Mỗi Ngày Một Chuyện
Bắc Kỳ “Dón” - Hà Việt Hùng
Ngày mẹ tôi từ thành phố Hải Phòng dắt tôi lên tầu vào Nam, tôi còn nhỏ xíu. Đó là những ngày cuối cùng của năm 1954. Hồi đó mẹ tôi đang làm cho một Công ty Xăng Dầu của quân đội Pháp, người ta gọi là Compagnie d’Essence.
Không biết nghe ai nói, ông ngoại tôi biết tin mẹ con tôi sắp di cư vào Nam, ông đã từ Thái Bình lần mò ra Hải Phòng, rồi lại lần mò đến ngõ Chè Chai để thăm con gái và cháu ngoại. Nói là thăm, thực ra ông ngoại tôi tìm cách khuyên can mẹ tôi ở lại. Ông tôi có năm người con. Mẹ tôi thứ tư, nhưng sau này người miền Nam vẫn quen gọi mẹ tôi là bà Năm.
Tôi còn nhớ ông mặc một chiếc áo the thâm, đầu đội khăn xếp. Ông đã ôm tôi vào lòng trong khi nói chuyện với mẹ tôi. Tôi không nhớ ông ngoại và mẹ tôi đã nói những gì. Tôi chỉ nhớ hai người đã đứng nói chuyện với nhau khá lâu ở ngoài đường, ngay phía trước cửa nhà. Hình như mẹ tôi không muốn bà chủ nhà nghe được. Mẹ tôi và ông ngoại nói chuyện rất nhỏ. Rồi tôi thấy ông ngoại tôi khóc. Mẹ tôi cũng khóc. Còn tôi vẫn cứ hồn nhiên chạy ra chạy vào, xem như không có chuyện gì quan trọng xảy ra. Ngày đó tôi chưa biết “vào Nam” là làm sao, và “miền Nam” là ở đâu. Tôi chỉ biết mẹ tôi đã chuẩn bị trước cả tháng. Tôi thấy mẹ tôi mua một ít quần áo, áo lạnh, giầy dép và những thứ thật cần thiết cho hai mẹ con. Tôi không nhớ có hỏi mẹ tôi về chuyện này không. Tại sao không sống ở miền Bắc? Tại sao lại phải vào Nam? Tôi cảm thấy có một sự thay đổi rất to lớn trong “đời” tôi từ đấy. Tháng trước tôi còn đang ở trong Cô Nhi Viện An Lạc của Bà Vũ Thị Ngãi. Tôi còn chơi bắn bi với mấy thằng bạn “cô nhi” của tôi. Tôi còn đang tập dượt màn hoạt cảnh Trăng Sáng Trong Làng của Nhạc sĩ Chung Quân ở văn phòng Cô Nhi Viện để trình diễn vào dịp Tết Trung Thu sắp đến. Vậy mà tôi lại sắp sửa vào Nam. Sau cùng, tôi nghe mẹ tôi nói với ông ngoại tôi, tôi nhớ lõm bõm có những câu như: “Xin thầy tha thứ cho tội bất hiếu của con. Con phải đưa cháu đi, không thể ở lại được”. Ngày ấy tôi chưa hiểu “tội bất hiếu” là tội gì, và vì sao mẹ tôi “không thể ở lại được”. Đó là lần cuối cùng tôi được ông ngoại ôm vào lòng, được nghe tiếng nói của ông, và được nhìn đôi mắt nghiêm nghị nhưng ẩn chứa u buồn của ông. Khoảng mười năm sau đó, một lá bưu thiếp gửi từ miền Bắc, báo tin ông ngoại tôi qua đời. Tôi thấy mẹ tôi đã buồn và sụt sùi khóc nhiều ngày.
Ngày nào mẹ tôi cũng đi làm, đến tối mới về. Hình như lúc đó tôi đang học lớp Ba. Tôi nghe lời rủ rê của Cường – con bà chủ nhà mẹ tôi mướn. Cường rủ tôi xin vào Cô Nhi Viện An Lạc vì cậu ta đã ở trong đó trước rồi. Tôi nghe bùi tai, xin vào. Vả lại, ở nhà không có ai chơi, cũng buồn. Tôi không nhớ mẹ tôi có phải làm đơn hay ký tên gì không. Thế là từ đấy tôi trở thành “trẻ mồ côi” mặc dù vẫn còn mẹ và có nhà ở, dù là nhà mướn. Thực ra, đây là giai đoạn cuối năm 1954, Cô Nhi Viện An Lạc cũng đang chuẩn bị di cư vào Nam, nên thủ tục xin vào có phần lơ là và dễ dàng. Tôi nhớ Giám Hiệu hồi đó là Thầy Thái. Nhìn bề ngoài ông có vẻ nghiêm khắc, nhưng thật ra ông lại dễ tính và hay cười. Cô Nhi Viện rất gần nhà tôi ở ngõ Chè Chai, nên Cường và tôi đi đi về về như cơm bữa. Nhiều ngày chúng tôi ăn cơm ở Cô Nhi Viện. Tôi còn nhớ những cái bát bằng nhôm móp méo, cáu bẩn, bựa cơm còn bám chung quanh miệng bát. Nhưng hồi đó tôi không thấy gớm ghiếc gì cả. Tôi còn nhớ có một ông thầy già vẫn đến dạy chúng tôi Pháp Văn. Thầy ăn mặc giống như ông ngoại tôi, khăn xếp, áo the thâm. Tôi còn nhớ cả khoảng sân rộng phía trước Cô Nhi Viện, bề ngang vừa cho một chiếc xe hơi chạy vào, nơi đó tôi và mấy người bạn vẫn thường chơi gụ, bắn bi hoặc đánh đáo vào những buổi trưa.
Nhờ ở Cô Nhi Viện An Lạc, và do uy tín cũng như tài ngoại giao của Bà Vũ Thị Ngãi, có một lần bọn trẻ mồ côi chúng tôi được đón ra tầu Mỹ chơi thỏa thích. Chiếc tầu thật to thả neo ở mãi ngoài khơi. Chúng tôi được chở ra bằng ca-nô nhỏ. Những người lính hải quân trên tầu rất vui vẻ, tử tế. Hôm đó chúng tôi được xem chiếu phim và ăn uống đã đời. Toàn là những món ăn xa lạ với khẩu vị của bọn mồ côi chúng tôi, nhưng món nào cũng ngon tuyệt.
Ngày lên tầu vào Nam. Gần một tuần lễ nằm bẹp trên tầu, tôi bị say sóng, ói mửa vài lần. Tôi thấy nhớ ngõ Chè Chai nơi có Chị Túc vẫn qua chơi với tôi, nơi có Bà Nữ bán thạch chè mẹ tôi thường mua ghi sổ cuối tháng mới trả tiền, nơi có thằng Cường nước da ngăm ngăm đã rủ rê tôi vào Cô Nhi Viện An Lạc. Trong khi đầu óc bập bềnh, tôi nhớ nhiều chuyện lắm. Mẹ tôi có lẽ khá hơn. Tôi không thấy mẹ tôi ói mửa như tôi.
Người ta nói đây là loại tầu há mồm của quân đội Pháp. Sau khi tầu cập bến, chúng tôi được đưa tới trường đua Phú Thọ, ở trong những căn lều được dựng sẵn. Tôi chỉ nhớ dọc hai bên mỗi căn lều có dẫy ván kê cao làm giường ngủ. Mọi sinh hoạt ăn và ngủ đều diễn tiến trên những tấm ván này. Lẽ dĩ nhiên ở đấy rất thiếu tiện nghi. Ban ngày trời nóng hừng hực như đổ lửa. Những căn lều thấp lè tè, nằm sát bên nhau trong một khu đất rộng thiếu bóng cây. Mùi vải lều bốc lên hăng hắc, rất khó chịu. Cũng may, vào thời gian chúng tôi ở đây, số người di cư chưa đông lắm.
Thỉnh thoảng mẹ tôi cho một đồng tiền giấy có hình Vua Bảo Đại. Tôi đón ông Tầu bán cà rem, mua một cây giá 5 cắc. Ông Tầu thản nhiên xé tờ giấy một đồng ra làm hai, giữ một nửa, còn nửa kia “thối lại” cho tôi.
Ở trường đua Phú Thọ chưa tới một tháng, mẹ tôi đưa tôi về xóm Bến Cát, quận Gò Vấp. Mẹ tôi lại tiếp tục làm việc ở kho xăng của quân đội Pháp. Kho xăng này rất gần nhà. Ngày nào mẹ tôi cũng đi bộ đi làm.
