Truyện Ngắn & Phóng Sự
Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí Và Mặt Trận Ngoại Biên
* Lược ghi về đời binh nghiệp của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí
Tướng Đỗ Cao Trí tốt nghiệp khóa đào tạo Sĩ quan Quân đội Quốc gia Việt Nam tại tỉnh Biên Hòa vào năm 1948, vài năm sau, ông là một trong những tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam khi ông chỉ huy Tiểu đoàn BVN 19. Ông đã theo học khóa sĩ quan Nhảy Dù ở Pháp, và trở thành chỉ huy trưởng đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù QL.VNCH sau khi Quân đội Pháp chính thức bàn giao liên đoàn 3 Nhảy Dù (G.A.P) lại cho Quân đội Quốc gia Việt Nam vào ngày 29/9/1954, lúc bấy giờ ông còn mang cấp thiếu tá và đang chỉ huy một tiểu đoàn Nhảy Dù.
Sau một thời gian chuyển tiếp của giai đoạn hình thành, đến 1 tháng 5/1955, bộ chỉ huy Liên đoàn Nhảy Dù VNCH chính thức thành lập theo bảng cấp số của bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia VN, ông được cử giữ chức chỉ huy trưởng Liên đoàn với cấp bậc trung tá, và được thăng đại tá vào tháng 11 năm 1955 khi chưa đến 29 tuổi.
Đầu tháng 9/1956, Đại tá Đỗ Cao Trí được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Đệ Tam quân khu vừa mới thành lập (gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Yên, Bình Định, đến năm 1961, quân khu này sát nhập với Đệ Tứ quân khu để trở thành Vùng 2 chiến thuật). Năm 1958, ông giữ chức Tham mưu trưởng Quân đoàn 1 mà Tư lệnh Quân đoàn lúc bấy giờ là Trung tướng Trần Văn Đôn. Từ 1961 đến 1963, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chỉ huy trưởng Trường Hạ sĩ quan Nha Trang, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, được thăng thiếu tướng vào tháng 7/1963.
Tháng 9/1963, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh Đỗ Cao Trí được Tổng thống Ngô Đình Diệm cử kiêm nhiệm xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 thay Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm; ngày 2 tháng 11/1963, sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, ông được thăng trung tướng và được chính thức giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật. Từ tháng 1/1964 đến tháng 9/1964, Trung tướng Đỗ Cao Trí được điều động lên Cao nguyên giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2. Ngày 14 tháng 9/1964, ông bị Trung tướng Nguyễn Khánh, lúc bấy giờ là Thủ tướng kiêm Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách Mạng, giải nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 vì nghi ngờ ông có liên quan đến cuộc chính biến 13 tháng 9/1964 do Trung tướng Dương Văn Đức chủ xướng.
Sau một thời gian ở nhà chờ lệnh, vào tháng 8/năm 1965, Trung tướng Đỗ Cao Trí bị giải ngũ cùng với Đại tướng Nguyễn Khánh theo quyết định của Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Trong thời gian rời khỏi quân đội, ông được bổ nhiệm làm Đại sứ VNCH tại Đại Hàn. Tháng 8/1968, theo đề nghị của Thủ tướng chính phủ VNCH lúc bấy giờ là cụ Trần Văn Hương, ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho tái ngũ và được cử thay thế Trung tướng Lê Nguyên Khang trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3 & Vùng 3. Tư lệnh Quân đoàn 3 Đỗ Cao Trí tử nạn trực thăng vào tháng 2/1971 khi đang thị sát chiến trường Cam Bốt, được truy thăng đại tướng. Trong quân đội, Trung tướng Đỗ Cao Trí thuộc lớp tướng lãnh đàn anh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng tham mưu Cao Văn Viên.
Theo ghi nhận của các nhà quân sử, một trong những chiến tích trong đời binh nghiệp của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí là đã tổng chỉ huy cuộc hành quân ngoại biên tại Căm Bốt trong năm 1970 với chiến thắng là triệt hạ nhiều căn cứ địa của CSBV đặt tại nước này. Sau đây là diễn tiến cuộc hành quân ngoại biên của Quân đoàn 3 dưới quyền tổng chỉ huy của Trung tướng Đỗ Cao Trí, phần này được biên soạn dựa theo tài liệu của Khối Quân sử/Phòng 5 bộ Tổng tham mưu, hồi ký của cựu đại tướng Westmoreland, ký sự của cựu thiếu tá Phạm Huấn, đặc san Mũ Đỏ, KBC và tài liệu riêng của VB.
