Kinh Khổ
Đồng chí ta, đồng chí địch
Tố Hữu, vì tình đồng chí, viết: Trung Quốc đó bàn tay nào huyền diệu/ Đã nắn lại cả dung nhan dáng điệu/Mặt đồng khô xóa sạch những bờ ngăn/ Như mặt người tươi giãn những đường nhăn.
Tạ Duy Anh
![]() |
Nhà văn Tạ Duy Anh |
Chỉ
cần điểm qua cách xưng hô cũng thấy hiện lên một phần lịch sử quan hệ vừa bi vừa
hài giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà can dự rõ nhất là danh từ đồng chí.
Tình
đồng chí giữa lãnh đạo hai nước đạt độ nồng ấm nhất vào những năm 60 của thế kỷ
hai mươi.
Khi đó, mặc dù gần trăm triệu người dân Trung Quốc chết hoặc trước
sau cũng chết bởi cuộc đại cách mạng văn hóa, thì nó vẫn không ngăn được Tố Hữu,
vì tình đồng chí, viết: Trung Quốc đó bàn
tay nào huyền diệu/ Đã nắn lại cả dung nhan dáng điệu/Mặt đồng khô xóa sạch những
bờ ngăn/ Như mặt người tươi giãn những đường nhăn.
Thân
tình đến nỗi, trẻ con Việt Nam cũng gọi ông Mao là “Bác”. Đây là giai đoạn
Trung Quốc muốn Việt Nam “đánh Mỹ đến người cuối cùng”, vì thế họ sẵn sàng là
“hậu phương bao la của Việt Nam” như lời ông Mao! Nhưng hóa ra từ khi ấy, khi
là đồng chí thắm thiết của nhau, khi “cùng chí hướng” giải phóng nhân loại, xóa
bỏ biên giới, “Bác Mao” đã chuẩn bị kỹ càng để chiếm đoạt biển đảo của “con
cháu Bác” ở bên Việt Nam. Cú lừa để có cái Công hàm 1958 đầy bi hài là một bằng
chứng.
Năm
1974, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, lúc ấy do chính phủ Việt Nam cộng hòa kiểm
soát. Vì là đồng chí nên Miền Bắc bắt
buộc phải im lặng, như là chẳng liên quan gì đến mình, như là việc của hai quốc
gia láng giềng*. Dân chúng miền Bắc không hề có bất cứ thông tin gì, cảm xúc gì
vì vậy họ không có chút cảm giác nào về chuyện mất mát lãnh thổ. Hoặc nếu có bộ
phận nào biết thì lại thấy như là điều may mắn vì kẻ thù (Việt Nam cộng hòa mà
miền Bắc gọi là Ngụy quyền), mất đi một vị trí chiến lược có thể thọc vào sườn hậu
phương xã hội chủ nghĩa! Danh từ đồng chí cho phép xác định Trung Quốc là bạn,
còn người anh em phía Nam bị mặc nhiên coi là thù! Liệu có biến cố nào bi hài
và thê thảm hơn trong lịch sử người Việt?**
Điều gì phải đến sẽ đến, mọi thứ nham hiểm của
Trung Quốc nấp sau danh từ đồng chí cuối cùng cũng lộ mặt. Hơn 50 mười ngàn
“con cháu bác Mao” (số ước tính của Hoa Kỳ) ở cả hai bên bị chết trong cuộc tắm
máu nhau dọc 6 tỉnh biên giới, trong đó cứ một người rưỡi Tầu đổi một mạng An
Nam. Năm 1979 Hà Nội ra sách trắng về quan hệ Việt-Trung, tố cáo Trung Quốc phản
bội, chơi đểu, lợi dụng Việt Nam khó khăn để mưu thôn tính từ từ. Thế là chẳng
có anh em con cháu gì nữa, chỉ đích danh “bè lũ phản độngMao” là những kẻ chủ
mưu ăn thịt người Việt, sau khi đã no thịt người Hán. Trong Hiến pháp Việt Nam
năm 1980 thậm chí còn ghi rõ Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp, lâu dài, nguy hiểm.