Lúc đầu hai mẹ con phải ở chung đụng với một gia đình bạn của mẹ tôi. Sau này mẹ tôi mua được một căn nhà lá, nền đất, mặt tiền nhìn ra đường. Chính căn nhà lá này là nơi tôi đã có nhiều kỷ niệm nhất của thời ấu thơ. Cả xóm Bến Cát chỉ có vài căn nhà gạch, còn phần nhiều đều làm bằng gỗ, mái tôn hoặc hoàn toàn bằng lá dừa. Sống trong căn nhà lá này, vào những đêm trời mưa to gió lớn, tôi sợ lắm. Gió tốc ngược lá ra phía sau. Tôi nhìn thấy rõ những tia chớp ngoằn ngoèo sau những khe hở. Nhà lại không có điện. Trên bàn tù mù một ngọn đèn dầu. Nước mưa chẩy từ trên mái nhà xuống. Tôi nằm bên mẹ, sợ hãi không dám nói một tiếng nào. Lòng chỉ mong sao trời tạnh mưa càng sớm càng tốt.
Ngay phía sau nhà tôi là nhà của ông Tám. Ông có người con trai duy nhất tên là Xưng. Tôi nghĩ tên anh là Xuân thì đúng hơn, vì người Nam đã phát âm theo giọng địa phương, chẳng hạn Liên thành ra Liêng, Oanh thành ra Hoanh, Kim thành ra Kiêm. Năm ấy anh Xưng chừng hai mươi mấy tuổi. Tôi không biết anh làm nghề gì. Ông Tám nói tiếng Bắc pha giọng Nam, chứng tỏ ông đã vào Nam từ lâu rồi. Vợ ông là người miền Nam thứ thiệt. Trong nhà ông Tám bầy rất nhiều bàn thờ, gần như lúc nào cũng có khói hương nghi ngút. Tôi thấy người ta thường đến nhà ông, đem theo thân nhân bị mắc bệnh này bệnh nọ để nhờ ông chữa bệnh. Vào những dịp như thế, tôi thấy ông Tám mặc quần áo xanh đỏ, múa may trên một cái chiếu thật to trải trước bàn thờ. Ông đâm một mũi tên dài làm bằng tre, một đầu vuốt nhọn, xuyên từ má bên này qua má bên kia. Miệng ông phát ra những âm thanh lạ lùng nhiều lúc tôi không hiểu. Ông đã làm như thế nhiều lần, nên tỏ ra rất thành thạo. Những vết thẹo hai bên má ông đã làm tôi sợ. Anh Xưng nói là ba anh làm nghề thầy pháp. Ông có thể chữa đủ thứ bệnh. Bệnh nào cũng do tà ma mà ra cả. Có những người ở rất xa, nghe đồn có thầy giỏi, đã lặn lội mò tới.
Có lần anh Xưng kể chuyện mấy người Bắc Kỳ “dón” cho tôi nghe. Anh và mấy thằng bạn người Nam đứng ở khúc đường gần sân bay Tân Sơn Nhất, chặn những thanh niên trạc tuổi anh đi làm hoặc đi học về. Bọn anh bắt những người đó lập lại ba tiếng “Tân Sơn Nhức”. Ai lập lại đúng như thế thì cho đi. Còn ai nói “Tân Sơn Nhất” là bọn anh nhào tới đánh liền, vì một phần mang sẵn thành kiến ác cảm với người Bắc di cư, và một phần vì tuổi trẻ thích đùa nghịch như vậy.
Bên cạnh nhà tôi là nhà của cậu Dũng, làm nghề thợ may. Có thể cậu Dũng cũng di cư vào Nam cùng một đợt với mẹ con tôi. Lúc bấy giờ cả xóm chỉ có một mình nhà cậu Dũng là có máy hát. Tôi nhớ đây là máy hát đĩa, quay bằng dây thiều, hình như là hiệu Columbia. Những cái đĩa bằng nhựa, đường kính lớn hơn gang tay của tôi. Mỗi khi sang nhà cậu, tôi giữ nhiệm vụ quay dây thiều. Cái máy hát này có nhiều khi tức cười. Đang hát nó hết dây thiều, rên rỉ như người sắp chết, rồi lại gầm lên sau khi được quay mấy vòng. Vì vậy, tốc độ của bản nhạc tùy thuộc vào vòng cuốn của dây thiều còn hay sắp hết. Nhiều đĩa hát của cậu Dũng từ vọng cổ đến tân nhạc, tôi nghe riết rồi thuộc lòng. “Khoan khoan bớ Nguyệt Thu Nga, cái tên mà đã sáu năm qua nó đơm bông nở nhụy trong cái quả…tim…này.” Tôi thích nghe khi người nghệ sĩ Cải Lương miền Nam xuống xề mùi mẫn, chứ không để ý vì sao người nghệ sĩ này lại hát là “quả tim” thay vì “trái tim”. Tôi còn được nghe nghệ sĩ Kim Chung trong Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt hát vọng cổ, Phạm Duy hát “Ai lướt đi ngoài sương gió…” qua bài Buồn Tàn Thu của Văn Cao, và đôi song ca Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết hát “Đêm nay bao con thuyền ngập ngừng xuôi mái…” qua bài Trăng Rụng Xuống Cầu của Hoàng Thi Thơ. Tôi thích bài Ngựa Phi Đường Xa của Lê Yên do ban hợp ca Thăng Long hát, nhất là lúc có tiếng ngựa hí. Cứ thế, cái máy hát nhai đi nhai lại những vở tuồng cải lương và những bài hát tân nhạc này có đến cả triệu lần. Nhưng hồi đó, mỗi lần nghe, tôi vẫn cứ thấy hay.
Mãi sau này, nhà cậu Dũng còn có thêm một cái radio nữa. Lại thêm lý do gần như hằng đêm chúng tôi ngồi nghe Chương Trình Tao Đàn. “Đây Tao Đàn, tiếng nói của thơ văn miền tự do, do Đinh Hùng phụ trách. Hôm nay với sự cộng tác của Thanh Nam, Thái Thủy, Tô Kiều Ngân, Hồ Điệp, Giáng Hương…” Rồi đến ” Đây Chương Trình Dạ Lan. Tiếng nói của những người em gái hậu phương, nói chuyện với các anh trai tiền tuyến…” và ngay sau đó là giọng hát của Thái Thanh “Một yêu… tóc xõa… đuôi gà , hai yêu… ăn nói… mặn mà… à mà…có duyên…”
Làm ở kho xăng được ít lâu, mẹ tôi quen cô Lý cùng làm chung sở. Cô độ trên ba mươi. Cô dễ thương, không đẹp nhưng có duyên và ngoan ngoãn. Mẹ tôi và cô xem nhau như hai chị em. Mẹ tôi mời cô về nhà ở chung. Từ đấy nhà tôi có thêm người. Nhà chật chội, chỉ có một cái giường. Đêm ngủ, tôi nằm giữa. Cô Lý có một người bạn trai tôi quen gọi là Chú Phú. Khi đó chú Phú là Hạ sĩ quan Công Binh. Doanh trại của chú đối diện với Lăng Ông Bà Chiểu. Chú Phú đã có gia đình, nhưng vợ chồng không hợp nhau sao đó, chú theo đuổi cô Lý đã mấy năm, và cô Lý xem ra cũng có cảm tình với chú.
Từ ngày vào Nam, vì lạ nước lạ cái, và vì bận rộn với vấn đề mưu sinh, mẹ tôi không để ý đến chuyện xin cho tôi đi học. Chú Phú thấy tôi tội nghiệp, xin cho tôi vào học ở Trường Tiểu Học Gò Vấp. Đây là trường công, học trò nam nữ học chung. Hồi đó muốn xin học cho trẻ con vào một trường tiểu học nào đó khá dễ dàng, chỉ cần một mảnh giấy khai sinh là đủ.
Trường tọa lạc trên một khoảnh đất tương đối nhỏ, có hai dãy, mỗi dãy có 5-6 lớp. Giữa hai dãy có một sân chơi tráng xi-măng. Nhìn từ ngoài cổng vào, người ta sẽ thấy văn phòng ông Hiệu Trưởng và sát bên là căn phòng nhỏ lưu trữ hồ sơ. Phía trước văn phòng Hiệu Trưởng có một cây cột cờ thật cao.
Hồi đó, số học sinh đi học còn ít. Hình như cả trường chỉ có vài học sinh “Bắc Kỳ” như tôi. Vì vậy, tôi rất sợ tụi bạn chọc quê mình là “Bắc Kỳ Dón”.
Tôi vào học Lớp Ba. Trường đã khai giảng được vài tháng. Cô giáo tên Huệ. Nhà cô ở ngay phiá sau Ty Bưu Điện Gò Vấp, nên mỗi ngày cô chỉ mất độ vài phút đi bộ tới trường. Ở ngoài Bắc tôi đang học dang dở lớp Ba, nên dù vào học trường mới có phần trễ so với các bạn cùng lớp, tôi vẫn theo kịp không mấy khó khăn.
Ngày nào chú Phú cũng đón tôi ở cổng trường, chở tôi về nhà bằng xe đạp, chỉ mất khoảng mười phút. Nhưng tôi lại không thích chú Phú chở về. Tôi chỉ muốn đi bộ để có dịp la cà, đùa giỡn và nói chuyện với mấy đứa bạn chung đường. Đi bộ vui hơn, lè phè mất tới nửa tiếng, có khi hơn, mới về tới nhà.