* Tư lệnh Đỗ Cao Trí và lực lượng Quân đoàn 3 tại chiến trường Căm Bốt
Đúng 7 giờ 10 sáng ngày 29 tháng 4/1970, Trung tướng Đỗ Cao Trí cho khởi cuộc hành quân ngoại biên, và lực lượng tham chiến của Quân đoàn 3 trong giai đoạn đầu được chia thành 2 chiến đoàn đặc nhiệm: chiến đoàn 318 và chiến đoàn 333. Thành phần các đơn vị thống thuộc các chiến đoàn được ghi nhận như sau:
- Chiến đoàn đặc nhiệm 318: lực lượng xung kích gồm Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh; lực lượng yểm trợ hỏa lực gồm có: 1 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 2 pháo đội 155 ly, 1 pháo đội hỗn hợp (105 và 155 ly) của tiểu đoàn 38 Pháo binh Quân đoàn 3, các pháo đội Pháo binh thống thuộc Sư đoàn 18, Sư đoàn 5 Bộ binh, 2 chi đoàn của Thiết đoàn 18 Kỵ Binh, các đơn vị Công binh chiến đấu thuộc Quân đoàn 3 và Sư đoàn 18 Bộ binh.
- Chiến đoàn 333: lực lượng xung kích là Liên đoàn 3 Biệt động quân, lực lượng yểm trợ gồm có: 2 chi đoàn thuộc Lữ đoàn 3 Kỵ Binh, các đơn vị Pháo binh 105 ly và 155 ly.
Trong hai tuần đầu của tháng 5/1970, các đơn vị của lực lượng đặc nhiệm Sư đoàn 18 Bộ binh đã có nhiều chạm súng với Cộng quân nhưng chưa có những trận giao tranh lớn. Từ giữa tháng 5/1970, theo kế hoạch của bộ chỉ huy chiến dịch, Trung đoàn 43 BB và Trung đoàn 48 BB và các đơn vị yểm trợ đã bung rộng khu vực hoạt động trong nội địa Căm Bốt, tiến chiếm các mục tiêu trọng điểm mà bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã giao phó.
* Tướng Đỗ Cao Trí và trận chiến ở đồn điền Chup
Ngày 29 tháng 5/1970, cùng với kế hoạch hành quân của Quân đoàn 4, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 thực hiện giai đoạn 2 của chiến dịch Toàn Thắng 42 trong khuôn khổ của Quân đoàn. Theo kế hoạch mới, lực lượng Chiến đoàn đặc nhiệm 318 hành quân về phía Bắc và Tây Bắc của đồn điền Chup, trong khi đó, Chiến đoàn 333 hành quân phía Tây Tây Nam của đồn điền này.
Cuộc tiến quân của lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh không gặp sự kháng cự mạnh của đối phương nhưng phía cánh quân của Chiến đoàn 333 đã đụng độ với các trung đoàn của Công trường 7 CSBV. Tiểu đoàn Biệt động quân đi đầu đã bị Cộng quân phục kích, cắt thành hai, tổn thất nặng. Bộ chỉ huy Chiến đoàn 333 tung 2 tiểu đoàn Biệt động quân trừ bị và 2 chi đoàn Thiết kỵ vào trận địa để tiếp cứu tiểu đoàn Biệt động quân nói trên. Trận chiến diễn ra rất ác liệt và kéo dài trong suốt 4 giờ liền. Không quân Việt-Mỹ đã liên tục yểm trợ phi pháo cho đơn vị Biệt động quân nói trên. Đến trưa ngày 29 tháng 5/1970, Chiến đoàn 333 đẩy lùi được địch quân, hơn 100 Cộng quân bị bỏ xác tại trận nhưng về phía chiến đoàn 333, một tiểu đoàn Biệt động quân bị tổn thất nặng, tất cả các thiết vận xa M 113 của 2 chi đoàn hỗn hợp đều bị lún trong vùng lầy.
Khi trận chiến đang xảy ra, Trung tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng xuống ngay trận địa. Tại bộ chỉ huy hành quân của Chiến đoàn 333, Trung tướng Trí đã theo dõi tình hình trận chiến, ông nhận định là Cộng quân cố mở một trận địa lớn ngay tại Tây Tây Nam đồn điền Chup. Qua liên lạc siêu tần số, vị Tư lệnh Quân đoàn 3 đã chỉ thị cho bộ Tham mưu Quân đoàn 3 ở Biên Hòa khẩn cấp điều động lực lượng trừ bị Không quân chiến thuật thống thuộc Quân đoàn để yểm trợ cho chiến đoàn 333.
Sau khi ra lệnh cho bộ chỉ huy Chiến đoàn 333 thực hiện ngay những việc cần thiết, Trung tướng Trí đã bay đến khu vực hành quân của chiến đoàn 318 để duyệt xét tình hình của trận địa. Tại đây, sau khi bộ chỉ huy chiến đoàn báo cáo, Trung tướng Trí cho lệnh lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh tạm ngưng cuộc hành quân về phía Bắc và Tây Bắc đồn điền Chup, di chuyển toàn bộ lực lượng về vùng hành quân của chiến đoàn 333 để tiếp ứng cho chiến đoàn này. Trung tướng Trí cũng ra lệnh cho Đại tá Trương Văn Phúc, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 333, phải hoàn tất việc tải thương và cho kéo tất cả Thiết quân vận ra khỏi khu vực bị lún.
Cuộc di quân của Chiến đoàn 318 được tiến hành theo đúng kế hoạch, thế nhưng Chiến đoàn 333 vẫn gặp khó khăn, Trung tướng Trí đã bay trở lại khu vực hành quân của chiến đoàn này để đôn đốc các đơn vị Thiết giáp tìm mọi cách để đưa lần các thiết vận xa ra khỏi vùng lún lầy. Trời đã tối mịt, nhưng vị tư lệnh Quân đoàn 3 vẫn đứng ngâm châm dưới bùn lầy, chia sẻ gian khó với quân sĩ cho đến gần sáng hôm sau khi mà tất cả thiết vận xa đều được kéo ra và chuyển động .
Trong kế hoạch mới của Trung tướng Trí, các đơn vị của Chiến đoàn 333 được sử dụng làm nỗ lực phụ, Pháo binh và Không quân Việt-Mỹ tiếp tục oanh kích, hỏa tập vào các vị trí được ghi nhận là Cộng quân đang tập trung. Cuối cùng, dưới sự tổng chỉ huy của Tư lệnh Quân đoàn 3 Đỗ Cao Trí, lực lượng VNCH đã làm chủ chiến trường, từ đó khởi động các cuộc tiến quân từ nhiều hướng để triệt hạ các căn cứ địa CSBV trên đất Căm Bốt.
vietnao.com
Tân Sơn Hòa chuyển
Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí Và Mặt Trận Ngoại Biên
* Lược ghi về đời binh nghiệp của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí
Tướng Đỗ Cao Trí tốt nghiệp khóa đào tạo Sĩ quan Quân đội Quốc gia Việt Nam tại tỉnh Biên Hòa vào năm 1948, vài năm sau, ông là một trong những tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam khi ông chỉ huy Tiểu đoàn BVN 19. Ông đã theo học khóa sĩ quan Nhảy Dù ở Pháp, và trở thành chỉ huy trưởng đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù QL.VNCH sau khi Quân đội Pháp chính thức bàn giao liên đoàn 3 Nhảy Dù (G.A.P) lại cho Quân đội Quốc gia Việt Nam vào ngày 29/9/1954, lúc bấy giờ ông còn mang cấp thiếu tá và đang chỉ huy một tiểu đoàn Nhảy Dù.
Sau một thời gian chuyển tiếp của giai đoạn hình thành, đến 1 tháng 5/1955, bộ chỉ huy Liên đoàn Nhảy Dù VNCH chính thức thành lập theo bảng cấp số của bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia VN, ông được cử giữ chức chỉ huy trưởng Liên đoàn với cấp bậc trung tá, và được thăng đại tá vào tháng 11 năm 1955 khi chưa đến 29 tuổi.
Đầu tháng 9/1956, Đại tá Đỗ Cao Trí được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Đệ Tam quân khu vừa mới thành lập (gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Yên, Bình Định, đến năm 1961, quân khu này sát nhập với Đệ Tứ quân khu để trở thành Vùng 2 chiến thuật). Năm 1958, ông giữ chức Tham mưu trưởng Quân đoàn 1 mà Tư lệnh Quân đoàn lúc bấy giờ là Trung tướng Trần Văn Đôn. Từ 1961 đến 1963, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chỉ huy trưởng Trường Hạ sĩ quan Nha Trang, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, được thăng thiếu tướng vào tháng 7/1963.