Những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đương nhiên là những kẻ xâm lược. Có bài báo gọi
đám con cháu của Tần Thủy Hoàng là “những con chó Trung Nam Hải”, còn Đặng Tiểu
Bình thì là “thằng lùn cao bồi”. Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ nôm na nổi
tiếng “Bác Mao không ở đâu xa/ Bác Hồ ta
đó chính là bác Mao” thì lúc ấy có hẳn cả một bài thơ “Vịnh thằng lùn”, viết
về Đặng Tiểu Bình, khá dài, theo thể tự do, trong đó có câu, đại ý: Thằng lùn mặc
quần bò/ Thằng lùn thích súc-cù-là…(Có lẽ vì lịch lãm nên nhà thơ không nỡ bảo
thằng lùn thích cứt Mỹ nữa thôi!). Bài thơ này, nếu tôi nhớ không lầm thì in
trong tập “Hoa trên đá”. Nhưng không riêng Chế Lan Viên- chỉ là nghệ sĩ,- nhạy
cảm với thời tiết chính trị, trong vô số phát biểu của các chính trị gia chuyên
nghiệp lúc ấy cũng không ngần ngại gọi các đồng chí một thời ở Bắc Kinh là lũ
phản động quốc tế, những tên lính gác cho bọn tư bản….
Năm
1985, khi đó tôi đang đóng quân ở Lào Cai, vẫn còn thấy sáng nào hai bên cũng
chĩa loa vào nhau qua sông Hồng, một bên réo Tập đoàn phản động Mao-Đặng, gán
cho đủ thứ tội, một bên át đi bằng loa công suất lớn gấp bội, ồm ồm chỉ đích
danh “bè lũ Lê Duẩn” kèm theo hàng chục kết án. Chúng tôi được quán triệt nhất
nhất gọi Trung Quốc là bọn bành trướng Bắc Kinh. Trong 10 bài hát mà mỗi quân
nhân phải thuộc hồi ấy, gọi là 10 bài hát điều lệnh, có bài Tiếng
súng đã vang trên bầu trời biên giới của nhạc sĩ Phạm Tuyên, trong đó
có câu: “Quân xâm lược bành trướng dã man”. Ngày nào trước mỗi cuộc tụ tập,
liên hoan, tất cả lại đồng loạt gào lên: “Quân xâm lược bành trướng dã man”.
Danh
từ “đồng chí” biến mất khỏi mọi văn bản
của Việt Nam, khỏi ngôn ngữ đời sống xã hội khi gắn với Trung Quốc. Ai dám cả
gan dùng nó để gọi Trung Quốc thì đích thị là kẻ vô loài, thiếu văn hóa chính
trị tối thiểu, có dã tâm bán nước. Không ai lại cùng chí hướng với kẻ thù truyền
kiếp!
Cho đến
sau năm 1990, mà rồi lịch sử sẽ hé lộ và vì thế mà chúng ta biết có cuộc gặp
Thành Đô. Các nhà lãnh đạo của chúng ta, những người rõ ràng là rất lép vế
trong hội nghị đó, có thể sẽ còn bị lịch sử chế giễu vì mất cảnh giác, khờ khạo
nhưng tôi tin là họ có cả phần trong sáng nữa. Họ tin rằng chủ nghĩa xã hội cần
phải được bảo vệ bằng mọi giá và xem ra chỉ còn Trung Quốc-dù là gã láng giềng
hay chơi bẩn-nhưng khả dĩ làm nơi cố thủ an toàn cho giáo lý Mác. Vì, như ông
Nguyễn Đức Bình, nhà lý luận hàng đầu của Đảng khẳng định: “Nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới nữa, thì đất nước Việt Nam
chúng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nay sẽ đi theo con đường nào?”. Tức là
số phận dân tộc bị đóng đinh câu rút, phải đi qua duy nhất một con đường hầm
tên là “quá độ lên CNXH”, mà một đầu là thần chết! Không có lối thứ hai! Nguy cấp thế kia mà. Dọa nhau thế ai chả sợ,
nhất là những người quen đánh nhau hơn là đọc sách! Hoặc quá độ lên CNXH, hoặc
chết! Các nước khác, như Nhật, Hàn, Singopore có cả ngàn lối đến tương lai,
cũng kệ họ, không được phép ngó nghiêng. Ai bảo sinh ra là người Việt? Những
người chủ trương như ông Nguyễn Đức Bình chỉ quên (hoặc cố tình không biết) một
điều: các đồng chí Trung Quốc của họ chưa bao giờ coi chủ nghĩa xã hội là thứ
gì quan trọng. Chúng ta hãy đọc lời giáo huấn đầy tính mỉa mai sau đây của Mao về
giáo lý Mác, với cấp dưới ông ta: “Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các Mác
không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải vì nó đựng một phép
thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi.(TDA nhấn mạnh) Có nhiều người cho nó là
thần dược trừ bách bệnh. Chính những người này đã xem thuyết Các Mác là một
giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm
giàu ruộng đất, giáo lý không làm được việc đó.”