Từ trường về, nếu đi theo vỉa hè bên trái, tôi phải đi qua rạp hát Lạc Xuân. Đây là rạp hát nhỏ, chủ là người Tầu. Chính ở rạp hát này tôi đã có những giờ phút vui vẻ, say mê và bị lôi cuốn vào những cuốn phim cao bồi đánh nhau với mọi da đỏ. Đi thêm một đoạn ngắn nữa, tới ngã tư sẽ là văn phòng hành chánh Quận, và chợ Gò Vấp ở bên phải, qua công ty sản xuất nước tương Dũ Chành của người Tầu, rồi đi xuống một con đường dốc thoai thoải có cây me thật to ở bên trái. Về sau người ta đã chặt cây me này đi, nghe đồn là có ma. Có một lần vào dịp Tết Trung Thu, tôi đi rước lồng đèn ở trường mãi tới khuya mới về. Lúc đó trời rả rích mưa. Thỉnh thoảng lại có tia chớp loé lên ở trên trời. Trên đường về chỉ có một mình tôi. Đây là con đường duy nhất để về nhà. Khi gần đến cây me, tự nhiên tôi cảm thấy rờn rợn trong người. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh. Môi tôi bặm lại, hai mắt nhìn cây me trừng trừng, nhưng tim bắt đầu đập loạn xạ trong lồng ngực. Rồi vì sợ quá, tôi tháo vội đôi dép, co giò chạy. Vừa chạy, tôi vừa quay đầu nhìn lại. Tai tôi nghe rõ ràng có tiếng “thình thịch” đuổi theo. Đúng là ma rồi. Tôi càng ra sức chạy nhanh chừng nào, nó càng đuổi theo nhanh chừng ấy. Khi chạy xuống tới cuối dốc, gặp đường rầy xe lửa, tôi thở hổn hển, muốn xỉu. Tôi chỉ thực sự cảm thấy an toàn khi nhìn thấy phía trước mặt còn ánh đèn của nhà ai thức muộn, hắt ra.
Bên phải con đường dốc là kho xăng nơi mẹ tôi làm, và sau cùng, qua một đường rầy xe lửa thỉnh thoảng dẫn những chuyến hàng, hình như là vũ khí, tới kho đạn. Như thế, khu Bến Cát tôi ở hoàn toàn nằm trong một địa hình nguy hiểm. Bên phải, bên trái là kho xăng, kho đạn, và xưởng cưa của quân đội Pháp. Đến cuối năm 1955, những cơ sở này được giao cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Vì địa hình như thế, sau này, đến Tết Mậu Thân 1968, cả khu Bến Cát gần như hoàn toàn nát tan thành bình địa. Đứng ở chỗ đường rầy xe lửa, người ta có thể nhìn suốt tới Bến Củi. Cả một vùng rộng lớn, trống lốc, không còn một mái nhà nguyên vẹn.
Từ đường rầy xe lửa, nếu đi thẳng tới sẽ gặp Bến Củi, ngăn cách khu An Phú Đông bởi một con sông chảy ra cầu Bình Lợi. Ở Bến Củi có chừng mấy chục nóc nhà, nhà gạch có, nhà lá có. Dân ở đây sống bằng nghề chẻ củi, bó lại thành từng bó nhỏ rồi chở bằng xe ba bánh đi bán lẻ hay bỏ mối. Bên trái đường rầy xe lửa là khu Bến Hải. Bên cạnh đường đi, ngày đó có một miếng đất nhỏ, hơi thấp so với mặt đường, bề dài chừng 20 mét, bề ngang chừng 4 mét, đã trở thành một sân đá banh lý tưởng cho bọn trẻ con chúng tôi. Tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau ít nhất vài ba lần, chia phe đá banh, chạy nhảy ầm ầm không biết mệt. Ở “sân banh” lỗ mũi này, chúng tôi đã gọi nhau bằng tên của những cầu thủ nổi tiếng thời đó, nào là Rạng, Tam Lang, Đực Một, Đực Hai, Ngôn, Vinh, vân vân.
Cũng trên con đường đất đỏ này, tôi đã nhiều lần được chứng kiến những cuộc tranh tài “đẫm máu” của những con ngựa kéo xe thổ mộ. Hồi đó chưa có xe xích lô đạp. Ở trên Chợ Gò Vấp có một bến xe ngựa, thường chở hành khách từ Chợ Gò Vấp đi Bà Chiểu, hay đi Hạnh Thông Tây. Gặp ngày vắng khách, ế ẩm, các bác tài bầy ra trò đua ngựa để giải trí cho đỡ buồn. Hình như có cá độ ăn tiền. Các bác rủ nhau 5-7 người, đánh xe ngựa xuống con đường nhỏ này làm một vài cuộc đua cho nóng người. Các bác xếp xe ngựa theo bề ngang của con đường, tối đa được ba chiếc, có trọng tài đàng hoàng, rồi bắt đầu cuộc đua. Các bác ra sức kéo cương, đánh roi liên tiếp vào mông mấy con ngựa, miệng la hét vang trời. Mấy con ngựa lồng lên, chạy bán sống bán chết, bụi đất bay mịt mù. Tôi thấy mấy con ngựa thở phì phì, có con miệng bật máu vì bị giựt cương quá mạnh. Sau mỗi lần đua, có con chạy trước, có con chạy sau, có tiếng cười hề hả, và có cả những tiếng chửi thề thô tục.
Đi thật xa hết khu Bến Hải rồi rẽ phải vào một con đường nhỏ, tận cùng có một ngôi miếu cổ xây ở giữa dòng sông, người ta gọi là Miếu Nổi. Sông không sâu lắm, nhưng thỉnh thoảng vẫn có người chết đuối. Sau này, hồi mười một mười hai tuổi, tôi ham vui nghe theo mấy thằng bạn, bơi qua sông vài ba lần. Có một lần tôi suýt bị chết đuối, nhưng may nhờ có anh Hiến kéo vào.
Từ khi chú Phú biết ý muốn của tôi, chú không chở tôi bằng xe đạp nữa, tôi được dịp tung tăng nhảy nhót. Ngày đó, phần lớn mấy đứa học sinh tiểu học gia đình nghèo như tụi tôi thường đi chân đất, không mang giầy dép gì cả, ngoại trừ những đứa con nhà khá giả hoặc là con gái. Giữa trời nắng chang chang, đi chân đất trên đường nóng chảy nhựa, hẳn nhiên không phải là điều thú vị, nhưng bọn trẻ tụi tôi đã quen như thế, không đứa nào cảm thấy khổ sở hay kêu ca gì cả.
Một hôm đi học về, tôi không thấy cô Lý ở nhà. Mẹ tôi nói cô bị bà vợ của chú Phú đánh ghen. Cô sợ nên đã bỏ trốn. Tôi biết mẹ tôi nhớ và thương cô lắm. Tôi cũng vậy, nhưng không biết làm sao. Có lẽ trong lúc vội vã, cô đã để quên bộ quần áo. Mẹ tôi bỏ bộ đồ của cô vào trong một cái chảo, rồi rang lên. Tôi lấy làm lạ, đứng nhìn. Mẹ tôi nói, rang như thế cô sẽ thấy bứt rứt, nóng ruột mà trở về. Nhưng cô đã không về với mẹ con tôi nữa. Ba bốn năm sau, tôi gặp lại cô và chú Phú đến thăm xóm Bến Cát. Hình như lúc đó cô và chú Phú đã thành vợ chồng thực thụ rồi.
Còn tôi vẫn đi học mỗi ngày. Một hôm trên đường đến trường, tôi gặp thằng Đực, bạn cùng học lớp Ba với tôi. Nó đi trước tôi vài bước, một tay cầm cập, còn tay kia cầm một cái hộp giấy nhỏ. Đang đi, bỗng thằng Đực đứng khựng lại. Miệng nó la to:
– Chết cha. Con dế đá của tao. Nó nhảy ra. Bắt…bắt…bắt dùm tao với.
Nó vừa cà lăm nói đến đó, tôi cũng vừa đi tới. Không thể nào tránh khỏi, bàn chân của tôi đạp ngay lên con dế. Tội nghiệp con vật nhỏ bị đạp bẹp dí, hai cái râu đang nhúc nhích như muốn nói lời trăn trối cuối cùng. Tôi lùi lại, đứng chết trân. Tôi cảm thấy mặt mình tái đi. Chắc lúc đó vẻ mặt tôi khủng khiếp lắm. Có thể nói, đấy là lần khiếp đảm đầu tiên trong đời tôi. Tôi đã nhiều lần nhìn thấy những tia chớp xuyên qua mái lá nhà tôi vào những đêm giông bão. Tôi đã lo sợ, co rúm người lại. Vậy mà lần này, “tai nạn” xảy ra quá nhanh, tôi vừa lo sợ vừa ân hận, y như người lái xe say rượu vừa cán chết người, đứng chết trân không biết phải làm gì.