Tháng 9/1963, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh Đỗ Cao Trí được Tổng thống Ngô Đình Diệm cử kiêm nhiệm xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 thay Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm; ngày 2 tháng 11/1963, sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, ông được thăng trung tướng và được chính thức giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật. Từ tháng 1/1964 đến tháng 9/1964, Trung tướng Đỗ Cao Trí được điều động lên Cao nguyên giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2. Ngày 14 tháng 9/1964, ông bị Trung tướng Nguyễn Khánh, lúc bấy giờ là Thủ tướng kiêm Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách Mạng, giải nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 vì nghi ngờ ông có liên quan đến cuộc chính biến 13 tháng 9/1964 do Trung tướng Dương Văn Đức chủ xướng.
Sau một thời gian ở nhà chờ lệnh, vào tháng 8/năm 1965, Trung tướng Đỗ Cao Trí bị giải ngũ cùng với Đại tướng Nguyễn Khánh theo quyết định của Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Trong thời gian rời khỏi quân đội, ông được bổ nhiệm làm Đại sứ VNCH tại Đại Hàn. Tháng 8/1968, theo đề nghị của Thủ tướng chính phủ VNCH lúc bấy giờ là cụ Trần Văn Hương, ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho tái ngũ và được cử thay thế Trung tướng Lê Nguyên Khang trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3 & Vùng 3. Tư lệnh Quân đoàn 3 Đỗ Cao Trí tử nạn trực thăng vào tháng 2/1971 khi đang thị sát chiến trường Cam Bốt, được truy thăng đại tướng. Trong quân đội, Trung tướng Đỗ Cao Trí thuộc lớp tướng lãnh đàn anh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng tham mưu Cao Văn Viên.
Theo ghi nhận của các nhà quân sử, một trong những chiến tích trong đời binh nghiệp của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí là đã tổng chỉ huy cuộc hành quân ngoại biên tại Căm Bốt trong năm 1970 với chiến thắng là triệt hạ nhiều căn cứ địa của CSBV đặt tại nước này. Sau đây là diễn tiến cuộc hành quân ngoại biên của Quân đoàn 3 dưới quyền tổng chỉ huy của Trung tướng Đỗ Cao Trí, phần này được biên soạn dựa theo tài liệu của Khối Quân sử/Phòng 5 bộ Tổng tham mưu, hồi ký của cựu đại tướng Westmoreland, ký sự của cựu thiếu tá Phạm Huấn, đặc san Mũ Đỏ, KBC và tài liệu riêng của VB.
* Tư lệnh Đỗ Cao Trí và lực lượng Quân đoàn 3 tại chiến trường Căm Bốt
Đúng 7 giờ 10 sáng ngày 29 tháng 4/1970, Trung tướng Đỗ Cao Trí cho khởi cuộc hành quân ngoại biên, và lực lượng tham chiến của Quân đoàn 3 trong giai đoạn đầu được chia thành 2 chiến đoàn đặc nhiệm: chiến đoàn 318 và chiến đoàn 333. Thành phần các đơn vị thống thuộc các chiến đoàn được ghi nhận như sau:
- Chiến đoàn đặc nhiệm 318: lực lượng xung kích gồm Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh; lực lượng yểm trợ hỏa lực gồm có: 1 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 2 pháo đội 155 ly, 1 pháo đội hỗn hợp (105 và 155 ly) của tiểu đoàn 38 Pháo binh Quân đoàn 3, các pháo đội Pháo binh thống thuộc Sư đoàn 18, Sư đoàn 5 Bộ binh, 2 chi đoàn của Thiết đoàn 18 Kỵ Binh, các đơn vị Công binh chiến đấu thuộc Quân đoàn 3 và Sư đoàn 18 Bộ binh.
- Chiến đoàn 333: lực lượng xung kích là Liên đoàn 3 Biệt động quân, lực lượng yểm trợ gồm có: 2 chi đoàn thuộc Lữ đoàn 3 Kỵ Binh, các đơn vị Pháo binh 105 ly và 155 ly.
Trong hai tuần đầu của tháng 5/1970, các đơn vị của lực lượng đặc nhiệm Sư đoàn 18 Bộ binh đã có nhiều chạm súng với Cộng quân nhưng chưa có những trận giao tranh lớn. Từ giữa tháng 5/1970, theo kế hoạch của bộ chỉ huy chiến dịch, Trung đoàn 43 BB và Trung đoàn 48 BB và các đơn vị yểm trợ đã bung rộng khu vực hoạt động trong nội địa Căm Bốt, tiến chiếm các mục tiêu trọng điểm mà bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã giao phó.
* Tướng Đỗ Cao Trí và trận chiến ở đồn điền Chup
Ngày 29 tháng 5/1970, cùng với kế hoạch hành quân của Quân đoàn 4, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 thực hiện giai đoạn 2 của chiến dịch Toàn Thắng 42 trong khuôn khổ của Quân đoàn. Theo kế hoạch mới, lực lượng Chiến đoàn đặc nhiệm 318 hành quân về phía Bắc và Tây Bắc của đồn điền Chup, trong khi đó, Chiến đoàn 333 hành quân phía Tây Tây Nam của đồn điền này.
Cuộc tiến quân của lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh không gặp sự kháng cự mạnh của đối phương nhưng phía cánh quân của Chiến đoàn 333 đã đụng độ với các trung đoàn của Công trường 7 CSBV. Tiểu đoàn Biệt động quân đi đầu đã bị Cộng quân phục kích, cắt thành hai, tổn thất nặng. Bộ chỉ huy Chiến đoàn 333 tung 2 tiểu đoàn Biệt động quân trừ bị và 2 chi đoàn Thiết kỵ vào trận địa để tiếp cứu tiểu đoàn Biệt động quân nói trên. Trận chiến diễn ra rất ác liệt và kéo dài trong suốt 4 giờ liền. Không quân Việt-Mỹ đã liên tục yểm trợ phi pháo cho đơn vị Biệt động quân nói trên. Đến trưa ngày 29 tháng 5/1970, Chiến đoàn 333 đẩy lùi được địch quân, hơn 100 Cộng quân bị bỏ xác tại trận nhưng về phía chiến đoàn 333, một tiểu đoàn Biệt động quân bị tổn thất nặng, tất cả các thiết vận xa M 113 của 2 chi đoàn hỗn hợp đều bị lún trong vùng lầy.
Khi trận chiến đang xảy ra, Trung tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng xuống ngay trận địa. Tại bộ chỉ huy hành quân của Chiến đoàn 333, Trung tướng Trí đã theo dõi tình hình trận chiến, ông nhận định là Cộng quân cố mở một trận địa lớn ngay tại Tây Tây Nam đồn điền Chup. Qua liên lạc siêu tần số, vị Tư lệnh Quân đoàn 3 đã chỉ thị cho bộ Tham mưu Quân đoàn 3 ở Biên Hòa khẩn cấp điều động lực lượng trừ bị Không quân chiến thuật thống thuộc Quân đoàn để yểm trợ cho chiến đoàn 333.
Sau khi ra lệnh cho bộ chỉ huy Chiến đoàn 333 thực hiện ngay những việc cần thiết, Trung tướng Trí đã bay đến khu vực hành quân của chiến đoàn 318 để duyệt xét tình hình của trận địa. Tại đây, sau khi bộ chỉ huy chiến đoàn báo cáo, Trung tướng Trí cho lệnh lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh tạm ngưng cuộc hành quân về phía Bắc và Tây Bắc đồn điền Chup, di chuyển toàn bộ lực lượng về vùng hành quân của chiến đoàn 333 để tiếp ứng cho chiến đoàn này. Trung tướng Trí cũng ra lệnh cho Đại tá Trương Văn Phúc, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 333, phải hoàn tất việc tải thương và cho kéo tất cả Thiết quân vận ra khỏi khu vực bị lún.
Cuộc di quân của Chiến đoàn 318 được tiến hành theo đúng kế hoạch, thế nhưng Chiến đoàn 333 vẫn gặp khó khăn, Trung tướng Trí đã bay trở lại khu vực hành quân của chiến đoàn này để đôn đốc các đơn vị Thiết giáp tìm mọi cách để đưa lần các thiết vận xa ra khỏi vùng lún lầy. Trời đã tối mịt, nhưng vị tư lệnh Quân đoàn 3 vẫn đứng ngâm châm dưới bùn lầy, chia sẻ gian khó với quân sĩ cho đến gần sáng hôm sau khi mà tất cả thiết vận xa đều được kéo ra và chuyển động .
Trong kế hoạch mới của Trung tướng Trí, các đơn vị của Chiến đoàn 333 được sử dụng làm nỗ lực phụ, Pháo binh và Không quân Việt-Mỹ tiếp tục oanh kích, hỏa tập vào các vị trí được ghi nhận là Cộng quân đang tập trung. Cuối cùng, dưới sự tổng chỉ huy của Tư lệnh Quân đoàn 3 Đỗ Cao Trí, lực lượng VNCH đã làm chủ chiến trường, từ đó khởi động các cuộc tiến quân từ nhiều hướng để triệt hạ các căn cứ địa CSBV trên đất Căm Bốt.
vietnao.com
Tân Sơn Hòa chuyển