Cà Kê Dê Ngỗng
Bàn về “Lói ngọng” - Phạm Thị Hoài - Trần Văn Giang (ghi lại)
Phạm Thị Hoài
Cá Nóc? hay Cá Lóc?
Cứ bắt chước nói ngọng rồi mình cũng nói ngọng “núc lào” không hay!
Thật
quái đản, vừa buồn cười vừa rất xấu hổ. Chưa bao giờ “L” “N” trong giới
quan chức cộng sản Việt Nam được phát âm lại “nẫn nộn” loạn xạ như hiện
nay, làm trò hề cho dân chúng cười chết bỏ! Nên nhớ rằng, thế hệ nhân
sự cấp cao trước đây không những đã không hề nói ngọng mà nhiều người
còn thành thạo cả tiếng Pháp, tiếng Anh.
Kể từ lúc nào mà “chất lượng” nhân sự và ngôn ngữ của quan chức cấp cao cs Việt Nam cứ thích đi… cầu trượt thế nhỉ?
Nếu
bạn ngọng lờ-nờ (L/N) và làm nghề đầu bếp, ra chợ hỏi mua cá nóc, cuối
cùng vẫn xách cá lóc về nhà, thì không có gì thật sự đáng quan tâm phải
báo động. Song nếu bạn kiêm cả bồi bàn tiếp khách thì câu chuyện đã
khác. Trừ khi bạn trưng biển “Ở đây có nói ngọng” mà quán vẫn đông thì tôi xin chúc mừng; Có khi bạn còn được lên CNN và trở thành một địa chỉ du lịch y như “bún mắng cháo chửi”; đóng góp thêm văn hóa Việt Nam cho thế giới là có những ngóc ngách độc đáo như vậy.
Còn lại, nếu khách nhất định “cá lóc” và bạn cứ khăng khăng là “cá nóc,” rồi lời qua tiếng lại, “mày định đầu độc bố mày hử?” rồi nước bọt văng tới đâu dao văng tới đấy, rồi báo chí giật tít “Án mạng vì món cá nhầm tên” – chậm nhất đến đây, là một cái thây, bạn sẽ muốn kiếp khác đầu thai thành loài gì cũng chấp nhận, miễn lờ-nờ không lẫn lộn.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, một trong những thánh địa của tôn giáo “nờ cao nờ thấp.”
Bây giờ người ta phong nó thành sự đa dạng ngữ âm vùng miền, thành
phương ngữ, thổ ngữ gì đó và sẵn sàng tuốt dao bảo vệ nó trong những
cuộc thánh chiến nho nhỏ. Cha mẹ tôi không được cấp tiến, khoan dung như
thế. Cấm tiệt con cái a dua môi trường. Không nghe thì nọc ra giường.
Roi chẳng bao giờ chạm vào mông, song sự cương quyết của phụ huynh khiến
đàn con răm rắp học giọng đài phát thanh thay vì giọng hàng xóm lờ-nờ.
Tôi
đánh mất đặc sản ngữ âm địa phương và không thấy mình nghèo đi chút
nào, cũng không thấy những người bảo tồn đặc sản ấy tự hào về một đóng
góp nào cho sự giàu có của tiếng Việt. Ngược lại, họ chỉ khổ sở bởi cái
di sản bất đắc dĩ ấy, tiếng Việt chẳng keo kiệt với những tình huống éo
le. Khi họ bảo rằng “trời lồm mình làm lông lên no nắng, hay nâu nâu họ đi nạc,” bạn có đủ tế nhị để không kín đáo nhếch mép? Đủ rộng lượng để chấp nhận một giáo viên môn toán cứ vô tư “nũy thừa và nô-ga-rit” mà dạy? Một giáo viên môn sử cứ phang “từ Nạc Nong Quân đến Ný Trần Nê?” Một giáo viên môn văn cứ thao thao “Cỏ lon xanh tận chân trời?” Chậm nhất, đến “Lao lao dòng lước uốn quanh,” “Dùng dằng lửa ở lửa về” và “Lách tường bông niễu bay sang náng giềng,” bạn sẽ phải lờ mờ, hay nờ mờ, cũng đáng khoan thứ? – nhận ra rằng căn cứ vào vị trí thiêng liêng, hay “thiêng niêng” cũng chưa chết ai? – của tác phẩm này, “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn,” thì ngọng lờ-nờ là một cách vô tình làm mất nước.