Trong khi còn đang lung túng, tôi nghe thấy tiếng khóc của thằng Đực. Tiếng khóc của nó nhất định là phải ai oán, thê lương lắm, vì vậy tôi đã không thể tìm được lời nói nào để an ủi hay năn nỉ nó .
– Tao không biết đâu. Mày thường tao đi.
Nó cứ lập đi lập lại câu đó mãi, khiến cho tôi càng bối rối. Tôi làm gì có đủ tiền để thường cho nó. Mỗi sáng mẹ tôi cho năm mươi xu để mua một gói xôi ăn sáng đi học. Năm mươi xu chưa chắc đủ để mua một con dế đá loại chiến. Tôi lại còn phải để dành tiền mua tờ báo có truyện tranh Chuột Mickey và Vịt Donald ra hàng tuần nữa chứ. Truyện này đang tới hồi gay cấn, không thể bỏ qua được.
Tôi phùng miệng bào chữa:
– Tại mày, chứ đâu phải tại tao. Mày làm rớt nó xuống đường. Tao đi trờ tới đạp phải. Làm sao tao né được. Tao đâu có cố tình.
Tôi nói vậy mà nó vẫn không chịu, nó vẫn cứ ti tỉ khóc, miệng vẫn méo xệch kéo dài cái điệp khúc “tao không biết đâu. Mày thường tao đi…” Nghe mà não ruột.
Qua ngày hôm sau, không thấy thằng Đực nỉ non bắt thường tôi nữa. Có lẽ nó thấy không đáng. Hay là nó cảm thấy tội nghiệp cho tôi? Hay là nó đã quên mất chuyện đó rồi? Lẽ dĩ nhiên, không thấy nó đòi, tôi mừng húm trong bụng. Cũng may ở trong lớp, tôi và nó không ngồi cạnh nhau.
Năm sau tôi lên học lớp Nhì (sau này là lớp Bốn). Cô giáo tên là Hoa, và năm cuối của bậc tiểu học, tôi lên lớp Nhất (sau này là lớp Năm), học với cô Vân. Cả ba lớp, lớp nào tôi cũng ngồi ở bàn đầu, và năm nào cũng được phần thưởng. Tôi được các cô giáo và bạn bè thương yêu, có lẽ vì hiền lành và học hành chăm chỉ.
Trong ba năm học ở Trường Tiểu Học Gò Vấp, không ai biết tôi là người Bắc, kể cả các cô giáo. Như một con két, tôi nói tiếng Nam trơn tru, dễ dàng giống y như mấy đứa sinh ở trong Nam vậy. Tôi đã che đậy rất khéo gốc tích của mình. Ngày ấy, tôi cho đó là một sự “bí mật” không nên để cho tụi bạn trong lớp biết. Tôi ghét, hay đúng hơn là tôi sợ mấy đứa bạn “Nam Kỳ” biết tôi là người Bắc. Chắc chắn bọn chúng sẽ chế nhạo tôi như đã chế nhạo người khác, nào là “Bắc Kỳ dón”, nào là “Bắc Kỳ ăn rau muống uống cả nước”, và nào là “Bắc Kỳ ăn cá rô cây”. Có đứa còn tàn ác điền thêm câu đằng sau “ông trời quả báo hàm răng đen thùi” để cho ý nghĩa đầy đủ hơn. Thế mới tức chứ.
Năm lớp Nhất, tôi được cô Vân chọn làm Lớp Trưởng. Một hôm vào giờ ra chơi, trong lúc tôi đang đứng một mình bên cạnh cửa lớp, tôi nhìn thấy thằng Đực đi tới. Nó nói giọng oang oang, trong khi làm bộ mắt không nhìn tôi:
– Ê, Bắc Kỳ Dón.
Tôi giật mình, có phần luống cuống, nhưng vẫn giả bộ ngó lơ.
Thằng Đực nói tiếp. Lần này nó nói to hơn:
– Bắc Kỳ ăn rau muống.
Biết là nó ám chỉ mình, tôi run lên. Vừa mắc cở, vừa giận, vừa sợ. Tôi hỏi lại nó:
– Mày nói ai là Bắc Kỳ?
Thằng Đực lên mặt thách thức:
– Mày chứ còn ai. Làm như không ai biết mày là Bắc Kỳ Dón vậy.
Không cần suy nghĩ thêm cho mất công, tôi lướt tới trước mặt thằng Đực. Một quả đấm khá mạnh giáng ngay vào mặt nó. Tôi không biết tại sao tôi lại đấm nó được. Bình thường tôi vẫn hiền lành như ông Bụt. Thằng Đực cũng không phải tay vừa. Nó không còn là thằng Đực của năm lớp Ba, có con dế đá bị tôi đạp dẹp lép, khóc bù lu bù loa, đòi bồi thường nữa. Tôi cũng không còn là thằng bé sợ ma, có lần xách dép chạy qua cây me trên đường về nhà vào đêm Trung Thu mưa gió năm nào. Nói chung, cả hai đứa đều khỏe hơn và bạo dạn hơn. Tôi đấm nó được mấy cái. Ngược lại, nó cũng đấm tôi mấy cái. Đến lúc đó, qua khung cửa sổ mở rộng, tôi chợt nhìn thấy cô giáo Vân đang ngồi ở bàn nhìn tụi tôi. Chắc là cô đã nhìn thấy tụi tôi đánh nhau. Tôi hoảng hồn, buông thõng tay xuống. Thằng Đực cũng chợt nhìn thấy cô Vân. Nó tỏ ra lúng túng, thụt lùi lại mấy bước.
Hết giờ chơi, tôi lặng lẽ đi vào lớp. Lúc đó đến giờ viết chính tả. Cô Vân hỏi đứa nào muốn lên bảng. Tôi biết cô hỏi cho có hỏi vậy thôi, vì tôi thấy cô đưa mắt nhìn tôi, và tôi vẫn là đứa học trò luôn giơ tay tình nguyện.
Ở trường tôi, mỗi lớp đều có hai tấm bảng đen thật to, một ở bên phải và một ở bên trái lớp học. Bàn của cô giáo được kê trên một cái bục gỗ ở giữa. Bảng có hai mặt, có thể quay ra ngoài hay quay vào trong được. Vào giờ viết chính tả, cô giáo gọi một đứa đứng viết ở mặt sau một tấm bảng. Nếu bài dài quá, sẽ viết tiếp qua bảng bên kia, cũng ở mặt sau. Trong khi đó, những đứa khác viết vào tập vở của mình. Xong, tấm bảng sẽ được quay ra để cho tất cả cùng nhìn thấy. Cô giáo sẽ đọc lại bài chính tả từng câu ngắn, sửa lỗi trên bảng. Học trò theo đó sửa lỗi cho nhau. Gần như tôi là đứa học trò duy nhất được cô tín nhiệm, giao cho trọng trách đứng viết chính tả, vì ít phạm lỗi nhất. Ngoài ra, tôi viết bảng khá ngay hàng thẳng lối và chữ viết lại dễ đọc, không gà bới như mấy đứa khác.
Mấy hôm sau vào giờ ra chơi, phần lớn học trò đã ra ngoài sân chơi đùa, cô Vân gọi tôi tới bàn giáo viên. Tôi lo quá. Chắc cô rầy mình về chuyện đánh nhau với thằng Đực hôm qua. Tôi lặng lẽ chờ đợi. Cô nhìn tôi, hỏi nhỏ nhẹ:
– Có phải em là người Bắc không? Nghe cô hỏi, tôi sợ quá, nhè nhẹ gật đầu:
– Thưa cô, phải…
Tôi đứng chết trân, không dám nhìn cô. Vậy là sự “bí mật” của tôi đã bị phanh phui, ít nhất là đã có hai người biết. Và rồi sẽ còn có nhiều người biết nữa. Không biết lúc ấy mặt tôi đã đỏ lên hay là đã tái đi như thế nào. Tôi cúi đầu như một tội nhân nhận tội và sắp sửa nhận lãnh bản án.
Thấy tôi đứng yên như pho tượng, cô Vân vội trấn an:
– Cô chỉ hỏi vậy thôi. Không có chi đâu. Em ra ngoài chơi với các bạn đi.
Tôi chào cô rồi bước ra ngoài, đầu óc hoang mang, không hiểu tại sao thằng Đực và cô Vân lại biết được sự thật của mình. Tôi đoán là cô Vân đã đọc giấy Thế Vì Khai Sinh của tôi. Cái mảnh giấy có ghi đầy đủ nơi sinh của tôi ở một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, tận miền Bắc xa xôi, mà ngay chính tôi lúc bấy giờ cũng không biết nó ở đâu nữa. Thỉnh thoảng tôi chỉ nghe mẹ tôi nói đến cầu Bo, chùa Keo, với những kỷ niệm khó phai mờ.
Tôi để ý, từ hôm đó trở đi, thằng Đực không còn gọi tôi là “Bắc Kỳ dón” nữa. Có lẽ là vì tôi đã cho nó ăn mấy cú đấm khá mạnh, hay là vì cô Vân đã cấm nó gọi như thế?