Hội nghị Thành
Đô đã đưa danh từ đồng chí trở lại trong quan hệ hai nước, tạo ra một giai đoạn
hòa bình tương đối không thể nói là không quan trọng*** cho Việt Nam, nhưng về
cơ bản nó gây nên những thay đổi âm thầm số phận người Việt theo hướng tiêu cực
là chính. Vì là đồng chí nên mọi việc lớn bé Việt Nam đều phải tham vấn Trung
Quốc. Phụ thuộc toàn diện. (Như tiết lộ mới đây của cụ Nguyễn Trọng Vĩnh về sự
can thiệp của Trung Quốc vào vấn đề nội bộ nhất không chỉ của Việt Nam, mà của
bất cứ quốc gia nào, là vấn đề chọn nhân sự lãnh đạo đất nước). Trung Quốc âm
thầm và ráo riết chuẩn bị mọi mặt để chiếm biển Đông nhưng lấy tình đồng chí
làm vật che mắt Việt Nam. Vì tình đồng chí Việt Nam không dám công khai vạch tội
Trung Quốc ăn hiếp ngư dân Việt, luôn phải gọi chệch đi. Tầu Trung Quốc rành
rành nhưng phải gọi là “tầu lạ”. Suốt bao nhiêu năm Việt Nam không dám chọn bạn
tốt để chơi (bất cứ quốc gia nào cũng tốt với Việt Nam hơn Trung Quốc), dù biết
là có lợi lâu dài cho đất nước, chỉ đơn giản vì những người bạn ấy đều không
cùng hội cùng thuyền với Trung Quốc. Bất cứ ai nhắc đến dã tâm của Trung Quốc
cũng bị coi là làm ảnh hưởng đại cục, phá quấy an ninh! Trung Quốc tận dụng triệt
để cái hàm thiếc đồng chí để kìm hãm Việt Nam, cả trong đối ngoại lẫn đối nội. Chưa
bao giờ danh từ đồng chí mang lại nhiều lợi lộc cho Trung Quốc như giai đoạn hai
chục năm vừa qua. Tất nhiên người thiệt hại to lớn là Việt Nam.
Viết đến đây tôi bỗng muốn dừng lại để tìm về
nguồn gốc của danh từ đồng chí. Nó là bùa chú gì mà giam hãm Việt Nam trong
vòng cương tỏa của Trung Quốc đơn giản đến thế, khiến số phận dân tộc cứ vật vã
tơi bời bởi họ lâu đến thế và liệu nó còn tự tung tự tác đến bao giờ?
Hầu
như mọi ngôn ngữ lớn đều có từ đồng chí và chắc chắn lúc khởi thủy nó không
mang mầu sắc chính trị. Nó được dùng tại Trung Quốc từ hàng ngàn năm trước khi
xuất hiện những người theo chủ nghĩa cộng sản. Trong những bang hội, những tổ
chức xã hội đen có tổ chức, những băng nhóm chính trị hoạt động ngoài vòng pháp
luật như Hội tam hoàng ở phương Đông, tổ chứ 3K chuyên giết người tàn bạo ở Mỹ
vì phân biệt chủng, các thành viên đều là những người cùng chí hướng. Đảng Quốc
Xã của Hitler, các đảng viên cũng xưng với nhau là đồng chí. Tình đồng chí đậm nhất
có lẽ thuộc về đảng của Pôn-pốt. Cùng đi ăn cướp cũng là đồng chí. Chỉ đơn giản
vì nó là cùng chí hướng, một khái niệm thuần túy ngôn ngữ. Nó chẳng hề có
xuất thân danh giá như nhiều người vẫn tưởng. Về sau nó được chính trị hóa và
trở nên “linh thiêng” như ta đang thấy.
Sau sự kiện giàn
khoan HD-981, số phận của từ đồng chí lại một lần nữa trở nên mong manh và bi
hài. Các báo của nhà nước đều dùng từ ông, ngài để gọi các lãnh đạo Trung Quốc.
