1776, Đại hội lục địa ở Philadelphia đã bầu ra 5 người để soạn thảo Bản Tuyên ngôn độc lập và điều khiến nhiều người ngạc nhiên là Thomas Jefferson, khi ấy mới 37 tuổi, là người có số phiếu cao nhất. Thomas Jefferson đã đề nghị John Adams chấp bút, nhưng ông đã từ chối. 46 năm sau, John Adams đã kể lại cuộc đối thoại khi ấy giữa ông và Thomas Jefferson:
“Jefferson hỏi tôi: “Tại sao anh không chịu viết? Anh phải là người chấp bút”.
Tôi đáp: “Tôi có đủ mọi lý do”.
Jefferson hỏi: “Anh có những lý do nào vậy?”
Tôi đáp: “Lý do thứ nhất: Anh là người ở Virginia và một người ở bang Virginia phải chủ trì việc soạn thảo Bản Tuyên ngôn độc lập. Lý do thứ hai: Nhiều người ghét tôi, nghi ngờ tôi và tôi cũng không được lòng mọi người. Anh là một người khác hẳn. Lý do thứ ba: Anh có thể viết hay hơn tôi gấp 10 lần”.
Jefferson nghe vậy liền nói: “Thôi được, nếu anh đã quyết định như vậy thì tôi sẽ gắng sức…” (Thomas Jefferson, An intimate history, Fawn M. Brodie, tr. 142-143)
Sử gia Samuel Eliot Morrison đã mô tả bầu không khí sôi động trong đó Bản Tuyên ngôn độc lập được soạn thảo:
“Tin tức về đạo luật ban hành ngày 22 tháng 12 năm 1775 cấm mọi giao thương và liên lạc với 13 thuộc địa đến Mỹ chỉ một thời gian ngắn sau ngày ra mắt cuốn sách mỏng có nhan đề ‘Common sense’ (Lương tri) của Thomas Paine, một người Anh theo giáo phái Quaker chỉ mới sống ở Bắc Mỹ một thời gian ngắn. Cuốn sách ‘Common sense’ của Paine đã làm cho cuộc tranh luận trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết khi thuyết phục được những kẻ hoài nghi và củng cố thêm niềm tin của những kẻ đã bị thuyết phục. Những lý lẽ của ông chống lại việc tiếp tục cuộc chiến để phục vụ vua Anh và khuyến khích việc tuyên bố độc lập rất xác đáng và có sức thu hút mạnh mẽ. Muốn có tiền để mua vũ khí và đạn dược, phải tái lập giao thương với vùng Tây Ấn (West Indies) của Anh và những nước khác trên thế giới. Một cuộc chiến muốn thành công phải được tiến hành vì một mục tiêu lớn lao hơn. Sự hòa giải với mẫu quốc trên một nền tảng có thể chấp nhận được là điều không thể có được nữa, và nếu như có sự hòa giải, sẽ không có gì đảm bảo rằng Quốc hội Anh sẽ không ban hành những đạo luật mới xâm phạm những quyền tự do của 13 thuộc địa. Chỉ có sự độc lập hoàn toàn mới là sự đảm bảo duy nhất cho tự do của người Mỹ. Chỉ khi nào có độc lập, người Mỹ mới có thể nhận viện trợ của nước ngoài. Một nước Mỹ độc lập sẽ có thể giao thương với cả thế giới, chế tạo những gì mình thích và tách mình ra khỏi những cuộc tranh cãi với cựu lục địa. “Sự khao khát quyền lực tuyệt đối là chứng bệnh tự nhiên của chế độ quân chủ” và vua George III, vốn là một bạo chúa hà khắc, đã vi phạm “thỏa ước” giữa chính mình với dân chúng nên không còn bảo vệ quyền lợi của họ và do đó đã không còn có thể buộc họ phải vâng phục và trung thành với mình.
Phong trào hướng tới độc lập đã được cổ xúy bởi một hội nghị ở Virginia tập hợp các đại biểu đã lật đổ thống đốc Dunmore và hội đồng do mẫu quốc Anh lập ra. Khi gặp nhau tại Williamsburg vào đầu tháng 5 năm 1776, các đại biểu tham dự hội nghị rất phẫn nộ khi hay tin vua George III đã phái 12.000 lính đánh thuê người Đức sang Bắc Mỹ để đàn áp cuộc nổi dậy. Ngày 15 tháng 5, hội nghị Virginia giao cho các đại biểu nhiệm vụ tuyên bố “sự tự do và độc lập của các thuộc địa đã hiệp nhất” tại Đại hội lục địa (Continental Congress). Hội nghị cử ra một ủy ban dưới sự chủ trì của George Mason để soạn thảo một tuyên cáo về những quyền hạn và lên kế hoạch thành lập một quốc gia độc lập. George Mason khi ấy đã 57 tuổi, được coi là thủ lĩnh của các chính khách ở Virginia, vốn là người không ưa thích chính trị, nhưng khi được kêu gọi đã sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Ông đã đề xuất Đạo luật về quyền hạn của bang Virginia và hội nghị đã thong qua vào ngày 12 tháng 6 năm 1776, đạo luật có rất nhiều điểm tương đồng với những đạo luật sẽ được ban hành sau này ở Mỹ. Rồi ngày 29 tháng 6, hội nghị đã thông qua hiến pháp của quốc gia độc lập Virginia.