Hà Việt Hùng
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Bắc Kỳ “Dón” - Hà Việt Hùng
Ngày mẹ tôi từ thành phố Hải Phòng dắt tôi lên tầu vào Nam, tôi còn nhỏ xíu. Đó là những ngày cuối cùng của năm 1954. Hồi đó mẹ tôi đang làm cho một Công ty Xăng Dầu của quân đội Pháp, người ta gọi là Compagnie d’Essence.
Không biết nghe ai nói, ông ngoại tôi biết tin mẹ con tôi sắp di cư vào Nam, ông đã từ Thái Bình lần mò ra Hải Phòng, rồi lại lần mò đến ngõ Chè Chai để thăm con gái và cháu ngoại. Nói là thăm, thực ra ông ngoại tôi tìm cách khuyên can mẹ tôi ở lại. Ông tôi có năm người con. Mẹ tôi thứ tư, nhưng sau này người miền Nam vẫn quen gọi mẹ tôi là bà Năm.
Tôi còn nhớ ông mặc một chiếc áo the thâm, đầu đội khăn xếp. Ông đã ôm tôi vào lòng trong khi nói chuyện với mẹ tôi. Tôi không nhớ ông ngoại và mẹ tôi đã nói những gì. Tôi chỉ nhớ hai người đã đứng nói chuyện với nhau khá lâu ở ngoài đường, ngay phía trước cửa nhà. Hình như mẹ tôi không muốn bà chủ nhà nghe được. Mẹ tôi và ông ngoại nói chuyện rất nhỏ. Rồi tôi thấy ông ngoại tôi khóc. Mẹ tôi cũng khóc. Còn tôi vẫn cứ hồn nhiên chạy ra chạy vào, xem như không có chuyện gì quan trọng xảy ra. Ngày đó tôi chưa biết “vào Nam” là làm sao, và “miền Nam” là ở đâu. Tôi chỉ biết mẹ tôi đã chuẩn bị trước cả tháng. Tôi thấy mẹ tôi mua một ít quần áo, áo lạnh, giầy dép và những thứ thật cần thiết cho hai mẹ con. Tôi không nhớ có hỏi mẹ tôi về chuyện này không. Tại sao không sống ở miền Bắc? Tại sao lại phải vào Nam? Tôi cảm thấy có một sự thay đổi rất to lớn trong “đời” tôi từ đấy. Tháng trước tôi còn đang ở trong Cô Nhi Viện An Lạc của Bà Vũ Thị Ngãi. Tôi còn chơi bắn bi với mấy thằng bạn “cô nhi” của tôi. Tôi còn đang tập dượt màn hoạt cảnh Trăng Sáng Trong Làng của Nhạc sĩ Chung Quân ở văn phòng Cô Nhi Viện để trình diễn vào dịp Tết Trung Thu sắp đến. Vậy mà tôi lại sắp sửa vào Nam. Sau cùng, tôi nghe mẹ tôi nói với ông ngoại tôi, tôi nhớ lõm bõm có những câu như: “Xin thầy tha thứ cho tội bất hiếu của con. Con phải đưa cháu đi, không thể ở lại được”. Ngày ấy tôi chưa hiểu “tội bất hiếu” là tội gì, và vì sao mẹ tôi “không thể ở lại được”. Đó là lần cuối cùng tôi được ông ngoại ôm vào lòng, được nghe tiếng nói của ông, và được nhìn đôi mắt nghiêm nghị nhưng ẩn chứa u buồn của ông. Khoảng mười năm sau đó, một lá bưu thiếp gửi từ miền Bắc, báo tin ông ngoại tôi qua đời. Tôi thấy mẹ tôi đã buồn và sụt sùi khóc nhiều ngày.
Ngày nào mẹ tôi cũng đi làm, đến tối mới về. Hình như lúc đó tôi đang học lớp Ba. Tôi nghe lời rủ rê của Cường – con bà chủ nhà mẹ tôi mướn. Cường rủ tôi xin vào Cô Nhi Viện An Lạc vì cậu ta đã ở trong đó trước rồi. Tôi nghe bùi tai, xin vào. Vả lại, ở nhà không có ai chơi, cũng buồn. Tôi không nhớ mẹ tôi có phải làm đơn hay ký tên gì không. Thế là từ đấy tôi trở thành “trẻ mồ côi” mặc dù vẫn còn mẹ và có nhà ở, dù là nhà mướn. Thực ra, đây là giai đoạn cuối năm 1954, Cô Nhi Viện An Lạc cũng đang chuẩn bị di cư vào Nam, nên thủ tục xin vào có phần lơ là và dễ dàng. Tôi nhớ Giám Hiệu hồi đó là Thầy Thái. Nhìn bề ngoài ông có vẻ nghiêm khắc, nhưng thật ra ông lại dễ tính và hay cười. Cô Nhi Viện rất gần nhà tôi ở ngõ Chè Chai, nên Cường và tôi đi đi về về như cơm bữa. Nhiều ngày chúng tôi ăn cơm ở Cô Nhi Viện. Tôi còn nhớ những cái bát bằng nhôm móp méo, cáu bẩn, bựa cơm còn bám chung quanh miệng bát. Nhưng hồi đó tôi không thấy gớm ghiếc gì cả. Tôi còn nhớ có một ông thầy già vẫn đến dạy chúng tôi Pháp Văn. Thầy ăn mặc giống như ông ngoại tôi, khăn xếp, áo the thâm. Tôi còn nhớ cả khoảng sân rộng phía trước Cô Nhi Viện, bề ngang vừa cho một chiếc xe hơi chạy vào, nơi đó tôi và mấy người bạn vẫn thường chơi gụ, bắn bi hoặc đánh đáo vào những buổi trưa.
Nhờ ở Cô Nhi Viện An Lạc, và do uy tín cũng như tài ngoại giao của Bà Vũ Thị Ngãi, có một lần bọn trẻ mồ côi chúng tôi được đón ra tầu Mỹ chơi thỏa thích. Chiếc tầu thật to thả neo ở mãi ngoài khơi. Chúng tôi được chở ra bằng ca-nô nhỏ. Những người lính hải quân trên tầu rất vui vẻ, tử tế. Hôm đó chúng tôi được xem chiếu phim và ăn uống đã đời. Toàn là những món ăn xa lạ với khẩu vị của bọn mồ côi chúng tôi, nhưng món nào cũng ngon tuyệt.
Ngày lên tầu vào Nam. Gần một tuần lễ nằm bẹp trên tầu, tôi bị say sóng, ói mửa vài lần. Tôi thấy nhớ ngõ Chè Chai nơi có Chị Túc vẫn qua chơi với tôi, nơi có Bà Nữ bán thạch chè mẹ tôi thường mua ghi sổ cuối tháng mới trả tiền, nơi có thằng Cường nước da ngăm ngăm đã rủ rê tôi vào Cô Nhi Viện An Lạc. Trong khi đầu óc bập bềnh, tôi nhớ nhiều chuyện lắm. Mẹ tôi có lẽ khá hơn. Tôi không thấy mẹ tôi ói mửa như tôi.
Người ta nói đây là loại tầu há mồm của quân đội Pháp. Sau khi tầu cập bến, chúng tôi được đưa tới trường đua Phú Thọ, ở trong những căn lều được dựng sẵn. Tôi chỉ nhớ dọc hai bên mỗi căn lều có dẫy ván kê cao làm giường ngủ. Mọi sinh hoạt ăn và ngủ đều diễn tiến trên những tấm ván này. Lẽ dĩ nhiên ở đấy rất thiếu tiện nghi. Ban ngày trời nóng hừng hực như đổ lửa. Những căn lều thấp lè tè, nằm sát bên nhau trong một khu đất rộng thiếu bóng cây. Mùi vải lều bốc lên hăng hắc, rất khó chịu. Cũng may, vào thời gian chúng tôi ở đây, số người di cư chưa đông lắm.
Thỉnh thoảng mẹ tôi cho một đồng tiền giấy có hình Vua Bảo Đại. Tôi đón ông Tầu bán cà rem, mua một cây giá 5 cắc. Ông Tầu thản nhiên xé tờ giấy một đồng ra làm hai, giữ một nửa, còn nửa kia “thối lại” cho tôi.
Ở trường đua Phú Thọ chưa tới một tháng, mẹ tôi đưa tôi về xóm Bến Cát, quận Gò Vấp. Mẹ tôi lại tiếp tục làm việc ở kho xăng của quân đội Pháp. Kho xăng này rất gần nhà. Ngày nào mẹ tôi cũng đi bộ đi làm.