Đến
lượt mình, tôi còn khắc nghiệt hơn hai đấng sinh thành. Tôi không kết
bạn thân với người mắc cái tật khốn khổ nói trên. Tình bạn thậm chí có
thể sống sót trong đống tro tàn của các chiến tuyến tư tưởng, song lại
dễ cháy rụi bởi một chất xúc tác có vẻ hiền lành như ngọng lờ-nờ. Thuở
trẻ có lần tôi phải lòng một chàng trai. Lỗi duy nhất, như thể để nêu
bật sự hoàn hảo, là chàng lẫn đúng hai cái phụ âm chẳng họ hàng gì với
nhau ấy. Không như mọi cách phát âm lệch chuẩn khác, ngọng lờ-nờ là một
đột biến ngữ âm vô lý mà chức năng duy nhất là làm mất định hướng, làm
nhiễu tư duy, làm hại ngôn ngữ, làm khổ chính tả, làm tội cái lưỡi và
làm ô nhiễm môi trường âm thanh. Tôi đã nhặt nhạnh nhúm lý trí còn lại
khi người ta yêu để bỏ chạy.
Tôi có thể sống như thế nào đó cạnh một người biến tất cả “lờ cao thành nờ thấp”
hoặc ngược lại, dù không chắc cái tai của mình có còn sống không. Ít
ra, đó là người nhất quán. Nhưng với một người lờ-nờ bất nhất thì chịu.
Nói ngọng, viết ngọng và nghĩ ngọng là bộ ba khăng khít. Ngôn ngữ là
phương tiện và biểu hiện của tư duy. Làm sao có thể tư duy bằng một ngôn
ngữ đầy lẫn lộn, dễ dãi, buông thả, vô phương hướng, vô tổ chức, vô ý
thức, vô nguyên tắc, vô trách nhiệm như vậy?
Lẽ
ra toàn bộ công chức nhà nước cũng như khối viên chức trong các ngành
giáo dục đào tạo và truyền thông phải đạt tiêu chuẩn sạch ngữ âm ở mức
không cản trở giao tiếp và không gây phản cảm, tối thiểu là không nhầm
lẫn lờ-nờ. Ở nhà họ “lên giường hay nên giường?” Ngoài đường họ “lái xe hay nái xe?” “Lexus hay Nexus?” Đi “du lịch hay du nịch?” Họ “hê-lô hay hê-nô?” Họ diện đồ “Louis Vuitton hay Nouis Vuitton?” Họ khấn vái “thần linh hay thần ninh?” Chơi “ten-nít hay ten-lít?” trong các “câu lạc bộ hay câu nạc bộ?” Thích ăn “lòng lợn hay nòng nợn?” Sau mấy “ly bia hay ny bia?” “Giao lưu hay giao nưu?” Tưởng nhớ hay oán trách một thời “Liên Xô hay Niên Xô?” “Lo ngại hay no ngại?” cho “thềm lục địa hay thềm nục địa?” của “đất nước hay đất lước?”…, tất cả những tự do lựa chọn đó không ai can thiệp. Đa dạng muôn năm.
Ở
đất nước này, trừ đa dạng tư tưởng và đa nguyên đa đảng, còn lại thì:
“Ai muốn đa gì thì đa (!)” Đa thê thậm chí còn được ngưỡng mộ là đằng
khác. Song ở cương vị chính thức thì khác. Không thể xuê xòa coi lỗi
phát âm là chuyện nhỏ, bởi tính chính danh của mỗi chức vụ trong bộ máy
nhà nước trước hết được thể hiện bằng sự tôn nghiêm. Tất nhiên công lý
có phần hài hước khi thẩm phán nói ngọng. Tất nhiên nền giáo dục có phần
lố bịch khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục “nuôn nuôn” nói về “chất nượng.”