Tại Đại hội lục địa, John Adams ghi nhận: “Từ khắp nơi và mỗi ngày, sự độc lập chảy tràn đến chân chúng tôi giống như một dòng thác”. Các đại biểu của bang Georgia xuất hiện với đầy đủ quyền hạn để bầu chọn sự độc lập. Bang South Carolina trục xuất thống đốc của Anh và bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Những quyết định của bang Virginia được tuyên đọc tại Đại hội lục địa và ngày 7 tháng 6, Richard Henry Lee đề xuất một quyết nghị: “Hiệp chủng quốc thật sự và có quyền trở thành những quốc gia độc lập, không còn bị ràng buộc bởi sự trung thành với vua Anh và mọi liên hệ chính trị giữa Hiệp chủng quốc và nước Anh phải được xóa bỏ hoàn toàn…”
Việc thông qua quyết nghị này bị trì hoãn vì các đại biểu của New York, Pennsylvania, Delaware và South Carolina chưa chuấn bị sẵn sàng để bỏ phiếu. Thế là ngày 11 tháng 6, Đại hội lục địa chỉ định một tiểu ban gồm 5 người để chuẩn bị một bản tuyên ngôn độc lập: Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert R. Livingston. Tiểu ban đã giao cho Thomas Jefferson việc phác thảo bản tuyên ngôn độc lập. Từ ngày Jefferson phác thảo tới ngày 28 tháng 6, khi tiểu ban đọc bản tường trình của mình trước Đại hội lục địa, có 3 người đã bỏ công sức chỉnh sửa bản dự thảo là John Adams, Benjamin Franklin và chính tác giả là Thomas Jefferson. Đại hội cũng chỉnh sửa một số điểm quan trọng trong một buổi thảo luận. Trong bản dự thảo của Jefferson có một đoạn công kích vua George III đã ngăn cấm những biện pháp hội đồng Virginia đã thực hiện để chống lại việc buôn bán nô lệ từ châu Phi, nhưng các đại biểu Virginia đã phản đối nên đoạn này bị xóa. Jefferson có thổ lộ: “Tôi chẳng dựa theo một cuốn sách hay một tập sách mỏng (pamphlet) nào khi soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập”, nhưng ai cũng thấy ông đã nhớ tới những nguyên lý và ngôn ngữ của John Locke trong cuốn tiểu luận “Second treatise of Government” (1690). Lý thuyết nền tảng của Bản Tuyên ngôn độc lập là lý thuyết về thỏa ước xã hội đã có trước biện minh cho sự tồn tại của chính quyền. Có những quyền hạn của con người mà không một chính quyền nào có thể tước đoạt và một khi nhà vua không còn tôn trọng những quyền hạn ấy và xác lập một chế độ cai trị bạo tàn, thỏa ước sẽ bị phá vỡ và các thần dân có quyền không tuân phục và không trung thành nữa.
Tiểu ban 5 người đọc bản tường trình trước Đại hội lục địa và điều khoản chính của bản tuyên ngôn được thông qua ngày 2 tháng 7. Sau khi chỉnh sửa một vài câu chữ, bản tuyên ngôn được chính thức thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1776. Ngày hôm sau, những bản in của Bản Tuyên ngôn độc lập được gởi cho các thuộc địa giờ đây đã trở thành những quốc gia độc lập và cho quân đội. Bản Tuyên ngôn độc lập được tuyên đọc từ trên bao lơn tòa nhà Independence Hall vào ngày 8 tháng 7 và ngày 19 tháng 7, Đại hội lục địa đã tiến hành nghi thức ký vào đó”. (The Oxford history of the American people, Samuel Eliot Morison, tr. 219, 220, 221)
Toàn văn Bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ
Kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ mới đây cho thấy nguy cơ tái xuất hiện của chủ nghĩa Tân phát xít ở xứ sở của Thomas Jefferson. Nhà báo Dan Rather đã kêu gọi người dân Mỹ cất lên tiếng nói chống chủ nghĩa cực đoan:
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
“Hãy cất lên tiếng nói…”
Cách đây hơn 200 năm, 13 thuộc địa của Anh ở tân lục địa đã cùng cất lên tiếng nói chống bạo quyền qua Bản Tuyên ngôn độc lập do Thomas Jefferson chấp bút. Tác giả Fawn M. Brodie đã viết về việc soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập bất hủ này:
“Ngày 11 tháng 6 năm 1776, Đại hội lục địa ở Philadelphia đã bầu ra 5 người để soạn thảo Bản Tuyên ngôn độc lập và điều khiến nhiều người ngạc nhiên là Thomas Jefferson, khi ấy mới 37 tuổi, là người có số phiếu cao nhất. Thomas Jefferson đã đề nghị John Adams chấp bút, nhưng ông đã từ chối. 46 năm sau, John Adams đã kể lại cuộc đối thoại khi ấy giữa ông và Thomas Jefferson:
“Jefferson hỏi tôi: “Tại sao anh không chịu viết? Anh phải là người chấp bút”.