Lúc đầu hai mẹ con phải ở chung đụng với một gia đình bạn của mẹ tôi. Sau này mẹ tôi mua được một căn nhà lá, nền đất, mặt tiền nhìn ra đường. Chính căn nhà lá này là nơi tôi đã có nhiều kỷ niệm nhất của thời ấu thơ. Cả xóm Bến Cát chỉ có vài căn nhà gạch, còn phần nhiều đều làm bằng gỗ, mái tôn hoặc hoàn toàn bằng lá dừa. Sống trong căn nhà lá này, vào những đêm trời mưa to gió lớn, tôi sợ lắm. Gió tốc ngược lá ra phía sau. Tôi nhìn thấy rõ những tia chớp ngoằn ngoèo sau những khe hở. Nhà lại không có điện. Trên bàn tù mù một ngọn đèn dầu. Nước mưa chẩy từ trên mái nhà xuống. Tôi nằm bên mẹ, sợ hãi không dám nói một tiếng nào. Lòng chỉ mong sao trời tạnh mưa càng sớm càng tốt.
Ngay phía sau nhà tôi là nhà của ông Tám. Ông có người con trai duy nhất tên là Xưng. Tôi nghĩ tên anh là Xuân thì đúng hơn, vì người Nam đã phát âm theo giọng địa phương, chẳng hạn Liên thành ra Liêng, Oanh thành ra Hoanh, Kim thành ra Kiêm. Năm ấy anh Xưng chừng hai mươi mấy tuổi. Tôi không biết anh làm nghề gì. Ông Tám nói tiếng Bắc pha giọng Nam, chứng tỏ ông đã vào Nam từ lâu rồi. Vợ ông là người miền Nam thứ thiệt. Trong nhà ông Tám bầy rất nhiều bàn thờ, gần như lúc nào cũng có khói hương nghi ngút. Tôi thấy người ta thường đến nhà ông, đem theo thân nhân bị mắc bệnh này bệnh nọ để nhờ ông chữa bệnh. Vào những dịp như thế, tôi thấy ông Tám mặc quần áo xanh đỏ, múa may trên một cái chiếu thật to trải trước bàn thờ. Ông đâm một mũi tên dài làm bằng tre, một đầu vuốt nhọn, xuyên từ má bên này qua má bên kia. Miệng ông phát ra những âm thanh lạ lùng nhiều lúc tôi không hiểu. Ông đã làm như thế nhiều lần, nên tỏ ra rất thành thạo. Những vết thẹo hai bên má ông đã làm tôi sợ. Anh Xưng nói là ba anh làm nghề thầy pháp. Ông có thể chữa đủ thứ bệnh. Bệnh nào cũng do tà ma mà ra cả. Có những người ở rất xa, nghe đồn có thầy giỏi, đã lặn lội mò tới.
Có lần anh Xưng kể chuyện mấy người Bắc Kỳ “dón” cho tôi nghe. Anh và mấy thằng bạn người Nam đứng ở khúc đường gần sân bay Tân Sơn Nhất, chặn những thanh niên trạc tuổi anh đi làm hoặc đi học về. Bọn anh bắt những người đó lập lại ba tiếng “Tân Sơn Nhức”. Ai lập lại đúng như thế thì cho đi. Còn ai nói “Tân Sơn Nhất” là bọn anh nhào tới đánh liền, vì một phần mang sẵn thành kiến ác cảm với người Bắc di cư, và một phần vì tuổi trẻ thích đùa nghịch như vậy.
Bên cạnh nhà tôi là nhà của cậu Dũng, làm nghề thợ may. Có thể cậu Dũng cũng di cư vào Nam cùng một đợt với mẹ con tôi. Lúc bấy giờ cả xóm chỉ có một mình nhà cậu Dũng là có máy hát. Tôi nhớ đây là máy hát đĩa, quay bằng dây thiều, hình như là hiệu Columbia. Những cái đĩa bằng nhựa, đường kính lớn hơn gang tay của tôi. Mỗi khi sang nhà cậu, tôi giữ nhiệm vụ quay dây thiều. Cái máy hát này có nhiều khi tức cười. Đang hát nó hết dây thiều, rên rỉ như người sắp chết, rồi lại gầm lên sau khi được quay mấy vòng. Vì vậy, tốc độ của bản nhạc tùy thuộc vào vòng cuốn của dây thiều còn hay sắp hết. Nhiều đĩa hát của cậu Dũng từ vọng cổ đến tân nhạc, tôi nghe riết rồi thuộc lòng. “Khoan khoan bớ Nguyệt Thu Nga, cái tên mà đã sáu năm qua nó đơm bông nở nhụy trong cái quả…tim…này.” Tôi thích nghe khi người nghệ sĩ Cải Lương miền Nam xuống xề mùi mẫn, chứ không để ý vì sao người nghệ sĩ này lại hát là “quả tim” thay vì “trái tim”. Tôi còn được nghe nghệ sĩ Kim Chung trong Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt hát vọng cổ, Phạm Duy hát “Ai lướt đi ngoài sương gió…” qua bài Buồn Tàn Thu của Văn Cao, và đôi song ca Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết hát “Đêm nay bao con thuyền ngập ngừng xuôi mái…” qua bài Trăng Rụng Xuống Cầu của Hoàng Thi Thơ. Tôi thích bài Ngựa Phi Đường Xa của Lê Yên do ban hợp ca Thăng Long hát, nhất là lúc có tiếng ngựa hí. Cứ thế, cái máy hát nhai đi nhai lại những vở tuồng cải lương và những bài hát tân nhạc này có đến cả triệu lần. Nhưng hồi đó, mỗi lần nghe, tôi vẫn cứ thấy hay.
Mãi sau này, nhà cậu Dũng còn có thêm một cái radio nữa. Lại thêm lý do gần như hằng đêm chúng tôi ngồi nghe Chương Trình Tao Đàn. “Đây Tao Đàn, tiếng nói của thơ văn miền tự do, do Đinh Hùng phụ trách. Hôm nay với sự cộng tác của Thanh Nam, Thái Thủy, Tô Kiều Ngân, Hồ Điệp, Giáng Hương…” Rồi đến ” Đây Chương Trình Dạ Lan. Tiếng nói của những người em gái hậu phương, nói chuyện với các anh trai tiền tuyến…” và ngay sau đó là giọng hát của Thái Thanh “Một yêu… tóc xõa… đuôi gà , hai yêu… ăn nói… mặn mà… à mà…có duyên…”
Làm ở kho xăng được ít lâu, mẹ tôi quen cô Lý cùng làm chung sở. Cô độ trên ba mươi. Cô dễ thương, không đẹp nhưng có duyên và ngoan ngoãn. Mẹ tôi và cô xem nhau như hai chị em. Mẹ tôi mời cô về nhà ở chung. Từ đấy nhà tôi có thêm người. Nhà chật chội, chỉ có một cái giường. Đêm ngủ, tôi nằm giữa. Cô Lý có một người bạn trai tôi quen gọi là Chú Phú. Khi đó chú Phú là Hạ sĩ quan Công Binh. Doanh trại của chú đối diện với Lăng Ông Bà Chiểu. Chú Phú đã có gia đình, nhưng vợ chồng không hợp nhau sao đó, chú theo đuổi cô Lý đã mấy năm, và cô Lý xem ra cũng có cảm tình với chú.
Từ ngày vào Nam, vì lạ nước lạ cái, và vì bận rộn với vấn đề mưu sinh, mẹ tôi không để ý đến chuyện xin cho tôi đi học. Chú Phú thấy tôi tội nghiệp, xin cho tôi vào học ở Trường Tiểu Học Gò Vấp. Đây là trường công, học trò nam nữ học chung. Hồi đó muốn xin học cho trẻ con vào một trường tiểu học nào đó khá dễ dàng, chỉ cần một mảnh giấy khai sinh là đủ.
Trường tọa lạc trên một khoảnh đất tương đối nhỏ, có hai dãy, mỗi dãy có 5-6 lớp. Giữa hai dãy có một sân chơi tráng xi-măng. Nhìn từ ngoài cổng vào, người ta sẽ thấy văn phòng ông Hiệu Trưởng và sát bên là căn phòng nhỏ lưu trữ hồ sơ. Phía trước văn phòng Hiệu Trưởng có một cây cột cờ thật cao.
Hồi đó, số học sinh đi học còn ít. Hình như cả trường chỉ có vài học sinh “Bắc Kỳ” như tôi. Vì vậy, tôi rất sợ tụi bạn chọc quê mình là “Bắc Kỳ Dón”.
Tôi vào học Lớp Ba. Trường đã khai giảng được vài tháng. Cô giáo tên Huệ. Nhà cô ở ngay phiá sau Ty Bưu Điện Gò Vấp, nên mỗi ngày cô chỉ mất độ vài phút đi bộ tới trường. Ở ngoài Bắc tôi đang học dang dở lớp Ba, nên dù vào học trường mới có phần trễ so với các bạn cùng lớp, tôi vẫn theo kịp không mấy khó khăn.
Ngày nào chú Phú cũng đón tôi ở cổng trường, chở tôi về nhà bằng xe đạp, chỉ mất khoảng mười phút. Nhưng tôi lại không thích chú Phú chở về. Tôi chỉ muốn đi bộ để có dịp la cà, đùa giỡn và nói chuyện với mấy đứa bạn chung đường. Đi bộ vui hơn, lè phè mất tới nửa tiếng, có khi hơn, mới về tới nhà.
Từ trường về, nếu đi theo vỉa hè bên trái, tôi phải đi qua rạp hát Lạc Xuân. Đây là rạp hát nhỏ, chủ là người Tầu. Chính ở rạp hát này tôi đã có những giờ phút vui vẻ, say mê và bị lôi cuốn vào những cuốn phim cao bồi đánh nhau với mọi da đỏ. Đi thêm một đoạn ngắn nữa, tới ngã tư sẽ là văn phòng hành chánh Quận, và chợ Gò Vấp ở bên phải, qua công ty sản xuất nước tương Dũ Chành của người Tầu, rồi đi xuống một con đường dốc thoai thoải có cây me thật to ở bên trái. Về sau người ta đã chặt cây me này đi, nghe đồn là có ma. Có một lần vào dịp Tết Trung Thu, tôi đi rước lồng đèn ở trường mãi tới khuya mới về. Lúc đó trời rả rích mưa. Thỉnh thoảng lại có tia chớp loé lên ở trên trời. Trên đường về chỉ có một mình tôi. Đây là con đường duy nhất để về nhà. Khi gần đến cây me, tự nhiên tôi cảm thấy rờn rợn trong người. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh. Môi tôi bặm lại, hai mắt nhìn cây me trừng trừng, nhưng tim bắt đầu đập loạn xạ trong lồng ngực. Rồi vì sợ quá, tôi tháo vội đôi dép, co giò chạy. Vừa chạy, tôi vừa quay đầu nhìn lại. Tai tôi nghe rõ ràng có tiếng “thình thịch” đuổi theo. Đúng là ma rồi. Tôi càng ra sức chạy nhanh chừng nào, nó càng đuổi theo nhanh chừng ấy. Khi chạy xuống tới cuối dốc, gặp đường rầy xe lửa, tôi thở hổn hển, muốn xỉu. Tôi chỉ thực sự cảm thấy an toàn khi nhìn thấy phía trước mặt còn ánh đèn của nhà ai thức muộn, hắt ra.
Bên phải con đường dốc là kho xăng nơi mẹ tôi làm, và sau cùng, qua một đường rầy xe lửa thỉnh thoảng dẫn những chuyến hàng, hình như là vũ khí, tới kho đạn. Như thế, khu Bến Cát tôi ở hoàn toàn nằm trong một địa hình nguy hiểm. Bên phải, bên trái là kho xăng, kho đạn, và xưởng cưa của quân đội Pháp. Đến cuối năm 1955, những cơ sở này được giao cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Vì địa hình như thế, sau này, đến Tết Mậu Thân 1968, cả khu Bến Cát gần như hoàn toàn nát tan thành bình địa. Đứng ở chỗ đường rầy xe lửa, người ta có thể nhìn suốt tới Bến Củi. Cả một vùng rộng lớn, trống lốc, không còn một mái nhà nguyên vẹn.
Từ đường rầy xe lửa, nếu đi thẳng tới sẽ gặp Bến Củi, ngăn cách khu An Phú Đông bởi một con sông chảy ra cầu Bình Lợi. Ở Bến Củi có chừng mấy chục nóc nhà, nhà gạch có, nhà lá có. Dân ở đây sống bằng nghề chẻ củi, bó lại thành từng bó nhỏ rồi chở bằng xe ba bánh đi bán lẻ hay bỏ mối. Bên trái đường rầy xe lửa là khu Bến Hải. Bên cạnh đường đi, ngày đó có một miếng đất nhỏ, hơi thấp so với mặt đường, bề dài chừng 20 mét, bề ngang chừng 4 mét, đã trở thành một sân đá banh lý tưởng cho bọn trẻ con chúng tôi. Tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau ít nhất vài ba lần, chia phe đá banh, chạy nhảy ầm ầm không biết mệt. Ở “sân banh” lỗ mũi này, chúng tôi đã gọi nhau bằng tên của những cầu thủ nổi tiếng thời đó, nào là Rạng, Tam Lang, Đực Một, Đực Hai, Ngôn, Vinh, vân vân.
Cũng trên con đường đất đỏ này, tôi đã nhiều lần được chứng kiến những cuộc tranh tài “đẫm máu” của những con ngựa kéo xe thổ mộ. Hồi đó chưa có xe xích lô đạp. Ở trên Chợ Gò Vấp có một bến xe ngựa, thường chở hành khách từ Chợ Gò Vấp đi Bà Chiểu, hay đi Hạnh Thông Tây. Gặp ngày vắng khách, ế ẩm, các bác tài bầy ra trò đua ngựa để giải trí cho đỡ buồn. Hình như có cá độ ăn tiền. Các bác rủ nhau 5-7 người, đánh xe ngựa xuống con đường nhỏ này làm một vài cuộc đua cho nóng người. Các bác xếp xe ngựa theo bề ngang của con đường, tối đa được ba chiếc, có trọng tài đàng hoàng, rồi bắt đầu cuộc đua. Các bác ra sức kéo cương, đánh roi liên tiếp vào mông mấy con ngựa, miệng la hét vang trời. Mấy con ngựa lồng lên, chạy bán sống bán chết, bụi đất bay mịt mù. Tôi thấy mấy con ngựa thở phì phì, có con miệng bật máu vì bị giựt cương quá mạnh. Sau mỗi lần đua, có con chạy trước, có con chạy sau, có tiếng cười hề hả, và có cả những tiếng chửi thề thô tục.
Đi thật xa hết khu Bến Hải rồi rẽ phải vào một con đường nhỏ, tận cùng có một ngôi miếu cổ xây ở giữa dòng sông, người ta gọi là Miếu Nổi. Sông không sâu lắm, nhưng thỉnh thoảng vẫn có người chết đuối. Sau này, hồi mười một mười hai tuổi, tôi ham vui nghe theo mấy thằng bạn, bơi qua sông vài ba lần. Có một lần tôi suýt bị chết đuối, nhưng may nhờ có anh Hiến kéo vào.
Từ khi chú Phú biết ý muốn của tôi, chú không chở tôi bằng xe đạp nữa, tôi được dịp tung tăng nhảy nhót. Ngày đó, phần lớn mấy đứa học sinh tiểu học gia đình nghèo như tụi tôi thường đi chân đất, không mang giầy dép gì cả, ngoại trừ những đứa con nhà khá giả hoặc là con gái. Giữa trời nắng chang chang, đi chân đất trên đường nóng chảy nhựa, hẳn nhiên không phải là điều thú vị, nhưng bọn trẻ tụi tôi đã quen như thế, không đứa nào cảm thấy khổ sở hay kêu ca gì cả.
Một hôm đi học về, tôi không thấy cô Lý ở nhà. Mẹ tôi nói cô bị bà vợ của chú Phú đánh ghen. Cô sợ nên đã bỏ trốn. Tôi biết mẹ tôi nhớ và thương cô lắm. Tôi cũng vậy, nhưng không biết làm sao. Có lẽ trong lúc vội vã, cô đã để quên bộ quần áo. Mẹ tôi bỏ bộ đồ của cô vào trong một cái chảo, rồi rang lên. Tôi lấy làm lạ, đứng nhìn. Mẹ tôi nói, rang như thế cô sẽ thấy bứt rứt, nóng ruột mà trở về. Nhưng cô đã không về với mẹ con tôi nữa. Ba bốn năm sau, tôi gặp lại cô và chú Phú đến thăm xóm Bến Cát. Hình như lúc đó cô và chú Phú đã thành vợ chồng thực thụ rồi.
Còn tôi vẫn đi học mỗi ngày. Một hôm trên đường đến trường, tôi gặp thằng Đực, bạn cùng học lớp Ba với tôi. Nó đi trước tôi vài bước, một tay cầm cập, còn tay kia cầm một cái hộp giấy nhỏ. Đang đi, bỗng thằng Đực đứng khựng lại. Miệng nó la to:
– Chết cha. Con dế đá của tao. Nó nhảy ra. Bắt…bắt…bắt dùm tao với.
Nó vừa cà lăm nói đến đó, tôi cũng vừa đi tới. Không thể nào tránh khỏi, bàn chân của tôi đạp ngay lên con dế. Tội nghiệp con vật nhỏ bị đạp bẹp dí, hai cái râu đang nhúc nhích như muốn nói lời trăn trối cuối cùng. Tôi lùi lại, đứng chết trân. Tôi cảm thấy mặt mình tái đi. Chắc lúc đó vẻ mặt tôi khủng khiếp lắm. Có thể nói, đấy là lần khiếp đảm đầu tiên trong đời tôi. Tôi đã nhiều lần nhìn thấy những tia chớp xuyên qua mái lá nhà tôi vào những đêm giông bão. Tôi đã lo sợ, co rúm người lại. Vậy mà lần này, “tai nạn” xảy ra quá nhanh, tôi vừa lo sợ vừa ân hận, y như người lái xe say rượu vừa cán chết người, đứng chết trân không biết phải làm gì.