Và tất nhiên những viễn kiến của ngôi sao chính trị đang lên, Bộ trưởng
Thông tin Truyền thông, khó được coi là nghiêm túc, khi ông cứ “nời giải Việt Nam” cho bài toán Việt Nam trong “nàn sóng internet thứ ba” mà diễn thuyết.
Thử
hình dung, Hồ “chủ tịch” đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” tháng
12 năm 1946 không phải bằng giọng truyền cảm và chuẩn xác mà cứ “níu no” như:
“Chúng
ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất lước, nhất định không chịu nàm
nô nệ… Việt Lam độc nập và thống nhất muôn lăm! Kháng chiến thắng nợi
muôn lăm!”
Tôi
tin rằng quốc dân sẽ bò ra cười đến té ghế, quên cả xách súng, gươm,
cuốc, thuổng, gậy gộc, đòn gánh đi cứu nước; Điện Biên Phủ sẽ không xảy
ra, lịch sử Việt Nam sẽ là một lịch sử khác. Lịch sử thế giới cũng sẽ là
một lịch sử khác nếu Quốc vương nước Anh George VI không dày công tập
luyện, tự khắc phục tật nói lắp bẩm sinh của mình để phát đi lời tuyên
chiến hùng hồn với Đức Quốc Xã tháng 9 năm 1939.
Còn lại câu hỏi: “Vì
sao dàn lãnh đạo cao cấp hiện nay ở Việt Nam ngọng lờ-nờ như chưa bao
giờ được ngọng, như không có chút sĩ diện nào để mất, như đang đặt nền
móng cho ngôn ngữ hạ đẳng của giới thượng lưu mới?”
Trong một môi trường bẩn toàn diện, sạch ngữ âm có lẽ chỉ là xa xỉ, thậm chí vô nghĩa.
Hết biết!
Phạm Thị Hoài
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Bàn về “Lói ngọng” - Phạm Thị Hoài - Trần Văn Giang (ghi lại)
Phạm Thị Hoài
Cá Nóc? hay Cá Lóc?
Cứ bắt chước nói ngọng rồi mình cũng nói ngọng “núc lào” không hay!
Thật
quái đản, vừa buồn cười vừa rất xấu hổ. Chưa bao giờ “L” “N” trong giới
quan chức cộng sản Việt Nam được phát âm lại “nẫn nộn” loạn xạ như hiện
nay, làm trò hề cho dân chúng cười chết bỏ! Nên nhớ rằng, thế hệ nhân
sự cấp cao trước đây không những đã không hề nói ngọng mà nhiều người
còn thành thạo cả tiếng Pháp, tiếng Anh.
Kể từ lúc nào mà “chất lượng” nhân sự và ngôn ngữ của quan chức cấp cao cs Việt Nam cứ thích đi… cầu trượt thế nhỉ?
Nếu
bạn ngọng lờ-nờ (L/N) và làm nghề đầu bếp, ra chợ hỏi mua cá nóc, cuối
cùng vẫn xách cá lóc về nhà, thì không có gì thật sự đáng quan tâm phải
báo động. Song nếu bạn kiêm cả bồi bàn tiếp khách thì câu chuyện đã
khác. Trừ khi bạn trưng biển “Ở đây có nói ngọng” mà quán vẫn đông thì tôi xin chúc mừng; Có khi bạn còn được lên CNN và trở thành một địa chỉ du lịch y như “bún mắng cháo chửi”; đóng góp thêm văn hóa Việt Nam cho thế giới là có những ngóc ngách độc đáo như vậy.
Còn lại, nếu khách nhất định “cá lóc” và bạn cứ khăng khăng là “cá nóc,” rồi lời qua tiếng lại, “mày định đầu độc bố mày hử?” rồi nước bọt văng tới đâu dao văng tới đấy, rồi báo chí giật tít “Án mạng vì món cá nhầm tên” – chậm nhất đến đây, là một cái thây, bạn sẽ muốn kiếp khác đầu thai thành loài gì cũng chấp nhận, miễn lờ-nờ không lẫn lộn.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, một trong những thánh địa của tôn giáo “nờ cao nờ thấp.”
Bây giờ người ta phong nó thành sự đa dạng ngữ âm vùng miền, thành
phương ngữ, thổ ngữ gì đó và sẵn sàng tuốt dao bảo vệ nó trong những
cuộc thánh chiến nho nhỏ. Cha mẹ tôi không được cấp tiến, khoan dung như
thế. Cấm tiệt con cái a dua môi trường. Không nghe thì nọc ra giường.
Roi chẳng bao giờ chạm vào mông, song sự cương quyết của phụ huynh khiến
đàn con răm rắp học giọng đài phát thanh thay vì giọng hàng xóm lờ-nờ.
Tôi
đánh mất đặc sản ngữ âm địa phương và không thấy mình nghèo đi chút
nào, cũng không thấy những người bảo tồn đặc sản ấy tự hào về một đóng
góp nào cho sự giàu có của tiếng Việt. Ngược lại, họ chỉ khổ sở bởi cái
di sản bất đắc dĩ ấy, tiếng Việt chẳng keo kiệt với những tình huống éo
le. Khi họ bảo rằng “trời lồm mình làm lông lên no nắng, hay nâu nâu họ đi nạc,” bạn có đủ tế nhị để không kín đáo nhếch mép? Đủ rộng lượng để chấp nhận một giáo viên môn toán cứ vô tư “nũy thừa và nô-ga-rit” mà dạy? Một giáo viên môn sử cứ phang “từ Nạc Nong Quân đến Ný Trần Nê?” Một giáo viên môn văn cứ thao thao “Cỏ lon xanh tận chân trời?” Chậm nhất, đến “Lao lao dòng lước uốn quanh,” “Dùng dằng lửa ở lửa về” và “Lách tường bông niễu bay sang náng giềng,” bạn sẽ phải lờ mờ, hay nờ mờ, cũng đáng khoan thứ? – nhận ra rằng căn cứ vào vị trí thiêng liêng, hay “thiêng niêng” cũng chưa chết ai? – của tác phẩm này, “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn,” thì ngọng lờ-nờ là một cách vô tình làm mất nước.
Đến
lượt mình, tôi còn khắc nghiệt hơn hai đấng sinh thành. Tôi không kết
bạn thân với người mắc cái tật khốn khổ nói trên. Tình bạn thậm chí có
thể sống sót trong đống tro tàn của các chiến tuyến tư tưởng, song lại
dễ cháy rụi bởi một chất xúc tác có vẻ hiền lành như ngọng lờ-nờ. Thuở
trẻ có lần tôi phải lòng một chàng trai. Lỗi duy nhất, như thể để nêu
bật sự hoàn hảo, là chàng lẫn đúng hai cái phụ âm chẳng họ hàng gì với
nhau ấy. Không như mọi cách phát âm lệch chuẩn khác, ngọng lờ-nờ là một
đột biến ngữ âm vô lý mà chức năng duy nhất là làm mất định hướng, làm
nhiễu tư duy, làm hại ngôn ngữ, làm khổ chính tả, làm tội cái lưỡi và
làm ô nhiễm môi trường âm thanh. Tôi đã nhặt nhạnh nhúm lý trí còn lại
khi người ta yêu để bỏ chạy.
Tôi có thể sống như thế nào đó cạnh một người biến tất cả “lờ cao thành nờ thấp”
hoặc ngược lại, dù không chắc cái tai của mình có còn sống không. Ít
ra, đó là người nhất quán. Nhưng với một người lờ-nờ bất nhất thì chịu.
Nói ngọng, viết ngọng và nghĩ ngọng là bộ ba khăng khít. Ngôn ngữ là
phương tiện và biểu hiện của tư duy. Làm sao có thể tư duy bằng một ngôn
ngữ đầy lẫn lộn, dễ dãi, buông thả, vô phương hướng, vô tổ chức, vô ý
thức, vô nguyên tắc, vô trách nhiệm như vậy?