Tôi đáp: “Tôi có đủ mọi lý do”.
Jefferson hỏi: “Anh có những lý do nào vậy?”
Tôi đáp: “Lý do thứ nhất: Anh là người ở Virginia và một người ở bang Virginia phải chủ trì việc soạn thảo Bản Tuyên ngôn độc lập. Lý do thứ hai: Nhiều người ghét tôi, nghi ngờ tôi và tôi cũng không được lòng mọi người. Anh là một người khác hẳn. Lý do thứ ba: Anh có thể viết hay hơn tôi gấp 10 lần”.
Jefferson nghe vậy liền nói: “Thôi được, nếu anh đã quyết định như vậy thì tôi sẽ gắng sức…” (Thomas Jefferson, An intimate history, Fawn M. Brodie, tr. 142-143)
Sử gia Samuel Eliot Morrison đã mô tả bầu không khí sôi động trong đó Bản Tuyên ngôn độc lập được soạn thảo:
“Tin tức về đạo luật ban hành ngày 22 tháng 12 năm 1775 cấm mọi giao thương và liên lạc với 13 thuộc địa đến Mỹ chỉ một thời gian ngắn sau ngày ra mắt cuốn sách mỏng có nhan đề ‘Common sense’ (Lương tri) của Thomas Paine, một người Anh theo giáo phái Quaker chỉ mới sống ở Bắc Mỹ một thời gian ngắn. Cuốn sách ‘Common sense’ của Paine đã làm cho cuộc tranh luận trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết khi thuyết phục được những kẻ hoài nghi và củng cố thêm niềm tin của những kẻ đã bị thuyết phục. Những lý lẽ của ông chống lại việc tiếp tục cuộc chiến để phục vụ vua Anh và khuyến khích việc tuyên bố độc lập rất xác đáng và có sức thu hút mạnh mẽ. Muốn có tiền để mua vũ khí và đạn dược, phải tái lập giao thương với vùng Tây Ấn (West Indies) của Anh và những nước khác trên thế giới. Một cuộc chiến muốn thành công phải được tiến hành vì một mục tiêu lớn lao hơn. Sự hòa giải với mẫu quốc trên một nền tảng có thể chấp nhận được là điều không thể có được nữa, và nếu như có sự hòa giải, sẽ không có gì đảm bảo rằng Quốc hội Anh sẽ không ban hành những đạo luật mới xâm phạm những quyền tự do của 13 thuộc địa. Chỉ có sự độc lập hoàn toàn mới là sự đảm bảo duy nhất cho tự do của người Mỹ. Chỉ khi nào có độc lập, người Mỹ mới có thể nhận viện trợ của nước ngoài. Một nước Mỹ độc lập sẽ có thể giao thương với cả thế giới, chế tạo những gì mình thích và tách mình ra khỏi những cuộc tranh cãi với cựu lục địa. “Sự khao khát quyền lực tuyệt đối là chứng bệnh tự nhiên của chế độ quân chủ” và vua George III, vốn là một bạo chúa hà khắc, đã vi phạm “thỏa ước” giữa chính mình với dân chúng nên không còn bảo vệ quyền lợi của họ và do đó đã không còn có thể buộc họ phải vâng phục và trung thành với mình.