Trong khi còn đang lung túng, tôi nghe thấy tiếng khóc của thằng Đực. Tiếng khóc của nó nhất định là phải ai oán, thê lương lắm, vì vậy tôi đã không thể tìm được lời nói nào để an ủi hay năn nỉ nó .
– Tao không biết đâu. Mày thường tao đi.
Nó cứ lập đi lập lại câu đó mãi, khiến cho tôi càng bối rối. Tôi làm gì có đủ tiền để thường cho nó. Mỗi sáng mẹ tôi cho năm mươi xu để mua một gói xôi ăn sáng đi học. Năm mươi xu chưa chắc đủ để mua một con dế đá loại chiến. Tôi lại còn phải để dành tiền mua tờ báo có truyện tranh Chuột Mickey và Vịt Donald ra hàng tuần nữa chứ. Truyện này đang tới hồi gay cấn, không thể bỏ qua được.
Tôi phùng miệng bào chữa:
– Tại mày, chứ đâu phải tại tao. Mày làm rớt nó xuống đường. Tao đi trờ tới đạp phải. Làm sao tao né được. Tao đâu có cố tình.
Tôi nói vậy mà nó vẫn không chịu, nó vẫn cứ ti tỉ khóc, miệng vẫn méo xệch kéo dài cái điệp khúc “tao không biết đâu. Mày thường tao đi…” Nghe mà não ruột.
Qua ngày hôm sau, không thấy thằng Đực nỉ non bắt thường tôi nữa. Có lẽ nó thấy không đáng. Hay là nó cảm thấy tội nghiệp cho tôi? Hay là nó đã quên mất chuyện đó rồi? Lẽ dĩ nhiên, không thấy nó đòi, tôi mừng húm trong bụng. Cũng may ở trong lớp, tôi và nó không ngồi cạnh nhau.
Năm sau tôi lên học lớp Nhì (sau này là lớp Bốn). Cô giáo tên là Hoa, và năm cuối của bậc tiểu học, tôi lên lớp Nhất (sau này là lớp Năm), học với cô Vân. Cả ba lớp, lớp nào tôi cũng ngồi ở bàn đầu, và năm nào cũng được phần thưởng. Tôi được các cô giáo và bạn bè thương yêu, có lẽ vì hiền lành và học hành chăm chỉ.
Trong ba năm học ở Trường Tiểu Học Gò Vấp, không ai biết tôi là người Bắc, kể cả các cô giáo. Như một con két, tôi nói tiếng Nam trơn tru, dễ dàng giống y như mấy đứa sinh ở trong Nam vậy. Tôi đã che đậy rất khéo gốc tích của mình. Ngày ấy, tôi cho đó là một sự “bí mật” không nên để cho tụi bạn trong lớp biết. Tôi ghét, hay đúng hơn là tôi sợ mấy đứa bạn “Nam Kỳ” biết tôi là người Bắc. Chắc chắn bọn chúng sẽ chế nhạo tôi như đã chế nhạo người khác, nào là “Bắc Kỳ dón”, nào là “Bắc Kỳ ăn rau muống uống cả nước”, và nào là “Bắc Kỳ ăn cá rô cây”. Có đứa còn tàn ác điền thêm câu đằng sau “ông trời quả báo hàm răng đen thùi” để cho ý nghĩa đầy đủ hơn. Thế mới tức chứ.
Năm lớp Nhất, tôi được cô Vân chọn làm Lớp Trưởng. Một hôm vào giờ ra chơi, trong lúc tôi đang đứng một mình bên cạnh cửa lớp, tôi nhìn thấy thằng Đực đi tới. Nó nói giọng oang oang, trong khi làm bộ mắt không nhìn tôi:
– Ê, Bắc Kỳ Dón.
Tôi giật mình, có phần luống cuống, nhưng vẫn giả bộ ngó lơ.
Thằng Đực nói tiếp. Lần này nó nói to hơn:
– Bắc Kỳ ăn rau muống.
Biết là nó ám chỉ mình, tôi run lên. Vừa mắc cở, vừa giận, vừa sợ. Tôi hỏi lại nó:
– Mày nói ai là Bắc Kỳ?
Thằng Đực lên mặt thách thức:
– Mày chứ còn ai. Làm như không ai biết mày là Bắc Kỳ Dón vậy.
Không cần suy nghĩ thêm cho mất công, tôi lướt tới trước mặt thằng Đực. Một quả đấm khá mạnh giáng ngay vào mặt nó. Tôi không biết tại sao tôi lại đấm nó được. Bình thường tôi vẫn hiền lành như ông Bụt. Thằng Đực cũng không phải tay vừa. Nó không còn là thằng Đực của năm lớp Ba, có con dế đá bị tôi đạp dẹp lép, khóc bù lu bù loa, đòi bồi thường nữa. Tôi cũng không còn là thằng bé sợ ma, có lần xách dép chạy qua cây me trên đường về nhà vào đêm Trung Thu mưa gió năm nào. Nói chung, cả hai đứa đều khỏe hơn và bạo dạn hơn. Tôi đấm nó được mấy cái. Ngược lại, nó cũng đấm tôi mấy cái. Đến lúc đó, qua khung cửa sổ mở rộng, tôi chợt nhìn thấy cô giáo Vân đang ngồi ở bàn nhìn tụi tôi. Chắc là cô đã nhìn thấy tụi tôi đánh nhau. Tôi hoảng hồn, buông thõng tay xuống. Thằng Đực cũng chợt nhìn thấy cô Vân. Nó tỏ ra lúng túng, thụt lùi lại mấy bước.
Hết giờ chơi, tôi lặng lẽ đi vào lớp. Lúc đó đến giờ viết chính tả. Cô Vân hỏi đứa nào muốn lên bảng. Tôi biết cô hỏi cho có hỏi vậy thôi, vì tôi thấy cô đưa mắt nhìn tôi, và tôi vẫn là đứa học trò luôn giơ tay tình nguyện.
Ở trường tôi, mỗi lớp đều có hai tấm bảng đen thật to, một ở bên phải và một ở bên trái lớp học. Bàn của cô giáo được kê trên một cái bục gỗ ở giữa. Bảng có hai mặt, có thể quay ra ngoài hay quay vào trong được. Vào giờ viết chính tả, cô giáo gọi một đứa đứng viết ở mặt sau một tấm bảng. Nếu bài dài quá, sẽ viết tiếp qua bảng bên kia, cũng ở mặt sau. Trong khi đó, những đứa khác viết vào tập vở của mình. Xong, tấm bảng sẽ được quay ra để cho tất cả cùng nhìn thấy. Cô giáo sẽ đọc lại bài chính tả từng câu ngắn, sửa lỗi trên bảng. Học trò theo đó sửa lỗi cho nhau. Gần như tôi là đứa học trò duy nhất được cô tín nhiệm, giao cho trọng trách đứng viết chính tả, vì ít phạm lỗi nhất. Ngoài ra, tôi viết bảng khá ngay hàng thẳng lối và chữ viết lại dễ đọc, không gà bới như mấy đứa khác.
Mấy hôm sau vào giờ ra chơi, phần lớn học trò đã ra ngoài sân chơi đùa, cô Vân gọi tôi tới bàn giáo viên. Tôi lo quá. Chắc cô rầy mình về chuyện đánh nhau với thằng Đực hôm qua. Tôi lặng lẽ chờ đợi. Cô nhìn tôi, hỏi nhỏ nhẹ:
– Có phải em là người Bắc không? Nghe cô hỏi, tôi sợ quá, nhè nhẹ gật đầu:
– Thưa cô, phải…
Tôi đứng chết trân, không dám nhìn cô. Vậy là sự “bí mật” của tôi đã bị phanh phui, ít nhất là đã có hai người biết. Và rồi sẽ còn có nhiều người biết nữa. Không biết lúc ấy mặt tôi đã đỏ lên hay là đã tái đi như thế nào. Tôi cúi đầu như một tội nhân nhận tội và sắp sửa nhận lãnh bản án.
Thấy tôi đứng yên như pho tượng, cô Vân vội trấn an:
– Cô chỉ hỏi vậy thôi. Không có chi đâu. Em ra ngoài chơi với các bạn đi.
Tôi chào cô rồi bước ra ngoài, đầu óc hoang mang, không hiểu tại sao thằng Đực và cô Vân lại biết được sự thật của mình. Tôi đoán là cô Vân đã đọc giấy Thế Vì Khai Sinh của tôi. Cái mảnh giấy có ghi đầy đủ nơi sinh của tôi ở một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, tận miền Bắc xa xôi, mà ngay chính tôi lúc bấy giờ cũng không biết nó ở đâu nữa. Thỉnh thoảng tôi chỉ nghe mẹ tôi nói đến cầu Bo, chùa Keo, với những kỷ niệm khó phai mờ.
Tôi để ý, từ hôm đó trở đi, thằng Đực không còn gọi tôi là “Bắc Kỳ dón” nữa. Có lẽ là vì tôi đã cho nó ăn mấy cú đấm khá mạnh, hay là vì cô Vân đã cấm nó gọi như thế?
Hà Việt Hùng