Mỗi Ngày Một Chuyện
GỌI GIÓ VÀNG - CAO MỴ NHÂN
GỌI GIÓ VÀNG - CAO MỴ NHÂN
Thơ
Đường qua thể loại thất ngôn bát cú thông thường, với hình thức một bài thơ gồm
8 câu, mỗi câu 7 chữ, 5 vần bằng ở mỗi cuối câu : 1 2 4 6 8, cuối 3 câu :
3 5 7 thì tất nhiên là vần trắc rồi .
Nhưng
không phải " chỉ có vậy " . Nó, bài thơ thể loại này, còn bắt ta học
gần nửa trăm quy luật : mà mỗi chữ, mỗi câu mang một nhiệm vụ riêng .
Các
câu
1/
Phá đề
2/
Thừa đề
3+4
/ Thực hay trạng : cặp đối thứ 1
5+6
/ Luận : cặp đối thứ 2
7/
Chuyển
8
/ Kết .
Xem
ra quý vị cứ việc bám sát đề bài, với tinh thần nêu trên là qua cầu vui vẻ rồi
.
Tôi
nhớ cụ thi sĩ rất tên tuổi trong chiếu thơ Đường hàng chức sắc, nói với tôi
rằng :
"
Không phải cứ cặp đối 3+4 ( thực trạng ) với nội dung bài là đắc sách đâu, tất
nhiên thực hay trạng của bài thơ Đường Luật là quan trọng rồi. Nhưng, tôi nói
cho Cao Mỵ Nhân biết, câu chuyển ( thứ 7), là đắt giá nhất, nó tóm gọn toàn bài
trước khi kết thúc đấy ." ( Cụ Trình Xuyên ) .
Sau
khi tôi đã hoàn toàn chấm dứt cái nạn tù cải tạo do csvn áp đặt, đầu năm 1980,
tôi bắt đầu sinh hoạt văn nghệ nơi các hội thơ, hội thảo thi ca cổ điển VN
...xưa .
Tức
là ngoài việc tôi gia nhập thi đàn Quỳnh Dao của quý vị nữ sĩ tên tuổi như Mộng
Tuyết, Vân Nương, Quỳ Hương, Uyển Hương, Đinh thị Thục Oanh, Tuệ Mai vv...
Quý
vị toàn gấp đôi, gấp rưỡi tuổi tôi, có vài vị nữ sĩ trẻ hơn các niên trưởng nêu
trên, như Tuệ Nga, Tôn nữ Hỷ Khương, thì tôi trở thành " Em út Quỳnh Dao
", có nghĩa là tuổi tác và sức khoẻ tôi còn xài được với thế hệ sau của
quý niên trưởng chuyên xướng hoạ Thơ Đường .
Bên
cạnh quý vị đương nêu, là quý thi khách Đường Thi như quý cụ Quách Tấn, Đông Hồ
( đã quá cố) , Giản Chi, Vũ Hoàng Chương ( đã quá cố ) Hà Thượng Nhân vv...
Song
le, mỗi quý vị nữ sĩ Quỳnh Dao lại giao hảo với số khách Đường Thi riêng, mà
khác đường lối chơi thơ cổ điển chung của thi đàn Quỳnh Dao, nên tôi vì là
" Em út Quỳnh Dao " gần như tôi có bổn phận phải biết từng tích tắc
khác biệt đó.
Thí
dụ : Nữ sĩ Thu Nga thì thỉnh thoảng xướng hoạ với quý cụ thi sĩ Tế Nhị, Như Ý,
Trình Xuyên, Linh Điểu vv...
Đại
khái " xã giao " thơ, mà lại là thơ luật Đường , không phải đơn giản,
chỉ 2 chữ " Thôi, Xao " của Giả Đảo đã là một thần thoại thích thú.
Nay,
sau cuộc đổi đời 30 -4 -1975, sĩ khí người cầm bút đã gây nhiều mâu thuẫn thời
thế, huống hồ chơi thơ luật, là các bậc thịnh Hán, túc Nho, có dịp biểu lộ tinh
thần " chi hồ giả dã " thời đại ra, để khích bác điều bất như ý.
Do
đó thế giới thơ của mỗi vị thì vô cùng ...
Chuyện
xướng hoạ thơ luật Đường vô hình chung cho ta cảm giác tôn ti trật tự của trước
nhất là tuổi tác, các yếu tố khác như địa vị, gia thế vv...và nhất là thơ, có
hay ho tới đâu, cũng phải qua ngưỡng cửa " niên tuế " khách thơ đang
hiện diện ở hội thơ lúc đó.
Trong
hội thơ Quỳnh Dao chúng tôi, kể từ ngày tôi tham dự , tôi luôn luôn là người
giới thiệu chương trình hội thơ, thường thi đàn tổ chức thay phiên tại các tư
gia của các nữ sĩ.