Phong trào hướng tới độc lập đã được cổ xúy bởi một hội nghị ở Virginia tập hợp các đại biểu đã lật đổ thống đốc Dunmore và hội đồng do mẫu quốc Anh lập ra. Khi gặp nhau tại Williamsburg vào đầu tháng 5 năm 1776, các đại biểu tham dự hội nghị rất phẫn nộ khi hay tin vua George III đã phái 12.000 lính đánh thuê người Đức sang Bắc Mỹ để đàn áp cuộc nổi dậy. Ngày 15 tháng 5, hội nghị Virginia giao cho các đại biểu nhiệm vụ tuyên bố “sự tự do và độc lập của các thuộc địa đã hiệp nhất” tại Đại hội lục địa (Continental Congress). Hội nghị cử ra một ủy ban dưới sự chủ trì của George Mason để soạn thảo một tuyên cáo về những quyền hạn và lên kế hoạch thành lập một quốc gia độc lập. George Mason khi ấy đã 57 tuổi, được coi là thủ lĩnh của các chính khách ở Virginia, vốn là người không ưa thích chính trị, nhưng khi được kêu gọi đã sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Ông đã đề xuất Đạo luật về quyền hạn của bang Virginia và hội nghị đã thong qua vào ngày 12 tháng 6 năm 1776, đạo luật có rất nhiều điểm tương đồng với những đạo luật sẽ được ban hành sau này ở Mỹ. Rồi ngày 29 tháng 6, hội nghị đã thông qua hiến pháp của quốc gia độc lập Virginia.
Tại Đại hội lục địa, John Adams ghi nhận: “Từ khắp nơi và mỗi ngày, sự độc lập chảy tràn đến chân chúng tôi giống như một dòng thác”. Các đại biểu của bang Georgia xuất hiện với đầy đủ quyền hạn để bầu chọn sự độc lập. Bang South Carolina trục xuất thống đốc của Anh và bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Những quyết định của bang Virginia được tuyên đọc tại Đại hội lục địa và ngày 7 tháng 6, Richard Henry Lee đề xuất một quyết nghị: “Hiệp chủng quốc thật sự và có quyền trở thành những quốc gia độc lập, không còn bị ràng buộc bởi sự trung thành với vua Anh và mọi liên hệ chính trị giữa Hiệp chủng quốc và nước Anh phải được xóa bỏ hoàn toàn…”
Việc thông qua quyết nghị này bị trì hoãn vì các đại biểu của New York, Pennsylvania, Delaware và South Carolina chưa chuấn bị sẵn sàng để bỏ phiếu. Thế là ngày 11 tháng 6, Đại hội lục địa chỉ định một tiểu ban gồm 5 người để chuẩn bị một bản tuyên ngôn độc lập: Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert R. Livingston. Tiểu ban đã giao cho Thomas Jefferson việc phác thảo bản tuyên ngôn độc lập. Từ ngày Jefferson phác thảo tới ngày 28 tháng 6, khi tiểu ban đọc bản tường trình của mình trước Đại hội lục địa, có 3 người đã bỏ công sức chỉnh sửa bản dự thảo là John Adams, Benjamin Franklin và chính tác giả là Thomas Jefferson. Đại hội cũng chỉnh sửa một số điểm quan trọng trong một buổi thảo luận. Trong bản dự thảo của Jefferson có một đoạn công kích vua George III đã ngăn cấm những biện pháp hội đồng Virginia đã thực hiện để chống lại việc buôn bán nô lệ từ châu Phi, nhưng các đại biểu Virginia đã phản đối nên đoạn này bị xóa. Jefferson có thổ lộ: “Tôi chẳng dựa theo một cuốn sách hay một tập sách mỏng (pamphlet) nào khi soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập”, nhưng ai cũng thấy ông đã nhớ tới những nguyên lý và ngôn ngữ của John Locke trong cuốn tiểu luận “Second treatise of Government” (1690). Lý thuyết nền tảng của Bản Tuyên ngôn độc lập là lý thuyết về thỏa ước xã hội đã có trước biện minh cho sự tồn tại của chính quyền. Có những quyền hạn của con người mà không một chính quyền nào có thể tước đoạt và một khi nhà vua không còn tôn trọng những quyền hạn ấy và xác lập một chế độ cai trị bạo tàn, thỏa ước sẽ bị phá vỡ và các thần dân có quyền không tuân phục và không trung thành nữa.
Tiểu ban 5 người đọc bản tường trình trước Đại hội lục địa và điều khoản chính của bản tuyên ngôn được thông qua ngày 2 tháng 7. Sau khi chỉnh sửa một vài câu chữ, bản tuyên ngôn được chính thức thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1776. Ngày hôm sau, những bản in của Bản Tuyên ngôn độc lập được gởi cho các thuộc địa giờ đây đã trở thành những quốc gia độc lập và cho quân đội. Bản Tuyên ngôn độc lập được tuyên đọc từ trên bao lơn tòa nhà Independence Hall vào ngày 8 tháng 7 và ngày 19 tháng 7, Đại hội lục địa đã tiến hành nghi thức ký vào đó”. (The Oxford history of the American people, Samuel Eliot Morison, tr. 219, 220, 221)
Toàn văn Bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ
Kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ mới đây cho thấy nguy cơ tái xuất hiện của chủ nghĩa Tân phát xít ở xứ sở của Thomas Jefferson. Nhà báo Dan Rather đã kêu gọi người dân Mỹ cất lên tiếng nói chống chủ nghĩa cực đoan: