Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Bốn mươi năm – Hoàng Sa, nhớ và nghĩ - chuyện của một hạm phó
Tác Giả: Đỗ Xuân Tê
Chẳng
phải bây giờ mà từ 1974 tôi đã đựơc nghe chuyện Biển Đông một thời sủi
bọt khi bạn tôi, Hạm phó của một tàu Hải quân VNCH, thuật lại trận tử
chiến Hoàng Sa khi anh trở về từ vùng biển chết.
Ấy vậy mà đã bốn
thập niên tính đến 19-1 năm nay. Bạn tôi hiện đang sống ở Úc, người hạm
trưởng của anh đang ở San Jose (Mỹ). Cả hai vẫn kín tiếng, chưa một lần
phát biểu hay tham gia bất cứ cuộc hội thảo nào liên quan đến trận
đánh.
Không phải các anh bàng quan với thời cuộc, cũng chẳng
phải thiếu lòng tự hào khi tham dự một trận đánh để đời đã đi vào quân
sử, mà hình như hai người đầu đàn của một khu trục hạm năm xưa vẫn mang
niềm u uẩn của những con sói biển khi cảm thấy uất ức vì để mất Hoàng Sa
cho bá quyền Trung Quốc và cảm thương sâu sắc cho người đồng đội, Hạm
trưởng Ngụy văn Thà (hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10) cùng 74 thủy thủ của lực
lượng hải chiến VNCH đã ở lại với biển.
Cách đây mấy năm, anh có
sang Mỹ chơi, trùng hợp với những ngày có hiện tượng ‘lưỡi bò’, trong
tình bạn bè vừa là người ưa viết lách, tôi có gợi ý anh cho tôi một số
chi tiết hoặc cảm nghĩ về cái ngày tháng giêng 19 khi bốn con tàu của
Hải quân Việt nam rẽ sóng ra khơi từ bờ biển Đà nẵng theo lệnh của Tư
lệnh tối cao Nguyễn Văn Thiệu bằng mọi giá tiến chiếm lại Hoàng Sa, khi
bản thân anh vẫn còn là nhân chứng sống của một thiên bi hùng sử mà một
thời ngưòi ta chưa đánh giá đúng mức hay lường trước được hậu quả chiến
lược về chủ quyền biển đảo di hại đến nhiều thế hệ con cháu sau này.
Như
biết được suy nghĩ của tôi, anh vẫn khiêm tốn góp ý là những gì về
Hoàng Sa ngày ấy thì sách, báo, chứng cứ lịch sử, cá nhân, tập thể cả
trong lẫn ngoài nước đã nói nhiều, nói chung đều trung thực và khả tín.
Rồi như sợ tôi mất lòng, anh từ chối khéo khi lấy một tập quán chỉ huy
dù không thành văn của hải quân là khi hạm trưởng còn sống mà chưa ‘lên
tiếng’ sẽ là một sự bất kính khi hạm phó hoặc những người theo tàu được
phép phát ngôn.
Anh nghiêm túc thổ lộ điều anh trăn trở là cần
làm nổi bật cho các thế hệ sau tinh thần bất khuất của Ngụy Văn Thà và
những người con yêu của biển đã hi sinh trong trận hải chiến tuy thiếu
cân bằng về tương quan lực lượng nhưng không hề khiếp nhược về mặt quyết
chiến quyết tử khi đối mặt với kẻ thù cướp đảo mà âm mưu xâm lược và ý
đồ thôn tính đã có một lịch sử lâu đời từ thuở Bạch Đằng giang.
Thật
sự ngôn từ của anh vốn bộc trực như tính cách của người lính, không hẳn
bóng bảy như tôi viết lại, nhưng trong câu chuyện trao đổi anh vẫn tỏ ý
buồn là cái chết của những người đồng đội của anh chưa được đánh giá và
tri ân đúng mức. Tất nhiên huy chương nào cũng có mặt trái, chiến công
nào đôi khi cũng có sự thổi phồng, nhưng một trận đánh nếu không thắng
thì tất yếu nó vẫn bị đánh giá thấp và những tác nhân xoay quanh cuộc
chiến rất dễ bị lãng quên, nếu không muốn nói đôi khi còn bị phẩm bình
soi mói.
Cứ theo ý của anh, thì sự kiện Hoàng Sa năm 1974 không
thể hiểu như vậy và cũng không thể xếp vào trường hợp này, mà ta phải kể
đến bối cảnh của miền Nam thời ấy, một thời điểm cuộc chiến sắp tàn,
một hiệp định đình chiến bó tay khi phải đối phó với người anh em nội
thù miền bắc, lại hết thời hậu thuẫn của nguời bạn đồng minh bên kia đại
dương, lực bất tòng tâm vẫn phải đơn phương chống chỏi với kẻ thù xâm
lược khi mà người trong nhà gà cùng một mẹ không đồng tình chia sẻ,
trong cách hiểu nào đó lại án binh bất động tỏ tình quốc tế vô sản với
người ‘vừa là đồng chí vừa là anh em’.
Qua câu chuyện tôi cũng
thấy anh phàn nàn khi cỗ máy tuyên truyền, cùng những người lãnh đạo của
chúng tôi, ngày ấy đã không mở một chiến dịch quảng bá sâu rộng ý nghĩa
cuộc chiến tranh cướp đảo và ý đồ của bọn Trung Quốc, và sự hi sinh cao
cả, kiên cường của những người lính biển, mà phần nào đặt nặng những
chiến công trên rừng trên đất, mải lo cho chiến dịch lấn đất dành dân
sau hiệp định Paris, nên thiếu ngợi ca những người con yêu đã ở lại với
biển, ghi công chiếu lệ với những người sống sót trở về mà nay nhìn
lại, dù một chế độ đã bị bức tử thì sự hi sinh của họ vẫn là ‘những
người yêu nước, chết vì nước’ không thể nào là ‘ngụy’ như lời ngợi ca
của nhà thơ Trần Mạnh Hảo, một người lính bên kia chiến tuyến đã công
bằng đánh giá. Bài thơ mang tên, ‘Người anh hùng họ Ngụy’ (lần đầu tôi
được đọc trên QC) về sau được phổ biến khá rộng rãi trên báo in, báo
mạng khi sự kiện Biển Đông tháng giêng năm đó không còn là chuyện của
một thời đất nước phân đôi.
Ngẫm lại, cái gì cũng có luật bù trừ,
thời gian sẽ là nhân chứng đứng về phía chính nghĩa. Giờ đây từ Bắc chí
Nam, từ trong nước ra hải ngoại, đều biết đến tên tuổi Ngụy Văn Thà,
người anh hùng đã phát lệnh xung kích, bắn phát hỏa đạn đầu tiên, sau
lần cảnh cáo tàu địch không chịu rút khỏi lãnh hải chủ nhà; hết đạn, bị
thương nặng, không chịu tải thương, ở lại tàu cùng chết với đồng đội,
chết theo tàu khi trúng hỏa tiễn của địch, vĩnh viễn ở lại với biển.
Nay
nhìn lại Hoàng Sa từ một thời điểm 40 năm sau phát súng lệnh đầu tiên
của con tàu Nhật Tảo, tác giả có ít dòng hoài niệm vinh danh những anh
hùng của trận đánh Hoàng Sa, và tin rằng lịch sử sẽ đánh giá công bằng
về họ như những người con yêu đã ‘ngã xuống vì Hoàng Sa thiêng liêng’
(cụm từ nhà báo Huy Đức đã dùng trên facebook khi kêu gọi tiếp tay hoàn
chỉnh danh sách 74 tử sĩ mà cơ bản ông mới sưu tra được).
Đỗ Xuân Tê – Bauxite Vietnam - 03/01/2014
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Bốn mươi năm – Hoàng Sa, nhớ và nghĩ - chuyện của một hạm phó
Tác Giả: Đỗ Xuân Tê
Chẳng
phải bây giờ mà từ 1974 tôi đã đựơc nghe chuyện Biển Đông một thời sủi
bọt khi bạn tôi, Hạm phó của một tàu Hải quân VNCH, thuật lại trận tử
chiến Hoàng Sa khi anh trở về từ vùng biển chết.
Ấy vậy mà đã bốn
thập niên tính đến 19-1 năm nay. Bạn tôi hiện đang sống ở Úc, người hạm
trưởng của anh đang ở San Jose (Mỹ). Cả hai vẫn kín tiếng, chưa một lần
phát biểu hay tham gia bất cứ cuộc hội thảo nào liên quan đến trận
đánh.
Không phải các anh bàng quan với thời cuộc, cũng chẳng
phải thiếu lòng tự hào khi tham dự một trận đánh để đời đã đi vào quân
sử, mà hình như hai người đầu đàn của một khu trục hạm năm xưa vẫn mang
niềm u uẩn của những con sói biển khi cảm thấy uất ức vì để mất Hoàng Sa
cho bá quyền Trung Quốc và cảm thương sâu sắc cho người đồng đội, Hạm
trưởng Ngụy văn Thà (hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10) cùng 74 thủy thủ của lực
lượng hải chiến VNCH đã ở lại với biển.
Cách đây mấy năm, anh có
sang Mỹ chơi, trùng hợp với những ngày có hiện tượng ‘lưỡi bò’, trong
tình bạn bè vừa là người ưa viết lách, tôi có gợi ý anh cho tôi một số
chi tiết hoặc cảm nghĩ về cái ngày tháng giêng 19 khi bốn con tàu của
Hải quân Việt nam rẽ sóng ra khơi từ bờ biển Đà nẵng theo lệnh của Tư
lệnh tối cao Nguyễn Văn Thiệu bằng mọi giá tiến chiếm lại Hoàng Sa, khi
bản thân anh vẫn còn là nhân chứng sống của một thiên bi hùng sử mà một
thời ngưòi ta chưa đánh giá đúng mức hay lường trước được hậu quả chiến
lược về chủ quyền biển đảo di hại đến nhiều thế hệ con cháu sau này.
Như
biết được suy nghĩ của tôi, anh vẫn khiêm tốn góp ý là những gì về
Hoàng Sa ngày ấy thì sách, báo, chứng cứ lịch sử, cá nhân, tập thể cả
trong lẫn ngoài nước đã nói nhiều, nói chung đều trung thực và khả tín.
Rồi như sợ tôi mất lòng, anh từ chối khéo khi lấy một tập quán chỉ huy
dù không thành văn của hải quân là khi hạm trưởng còn sống mà chưa ‘lên
tiếng’ sẽ là một sự bất kính khi hạm phó hoặc những người theo tàu được
phép phát ngôn.
Anh nghiêm túc thổ lộ điều anh trăn trở là cần
làm nổi bật cho các thế hệ sau tinh thần bất khuất của Ngụy Văn Thà và
những người con yêu của biển đã hi sinh trong trận hải chiến tuy thiếu
cân bằng về tương quan lực lượng nhưng không hề khiếp nhược về mặt quyết
chiến quyết tử khi đối mặt với kẻ thù cướp đảo mà âm mưu xâm lược và ý
đồ thôn tính đã có một lịch sử lâu đời từ thuở Bạch Đằng giang.
Thật
sự ngôn từ của anh vốn bộc trực như tính cách của người lính, không hẳn
bóng bảy như tôi viết lại, nhưng trong câu chuyện trao đổi anh vẫn tỏ ý
buồn là cái chết của những người đồng đội của anh chưa được đánh giá và
tri ân đúng mức. Tất nhiên huy chương nào cũng có mặt trái, chiến công
nào đôi khi cũng có sự thổi phồng, nhưng một trận đánh nếu không thắng
thì tất yếu nó vẫn bị đánh giá thấp và những tác nhân xoay quanh cuộc
chiến rất dễ bị lãng quên, nếu không muốn nói đôi khi còn bị phẩm bình
soi mói.
Cứ theo ý của anh, thì sự kiện Hoàng Sa năm 1974 không
thể hiểu như vậy và cũng không thể xếp vào trường hợp này, mà ta phải kể
đến bối cảnh của miền Nam thời ấy, một thời điểm cuộc chiến sắp tàn,
một hiệp định đình chiến bó tay khi phải đối phó với người anh em nội
thù miền bắc, lại hết thời hậu thuẫn của nguời bạn đồng minh bên kia đại
dương, lực bất tòng tâm vẫn phải đơn phương chống chỏi với kẻ thù xâm
lược khi mà người trong nhà gà cùng một mẹ không đồng tình chia sẻ,
trong cách hiểu nào đó lại án binh bất động tỏ tình quốc tế vô sản với
người ‘vừa là đồng chí vừa là anh em’.
Qua câu chuyện tôi cũng
thấy anh phàn nàn khi cỗ máy tuyên truyền, cùng những người lãnh đạo của
chúng tôi, ngày ấy đã không mở một chiến dịch quảng bá sâu rộng ý nghĩa
cuộc chiến tranh cướp đảo và ý đồ của bọn Trung Quốc, và sự hi sinh cao
cả, kiên cường của những người lính biển, mà phần nào đặt nặng những
chiến công trên rừng trên đất, mải lo cho chiến dịch lấn đất dành dân
sau hiệp định Paris, nên thiếu ngợi ca những người con yêu đã ở lại với
biển, ghi công chiếu lệ với những người sống sót trở về mà nay nhìn
lại, dù một chế độ đã bị bức tử thì sự hi sinh của họ vẫn là ‘những
người yêu nước, chết vì nước’ không thể nào là ‘ngụy’ như lời ngợi ca
của nhà thơ Trần Mạnh Hảo, một người lính bên kia chiến tuyến đã công
bằng đánh giá. Bài thơ mang tên, ‘Người anh hùng họ Ngụy’ (lần đầu tôi
được đọc trên QC) về sau được phổ biến khá rộng rãi trên báo in, báo
mạng khi sự kiện Biển Đông tháng giêng năm đó không còn là chuyện của
một thời đất nước phân đôi.
Ngẫm lại, cái gì cũng có luật bù trừ,
thời gian sẽ là nhân chứng đứng về phía chính nghĩa. Giờ đây từ Bắc chí
Nam, từ trong nước ra hải ngoại, đều biết đến tên tuổi Ngụy Văn Thà,
người anh hùng đã phát lệnh xung kích, bắn phát hỏa đạn đầu tiên, sau
lần cảnh cáo tàu địch không chịu rút khỏi lãnh hải chủ nhà; hết đạn, bị
thương nặng, không chịu tải thương, ở lại tàu cùng chết với đồng đội,
chết theo tàu khi trúng hỏa tiễn của địch, vĩnh viễn ở lại với biển.
Nay
nhìn lại Hoàng Sa từ một thời điểm 40 năm sau phát súng lệnh đầu tiên
của con tàu Nhật Tảo, tác giả có ít dòng hoài niệm vinh danh những anh
hùng của trận đánh Hoàng Sa, và tin rằng lịch sử sẽ đánh giá công bằng
về họ như những người con yêu đã ‘ngã xuống vì Hoàng Sa thiêng liêng’
(cụm từ nhà báo Huy Đức đã dùng trên facebook khi kêu gọi tiếp tay hoàn
chỉnh danh sách 74 tử sĩ mà cơ bản ông mới sưu tra được).
Đỗ Xuân Tê – Bauxite Vietnam - 03/01/2014
Tân Sơn Hòa chuyển