Tham Khảo
BÀN VỀ CHỮ “TÀI” VÀ CHỮ “ĐỨC” CỦA CÁC LÃNH TỤ CỘNG SẢN_NGUYỄN THU TRÂM
Lăng Kim Nhật Thành mỗi năm tiêu tốn 450 triệu Mỹ Kim để và vận hành |
-Thưa "Bác", hôm nay Bác có khách ạ?
Các cán bộ cần vụ ngơ ngác nhìn "Bác", chưa hiểu ý "Bác" nói gì, nhưng mặc dù đã đem thêm bát đũa lên, mà "Bác" vẫn chưa bắt đầu ăn, thì rõ ràng là "Bác" còn đợi ai đó rồi. Mọi người lấy làm lo lắng dòm trước, ngó sau song tuyệt nhiên không thấy ai vậy mà "Bác" bảo là khách đã đến từ lâu rồi!
- Xin mời anh Tạ Đình Đề vào ăn cơm trưa với tôi!
Bác Hồ đứng dậy, tiến đến vị khách không mời chìa tay thân thiện nhìn với ánh mắt thật tươi. "Bác" chỉ ghế, mời Tạ Đình Đề ngồi xuống bên bàn ăn.
Tạ Đình Đề rút trong người ra một khẩu súng lục có gắn một ống giảm thanh, tháo những viên đạn có đầu sơn đỏ ra, cùng với một ống nhòm, một bản đồ Dinh Chủ Tịch, một số giấy tờ tùy thân được làm giả v.v... trao cho nhân viên cận vệ . Xong đâu đấy Tạ Đình Đề móc từ trong kẽ răng ra một viên thuốc độc dành cho mình trong trường hợp bại lộ đặt lên thành mâm cơm trên bàn ăn.
Lời đầu tiên là một điều minh xác
Thư này được viết với tư cách một công dân
Sinh đẻ tại Việt Nam, lớn lên và lập thân
Rồi đi xa, nhưng vẫn nhớ quê hương ngào nghẹn
Tôi không gửi thư đến ông như một người kiếm chuyện
Làm quen ông, một chức vụ lẫy lừng
Ðể sau này, có cơ hội tưng bừng
Về đất nước, bon chen, kiếm chút cháo
Tôi cũng không phải là người táo bạo
Tìm cách gần ông, một triệu phú giầu nhất vùng
Nhất Việt Nam, nhất Ðông Á, tài sản nhiều vô cùng
Nếu được ông cho một chút lẻ, cũng tiêu hoài không hết
Những biệt thự Hồ Tây, những công ty hàng may, hàng dệt
Những cổ phần con cháu đứng tên giùm
Vợ lớn, bồ nhí, hộ lý,cần vụ, từng chùm
Một cái chỉ tay, người người cúc cung, tận tụy
Những trương mục rải khắp nơi, Mỹ, Tây, Thụy Sĩ
Tiền cứ vô nhà như thác chẩy vào hồ
Từ hồi 75, khi hành chính còn xô bồ
Ðảng đổi tiền, đánh tư sản, cướp tiền dân, bỏ túi
Cả miền Nam, vài chục tỷ đô la, bỗng nhiên, chia dấm dúi
Cho vài chục lãnh đạo, thử hỏi ai chẳng giầu to
Rồi độc quyền thương gia, xí nghiệp, buôn bán vô bờ
Ký một tờ giấy, là tiền vô như nước
Chị Ba nắm vùng này, anh Sáu vùng kia hưởng phước
Có Công An, còng số 8 , súng Aka
Ðứa nào ho he, cứ “nhốt chúng cho ta!”
Còn “đồng chí” thích biệt thự nào, cứ lấy
Trước là làm Trụ sở, sau thì ký giấy
Hóa giá nhà, cho làm chủ khơi khơi
Chưa kể mười sáu tấn vàng, của Trời ơi!
Chia chác cho nhau,không hề vô Sổ
Các đồng chí vợ lớn, vợ bé tha hồ kêu khổ
Ðếm vàng mỏi tay, mắt nhức, lưng đau
Thế là tài sản đất nước biến mất đâu đâu
Một chốc bốc hơi, nước thì nghèo, Ðảng thì giầu bự
Thôi, nhưng mà, nói làm chi chuyện cũ
Ba mươi mấy năm rồi, gợi lại, nước mắt nhòa
Tôi chỉ muốn hỏi ông chuyện hiện tại, không xa
Vài câu hỏi, khi ông đến nước Mỹ...
Có bao giờ ông nhớ lại thời chống Mỹ
Những mẹ già nhịn đói, nuôi ông
Những người thôn quê, giúp ông vót hầm chông
Củ sắn, củ khoai chia cho ông một nửa
Ông nịnh họ là Mẹ Cách Mạng, Mẹ Chiến Sĩ, Mẹ... gì nữa?
Giờ đây, ông huy hoàng, họ vẫn cứ long đong
Vách lều năm xưa, vẫn rách nát, từ Xuân đến Ðông
Mưa vẫn dột, gió vẫn lùa, lạnh giá
Họ chỉ có chút đất ruộng, chút vườn xưa hương hỏa
Mà Ðảng ông lại nỡ trưng thâu
Không một chút gì ơn trả cho nhau
Lại táng tận tịch thu, đuổi cổ
Mẹ Chiến Sĩ năm xưa, giờ này, đang khóc khổ
Ðứng ngoài đường, làm một lũ “DÂN OAN”
Ông ngồi xe láng đi qua, còi hú vang vang
Không nhìn thấy nước mắt mẹ già ướt phố!
Những chiếc áo rách kia, ở nhà ông, chó không thèm rớ!
Ðầy tớ ông, toàn vải ngoại, hàng sang
Những chiếc nón lá kia của lũ “DÂN OAN”
Không bao giờ thấy trong cầu tiêu ông Tỷ Phú
Ông Thủ Tướng ơi! Ðảng ông quá giầu, còn tham chi nữa?
Ông chỉ có hai tay, một cái miệng, một bụng to
Ăn đồ ngon bao nhiêu, cũng chỉ đến lúc no
Sao lại để NHÂN DÂN, “NGƯỜI CHỦ ÐẤT NƯỚC” chết đói?
Có lẽ các ông chỉ thích xài danh từ le lói
Ủy Ban Nhân Dân, Thư Viện Nhân Dân, Quân Ðội Nhân Dân
Trung với Ðảng, Hiếu với Dân, Ðầy Tớ Nhân Dân...
Mà thực chất, chỉ những Nhân Dân ấy khiếu kiện
Vậy xin ông “Ðầy Tớ Nhân Dân” ấy, làm ơn mở lòng từ thiện
Trả lại cho Nhân Dân ruộng đất cắm cái dùi
Một tấc đất thôi, để mưa nắng khỏi dập vùi
Già sắp chết rồi, mong có chỗ trú mưa cho con cháu
Mấy tấm huy chương, ngày xưa, Ðảng cho, là của báu
Giờ xin hoàn lại ông, để đổi lấy chỗ nằm
Có mấy mét vuông, chỉ nhỉnh hơn cái hầm
Hồi đó, Mẹ đào gẫy tay cho các ông ẩn náu...
****
Thưa Ông Thủ Tướng, ông đông bồ nhí, lắm con, nhiều cháu
Có khi nào ông nghĩ chúng đứng đường
Mặc quần lòe, áo hở ngực, kệ phong sương
Chụp giật khách qua đường, bán xác
Những đứa bé mới lớn lên, mặt còn ngơ ngác:
“Chú chơi con đi! Con hãy còn trinh!
Miễn sao cho mẹ con, khỏi phải bán máu mình
Có mấy lít máu, bán hoài cũng chết
Em con, đang rửa bao ny lông đựng chuột chết
Ðựng bao cao su, máu mủ, băng vệ sinh
Ðôi khi đựng cả chân tay người thúi sình
Ruột gan, cơ phận người, bệnh viện vất ra đống rác
Chú ơi! Cả đời con chả biết gì, ngoài rác
Ðẻ trên đống rác, và lớn cũng ở đây
Mười mấy năm rồi, con mới bỏ que sắt cầm tay
Ði bán “của trời cho”, mong bữa cơm thay cháo...”
Những em gái khác, con cán bộ, lại là dân chơi bạo
Dư bạc tiền, nên hút, chích, lắc như điên
Thích ngủ lang mà không phải vì tiền
Bố mẹ chúng, Giám Ðốc, Bộ Trưởng, quyền uy kinh khiếp
Chúng tha hồ chơi, đứa nào dám ăn hiếp?
Cả họ phải rũ tù, mang chục án làm gương.
Cho nên, cả thành phố, về đêm, đầy gái đứng đường
Ông có thấy nhục không, ông Nguyễn Tấn Dũng?
****
Hò ơ!
Dân tộc ta bốn ngàn năm anh dũng
Từ Văn Lang, Trưng, Triệu, Lam Sơn
Giờ đây, thần khóc, quỷ hờn
Giang Sơn một dải chập chờn thương đau
Hồn sông, hồn núi âu sầu
Tương lai đất nước dãi dầu, mông lung
Nếu ông rời đô thành, đến cao nguyên, thung lũng
Ðâu đâu cũng có nghề làm gái không biên cương
Phủ Lý, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hải Dương...
Những địa danh thơ mộng giờ thành ổ đĩ
Một khi con người đói quá, thì không cần suy nghĩ
Có chi bán nấy, giật dọc qua ngày.
Chân Cửu Vạn, tay xe thồ, lưng không bao giờ thẳng ngay
Vì khiêng vác, gái trai, ông già, bà lão
Có những làng, cả ba đời vác gạo
Vượt đồn canh, biên giới, suối khe
Những thân người gầy yếu như cây tre
Chỉ xương cốt, gân xanh, gân đỏ
Có những làng chỉ nghe đàn bà thở
Vì đàn ông chết ráo đâu rồi
Ðào vàng, đi ăn mày, tìm trầm, chết dưới vực khơi
Nên đêm tối, tiếng thở dài như bão nổi
Những cô gái chỉ mong một đời có lần trao đổi
Tấm băng trinh lấy chút vị yêu đương
Trong thế giới chửi thề, lên chiếu, xuống giường
Sống như trâu chó, lấy chi mà mơ mộng!
*****
Ông Thủ Tướng ơi! Có bao giờ ông thấy lòng bỗng động?
Khi nhìn hình lũ con gái thơ ngây
Ðứng trần truồng hàng lũ, dạn dầy
Ðể lũ vượn ngoại bang sờ sớ, nắn nắn
Thè lưỡi, chu môi, cho chúng mua mua, bán bán
Gái cần đi ngoại quốc, mong có tấm chồng Hàn
Hay Ðài Loan, Singapore, các nước lân bang
Một chồng, hay chục chồng, vợ lớn hay vợ lẽ
Nô lệ tình dục ư? Miễn sao no lòng thì mặc kệ
Ðứng trong lồng gương, lên Yahoo rao bán, ôi.. mặc thây!
Chính ông Chủ Tịch nước cũng mới vừa đây
Dụ Việt kiều về nước, nói “gái quê nhà đẹp lắm!”
Không biết ông nghĩ sao, chứ chúng tôi nhục lắm!
Nhục cả ba bốn đời, nhục Quốc Tổ, nhục tông môn
Khi con người chỉ còn nghĩ đến bán trôn
Nuôi cái miệng, còn chi là danh dự?
Bốn ngàn năm văn hiến, ngời ngời lịch sử
Chống Bắc Phương, Thanh, Tống, Nguyên, Mông
Dũng sĩ trời Nam hiển lộng thần thông
Ðánh cho chúng tơi bời cây cỏ
“Ðánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ” (1)
Lời Nguyễn Huệ xưa còn lồng lộng không gian
Vậy mà, giờ đây, ông đã dâng Ải Nam Quan
Nộp Thác Bản Giốc cho đàn anh hưởng dụng
Chỉ để cho các ông tung hoàng, dung túng
Lũ công an bắt bớ, dầy vò
Các cựu đảng viên, nhà phản kháng, bác sĩ, nhà văn, nhà thơ
Linh mục, luật sư, Thượng Tọa, Ðại Ðức
Chỉ vì họ dám hy sinh sức lực
Ðể nói lên tiếng nói tự lương tâm
Chống đối bất công, chống tham nhũng, bọn vô tâm
Cướp đất, cướp nhà, hành dân hơn trộm cắp...
****
Ông Dũng ơi! Có bao giờ ông trả lời những câu hỏi đầy ắp:
Tại sao đất nước ta, Người bóc lột Người?
Karl Marx ngày xưa chống nô lệ người
Ăng Gen viết: “Người công nhân phải làm chủ!”(2)
Giờ đây, người lao động sống như trong cũi chó
Không thuốc men, không bảo hiểm, sống liều
Trong “Phố Liều”, “Phường Liều”, hay “Xóm Liều” (3)
Những chỗ đất hoang, nặc nồng hôi thối
Có khác nào phu mỏ than sống đời tăm tối
Bên nước Anh, nước Pháp thời xa xưa
Nơi Karl Marx tiên đoán cách mạng sẽ nổ ra (4)
Ðể thực tế, nước ta, hiện nay là vậy đó!
Mấy mươi năm trước :”Nhà văn An Nam khổ như chó!”(5)
Mấy mươi năm sau, hàng chục triệu dân cực hơn trâu
Trừ đi chục triệu dựa vào Ðảng, sống trên cổ trên đầu
Dân Việt còn lại, kiếp ngựa trâu, khốn nạn
Các ông đánh bạc, chơi ngông hàng trăm vạn
Tiền đô như tiền lèo, khi lao động chỉ vài xu.
