Mỗi Ngày Một Chuyện
BẾN CŨ - CAO MỴ NHÂN

BẾN CŨ - CAO MỴ NHÂN
Cách đây hơn 40 năm, tuy mới vừa học
xong lớp Nhất, tức lớp 5 bây giờ, tôi đã có vẻ mơ mộng như một nữ sinh trung
học, tôi thường thả lỏng tâm hồn cho những điều "không tưởng" được
chan hòa đến trái tim và bộ óc non nớt của tôi. Cuốn truyện đầu tiên tôi thuê
về đọc, là tập ký sự của Hồ Dzếnh, kể lại chuyện tình của bố ông ta, người Tàu,
lưu lạc đến Việt Nam, và ở lại căn nhà trọ của cô lái đò nơi một bờ sông, sau
này là mẹ ông, hai nhân vật rất bình thường trong bất cứ xã hội bình dân nào,
đã tạo nên một Hồ Dzếnh tên tuổi giữa làng văn, làng thơ Việt Nam, tác giả bài
thơ "Chiều" mà hầu như ai trong chúng ta cũng thuộc nhiều, ít mấy câu
mang âm điệu hoài cảm đẹp, buồn:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày...
(Chiều - Hồ Dzếnh)
Thời gian bắt đầu mơ mộng của tôi
cũng ở bài thơ Chiều này, dù tôi còn "rất bé" so với tôi bây giờ đã
"cối sâm" chuyện mộng mơ, để không thể tin được là mình, một người
lăn lộn nơi Chốn Bụi Hồng sau này, lại có thể mơ mộng từ thủa thơ dại đến thế.
Đó cũng vào một buổi chiều rất chậm,
hoàng hôn đang lặng lẽ đưa chân ngày nơi bờ sông Lấp người ta đang ráo riết tổ
chức những buổi giã từ thành phố Cảng để ra đi về miền Nam lập nghiệp vì làn
sóng đỏ đang từ phương Bắc tràn đến các tỉnh Bắc Việt, trong đó có Hải Phòng
rực nắng mỗi khi mùa hạ đến, những vòm cây phượng vĩ thi nhau nở thắm cả một
thành phố biển tiếng tăm.
Hải Phòng, nơi "anh Khóa"
của cụ Á Nam Trần Tuần Khải ra đi để người "cô đầu" đến bờ sông tiễn
biệt "mông-cờ-lê-ơi" (chiếc chìa khóa của tôi ơi) và nữ ca sĩ Kim Chi
đã cầm trong tay điếu thuốc lá cháy dở dang, mơ màng hát lời thơ Chiều của Hồ
Dzếnh:
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cao
(Chiều - Hồ Dzếnh)
Rồi đêm đến, vườn hoa con cóc chìm
trong bóng tối, chúng tôi trở về nhà, chưa ly hương mà đã mang tâm trạng biệt
xứ, chị tôi đã khóc vì năm ấy chị sắp 20 tuổi, mà người tình của chị đi học tại
Đà Lạt, mãi không về để chứng kiến cuộc chia tay vĩ đại gồm rất nhiều người
liên tiếp rời xa nơi thân quen của mình, là hàng ngày từng đoàn người đến trực
nơi bờ sông cửa Cấm để xuống tàu di cư
vào Nam.
Sau 40 năm, tôi trở về thành phố của
một thời thơ ấu rất ngắn, chị em tôi sống ở đấy, tôi đi dọc theo đại lộ
"phố Tây" ngày xưa, tới đúng bờ sông cửa Cấm, nhìn sang Bính ngập
nắng, những vòm hoa phượng vẫn nở trên thành phố, xác hoa rơi ngập đỏ dưới chân
ai, mới đó đã gần nữa thế kỷ, hỏi sao không thay đổi nhiều chứ.
"Sao em không về thăm xóm Trúc", một câu hỏi nhái thơ Hàn Mặc
Tử gọi người tình về thôn Vỹ xa xưa, bổng vẳng nhẹ bên tai tôi, bất giác tôi
cũng vui như người vừa thốt giọng mơ màng ấy, rằng "đã về đây", mà có thấy gì đâu, cái xóm Trúc ở Đông Khuê, ngoại
ô, vâng, có thấy gì đâu, người quen xưa đi hết cả rồi.
Qua chùa Lạc Viên, thủa tôi còn tuổi
oanh vũ trong Gia Đình Phật Tử, đã chạy chơi quanh sân chùa chờ chị Ni, chị Tấn
tới họp đoàn, có thấy gì đâu cả ông ca sĩ Doãn Tòng, người "ca sĩ định
mệnh" thiên hạ ở đây phong tặng cho ông ta, người đã hát bài Thiên Thai
của Văn Cao từ khi những nốt nhạc còn chưa ráo mực. Doãn Tòng với dung nhan
"hoa mè" còn sống, người viết Thiên Thai thì vừa nằm xuống, nhưng
nhân dân phố cảng không làm lễ vọng niệm, mà cơ quan nghệ sĩ nhà nước tưởng
nhớ, hải ngoại cũng tưởng nhớ, vì nhạc sĩ Văn Cao là đấng thiên tài, là tài sản
quốc gia, là tài tử bất diện.
...Có một mùa "đào" chưa tàn phai một lần...
Đúng, lòng nhạc sĩ lớn thường bao la
như biển rộng, huống chi ông là người của Bến Cảng, nên tâm hồn nửa như sóng vỗ
khơi xa, nửa lại nhẹ tênh âm hưởng quê nghèo trầm ấm. Lời nhạc ông viết bằng
mực đỏ, thật danh dự, nhưng tâm tình ông, lúc nào cũng chỉ...phơn phớt hoa đào,
Doãn Tòng còn nhắc: "Hai chị Thái Thanh, Thái Hằng người xưa hát ở khu 4
nào đó" một cách thán phục chân tình.
Các văn nghệ sĩ Sài Gòn và Hà Nội
ngồi phân tích hai con người đối chọi trong một danh xưng Văn Cao: Văn Cao
"Thiên Thai" với Văn Cao "Tiến Quân Ca".
Thi sĩ Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc
Tường viết: Văn Cao cầm bút và Văn Cao cầm súng, tất nhiên ở Việt Nam Cộng Sản,
thì đó là một bài viết...khá. Văn Cao cầm súng "trong từ duy" xuống
đường Tây tiến như Quang Dũng, để từ "Năm cửa Ô tiến về Hà Nội" sau
này.
Và rồi Quang Dũng với Văn Cao đều đã
chết, mà thực lòng chẳng vị nào được như ý, chết bình thường trong cõi người ta
vô thường thôi. Ưu ái lắm thì có những ngày truy điệu, những đêm tưởng niệm, nhưng,
cũng chỉ vỏn vẹn năm, ba buổi, hoặc giả sau này có ai phục hồi danh nghĩa cho
các thiên tài, thì là...phải đợi. Chúng tôi vẫn nán lại ở bờ sông cửa Cấm, lênh
đênh thoáng qua một vài chiếc thuyền nan nhỏ bé ven bờ, lại cũng lời Thiên Thai
của nhạc sĩ tối hạng Văn Cao, thực tế cửa Cấm đang có tàu lớn của nước ngoài
neo tại đó, qua hình ảnh sau này, tôi chợt nghĩ đến những đợt người về từ trại
cấm Hồng Kông, Doãn Tòng nói vô tư:
- Thực chất họ có tiền hơn bọn tôi.
Cụ Vì Dân từ lúc nghe chuyện Mỹ giơ
tay nắm lấy bàn tay CSVN "Hi, forget chiến tranh nhé !" Cứ ấm ức mãi,
nay đối diện với một "ông tá năm" Vi Xi phục viên, ra làm văn nghệ
không chuyên, nghe ông này so sánh vốn liếng nhỏ của người thuyền nhân trở về,
thì cụ lại tức ứa máu:
- Sao nhà anh không vượt biên như họ
cho có tiền?