Lẽ
ra toàn bộ công chức nhà nước cũng như khối viên chức trong các ngành
giáo dục đào tạo và truyền thông phải đạt tiêu chuẩn sạch ngữ âm ở mức
không cản trở giao tiếp và không gây phản cảm, tối thiểu là không nhầm
lẫn lờ-nờ. Ở nhà họ “lên giường hay nên giường?” Ngoài đường họ “lái xe hay nái xe?” “Lexus hay Nexus?” Đi “du lịch hay du nịch?” Họ “hê-lô hay hê-nô?” Họ diện đồ “Louis Vuitton hay Nouis Vuitton?” Họ khấn vái “thần linh hay thần ninh?” Chơi “ten-nít hay ten-lít?” trong các “câu lạc bộ hay câu nạc bộ?” Thích ăn “lòng lợn hay nòng nợn?” Sau mấy “ly bia hay ny bia?” “Giao lưu hay giao nưu?” Tưởng nhớ hay oán trách một thời “Liên Xô hay Niên Xô?” “Lo ngại hay no ngại?” cho “thềm lục địa hay thềm nục địa?” của “đất nước hay đất lước?”…, tất cả những tự do lựa chọn đó không ai can thiệp. Đa dạng muôn năm.
Ở
đất nước này, trừ đa dạng tư tưởng và đa nguyên đa đảng, còn lại thì:
“Ai muốn đa gì thì đa (!)” Đa thê thậm chí còn được ngưỡng mộ là đằng
khác. Song ở cương vị chính thức thì khác. Không thể xuê xòa coi lỗi
phát âm là chuyện nhỏ, bởi tính chính danh của mỗi chức vụ trong bộ máy
nhà nước trước hết được thể hiện bằng sự tôn nghiêm. Tất nhiên công lý
có phần hài hước khi thẩm phán nói ngọng. Tất nhiên nền giáo dục có phần
lố bịch khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục “nuôn nuôn” nói về “chất nượng.”
Và tất nhiên những viễn kiến của ngôi sao chính trị đang lên, Bộ trưởng
Thông tin Truyền thông, khó được coi là nghiêm túc, khi ông cứ “nời giải Việt Nam” cho bài toán Việt Nam trong “nàn sóng internet thứ ba” mà diễn thuyết.
Thử
hình dung, Hồ “chủ tịch” đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” tháng
12 năm 1946 không phải bằng giọng truyền cảm và chuẩn xác mà cứ “níu no” như:
“Chúng
ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất lước, nhất định không chịu nàm
nô nệ… Việt Lam độc nập và thống nhất muôn lăm! Kháng chiến thắng nợi
muôn lăm!”
Tôi
tin rằng quốc dân sẽ bò ra cười đến té ghế, quên cả xách súng, gươm,
cuốc, thuổng, gậy gộc, đòn gánh đi cứu nước; Điện Biên Phủ sẽ không xảy
ra, lịch sử Việt Nam sẽ là một lịch sử khác. Lịch sử thế giới cũng sẽ là
một lịch sử khác nếu Quốc vương nước Anh George VI không dày công tập
luyện, tự khắc phục tật nói lắp bẩm sinh của mình để phát đi lời tuyên
chiến hùng hồn với Đức Quốc Xã tháng 9 năm 1939.
Còn lại câu hỏi: “Vì
sao dàn lãnh đạo cao cấp hiện nay ở Việt Nam ngọng lờ-nờ như chưa bao
giờ được ngọng, như không có chút sĩ diện nào để mất, như đang đặt nền
móng cho ngôn ngữ hạ đẳng của giới thượng lưu mới?”
Trong một môi trường bẩn toàn diện, sạch ngữ âm có lẽ chỉ là xa xỉ, thậm chí vô nghĩa.
Hết biết!
Phạm Thị Hoài