Một em bé cao nguyên, gánh củi có vài chục xu (6)
Em bé thành phố, đánh giầy, một ổ bánh mì chưa đủ
Trinh trắng em tôi, có chục “đô” một lần ngủ
Thầy cô giáo một tháng được hơn trăm.
Giám Ðốc kia , chơi bạc bằng cả làng ăn nhiều năm
Ông nọ cá độ, bằng vài ngàn người sống “mút chỉ”.
Ðốt một phong pháo chơi, bằng tiền mua bao trinh nữ
Nuôi một chú “bẹc giê”, phải nuôi thêm vệ sĩ cả bầy
Các sân chơi Gôn của ông, thẳng cánh cò bay
Bằng ruộng lúa cả làng tôi, hay cả họï
****
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại, em than đôi lời
Dân ta khổ lắm, anh ơi!
Trẻ thơ thiếu áo, người người thiếu ăn
Bí Thư, Ðảng Ủy hung hăng
Con ông, cháu cậu, bạo tàn hiếp dân.
****
Ông Thủ Tướng ơi! có bao giờ nhìn thấy lũ người rúm ró
Lạy lục van xin trước cửa bệnh viện Nhân Dân
Xin được chữa bệnh, được nạo thai, được một chỗ đặt chân
Một chiếc chiếu đặt thằng con sắp chết
Ông có nghe tiếng quát nạt giữa tiếng rên xiết
Tiếng khóc than ấm ức, tiếng kêu Trời
Tiếng “cò bán máu”, “cò thuốc Tây” hay “cò chạy quan tài”
Muốn được chết cũng không yên thân nằm chỗ
Ông Công An chưa cho phép “chết”, gia đình còn khổ
Còn nhờ “cò” đút lót, trao tay
Ở đâu cũng có “cò”: “cò xin việc”, “cò chạy án”, hay “đường dây”
“Ðường dây bán máu”, “đường dây phá thai”, “đường dây bệnh viện”
Muốn chữa bệnh: Tiền! Muốn chết: Tiền! Muốn chôn: Tiền!
Chôn rồi, muốn không bị phá, lại cần thêm tiền nữa!
Ôi! Từ sinh ra đến chết, lúc nào cũng có người đứng giữa
Có bóng anh Công An Nhân Dân quyền hạn tầy đình
“Luật ở miệng tao!” Anh hãnh diện chỉ vào mình (7)
Kẻ cai trị những con người Việt Nam Mù, Lòa, Câm, Ðiếc
Không còn thấy chút nào nhiệt huyết
Chỉ thấy Mù lương tâm, Ðiếc tai, Lòa mắt, Câm mồm!
Trước hiện tượng cả nước đang phát triển nghề “Ôm”!
Bia ôm, ngủ trưa ôm, võng ôm, hớt tóc ôm
Karaokê ôm, chè đậu xanh ôm, mía ôm...
Học sinh ra trường, không có nghề, thì ôm đại
Cả nước, chỉ 30% học sinh được “Tổ” đãi (8)
Vào đại học rồi nam sinh cờ bạc, nữ sinh làm vợ thuê
Còn lại nhóm kia, thì làm đủ nghề
Miễn sao có tiền trường để tiếp tục học
Trong xã hội có Bí Thư-“Cử Nhân” mà không biết đọc
Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân đi mua bằng
HIệu trưởng Trường Ðại học không có lấy một tấm bằng
Giám Ðốc Bệnh Viện mới học lớp ba bổ túc
Tổng Giám Ðốc mới vừa qua chương trình bổ túc
Tất cả giống nhau là tham nhũng, khoe khoang
Mua xe hơi trăm ngàn đô la mới sang
Trong khi người nghèo thì bán mạng, làm liều mong sống sót...
****
Ông Thủ Tướng ơi! Ðảng ông thích lời nói ngọt:
“Lương tâm của Thời Ðại, Ðất nước Anh Hùng”
Nhiều đến nỗi “ra ngõ cũng gặp anh hùng” (9)
Giờ thì chỉ thấy một văn chương “Ðéo!” (10)
Từ nữ sinh đến ông già, mở miệng là “đéo”
“Ðéo sợ thằng nào! Ðéo thông cảm! Ðéo cần lịch sử!”
“Ðéo cần tử tế! Ðéo cần giúp ai! Ðéo vào thiên hạ sự!”
Ở đời, cứ có tiền là nhào dô, đánh du kích, rồi rút lui.
Cây gỗ quý cứ chặt bừa, thú rừng cứ đốt thui
Chất hóa học đổ tràn, kệ cha chúng mày chết dấp!
Kệ rừng biến thành sa mạc, kệ sông đục rồi vùi lấp
Kệ bờ sông lở bồi, cứ lấy cát bán buôn
Kệ nhà dân tụt xuống sông, kệ rạch biến thành truông
Kệ khói bụi, ho lao, thủng phổi
Kệ thức ăn pha trộn chất diêm muối
Kệ nước tương là chất độc kinh hoàng
Kệ thế hệ này, thế hệ nữa, tan hoang
Miễn tiền đô Mỹ cứ chui vào quỹ
*****
Ông Thủ Tướng ơi! Biết nói chi nữa nhỉ?
Nói nhiều thì lệ tràn, mà cũng vô ích mà thôi
Ðảng của ông vẫn chễm trệ ngồi
Trên mấy chục triệu dân ngu, dân khổ
Hàng trăm bài báo, hàng ngàn tờ công tố
Vài vạn buổi truyền thanh, truyền hình quốc tế
Trăm cuộc biểu tình của DÂN OAN như thế
Ông vẫn bình tâm rung đùi, máy lạnh, gái chung quanh
Ông như Lê Ngọa Triều, Lê Chiêu Thống hôn quân
Ðóng cửa, bịt tai tàn tàn hưởng thụ
Những khẩu hiệu khiếu kiện tràn đầy đường phố
“Thủ Tướng ơi! Cứu Dân!”, “Ðảng ơi! Cứu dân!”
Ông ra lệnh tống giam mấy thằng kích động nhân dân
Mặc dù chúng chỉ khóc than những lời đau đớn
Báo chí ông chụp mũ, bắt những ai có lòng hảo hớn
Ðến chia gói mì, chia ly nước cho DÂN OAN
Chưa có ai dám gọi ông là HÔN QUÂN
Chưa có ai dám gọi ông: “Lũ cướp ngày của lịch sử!” (11)
Họ chưa sánh ông với Tần Thủy Hoàng, Staline, hoặc ai trong lịch sử
Ðã dùng cường quyền trấn áp dân đen
Họ chỉ quỳ xuống, van xin ông, đừng “Ðến hẹn lại lên” (12)
Cứ đến hẹn là nhà bay, đất mất
Bí thư Xã, Chủ Tịch Phường hễ ra hẹn nộp đất
Mà không tuân, thì Xử Lý nghiêm minh
Còn bồi thường? Thì tuy đất một nghìn
Ông “Lý Trưởng”: “Một trăm? Không chịu?
Kệ mẹ!” (13)
Ông “Trương Tuần”: “Chống phá Cách Mạng! Ðánh bỏ mẹ!?”
Bà “Tổng Cai” thì: “Nhốt chúng cho biết tay!”
Những tay “phú lít Tây” lập tức ra tay
Có khác gì đâu, những ngày mà các ông bị Tây nhốt
Xà lim sẵn sàng cho “cặp rằng” đi hốt
Hơn nửa thế kỷ sau, những “chị Dậu” của “Tắt đèn”
Những Bà Ðịa Chủ ngỏn ngoẻn ép buộc dân đen
Bán chó, bán con, cho mấy thằng già bú sữa
Những “anh Dậu” bị gông ra đình, đánh cho ụa mửa
Vẫn dẫy đầy trong xã hội ông trị cai
Chỉ khác là ngày xưa, thông tin ít, nên thế giới không đoái hoài
Nay thì cả quốc tế đồng thanh lên án
Các ông vẫn mặt trơ, bóng trán
Ngậm miệng ăn tiền, đàn áp lũ “dân ngu, khu đen”
****
Thủ Tướng ơi! Còn nhớ ngày các ông giương lá cờ lên
Có “búa - liềm” tượng trưng cho nông dân, lao động?
Các ông hô hào đánh tư sản mại bản, tiếng loa lồng lộng
Bảo vệ nông dân, hỗ trợ công nhân!
"Vùng lên! Hỡi các nô lệ của thế gian!"
Giờ thì nông dân vẫn là ngựa, nông dân vẫn là trâu
Vài trăm ngàn người ông cho là Tư sản, địa chủ, đã theo nhau
Chết trong đấu tố, Lý bá Sơ, hoặc kinh tế mới hết ráo
Chủ trương của các ông được thi hành rốt ráo
Sao bây giờ cả Ðảng thành Tư Sản Mại Bản, bán nước cho Tầu?
Hoàng Sa, Nam Quan, Thác Bản Giốc nay còn đâu?
Ðảng nhượng từng phần Vũng Tầu, Ðồ Sơn, Nha Trang... mở sòng bạc
Chỗ nào có tiền ngoại ngon lành là các ông kiếm chác
Ký giấy nhượng luôn cho Tư bản vài chục năm
Không còn nhớ từ Triệu, Trưng.. luôn chống giặc ngoại xâm
Các ông chỉ đặt bút ký là đất thiêng biến mất!
Ôi! Có khi nào mà ông nghĩ đến đau thương chất ngất
Hàng triệu triệu người chiến sĩ hy sinh
Ðã đổ máu xương ra bảo vệ từng tấm sinh linh
Bảo vệ danh dự dân Việt, bốn ngàn năm lịch sử
Có bao giờ mà mắt các ông nhòa lệ?
Nâng ly ruợu ngoại lên là thấy máu trong tay?
Ăn miếng cơm ngon mà tưởng như ăn thịt dân đây?
Mỗi ngụm ruợu là cả triệu trẻ em đói khát
Một lần các ông vung tay chơi bời, ngàn gia đình tan nát...
****
Thủ Trưởng ơi! Ông có tin vào một Ðấng trên cao?
Oâng có khi nào thấy hồn ma thét gào?
Mỗi khi ông ngủ, có một hồn ma đứng cạnh giường ông đó!
Hồn chiến sĩ Sinh Bắc, Tử Nam nhìn ông dúm dó
Sau trận truy hoan gái đẹp, rượu ngon
Ông ngủ say sưa, cứ thay nhau từng hồn
Hồn Bộ Ðội, hồn Giao Liên, hồn Thiếu Nhi, cháu Bác
Hồn Mẹ Nuôi, Hậu Cần,Thương Binh Trung Nam Bắc
Cùng kéo nhau về thăm “Thủ Trưởng" năm xưa
Họ sẽ hỏi ông: “Thủ Trưởng muốn chết mấy cho vừa?
Lòng Tham, Sân, Si của những người lãnh đạo
Một chế độ độc tôn, độc quyền, tàn bạo
Không kể hạnh phúc dân đen, vận nước long đong
Mới vừa đây, báo cáo “vài ngàn tỷ xuống sông
Vì tiêu phí cho mấy ông Thủ Trưởng?”
Ôi! Trời ơi! Nước ơi! Không thể tưởng tượng!
Giữa thế kỷ văn minh này mà đất nước tồi tàn
Vẫn long đong giữa thế lực ngoại bang
Một Tầu, hai Mỹ, miễn sao cho các ông hưởng thụ!
****
Thưa Ông Thủ Tướng!
Chúng tôi, không kể là người chế độ cũ
Người miền Bắc, Nghệ An, Quảng Trị, hay Quảng Bình
Cùng viết thư này mong các ông nghĩ tình
Là dân Việt mà lắng nghe lời chân thực
Hãy quỳ xuống, sám hối, khi còn kịp lúc!
Sám hối với nhân dân, sám hối với Tổ Tiên!
Tội nghiệt các ông mang, lẽ ra phải trừng phạt triền miên
Nhiều đời, nhiều kiếp, vạc dầu, tùng xẻo
Nhưng vì tương lai của dân ta, thôi đành hòa dịu
Không muốn đấu tranh, chỉ đòi các ông trả lại dân quyền
Trả Tự Do, Dân Chủ, Nhân quyền
Cho mọi người dân cùng dựng xây trên tan nát
Bỏ điều 4 đi, đừng nghĩ là tự sát!
(Ðúng ra, nếu các ông Tự Sát, cũng đúng thôi!)
Hãy từ bỏ đặc quyền, trả lại quyền cho tất cả chúng tôi
Tám mươi triệu người Việt máu đỏ, da vàng yêu dấu
Hãy nhìn thẳng vào những khuôn mặt đau đáu
Hãy lắng nghe tiếng nói của lương tâm
Hãy bàn giao quyền lợi cho giới trẻ, thanh xuân
Những người chủ tương lai của đất nước
Hãy mở cửa nhà tù, tìm những người từ trước
Vẫn kiên gan đòi sống theo trái tim
Như vậy, mới mong đất nước không đắm chìm
Trong nô lệ, cùm gông, không lối thoát
Mau mau lên, rừng vàng biển bạc
Sắp tan thành sa mạc, bể dâu
Thế hệ này không kịp nữa đâu
Chỉ còn thế hệ sau, mới mong vững chãi
Thôi, vài lời dông dài, viết hoài nói mãi
Cũng chỉ là những giọt lệ thương đau
Những giọt máu trong tim đã vỡ vụn, nát nhàu
Của những tâm hồn Việt Nam
Chân Thành, Trung Thực.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
BÀN VỀ CHỮ “TÀI” VÀ CHỮ “ĐỨC” CỦA CÁC LÃNH TỤ CỘNG SẢN_NGUYỄN THU TRÂM
Lăng Kim Nhật Thành mỗi năm tiêu tốn 450 triệu Mỹ Kim để và vận hành |
-Thưa "Bác", hôm nay Bác có khách ạ?