Cũng
từ đấy, tôi may mắn được diện kiến các bậc " Đường thi khách " lão
luyện còn ...sót lại, mà tôi rất kính phục như quý cụ Quách Tấn ( Nha Trang ),
Bùi Khánh Đản ( Saigon ) Chánh Hà, và nhất là nữ sĩ tiền chiến Ngân Giang, các
vị ở Hà Nội vào.
Ngoài
việc nữ sĩ chủ nhà buổi hội thơ hôm đó, mời tiệc, hội có thể mời thêm dăm ba
khách " thời thế ), không làm thơ, nhưng muốn thả hồn theo dòng suy nghĩ
riêng tư, thể hiện nơi hội thơ hậu chiến .
Cũng
chính vì thế, mà không khí loãng ở một vài hội thơ sau cuộc đổi đời nêu trên,
đã có lúc được khách tham dự phải bỏ cuộc, để mau chóng ra về, cho khỏi mang
hoạ " chính trị " vào thân.
Thí
dụ : Tại tư thất nhà thơ hoàng phái Vĩnh Mạnh Thường Quân vào mùa xuân năm
1982, buổi đó được giới thiệu là có 3 vị thi sĩ lão thành đại diện cho 3 miền,
gồm : cụ Vũ Đình
Liên ( Bắc) tác giả bài thơ" Ông Đồ ", cụ Vân Giang ( Trung ) và cụ
Trác Ngọc ( Nam ) ngồi phía đầu dãy chiếu hoa trải kín nền phòng khách Thạch
Động, chủ toạ.
Chúng
tôi ngồi chung quanh chu vi chiếu thơ mở rộng.
Sau
tất cả các thủ tục ban đầu, gồm giới thiệu thi tướng, thi tài vv... là ai muốn
trình bầy ý thơ gì, cứ việc " phát biểu ".
Nhà
thơ " Đường thi tức vị " theo thời thế cho yên thân, đã hỏi cụ Vũ
Đình Liên rằng :
"
Cụ là chứng nhân của 2 thời đại thơ như Ông Đồ trước khi đi ...cách mạng, và
bài thơ Ông Đồ csvn, bút sắt thay bút lông ngày xưa vốn hoa tay thảo những nét,
như phượng múa, rồng bay. Nay, nói theo thời đại " logic " tình hình
thơ chung và riêng của cụ thế nào ?
Chúng
" cháu " đã mất hết cảm hứng khi đọc lại bài thơ Ông Đồ xưa của cụ .
Và, tại sao các cụ vô đây, để làm cái việc cho xe ba gác chở tất cả thơ hay,
thơ đúng nghĩa thơ, của các thi sĩ danh tiếng cả nước, như thơ Vũ Hoàng Chương,
thơ Đinh Hùng vv..."
Câu
hỏi được đặt ra, nhưng không cần chờ nghe câu trả lời, nhà thơ trẻ( ngoài 30
tuổi, cái tuổi dễ bị bắt nhất ) đứng lên cáo từ, và đi như chạy ra khỏi hội
thơ.
Như
tôi đã có dịp trình bầy nhiều lần là: Thơ luật Đường Tống đã phổ biến trong xã
hội VN từ nhiều đời . Nét tinh hoa của thể luật này, tưởng kết thúc ngay từ đầu
thế kỷ 20 vừa qua, với 2 hồi chuông báo tử thất thanh, của quý vị thi sĩ lỗi
lạc Đường luật là cụ Tú Xương qua nỗi buồn phải chấp nhận hoàn cảnh tây học :
"
Ném bút lông đi, viết bút chì ..."
Cùng
một cuốn thơ tạ từ năm tháng cũ :
"
Mùa Cổ Điển " của cụ Quách Tấn .
Tôi
vốn ưa những điều " ham hố " .
Sau
đại nạn 30 - 4 - 1975, thay vì đi tìm một ngoại ngữ học để có thể kiếm sống,
tôi lại rong chơi " Thơ Đường ", học hỏi và đi sát quý cụ để thấy
được những kỳ bí, mà có lẽ chỉ thể loại này, người ta mới dễ bày tỏ, hứa hẹn,
dặn dò quyết liệt người được nhận, hay phải trả lời thơ trao, hoặc tặng .
Nghe
tin tôi vừa từ trại tù cải tạo về. Thi sĩ danh tiếng Bùi Khánh Đản cùng thi sĩ
Bàng Bá Lân ( viết thơ mới nhiều hơn ) đã mỗi cụ một xe đạp mi ni, ghé thăm tôi
sức khoẻ và hồn thơ khoảng khoát thế nào.
Cụ
Bùi Khánh Đản viết trên một tờ giấy mầu vàng, rộng bằng trang báo lớn, bài thơ
tên Quang Vinh như sau:
QUANG VINH ( Bài xướng )
Xiết
chặt vòng tay cùng chặn gió
Mở
đường kiếm khí dậy hào quang
Nước
mây sẽ ấm trời băng lạnh
Cây
cỏ rồi thay sắc đoạn trường
Hương
chính nghĩa tràn trên đỉnh mộng
Lửa
kiêu hùng đốt sạch rừng hoang
Chúng
ta bỗng bật tim thành tiếng
"
Sử Việt từ nay đẹp chữ vàng ".