Lần đầu tiên sau hơn 20 năm, Đài truyền hình Việt Nam không dùng từ đồng chí
trước tên Dương Khiết Trì khi đưa tin ông này sang Hà Nội. Bởi vì chính Trung
Quốc đã làm cho từ đồng chí trở nên rất giả dối, sống sượng, đồng nghĩa với từ
lừa lọc. Chả lẽ qua ngần ấy biến cố, lộ rõ bộ mặt đểu cáng, dã tâm độc ác của
Trung Quốc, lại vẫn là đồng chí (cùng chí hướng) của nhau thì thật lố bịch? Cả
trăm triệu người dân Việt đầy lòng tự trọng “quyết không đổi chủ quyền thiêng
liêng lấy thứ hữu nghị viển vông” chắc chắn sẽ cảm thấy bị làm nhục và nổi giận.
Xác đồng bào của họ vẫn còn bập bềnh trên biển Đông bởi súng đạn Trung Quốc. Chẳng
ai chấp nhận cùng chí hướng với kẻ cướp chính đất nước mình, giết anh em, đồng
bào, người thân của mình, ngoại trừ phải gọi rõ ra là đồng chí địch!
Lịch sử quan hệ
hai quốc gia suốt hàng ngàn năm qua (ít nhất là đến trước năm 1949) cho thấy
chưa bao giờ người Việt cùng chí hướng với người Hán. Đơn giản
vì lợi ích lãnh thổ của Trung Quốc luôn đi kèm với việc thôn tính hoặc gặm nhấm
Việt Nam. Trong hoàn cảnh phải sống cạnh
một gã khổng lồ thì hòa hiếu luôn là điều kiện sống còn để Việt Nam tồn tại và
phát triển. Nhưng cũng chính lịch sử cho thấy, Việt Nam muốn có hòa hiếu thực sự
với Trung Quốc thì phải độc lập tối đa với họ. Mà muốn vậy thì Dân tộc phải là lợi ích cao nhất của mọi tính toán chính trị, được thể hiện trong
chiến lược quốc gia tầm nhìn hàng trăm năm****, là sản phẩm của tầng lớp trí thức
tinh hoa chưa bị nhiễm độc bởi bất cứ khẩu hiệu mang tính phô diễn lập trường nào,
nghĩa là hoàn toàn tự do và trong sạch. Không có cách nào khác. Mọi ảo tưởng về
sự mật thiết dựa trên tương đồng ý thức hệ hoặc sự gắn bó mang tính đảng phái,
rốt cuộc chỉ là cách tự sát từ từ.
-----------------------------------------------------------------------
*Trong
một liệu nào đó mà tôi không nhớ, cho rằng sau khi Trung Quốc làm chủ hoàn toàn
Hoàng Sa, Hà Nội có gửi điện “cảm ơn” Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã “giải
phóng giúp” miền Bắc một phần lãnh thổ khỏi tay kẻ thù? Trung Quốc im lặng. Nếu
quả thực có chuyện như vậy thì có thể coi đó là bằng cớ gián tiếp xác định chủ
quyền của phía Việt Nam với quần đảo này. Nhưng chưa thấy thông tin chính thức
nào xác nhận chuyện đó.
**
Quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan y như quan hệ giữa Bắc và Nam Việt
Nam về mức độ thù địch và ý thức hệ. Nhưng khi Mao lệnh đánh chiếm Hoàng Sa,
chính quyền Đài Loan, dựa theo lợi ích của người Hán, nhanh chóng ngầm tạo điều
kiện để hải quân Trung Quốc thuận lợi trong việc di chuyển tiếp cận vị trí tác
chiến. Cứ nghĩ thế mà thấy cay đắng cho người Việt mình!
***
Chúng ta cần thêm cả một chút công bằng khi phán xét Hội nghị Thành Đô. Tình thế
đất nước lúc đó đã như trứng để đầu gậy, cần phải có hòa bình để tìm cách thoát
hiểm. Đáng trách là ở những gì diễn ra sau đó, kéo dài mấy chục năm, bỏ lỡ cơ hội
vàng hòa nhập với thế giới văn minh, hiện đại hóa đất nước, tạo sức mạnh cả
quân sự, ngoại giao, uy tín quốc tế… đặng xác lập quan hệ bình đẳng với Trung
Quốc.
****
Chừng nào còn chưa có một Chiến lược quốc
gia trong phát triển, Việt Nam sẽ chỉ là một đất nước nghiệp dư trong giải
quyết mọi vấn đề, may ăn, rủi chịu, thua thiệt là chính.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Vài Chuyện Buồn 30 Tháng 4" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Sinh Nhật Buồn" - by Khuất Đẩu / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Sự thật về “Nước mắm Việt Hương” của Tàu (?) - by Kỳ Đỗ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Mỹ và người Việt khác nhau ở chỗ này !" - by Nguyễn Đắc Phúc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Lịch sử và hoài nghi _ Trần Thế Kỷ
Đồng chí ta, đồng chí địch
Tố Hữu, vì tình đồng chí, viết: Trung Quốc đó bàn tay nào huyền diệu/ Đã nắn lại cả dung nhan dáng điệu/Mặt đồng khô xóa sạch những bờ ngăn/ Như mặt người tươi giãn những đường nhăn.
Tạ Duy Anh
![]() |
Nhà văn Tạ Duy Anh |
Chỉ
cần điểm qua cách xưng hô cũng thấy hiện lên một phần lịch sử quan hệ vừa bi vừa
hài giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà can dự rõ nhất là danh từ đồng chí.
Tình
đồng chí giữa lãnh đạo hai nước đạt độ nồng ấm nhất vào những năm 60 của thế kỷ
hai mươi.
Khi đó, mặc dù gần trăm triệu người dân Trung Quốc chết hoặc trước
sau cũng chết bởi cuộc đại cách mạng văn hóa, thì nó vẫn không ngăn được Tố Hữu,
vì tình đồng chí, viết: Trung Quốc đó bàn
tay nào huyền diệu/ Đã nắn lại cả dung nhan dáng điệu/Mặt đồng khô xóa sạch những
bờ ngăn/ Như mặt người tươi giãn những đường nhăn.
Thân
tình đến nỗi, trẻ con Việt Nam cũng gọi ông Mao là “Bác”. Đây là giai đoạn
Trung Quốc muốn Việt Nam “đánh Mỹ đến người cuối cùng”, vì thế họ sẵn sàng là
“hậu phương bao la của Việt Nam” như lời ông Mao! Nhưng hóa ra từ khi ấy, khi
là đồng chí thắm thiết của nhau, khi “cùng chí hướng” giải phóng nhân loại, xóa
bỏ biên giới, “Bác Mao” đã chuẩn bị kỹ càng để chiếm đoạt biển đảo của “con
cháu Bác” ở bên Việt Nam. Cú lừa để có cái Công hàm 1958 đầy bi hài là một bằng
chứng.
Năm
1974, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, lúc ấy do chính phủ Việt Nam cộng hòa kiểm
soát. Vì là đồng chí nên Miền Bắc bắt
buộc phải im lặng, như là chẳng liên quan gì đến mình, như là việc của hai quốc
gia láng giềng*. Dân chúng miền Bắc không hề có bất cứ thông tin gì, cảm xúc gì
vì vậy họ không có chút cảm giác nào về chuyện mất mát lãnh thổ. Hoặc nếu có bộ
phận nào biết thì lại thấy như là điều may mắn vì kẻ thù (Việt Nam cộng hòa mà
miền Bắc gọi là Ngụy quyền), mất đi một vị trí chiến lược có thể thọc vào sườn hậu
phương xã hội chủ nghĩa! Danh từ đồng chí cho phép xác định Trung Quốc là bạn,
còn người anh em phía Nam bị mặc nhiên coi là thù! Liệu có biến cố nào bi hài
và thê thảm hơn trong lịch sử người Việt?**
Điều gì phải đến sẽ đến, mọi thứ nham hiểm của
Trung Quốc nấp sau danh từ đồng chí cuối cùng cũng lộ mặt. Hơn 50 mười ngàn
“con cháu bác Mao” (số ước tính của Hoa Kỳ) ở cả hai bên bị chết trong cuộc tắm
máu nhau dọc 6 tỉnh biên giới, trong đó cứ một người rưỡi Tầu đổi một mạng An
Nam. Năm 1979 Hà Nội ra sách trắng về quan hệ Việt-Trung, tố cáo Trung Quốc phản
bội, chơi đểu, lợi dụng Việt Nam khó khăn để mưu thôn tính từ từ. Thế là chẳng
có anh em con cháu gì nữa, chỉ đích danh “bè lũ phản độngMao” là những kẻ chủ
mưu ăn thịt người Việt, sau khi đã no thịt người Hán. Trong Hiến pháp Việt Nam
năm 1980 thậm chí còn ghi rõ Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp, lâu dài, nguy hiểm.
Những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đương nhiên là những kẻ xâm lược. Có bài báo gọi
đám con cháu của Tần Thủy Hoàng là “những con chó Trung Nam Hải”, còn Đặng Tiểu
Bình thì là “thằng lùn cao bồi”. Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ nôm na nổi
tiếng “Bác Mao không ở đâu xa/ Bác Hồ ta
đó chính là bác Mao” thì lúc ấy có hẳn cả một bài thơ “Vịnh thằng lùn”, viết
về Đặng Tiểu Bình, khá dài, theo thể tự do, trong đó có câu, đại ý: Thằng lùn mặc
quần bò/ Thằng lùn thích súc-cù-là…(Có lẽ vì lịch lãm nên nhà thơ không nỡ bảo
thằng lùn thích cứt Mỹ nữa thôi!). Bài thơ này, nếu tôi nhớ không lầm thì in
trong tập “Hoa trên đá”. Nhưng không riêng Chế Lan Viên- chỉ là nghệ sĩ,- nhạy
cảm với thời tiết chính trị, trong vô số phát biểu của các chính trị gia chuyên
nghiệp lúc ấy cũng không ngần ngại gọi các đồng chí một thời ở Bắc Kinh là lũ
phản động quốc tế, những tên lính gác cho bọn tư bản….
Năm
1985, khi đó tôi đang đóng quân ở Lào Cai, vẫn còn thấy sáng nào hai bên cũng
chĩa loa vào nhau qua sông Hồng, một bên réo Tập đoàn phản động Mao-Đặng, gán
cho đủ thứ tội, một bên át đi bằng loa công suất lớn gấp bội, ồm ồm chỉ đích
danh “bè lũ Lê Duẩn” kèm theo hàng chục kết án. Chúng tôi được quán triệt nhất
nhất gọi Trung Quốc là bọn bành trướng Bắc Kinh. Trong 10 bài hát mà mỗi quân
nhân phải thuộc hồi ấy, gọi là 10 bài hát điều lệnh, có bài Tiếng
súng đã vang trên bầu trời biên giới của nhạc sĩ Phạm Tuyên, trong đó
có câu: “Quân xâm lược bành trướng dã man”. Ngày nào trước mỗi cuộc tụ tập,
liên hoan, tất cả lại đồng loạt gào lên: “Quân xâm lược bành trướng dã man”.
Danh
từ “đồng chí” biến mất khỏi mọi văn bản
của Việt Nam, khỏi ngôn ngữ đời sống xã hội khi gắn với Trung Quốc. Ai dám cả
gan dùng nó để gọi Trung Quốc thì đích thị là kẻ vô loài, thiếu văn hóa chính
trị tối thiểu, có dã tâm bán nước. Không ai lại cùng chí hướng với kẻ thù truyền
kiếp!
Cho đến
sau năm 1990, mà rồi lịch sử sẽ hé lộ và vì thế mà chúng ta biết có cuộc gặp
Thành Đô. Các nhà lãnh đạo của chúng ta, những người rõ ràng là rất lép vế
trong hội nghị đó, có thể sẽ còn bị lịch sử chế giễu vì mất cảnh giác, khờ khạo
nhưng tôi tin là họ có cả phần trong sáng nữa. Họ tin rằng chủ nghĩa xã hội cần
phải được bảo vệ bằng mọi giá và xem ra chỉ còn Trung Quốc-dù là gã láng giềng
hay chơi bẩn-nhưng khả dĩ làm nơi cố thủ an toàn cho giáo lý Mác. Vì, như ông
Nguyễn Đức Bình, nhà lý luận hàng đầu của Đảng khẳng định: “Nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới nữa, thì đất nước Việt Nam
chúng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nay sẽ đi theo con đường nào?”. Tức là
số phận dân tộc bị đóng đinh câu rút, phải đi qua duy nhất một con đường hầm
tên là “quá độ lên CNXH”, mà một đầu là thần chết! Không có lối thứ hai! Nguy cấp thế kia mà. Dọa nhau thế ai chả sợ,
nhất là những người quen đánh nhau hơn là đọc sách! Hoặc quá độ lên CNXH, hoặc
chết! Các nước khác, như Nhật, Hàn, Singopore có cả ngàn lối đến tương lai,
cũng kệ họ, không được phép ngó nghiêng. Ai bảo sinh ra là người Việt? Những
người chủ trương như ông Nguyễn Đức Bình chỉ quên (hoặc cố tình không biết) một
điều: các đồng chí Trung Quốc của họ chưa bao giờ coi chủ nghĩa xã hội là thứ
gì quan trọng. Chúng ta hãy đọc lời giáo huấn đầy tính mỉa mai sau đây của Mao về
giáo lý Mác, với cấp dưới ông ta: “Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các Mác
không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải vì nó đựng một phép
thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi.(TDA nhấn mạnh) Có nhiều người cho nó là
thần dược trừ bách bệnh. Chính những người này đã xem thuyết Các Mác là một
giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm
giàu ruộng đất, giáo lý không làm được việc đó.”