- Đâu phải ai cũng vượt biên được,
như tôi vượt biên với tư cách gì?
Cụ Vì Dân hục hặc, quên cả giữ gìn:
- Chẳng cần tư cách gì ráo, anh muốn
đi là đi, chỉ cần muốn hay không thôi.
Doãn Tòng chọc cụ:
- Thế bây giờ tôi đi được không?
Cụ Vì Dân như bị chạm nọc, đỏ mặt
lên, trừng mắt, đưa một ngón tay chỉ thẳng ra hướng sông Tam Bạc:
- Nhà anh nhảy xuống, bơi ra khơi
đi, cạn chiều của một chế độ, cho dù Mỹ đã bắt tay Việt Cộng, nhà anh vẫn có
thể phản kháng đến cùng chứ, ai cấm, phản đối là phản đối, dù không được...lợi
lộc gì.
Doãn Tòng vốn lỳ như Cộng Sản, vì
chính ông ta là Cộng Sản, nên ngôn ngữ vẫn "trước, sau như một duy nhất
đúng" tức là từ duy của ông ta đã được đúc sẵn một khuôn ra:
- Tôi không phản kháng gì hết, vì
trong lòng tôi có...mơ ước gì đâu, việc gì tôi phải ra đi.
- Vậy sao anh nói họ có tiền hơn
anh?
- Thì quả là họ có tiền hơn tôi chứ,
trước khi đi, họ phải mang vàng ra đổi mạng, tới lúc về, họ lại có "đô
la" bảo vệ cuộc sống.
Cụ Vì Dân gầm lên:
- Nhưng họ không muốn trở về dù có
"đô la", họ muốn đến một chân trời khác.
Biết câu chuyện đã đến lúc gay gắt,
vì tính nghiêm trọng của vấn đề, Doãn Tòng nhỏ nhẹ:
- Thật ra bàn đến vấn đề ra đi và
trở về của thuyền nhân quan trọng lắm, và lý lẽ, luật lệ của các quốc gia rất
là phức tạp, khó chịu, chẳng lẽ 20 năm rồi, vẫn còn tiếp tục chuyện vượt biên,
khi có đứa bé mới độ mấy tuổi, bố mẹ nó cứ đẩy ra biển, chưa trang bị cho nó
được mớ kiến thức chính trị nào.
- Nhà anh nói lạ, con phải theo cha
chứ, cha không đi được thì con đi, để nuôi ý chí căm thù, nên...
- Nên có một cách là xem lại cái gốc
của sự việc phải không?
- Phải, chính tại chế độ.
- Chế độ CSVN thì nay Mỹ đã đến thủ
đô Hà Nội, các ông ấy mới đồng thượng kỳ tại hai quốc gia vào cùng một ngày đấy
cụ ạ.
- Cờ Hoa Kỳ bay ở Việt Nam, không có
nghĩa là đất nước này đã hết Cộng Sản.
Doãn Tòng giả lả:
- Thì chưa hết, nhưng có khác đi
nhiều công chuyện lắm, trước nhất là cụ với tôi đang "hội thoại" đây,
bên bờ sông cửa Cấm - thoải mái.
- Anh tưởng lòng tôi đã vui hẳn. Anh
có biết là có những cặp vợ chồng vẫn chung sống với nhau, và vẫn mong nhau chết
đi, để rảnh nợ đó không?
- Có.
- Anh có biết là tôi và anh cũng sẽ
chết đi, mà con sông này vẫn miên viễn là của Việt Nam không?
- Đúng.
- Anh có biết là ông Văn Cao chết, cả
hai bên lằn ranh Quốc - Cộng đều tưởng nhớ, đều có những người tôn sùng tùy
theo ý nghĩ của họ không?
-Đúng.
- Vì ông ấy thực sự là người Việt
Nam tài giỏi và có lòng.
- Rất đúng.
- Vậy thôi, tôi không nói nữa.
Doãn Tòng thở ra, cười nhẹ:
- Thế ạ.
Cụ Vì Dân tức tối, nói trỏng trơ:
- Dẹp anh đi.
Nhìn về phía tôi, tôi đang ngắm
những đợt sóng trùng trùng điệp điệp từ ngoài khơi đổ vào mạng bờ, sóng dội âm
vang...bố mẹ tôi đã chết không phải vì sóng biển này, mà vì sóng tim và sóc óc.
Mẹ tôi đau tim, chết ở Hải Phòng trước 1954, bố tôi đau đầu, chết ở Sài Gòn sau
1975. Tôi chẳng còn gì ngoài ký ức, rất mơ hồ mà lại thật rõ rệt, vì tôi đang
nhìn xuống mặt sông, đang đứng trước cửa biển. Cách đây hơn 40 năm, gia đình
tôi đã nhiều lần tha thẩn đi bộ quanh vùng kỷ niệm này, nhưng trụ tàu, kè đá,
những hàng cây phượng vĩ mà vòm hoa nhuộm đỏ cả một khung trời.
Cụ Vì Dân hỏi tôi:
- Sao cô Cao hỏi tôi:
- Sao cô Cao, tìm lại được những gì?
Tôi lắc đầu, không trả lời cụ ngay,
vì lòng tôi trống rỗng như khoảng không trước mặt, Bính bên kia sông, buổi trưa
nắng hạ đang đổ chan hòa thứ ánh sáng vàng rực màu da cam dưới bóng mây trắng
bạc, ngày tháng dĩ vãng theo nhau hiện về, tôi muốn khóc mà không khóc được,
chắc vì tôi quá lớn tuổi rồi chăng, hay tại quãng thời gian 5 năm ở thành phố
Cảng này, không đủ xây dựng cho tôi một nền móng quá khứ vững chắc, khiến hôm
nay, khi tôi trở về, lại cứ có cảm tưởng như vừa mới đến một nơi nào xa lạ,
giống những người ngoại quốc lần thứ nhất tới Hải Phòng, trên đường du lịch
Việt Nam.
Hải Phòng, 8-8-1995
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
BẾN CŨ - CAO MỴ NHÂN

BẾN CŨ - CAO MỴ NHÂN
Cách đây hơn 40 năm, tuy mới vừa học
xong lớp Nhất, tức lớp 5 bây giờ, tôi đã có vẻ mơ mộng như một nữ sinh trung
học, tôi thường thả lỏng tâm hồn cho những điều "không tưởng" được
chan hòa đến trái tim và bộ óc non nớt của tôi. Cuốn truyện đầu tiên tôi thuê
về đọc, là tập ký sự của Hồ Dzếnh, kể lại chuyện tình của bố ông ta, người Tàu,
lưu lạc đến Việt Nam, và ở lại căn nhà trọ của cô lái đò nơi một bờ sông, sau
này là mẹ ông, hai nhân vật rất bình thường trong bất cứ xã hội bình dân nào,
đã tạo nên một Hồ Dzếnh tên tuổi giữa làng văn, làng thơ Việt Nam, tác giả bài
thơ "Chiều" mà hầu như ai trong chúng ta cũng thuộc nhiều, ít mấy câu
mang âm điệu hoài cảm đẹp, buồn:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày...
(Chiều - Hồ Dzếnh)
Thời gian bắt đầu mơ mộng của tôi
cũng ở bài thơ Chiều này, dù tôi còn "rất bé" so với tôi bây giờ đã
"cối sâm" chuyện mộng mơ, để không thể tin được là mình, một người
lăn lộn nơi Chốn Bụi Hồng sau này, lại có thể mơ mộng từ thủa thơ dại đến thế.
Đó cũng vào một buổi chiều rất chậm,
hoàng hôn đang lặng lẽ đưa chân ngày nơi bờ sông Lấp người ta đang ráo riết tổ
chức những buổi giã từ thành phố Cảng để ra đi về miền Nam lập nghiệp vì làn
sóng đỏ đang từ phương Bắc tràn đến các tỉnh Bắc Việt, trong đó có Hải Phòng
rực nắng mỗi khi mùa hạ đến, những vòm cây phượng vĩ thi nhau nở thắm cả một
thành phố biển tiếng tăm.
Hải Phòng, nơi "anh Khóa"
của cụ Á Nam Trần Tuần Khải ra đi để người "cô đầu" đến bờ sông tiễn
biệt "mông-cờ-lê-ơi" (chiếc chìa khóa của tôi ơi) và nữ ca sĩ Kim Chi
đã cầm trong tay điếu thuốc lá cháy dở dang, mơ màng hát lời thơ Chiều của Hồ
Dzếnh:
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cao
(Chiều - Hồ Dzếnh)
Rồi đêm đến, vườn hoa con cóc chìm
trong bóng tối, chúng tôi trở về nhà, chưa ly hương mà đã mang tâm trạng biệt
xứ, chị tôi đã khóc vì năm ấy chị sắp 20 tuổi, mà người tình của chị đi học tại
Đà Lạt, mãi không về để chứng kiến cuộc chia tay vĩ đại gồm rất nhiều người
liên tiếp rời xa nơi thân quen của mình, là hàng ngày từng đoàn người đến trực
nơi bờ sông cửa Cấm để xuống tàu di cư
vào Nam.
Sau 40 năm, tôi trở về thành phố của
một thời thơ ấu rất ngắn, chị em tôi sống ở đấy, tôi đi dọc theo đại lộ
"phố Tây" ngày xưa, tới đúng bờ sông cửa Cấm, nhìn sang Bính ngập
nắng, những vòm hoa phượng vẫn nở trên thành phố, xác hoa rơi ngập đỏ dưới chân
ai, mới đó đã gần nữa thế kỷ, hỏi sao không thay đổi nhiều chứ.
"Sao em không về thăm xóm Trúc", một câu hỏi nhái thơ Hàn Mặc
Tử gọi người tình về thôn Vỹ xa xưa, bổng vẳng nhẹ bên tai tôi, bất giác tôi
cũng vui như người vừa thốt giọng mơ màng ấy, rằng "đã về đây", mà có thấy gì đâu, cái xóm Trúc ở Đông Khuê, ngoại
ô, vâng, có thấy gì đâu, người quen xưa đi hết cả rồi.
Qua chùa Lạc Viên, thủa tôi còn tuổi
oanh vũ trong Gia Đình Phật Tử, đã chạy chơi quanh sân chùa chờ chị Ni, chị Tấn
tới họp đoàn, có thấy gì đâu cả ông ca sĩ Doãn Tòng, người "ca sĩ định
mệnh" thiên hạ ở đây phong tặng cho ông ta, người đã hát bài Thiên Thai
của Văn Cao từ khi những nốt nhạc còn chưa ráo mực. Doãn Tòng với dung nhan
"hoa mè" còn sống, người viết Thiên Thai thì vừa nằm xuống, nhưng
nhân dân phố cảng không làm lễ vọng niệm, mà cơ quan nghệ sĩ nhà nước tưởng
nhớ, hải ngoại cũng tưởng nhớ, vì nhạc sĩ Văn Cao là đấng thiên tài, là tài sản
quốc gia, là tài tử bất diện.
...Có một mùa "đào" chưa tàn phai một lần...
Đúng, lòng nhạc sĩ lớn thường bao la
như biển rộng, huống chi ông là người của Bến Cảng, nên tâm hồn nửa như sóng vỗ
khơi xa, nửa lại nhẹ tênh âm hưởng quê nghèo trầm ấm. Lời nhạc ông viết bằng
mực đỏ, thật danh dự, nhưng tâm tình ông, lúc nào cũng chỉ...phơn phớt hoa đào,
Doãn Tòng còn nhắc: "Hai chị Thái Thanh, Thái Hằng người xưa hát ở khu 4
nào đó" một cách thán phục chân tình.
Các văn nghệ sĩ Sài Gòn và Hà Nội
ngồi phân tích hai con người đối chọi trong một danh xưng Văn Cao: Văn Cao
"Thiên Thai" với Văn Cao "Tiến Quân Ca".
Thi sĩ Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc
Tường viết: Văn Cao cầm bút và Văn Cao cầm súng, tất nhiên ở Việt Nam Cộng Sản,
thì đó là một bài viết...khá. Văn Cao cầm súng "trong từ duy" xuống
đường Tây tiến như Quang Dũng, để từ "Năm cửa Ô tiến về Hà Nội" sau
này.
Và rồi Quang Dũng với Văn Cao đều đã
chết, mà thực lòng chẳng vị nào được như ý, chết bình thường trong cõi người ta
vô thường thôi. Ưu ái lắm thì có những ngày truy điệu, những đêm tưởng niệm, nhưng,
cũng chỉ vỏn vẹn năm, ba buổi, hoặc giả sau này có ai phục hồi danh nghĩa cho
các thiên tài, thì là...phải đợi. Chúng tôi vẫn nán lại ở bờ sông cửa Cấm, lênh
đênh thoáng qua một vài chiếc thuyền nan nhỏ bé ven bờ, lại cũng lời Thiên Thai
của nhạc sĩ tối hạng Văn Cao, thực tế cửa Cấm đang có tàu lớn của nước ngoài
neo tại đó, qua hình ảnh sau này, tôi chợt nghĩ đến những đợt người về từ trại
cấm Hồng Kông, Doãn Tòng nói vô tư:
- Thực chất họ có tiền hơn bọn tôi.
Cụ Vì Dân từ lúc nghe chuyện Mỹ giơ
tay nắm lấy bàn tay CSVN "Hi, forget chiến tranh nhé !" Cứ ấm ức mãi,
nay đối diện với một "ông tá năm" Vi Xi phục viên, ra làm văn nghệ
không chuyên, nghe ông này so sánh vốn liếng nhỏ của người thuyền nhân trở về,
thì cụ lại tức ứa máu:
- Sao nhà anh không vượt biên như họ
cho có tiền?
- Đâu phải ai cũng vượt biên được,
như tôi vượt biên với tư cách gì?
Cụ Vì Dân hục hặc, quên cả giữ gìn:
- Chẳng cần tư cách gì ráo, anh muốn
đi là đi, chỉ cần muốn hay không thôi.
Doãn Tòng chọc cụ:
- Thế bây giờ tôi đi được không?
Cụ Vì Dân như bị chạm nọc, đỏ mặt
lên, trừng mắt, đưa một ngón tay chỉ thẳng ra hướng sông Tam Bạc:
- Nhà anh nhảy xuống, bơi ra khơi
đi, cạn chiều của một chế độ, cho dù Mỹ đã bắt tay Việt Cộng, nhà anh vẫn có
thể phản kháng đến cùng chứ, ai cấm, phản đối là phản đối, dù không được...lợi
lộc gì.
Doãn Tòng vốn lỳ như Cộng Sản, vì
chính ông ta là Cộng Sản, nên ngôn ngữ vẫn "trước, sau như một duy nhất
đúng" tức là từ duy của ông ta đã được đúc sẵn một khuôn ra:
- Tôi không phản kháng gì hết, vì
trong lòng tôi có...mơ ước gì đâu, việc gì tôi phải ra đi.
- Vậy sao anh nói họ có tiền hơn
anh?
- Thì quả là họ có tiền hơn tôi chứ,
trước khi đi, họ phải mang vàng ra đổi mạng, tới lúc về, họ lại có "đô
la" bảo vệ cuộc sống.
Cụ Vì Dân gầm lên:
- Nhưng họ không muốn trở về dù có
"đô la", họ muốn đến một chân trời khác.
Biết câu chuyện đã đến lúc gay gắt,
vì tính nghiêm trọng của vấn đề, Doãn Tòng nhỏ nhẹ:
- Thật ra bàn đến vấn đề ra đi và
trở về của thuyền nhân quan trọng lắm, và lý lẽ, luật lệ của các quốc gia rất
là phức tạp, khó chịu, chẳng lẽ 20 năm rồi, vẫn còn tiếp tục chuyện vượt biên,
khi có đứa bé mới độ mấy tuổi, bố mẹ nó cứ đẩy ra biển, chưa trang bị cho nó
được mớ kiến thức chính trị nào.
- Nhà anh nói lạ, con phải theo cha
chứ, cha không đi được thì con đi, để nuôi ý chí căm thù, nên...
- Nên có một cách là xem lại cái gốc
của sự việc phải không?
- Phải, chính tại chế độ.
- Chế độ CSVN thì nay Mỹ đã đến thủ
đô Hà Nội, các ông ấy mới đồng thượng kỳ tại hai quốc gia vào cùng một ngày đấy
cụ ạ.
- Cờ Hoa Kỳ bay ở Việt Nam, không có
nghĩa là đất nước này đã hết Cộng Sản.
Doãn Tòng giả lả:
- Thì chưa hết, nhưng có khác đi
nhiều công chuyện lắm, trước nhất là cụ với tôi đang "hội thoại" đây,
bên bờ sông cửa Cấm - thoải mái.
- Anh tưởng lòng tôi đã vui hẳn. Anh
có biết là có những cặp vợ chồng vẫn chung sống với nhau, và vẫn mong nhau chết
đi, để rảnh nợ đó không?
- Có.
- Anh có biết là tôi và anh cũng sẽ
chết đi, mà con sông này vẫn miên viễn là của Việt Nam không?
- Đúng.
- Anh có biết là ông Văn Cao chết, cả
hai bên lằn ranh Quốc - Cộng đều tưởng nhớ, đều có những người tôn sùng tùy
theo ý nghĩ của họ không?
-Đúng.
- Vì ông ấy thực sự là người Việt
Nam tài giỏi và có lòng.
- Rất đúng.
- Vậy thôi, tôi không nói nữa.
Doãn Tòng thở ra, cười nhẹ:
- Thế ạ.
Cụ Vì Dân tức tối, nói trỏng trơ:
- Dẹp anh đi.
Nhìn về phía tôi, tôi đang ngắm
những đợt sóng trùng trùng điệp điệp từ ngoài khơi đổ vào mạng bờ, sóng dội âm
vang...bố mẹ tôi đã chết không phải vì sóng biển này, mà vì sóng tim và sóc óc.
Mẹ tôi đau tim, chết ở Hải Phòng trước 1954, bố tôi đau đầu, chết ở Sài Gòn sau
1975. Tôi chẳng còn gì ngoài ký ức, rất mơ hồ mà lại thật rõ rệt, vì tôi đang
nhìn xuống mặt sông, đang đứng trước cửa biển. Cách đây hơn 40 năm, gia đình
tôi đã nhiều lần tha thẩn đi bộ quanh vùng kỷ niệm này, nhưng trụ tàu, kè đá,
những hàng cây phượng vĩ mà vòm hoa nhuộm đỏ cả một khung trời.
Cụ Vì Dân hỏi tôi:
- Sao cô Cao hỏi tôi:
- Sao cô Cao, tìm lại được những gì?
Tôi lắc đầu, không trả lời cụ ngay,
vì lòng tôi trống rỗng như khoảng không trước mặt, Bính bên kia sông, buổi trưa
nắng hạ đang đổ chan hòa thứ ánh sáng vàng rực màu da cam dưới bóng mây trắng
bạc, ngày tháng dĩ vãng theo nhau hiện về, tôi muốn khóc mà không khóc được,
chắc vì tôi quá lớn tuổi rồi chăng, hay tại quãng thời gian 5 năm ở thành phố
Cảng này, không đủ xây dựng cho tôi một nền móng quá khứ vững chắc, khiến hôm
nay, khi tôi trở về, lại cứ có cảm tưởng như vừa mới đến một nơi nào xa lạ,
giống những người ngoại quốc lần thứ nhất tới Hải Phòng, trên đường du lịch
Việt Nam.
Hải Phòng, 8-8-1995
CAO MỴ NHÂN (HNPD)