Các cán bộ cần vụ ngơ ngác nhìn "Bác", chưa hiểu ý "Bác" nói gì, nhưng mặc dù đã đem thêm bát đũa lên, mà "Bác" vẫn chưa bắt đầu ăn, thì rõ ràng là "Bác" còn đợi ai đó rồi. Mọi người lấy làm lo lắng dòm trước, ngó sau song tuyệt nhiên không thấy ai vậy mà "Bác" bảo là khách đã đến từ lâu rồi!
- Xin mời anh Tạ Đình Đề vào ăn cơm trưa với tôi!
Bác Hồ đứng dậy, tiến đến vị khách không mời chìa tay thân thiện nhìn với ánh mắt thật tươi. "Bác" chỉ ghế, mời Tạ Đình Đề ngồi xuống bên bàn ăn.
Tạ Đình Đề rút trong người ra một khẩu súng lục có gắn một ống giảm thanh, tháo những viên đạn có đầu sơn đỏ ra, cùng với một ống nhòm, một bản đồ Dinh Chủ Tịch, một số giấy tờ tùy thân được làm giả v.v... trao cho nhân viên cận vệ . Xong đâu đấy Tạ Đình Đề móc từ trong kẽ răng ra một viên thuốc độc dành cho mình trong trường hợp bại lộ đặt lên thành mâm cơm trên bàn ăn.
Lời đầu tiên là một điều minh xác
Thư này được viết với tư cách một công dân
Sinh đẻ tại Việt Nam, lớn lên và lập thân
Rồi đi xa, nhưng vẫn nhớ quê hương ngào nghẹn
Tôi không gửi thư đến ông như một người kiếm chuyện
Làm quen ông, một chức vụ lẫy lừng
Ðể sau này, có cơ hội tưng bừng
Về đất nước, bon chen, kiếm chút cháo
Tôi cũng không phải là người táo bạo
Tìm cách gần ông, một triệu phú giầu nhất vùng
Nhất Việt Nam, nhất Ðông Á, tài sản nhiều vô cùng
Nếu được ông cho một chút lẻ, cũng tiêu hoài không hết
Những biệt thự Hồ Tây, những công ty hàng may, hàng dệt
Những cổ phần con cháu đứng tên giùm
Vợ lớn, bồ nhí, hộ lý,cần vụ, từng chùm
Một cái chỉ tay, người người cúc cung, tận tụy
Những trương mục rải khắp nơi, Mỹ, Tây, Thụy Sĩ
Tiền cứ vô nhà như thác chẩy vào hồ
Từ hồi 75, khi hành chính còn xô bồ
Ðảng đổi tiền, đánh tư sản, cướp tiền dân, bỏ túi
Cả miền Nam, vài chục tỷ đô la, bỗng nhiên, chia dấm dúi
Cho vài chục lãnh đạo, thử hỏi ai chẳng giầu to
Rồi độc quyền thương gia, xí nghiệp, buôn bán vô bờ
Ký một tờ giấy, là tiền vô như nước
Chị Ba nắm vùng này, anh Sáu vùng kia hưởng phước
Có Công An, còng số 8 , súng Aka
Ðứa nào ho he, cứ “nhốt chúng cho ta!”
Còn “đồng chí” thích biệt thự nào, cứ lấy
Trước là làm Trụ sở, sau thì ký giấy
Hóa giá nhà, cho làm chủ khơi khơi
Chưa kể mười sáu tấn vàng, của Trời ơi!
Chia chác cho nhau,không hề vô Sổ
Các đồng chí vợ lớn, vợ bé tha hồ kêu khổ
Ðếm vàng mỏi tay, mắt nhức, lưng đau
Thế là tài sản đất nước biến mất đâu đâu
Một chốc bốc hơi, nước thì nghèo, Ðảng thì giầu bự
Thôi, nhưng mà, nói làm chi chuyện cũ
Ba mươi mấy năm rồi, gợi lại, nước mắt nhòa
Tôi chỉ muốn hỏi ông chuyện hiện tại, không xa
Vài câu hỏi, khi ông đến nước Mỹ...
Có bao giờ ông nhớ lại thời chống Mỹ
Những mẹ già nhịn đói, nuôi ông
Những người thôn quê, giúp ông vót hầm chông
Củ sắn, củ khoai chia cho ông một nửa
Ông nịnh họ là Mẹ Cách Mạng, Mẹ Chiến Sĩ, Mẹ... gì nữa?
Giờ đây, ông huy hoàng, họ vẫn cứ long đong
Vách lều năm xưa, vẫn rách nát, từ Xuân đến Ðông
Mưa vẫn dột, gió vẫn lùa, lạnh giá
Họ chỉ có chút đất ruộng, chút vườn xưa hương hỏa
Mà Ðảng ông lại nỡ trưng thâu
Không một chút gì ơn trả cho nhau
Lại táng tận tịch thu, đuổi cổ
Mẹ Chiến Sĩ năm xưa, giờ này, đang khóc khổ
Ðứng ngoài đường, làm một lũ “DÂN OAN”
Ông ngồi xe láng đi qua, còi hú vang vang
Không nhìn thấy nước mắt mẹ già ướt phố!
Những chiếc áo rách kia, ở nhà ông, chó không thèm rớ!
Ðầy tớ ông, toàn vải ngoại, hàng sang
Những chiếc nón lá kia của lũ “DÂN OAN”
Không bao giờ thấy trong cầu tiêu ông Tỷ Phú
Ông Thủ Tướng ơi! Ðảng ông quá giầu, còn tham chi nữa?
Ông chỉ có hai tay, một cái miệng, một bụng to
Ăn đồ ngon bao nhiêu, cũng chỉ đến lúc no
Sao lại để NHÂN DÂN, “NGƯỜI CHỦ ÐẤT NƯỚC” chết đói?
Có lẽ các ông chỉ thích xài danh từ le lói
Ủy Ban Nhân Dân, Thư Viện Nhân Dân, Quân Ðội Nhân Dân
Trung với Ðảng, Hiếu với Dân, Ðầy Tớ Nhân Dân...
Mà thực chất, chỉ những Nhân Dân ấy khiếu kiện
Vậy xin ông “Ðầy Tớ Nhân Dân” ấy, làm ơn mở lòng từ thiện
Trả lại cho Nhân Dân ruộng đất cắm cái dùi
Một tấc đất thôi, để mưa nắng khỏi dập vùi
Già sắp chết rồi, mong có chỗ trú mưa cho con cháu
Mấy tấm huy chương, ngày xưa, Ðảng cho, là của báu
Giờ xin hoàn lại ông, để đổi lấy chỗ nằm
Có mấy mét vuông, chỉ nhỉnh hơn cái hầm
Hồi đó, Mẹ đào gẫy tay cho các ông ẩn náu...