Hội nghị Thành
Đô đã đưa danh từ đồng chí trở lại trong quan hệ hai nước, tạo ra một giai đoạn
hòa bình tương đối không thể nói là không quan trọng*** cho Việt Nam, nhưng về
cơ bản nó gây nên những thay đổi âm thầm số phận người Việt theo hướng tiêu cực
là chính. Vì là đồng chí nên mọi việc lớn bé Việt Nam đều phải tham vấn Trung
Quốc. Phụ thuộc toàn diện. (Như tiết lộ mới đây của cụ Nguyễn Trọng Vĩnh về sự
can thiệp của Trung Quốc vào vấn đề nội bộ nhất không chỉ của Việt Nam, mà của
bất cứ quốc gia nào, là vấn đề chọn nhân sự lãnh đạo đất nước). Trung Quốc âm
thầm và ráo riết chuẩn bị mọi mặt để chiếm biển Đông nhưng lấy tình đồng chí
làm vật che mắt Việt Nam. Vì tình đồng chí Việt Nam không dám công khai vạch tội
Trung Quốc ăn hiếp ngư dân Việt, luôn phải gọi chệch đi. Tầu Trung Quốc rành
rành nhưng phải gọi là “tầu lạ”. Suốt bao nhiêu năm Việt Nam không dám chọn bạn
tốt để chơi (bất cứ quốc gia nào cũng tốt với Việt Nam hơn Trung Quốc), dù biết
là có lợi lâu dài cho đất nước, chỉ đơn giản vì những người bạn ấy đều không
cùng hội cùng thuyền với Trung Quốc. Bất cứ ai nhắc đến dã tâm của Trung Quốc
cũng bị coi là làm ảnh hưởng đại cục, phá quấy an ninh! Trung Quốc tận dụng triệt
để cái hàm thiếc đồng chí để kìm hãm Việt Nam, cả trong đối ngoại lẫn đối nội. Chưa
bao giờ danh từ đồng chí mang lại nhiều lợi lộc cho Trung Quốc như giai đoạn hai
chục năm vừa qua. Tất nhiên người thiệt hại to lớn là Việt Nam.
Viết đến đây tôi bỗng muốn dừng lại để tìm về
nguồn gốc của danh từ đồng chí. Nó là bùa chú gì mà giam hãm Việt Nam trong
vòng cương tỏa của Trung Quốc đơn giản đến thế, khiến số phận dân tộc cứ vật vã
tơi bời bởi họ lâu đến thế và liệu nó còn tự tung tự tác đến bao giờ?
Hầu
như mọi ngôn ngữ lớn đều có từ đồng chí và chắc chắn lúc khởi thủy nó không
mang mầu sắc chính trị. Nó được dùng tại Trung Quốc từ hàng ngàn năm trước khi
xuất hiện những người theo chủ nghĩa cộng sản. Trong những bang hội, những tổ
chức xã hội đen có tổ chức, những băng nhóm chính trị hoạt động ngoài vòng pháp
luật như Hội tam hoàng ở phương Đông, tổ chứ 3K chuyên giết người tàn bạo ở Mỹ
vì phân biệt chủng, các thành viên đều là những người cùng chí hướng. Đảng Quốc
Xã của Hitler, các đảng viên cũng xưng với nhau là đồng chí. Tình đồng chí đậm nhất
có lẽ thuộc về đảng của Pôn-pốt. Cùng đi ăn cướp cũng là đồng chí. Chỉ đơn giản
vì nó là cùng chí hướng, một khái niệm thuần túy ngôn ngữ. Nó chẳng hề có
xuất thân danh giá như nhiều người vẫn tưởng. Về sau nó được chính trị hóa và
trở nên “linh thiêng” như ta đang thấy.
Sau sự kiện giàn
khoan HD-981, số phận của từ đồng chí lại một lần nữa trở nên mong manh và bi
hài. Các báo của nhà nước đều dùng từ ông, ngài để gọi các lãnh đạo Trung Quốc.