****
Thưa Ông Thủ Tướng, ông đông bồ nhí, lắm con, nhiều cháu
Có khi nào ông nghĩ chúng đứng đường
Mặc quần lòe, áo hở ngực, kệ phong sương
Chụp giật khách qua đường, bán xác
Những đứa bé mới lớn lên, mặt còn ngơ ngác:
“Chú chơi con đi! Con hãy còn trinh!
Miễn sao cho mẹ con, khỏi phải bán máu mình
Có mấy lít máu, bán hoài cũng chết
Em con, đang rửa bao ny lông đựng chuột chết
Ðựng bao cao su, máu mủ, băng vệ sinh
Ðôi khi đựng cả chân tay người thúi sình
Ruột gan, cơ phận người, bệnh viện vất ra đống rác
Chú ơi! Cả đời con chả biết gì, ngoài rác
Ðẻ trên đống rác, và lớn cũng ở đây
Mười mấy năm rồi, con mới bỏ que sắt cầm tay
Ði bán “của trời cho”, mong bữa cơm thay cháo...”
Những em gái khác, con cán bộ, lại là dân chơi bạo
Dư bạc tiền, nên hút, chích, lắc như điên
Thích ngủ lang mà không phải vì tiền
Bố mẹ chúng, Giám Ðốc, Bộ Trưởng, quyền uy kinh khiếp
Chúng tha hồ chơi, đứa nào dám ăn hiếp?
Cả họ phải rũ tù, mang chục án làm gương.
Cho nên, cả thành phố, về đêm, đầy gái đứng đường
Ông có thấy nhục không, ông Nguyễn Tấn Dũng?
****
Hò ơ!
Dân tộc ta bốn ngàn năm anh dũng
Từ Văn Lang, Trưng, Triệu, Lam Sơn
Giờ đây, thần khóc, quỷ hờn
Giang Sơn một dải chập chờn thương đau
Hồn sông, hồn núi âu sầu
Tương lai đất nước dãi dầu, mông lung
Nếu ông rời đô thành, đến cao nguyên, thung lũng
Ðâu đâu cũng có nghề làm gái không biên cương
Phủ Lý, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hải Dương...
Những địa danh thơ mộng giờ thành ổ đĩ
Một khi con người đói quá, thì không cần suy nghĩ
Có chi bán nấy, giật dọc qua ngày.
Chân Cửu Vạn, tay xe thồ, lưng không bao giờ thẳng ngay
Vì khiêng vác, gái trai, ông già, bà lão
Có những làng, cả ba đời vác gạo
Vượt đồn canh, biên giới, suối khe
Những thân người gầy yếu như cây tre
Chỉ xương cốt, gân xanh, gân đỏ
Có những làng chỉ nghe đàn bà thở
Vì đàn ông chết ráo đâu rồi
Ðào vàng, đi ăn mày, tìm trầm, chết dưới vực khơi
Nên đêm tối, tiếng thở dài như bão nổi
Những cô gái chỉ mong một đời có lần trao đổi
Tấm băng trinh lấy chút vị yêu đương
Trong thế giới chửi thề, lên chiếu, xuống giường
Sống như trâu chó, lấy chi mà mơ mộng!
*****
Ông Thủ Tướng ơi! Có bao giờ ông thấy lòng bỗng động?
Khi nhìn hình lũ con gái thơ ngây
Ðứng trần truồng hàng lũ, dạn dầy
Ðể lũ vượn ngoại bang sờ sớ, nắn nắn
Thè lưỡi, chu môi, cho chúng mua mua, bán bán
Gái cần đi ngoại quốc, mong có tấm chồng Hàn
Hay Ðài Loan, Singapore, các nước lân bang
Một chồng, hay chục chồng, vợ lớn hay vợ lẽ
Nô lệ tình dục ư? Miễn sao no lòng thì mặc kệ
Ðứng trong lồng gương, lên Yahoo rao bán, ôi.. mặc thây!
Chính ông Chủ Tịch nước cũng mới vừa đây
Dụ Việt kiều về nước, nói “gái quê nhà đẹp lắm!”
Không biết ông nghĩ sao, chứ chúng tôi nhục lắm!
Nhục cả ba bốn đời, nhục Quốc Tổ, nhục tông môn
Khi con người chỉ còn nghĩ đến bán trôn
Nuôi cái miệng, còn chi là danh dự?
Bốn ngàn năm văn hiến, ngời ngời lịch sử
Chống Bắc Phương, Thanh, Tống, Nguyên, Mông
Dũng sĩ trời Nam hiển lộng thần thông
Ðánh cho chúng tơi bời cây cỏ
“Ðánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ” (1)
Lời Nguyễn Huệ xưa còn lồng lộng không gian
Vậy mà, giờ đây, ông đã dâng Ải Nam Quan
Nộp Thác Bản Giốc cho đàn anh hưởng dụng
Chỉ để cho các ông tung hoàng, dung túng
Lũ công an bắt bớ, dầy vò
Các cựu đảng viên, nhà phản kháng, bác sĩ, nhà văn, nhà thơ
Linh mục, luật sư, Thượng Tọa, Ðại Ðức
Chỉ vì họ dám hy sinh sức lực
Ðể nói lên tiếng nói tự lương tâm
Chống đối bất công, chống tham nhũng, bọn vô tâm
Cướp đất, cướp nhà, hành dân hơn trộm cắp...
****
Ông Dũng ơi! Có bao giờ ông trả lời những câu hỏi đầy ắp:
Tại sao đất nước ta, Người bóc lột Người?
Karl Marx ngày xưa chống nô lệ người
Ăng Gen viết: “Người công nhân phải làm chủ!”(2)
Giờ đây, người lao động sống như trong cũi chó
Không thuốc men, không bảo hiểm, sống liều
Trong “Phố Liều”, “Phường Liều”, hay “Xóm Liều” (3)
Những chỗ đất hoang, nặc nồng hôi thối
Có khác nào phu mỏ than sống đời tăm tối
Bên nước Anh, nước Pháp thời xa xưa
Nơi Karl Marx tiên đoán cách mạng sẽ nổ ra (4)
Ðể thực tế, nước ta, hiện nay là vậy đó!
Mấy mươi năm trước :”Nhà văn An Nam khổ như chó!”(5)
Mấy mươi năm sau, hàng chục triệu dân cực hơn trâu
Trừ đi chục triệu dựa vào Ðảng, sống trên cổ trên đầu
Dân Việt còn lại, kiếp ngựa trâu, khốn nạn
Các ông đánh bạc, chơi ngông hàng trăm vạn
Tiền đô như tiền lèo, khi lao động chỉ vài xu.
Một em bé cao nguyên, gánh củi có vài chục xu (6)
Em bé thành phố, đánh giầy, một ổ bánh mì chưa đủ
Trinh trắng em tôi, có chục “đô” một lần ngủ
Thầy cô giáo một tháng được hơn trăm.
Giám Ðốc kia , chơi bạc bằng cả làng ăn nhiều năm
Ông nọ cá độ, bằng vài ngàn người sống “mút chỉ”.
Ðốt một phong pháo chơi, bằng tiền mua bao trinh nữ
Nuôi một chú “bẹc giê”, phải nuôi thêm vệ sĩ cả bầy
Các sân chơi Gôn của ông, thẳng cánh cò bay
Bằng ruộng lúa cả làng tôi, hay cả họï
****
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại, em than đôi lời
Dân ta khổ lắm, anh ơi!
Trẻ thơ thiếu áo, người người thiếu ăn
Bí Thư, Ðảng Ủy hung hăng
Con ông, cháu cậu, bạo tàn hiếp dân.
****
Ông Thủ Tướng ơi! có bao giờ nhìn thấy lũ người rúm ró
Lạy lục van xin trước cửa bệnh viện Nhân Dân
Xin được chữa bệnh, được nạo thai, được một chỗ đặt chân
Một chiếc chiếu đặt thằng con sắp chết
Ông có nghe tiếng quát nạt giữa tiếng rên xiết
Tiếng khóc than ấm ức, tiếng kêu Trời
Tiếng “cò bán máu”, “cò thuốc Tây” hay “cò chạy quan tài”
Muốn được chết cũng không yên thân nằm chỗ
Ông Công An chưa cho phép “chết”, gia đình còn khổ
Còn nhờ “cò” đút lót, trao tay
Ở đâu cũng có “cò”: “cò xin việc”, “cò chạy án”, hay “đường dây”
“Ðường dây bán máu”, “đường dây phá thai”, “đường dây bệnh viện”
Muốn chữa bệnh: Tiền! Muốn chết: Tiền! Muốn chôn: Tiền!
Chôn rồi, muốn không bị phá, lại cần thêm tiền nữa!
Ôi! Từ sinh ra đến chết, lúc nào cũng có người đứng giữa
Có bóng anh Công An Nhân Dân quyền hạn tầy đình
“Luật ở miệng tao!” Anh hãnh diện chỉ vào mình (7)
Kẻ cai trị những con người Việt Nam Mù, Lòa, Câm, Ðiếc
Không còn thấy chút nào nhiệt huyết
Chỉ thấy Mù lương tâm, Ðiếc tai, Lòa mắt, Câm mồm!
Trước hiện tượng cả nước đang phát triển nghề “Ôm”!
Bia ôm, ngủ trưa ôm, võng ôm, hớt tóc ôm
Karaokê ôm, chè đậu xanh ôm, mía ôm...
Học sinh ra trường, không có nghề, thì ôm đại
Cả nước, chỉ 30% học sinh được “Tổ” đãi (8)
Vào đại học rồi nam sinh cờ bạc, nữ sinh làm vợ thuê
Còn lại nhóm kia, thì làm đủ nghề
Miễn sao có tiền trường để tiếp tục học
Trong xã hội có Bí Thư-“Cử Nhân” mà không biết đọc
Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân đi mua bằng
HIệu trưởng Trường Ðại học không có lấy một tấm bằng
Giám Ðốc Bệnh Viện mới học lớp ba bổ túc
Tổng Giám Ðốc mới vừa qua chương trình bổ túc
Tất cả giống nhau là tham nhũng, khoe khoang
Mua xe hơi trăm ngàn đô la mới sang
Trong khi người nghèo thì bán mạng, làm liều mong sống sót...
****
Ông Thủ Tướng ơi! Ðảng ông thích lời nói ngọt:
“Lương tâm của Thời Ðại, Ðất nước Anh Hùng”
Nhiều đến nỗi “ra ngõ cũng gặp anh hùng” (9)
Giờ thì chỉ thấy một văn chương “Ðéo!” (10)
Từ nữ sinh đến ông già, mở miệng là “đéo”
“Ðéo sợ thằng nào! Ðéo thông cảm! Ðéo cần lịch sử!”
“Ðéo cần tử tế! Ðéo cần giúp ai! Ðéo vào thiên hạ sự!”
Ở đời, cứ có tiền là nhào dô, đánh du kích, rồi rút lui.
Cây gỗ quý cứ chặt bừa, thú rừng cứ đốt thui
Chất hóa học đổ tràn, kệ cha chúng mày chết dấp!
Kệ rừng biến thành sa mạc, kệ sông đục rồi vùi lấp
Kệ bờ sông lở bồi, cứ lấy cát bán buôn
Kệ nhà dân tụt xuống sông, kệ rạch biến thành truông
Kệ khói bụi, ho lao, thủng phổi
Kệ thức ăn pha trộn chất diêm muối
Kệ nước tương là chất độc kinh hoàng
Kệ thế hệ này, thế hệ nữa, tan hoang
Miễn tiền đô Mỹ cứ chui vào quỹ
*****
Ông Thủ Tướng ơi! Biết nói chi nữa nhỉ?
Nói nhiều thì lệ tràn, mà cũng vô ích mà thôi
Ðảng của ông vẫn chễm trệ ngồi
Trên mấy chục triệu dân ngu, dân khổ
Hàng trăm bài báo, hàng ngàn tờ công tố
Vài vạn buổi truyền thanh, truyền hình quốc tế
Trăm cuộc biểu tình của DÂN OAN như thế
Ông vẫn bình tâm rung đùi, máy lạnh, gái chung quanh
Ông như Lê Ngọa Triều, Lê Chiêu Thống hôn quân
Ðóng cửa, bịt tai tàn tàn hưởng thụ
Những khẩu hiệu khiếu kiện tràn đầy đường phố
“Thủ Tướng ơi! Cứu Dân!”, “Ðảng ơi! Cứu dân!”
Ông ra lệnh tống giam mấy thằng kích động nhân dân
Mặc dù chúng chỉ khóc than những lời đau đớn
Báo chí ông chụp mũ, bắt những ai có lòng hảo hớn
Ðến chia gói mì, chia ly nước cho DÂN OAN
Chưa có ai dám gọi ông là HÔN QUÂN
Chưa có ai dám gọi ông: “Lũ cướp ngày của lịch sử!” (11)
Họ chưa sánh ông với Tần Thủy Hoàng, Staline, hoặc ai trong lịch sử
Ðã dùng cường quyền trấn áp dân đen
Họ chỉ quỳ xuống, van xin ông, đừng “Ðến hẹn lại lên” (12)
Cứ đến hẹn là nhà bay, đất mất
Bí thư Xã, Chủ Tịch Phường hễ ra hẹn nộp đất
Mà không tuân, thì Xử Lý nghiêm minh
Còn bồi thường? Thì tuy đất một nghìn
Ông “Lý Trưởng”: “Một trăm? Không chịu?