Lần đầu tiên sau hơn 20 năm, Đài truyền hình Việt Nam không dùng từ đồng chí
trước tên Dương Khiết Trì khi đưa tin ông này sang Hà Nội. Bởi vì chính Trung
Quốc đã làm cho từ đồng chí trở nên rất giả dối, sống sượng, đồng nghĩa với từ
lừa lọc. Chả lẽ qua ngần ấy biến cố, lộ rõ bộ mặt đểu cáng, dã tâm độc ác của
Trung Quốc, lại vẫn là đồng chí (cùng chí hướng) của nhau thì thật lố bịch? Cả
trăm triệu người dân Việt đầy lòng tự trọng “quyết không đổi chủ quyền thiêng
liêng lấy thứ hữu nghị viển vông” chắc chắn sẽ cảm thấy bị làm nhục và nổi giận.
Xác đồng bào của họ vẫn còn bập bềnh trên biển Đông bởi súng đạn Trung Quốc. Chẳng
ai chấp nhận cùng chí hướng với kẻ cướp chính đất nước mình, giết anh em, đồng
bào, người thân của mình, ngoại trừ phải gọi rõ ra là đồng chí địch!
Lịch sử quan hệ
hai quốc gia suốt hàng ngàn năm qua (ít nhất là đến trước năm 1949) cho thấy
chưa bao giờ người Việt cùng chí hướng với người Hán. Đơn giản
vì lợi ích lãnh thổ của Trung Quốc luôn đi kèm với việc thôn tính hoặc gặm nhấm
Việt Nam. Trong hoàn cảnh phải sống cạnh
một gã khổng lồ thì hòa hiếu luôn là điều kiện sống còn để Việt Nam tồn tại và
phát triển. Nhưng cũng chính lịch sử cho thấy, Việt Nam muốn có hòa hiếu thực sự
với Trung Quốc thì phải độc lập tối đa với họ. Mà muốn vậy thì Dân tộc phải là lợi ích cao nhất của mọi tính toán chính trị, được thể hiện trong
chiến lược quốc gia tầm nhìn hàng trăm năm****, là sản phẩm của tầng lớp trí thức
tinh hoa chưa bị nhiễm độc bởi bất cứ khẩu hiệu mang tính phô diễn lập trường nào,
nghĩa là hoàn toàn tự do và trong sạch. Không có cách nào khác. Mọi ảo tưởng về
sự mật thiết dựa trên tương đồng ý thức hệ hoặc sự gắn bó mang tính đảng phái,
rốt cuộc chỉ là cách tự sát từ từ.
-----------------------------------------------------------------------
*Trong
một liệu nào đó mà tôi không nhớ, cho rằng sau khi Trung Quốc làm chủ hoàn toàn
Hoàng Sa, Hà Nội có gửi điện “cảm ơn” Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã “giải
phóng giúp” miền Bắc một phần lãnh thổ khỏi tay kẻ thù? Trung Quốc im lặng. Nếu
quả thực có chuyện như vậy thì có thể coi đó là bằng cớ gián tiếp xác định chủ
quyền của phía Việt Nam với quần đảo này. Nhưng chưa thấy thông tin chính thức
nào xác nhận chuyện đó.
**
Quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan y như quan hệ giữa Bắc và Nam Việt
Nam về mức độ thù địch và ý thức hệ. Nhưng khi Mao lệnh đánh chiếm Hoàng Sa,
chính quyền Đài Loan, dựa theo lợi ích của người Hán, nhanh chóng ngầm tạo điều
kiện để hải quân Trung Quốc thuận lợi trong việc di chuyển tiếp cận vị trí tác
chiến. Cứ nghĩ thế mà thấy cay đắng cho người Việt mình!
***
Chúng ta cần thêm cả một chút công bằng khi phán xét Hội nghị Thành Đô. Tình thế
đất nước lúc đó đã như trứng để đầu gậy, cần phải có hòa bình để tìm cách thoát
hiểm. Đáng trách là ở những gì diễn ra sau đó, kéo dài mấy chục năm, bỏ lỡ cơ hội
vàng hòa nhập với thế giới văn minh, hiện đại hóa đất nước, tạo sức mạnh cả
quân sự, ngoại giao, uy tín quốc tế… đặng xác lập quan hệ bình đẳng với Trung
Quốc.
****
Chừng nào còn chưa có một Chiến lược quốc
gia trong phát triển, Việt Nam sẽ chỉ là một đất nước nghiệp dư trong giải
quyết mọi vấn đề, may ăn, rủi chịu, thua thiệt là chính.