Kệ mẹ!” (13)
Ông “Trương Tuần”: “Chống phá Cách Mạng! Ðánh bỏ mẹ!?”
Bà “Tổng Cai” thì: “Nhốt chúng cho biết tay!”
Những tay “phú lít Tây” lập tức ra tay
Có khác gì đâu, những ngày mà các ông bị Tây nhốt
Xà lim sẵn sàng cho “cặp rằng” đi hốt
Hơn nửa thế kỷ sau, những “chị Dậu” của “Tắt đèn”
Những Bà Ðịa Chủ ngỏn ngoẻn ép buộc dân đen
Bán chó, bán con, cho mấy thằng già bú sữa
Những “anh Dậu” bị gông ra đình, đánh cho ụa mửa
Vẫn dẫy đầy trong xã hội ông trị cai
Chỉ khác là ngày xưa, thông tin ít, nên thế giới không đoái hoài
Nay thì cả quốc tế đồng thanh lên án
Các ông vẫn mặt trơ, bóng trán
Ngậm miệng ăn tiền, đàn áp lũ “dân ngu, khu đen”
****
Thủ Tướng ơi! Còn nhớ ngày các ông giương lá cờ lên
Có “búa - liềm” tượng trưng cho nông dân, lao động?
Các ông hô hào đánh tư sản mại bản, tiếng loa lồng lộng
Bảo vệ nông dân, hỗ trợ công nhân!
"Vùng lên! Hỡi các nô lệ của thế gian!"
Giờ thì nông dân vẫn là ngựa, nông dân vẫn là trâu
Vài trăm ngàn người ông cho là Tư sản, địa chủ, đã theo nhau
Chết trong đấu tố, Lý bá Sơ, hoặc kinh tế mới hết ráo
Chủ trương của các ông được thi hành rốt ráo
Sao bây giờ cả Ðảng thành Tư Sản Mại Bản, bán nước cho Tầu?
Hoàng Sa, Nam Quan, Thác Bản Giốc nay còn đâu?
Ðảng nhượng từng phần Vũng Tầu, Ðồ Sơn, Nha Trang... mở sòng bạc
Chỗ nào có tiền ngoại ngon lành là các ông kiếm chác
Ký giấy nhượng luôn cho Tư bản vài chục năm
Không còn nhớ từ Triệu, Trưng.. luôn chống giặc ngoại xâm
Các ông chỉ đặt bút ký là đất thiêng biến mất!
Ôi! Có khi nào mà ông nghĩ đến đau thương chất ngất
Hàng triệu triệu người chiến sĩ hy sinh
Ðã đổ máu xương ra bảo vệ từng tấm sinh linh
Bảo vệ danh dự dân Việt, bốn ngàn năm lịch sử
Có bao giờ mà mắt các ông nhòa lệ?
Nâng ly ruợu ngoại lên là thấy máu trong tay?
Ăn miếng cơm ngon mà tưởng như ăn thịt dân đây?
Mỗi ngụm ruợu là cả triệu trẻ em đói khát
Một lần các ông vung tay chơi bời, ngàn gia đình tan nát...
****
Thủ Trưởng ơi! Ông có tin vào một Ðấng trên cao?
Oâng có khi nào thấy hồn ma thét gào?
Mỗi khi ông ngủ, có một hồn ma đứng cạnh giường ông đó!
Hồn chiến sĩ Sinh Bắc, Tử Nam nhìn ông dúm dó
Sau trận truy hoan gái đẹp, rượu ngon
Ông ngủ say sưa, cứ thay nhau từng hồn
Hồn Bộ Ðội, hồn Giao Liên, hồn Thiếu Nhi, cháu Bác
Hồn Mẹ Nuôi, Hậu Cần,Thương Binh Trung Nam Bắc
Cùng kéo nhau về thăm “Thủ Trưởng" năm xưa
Họ sẽ hỏi ông: “Thủ Trưởng muốn chết mấy cho vừa?
Lòng Tham, Sân, Si của những người lãnh đạo
Một chế độ độc tôn, độc quyền, tàn bạo
Không kể hạnh phúc dân đen, vận nước long đong
Mới vừa đây, báo cáo “vài ngàn tỷ xuống sông
Vì tiêu phí cho mấy ông Thủ Trưởng?”
Ôi! Trời ơi! Nước ơi! Không thể tưởng tượng!
Giữa thế kỷ văn minh này mà đất nước tồi tàn
Vẫn long đong giữa thế lực ngoại bang
Một Tầu, hai Mỹ, miễn sao cho các ông hưởng thụ!
****
Thưa Ông Thủ Tướng!
Chúng tôi, không kể là người chế độ cũ
Người miền Bắc, Nghệ An, Quảng Trị, hay Quảng Bình
Cùng viết thư này mong các ông nghĩ tình
Là dân Việt mà lắng nghe lời chân thực
Hãy quỳ xuống, sám hối, khi còn kịp lúc!
Sám hối với nhân dân, sám hối với Tổ Tiên!
Tội nghiệt các ông mang, lẽ ra phải trừng phạt triền miên
Nhiều đời, nhiều kiếp, vạc dầu, tùng xẻo
Nhưng vì tương lai của dân ta, thôi đành hòa dịu
Không muốn đấu tranh, chỉ đòi các ông trả lại dân quyền
Trả Tự Do, Dân Chủ, Nhân quyền
Cho mọi người dân cùng dựng xây trên tan nát
Bỏ điều 4 đi, đừng nghĩ là tự sát!
(Ðúng ra, nếu các ông Tự Sát, cũng đúng thôi!)
Hãy từ bỏ đặc quyền, trả lại quyền cho tất cả chúng tôi
Tám mươi triệu người Việt máu đỏ, da vàng yêu dấu
Hãy nhìn thẳng vào những khuôn mặt đau đáu
Hãy lắng nghe tiếng nói của lương tâm
Hãy bàn giao quyền lợi cho giới trẻ, thanh xuân
Những người chủ tương lai của đất nước
Hãy mở cửa nhà tù, tìm những người từ trước
Vẫn kiên gan đòi sống theo trái tim
Như vậy, mới mong đất nước không đắm chìm
Trong nô lệ, cùm gông, không lối thoát
Mau mau lên, rừng vàng biển bạc
Sắp tan thành sa mạc, bể dâu
Thế hệ này không kịp nữa đâu
Chỉ còn thế hệ sau, mới mong vững chãi
Thôi, vài lời dông dài, viết hoài nói mãi
Cũng chỉ là những giọt lệ thương đau
Những giọt máu trong tim đã vỡ vụn, nát nhàu
Của những tâm hồn Việt Nam
Chân Thành, Trung Thực.