Saigon
7/1980 BÙI KHÁNH
ĐẢN
Dù
mới từ trại tù cải tạo về, tôi cũng quên béng thân phận sĩ quan chế độ VNCH,
rất dễ tái tù, khó tránh .
Tôi
kính hoạ thơ cụ Bùi tặng tôi như sau :
GỌI GIÓ VÀNG ( Bài hoạ )
Vẫn
thả diều lên, tìm hướng gió
Những
ngày xanh biếc bầu trời quang
Để
xem bóng nắng bao hy vọng
Còn
thấy hơi sương phủ dặm trường
Thật
rất vô tình nghe nước chảy
Thà
đừng cố ý bước chân hoang
Đôi
phen tim thắt vì thương tủi
"
Mộng với thơ ai chép sử vàng ? ".
Saigon
11-8-1980 CAO MỴ NHÂN
Cụ
Bùi Khánh Đản ( _ 2010 ) và cụ
Đỗ Bằng Đoàn ( 1908 - 1986 ) là đồng tác giả cuốn " Đường Thi Trích Dịch
" in roneo 300 cuốn tại Saigon năm 1959, gồm 503 bài của 133 tác giả .
Mới
đây tôi được nghe: nhà xuất bản Văn Học Hà Nội đã in tái bản tác phẩm đồ sộ Đường Thi
Trích Dịch của 2 cụ nêu trên, dày 1271 trang, năm 2006.
Mỗi
lần nhật nguyệt lững lờ trôi trên biển trời, cả thế giới
"
Đường Thi " lại như vần vũ gió mưa.
Những
thế hệ suy tụng Đường Thi không xếp nếp thời gian, hiện nay ở quốc nội lẫn Hải
ngoại, đang vun vén cả rừng hoa tuy bình cũ, nhưng rượu mới, ý thơ bát ngát,
thanh sắc lạ lùng, nhưng đầy hứng cảm. Khách yêu thơ cổ điển ưa chuộng những
tinh hoa ẩn hiện, linh diệu.
Song
cũng chỉ hợp với quý vị tồn cổ, mang cảm giác thầm lặng trước sóng gió phế hưng
của thể loại thi ca...đầy nguyên tắc từ xưa tới nay này.
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
GỌI GIÓ VÀNG - CAO MỴ NHÂN
GỌI GIÓ VÀNG - CAO MỴ NHÂN
Thơ
Đường qua thể loại thất ngôn bát cú thông thường, với hình thức một bài thơ gồm
8 câu, mỗi câu 7 chữ, 5 vần bằng ở mỗi cuối câu : 1 2 4 6 8, cuối 3 câu :
3 5 7 thì tất nhiên là vần trắc rồi .
Nhưng
không phải " chỉ có vậy " . Nó, bài thơ thể loại này, còn bắt ta học
gần nửa trăm quy luật : mà mỗi chữ, mỗi câu mang một nhiệm vụ riêng .
Các
câu
1/
Phá đề
2/
Thừa đề
3+4
/ Thực hay trạng : cặp đối thứ 1
5+6
/ Luận : cặp đối thứ 2
7/
Chuyển
8
/ Kết .
Xem
ra quý vị cứ việc bám sát đề bài, với tinh thần nêu trên là qua cầu vui vẻ rồi
.
Tôi
nhớ cụ thi sĩ rất tên tuổi trong chiếu thơ Đường hàng chức sắc, nói với tôi
rằng :
"
Không phải cứ cặp đối 3+4 ( thực trạng ) với nội dung bài là đắc sách đâu, tất
nhiên thực hay trạng của bài thơ Đường Luật là quan trọng rồi. Nhưng, tôi nói
cho Cao Mỵ Nhân biết, câu chuyển ( thứ 7), là đắt giá nhất, nó tóm gọn toàn bài
trước khi kết thúc đấy ." ( Cụ Trình Xuyên ) .
Sau
khi tôi đã hoàn toàn chấm dứt cái nạn tù cải tạo do csvn áp đặt, đầu năm 1980,
tôi bắt đầu sinh hoạt văn nghệ nơi các hội thơ, hội thảo thi ca cổ điển VN
...xưa .
Tức
là ngoài việc tôi gia nhập thi đàn Quỳnh Dao của quý vị nữ sĩ tên tuổi như Mộng
Tuyết, Vân Nương, Quỳ Hương, Uyển Hương, Đinh thị Thục Oanh, Tuệ Mai vv...
Quý
vị toàn gấp đôi, gấp rưỡi tuổi tôi, có vài vị nữ sĩ trẻ hơn các niên trưởng nêu
trên, như Tuệ Nga, Tôn nữ Hỷ Khương, thì tôi trở thành " Em út Quỳnh Dao
", có nghĩa là tuổi tác và sức khoẻ tôi còn xài được với thế hệ sau của
quý niên trưởng chuyên xướng hoạ Thơ Đường .
Bên
cạnh quý vị đương nêu, là quý thi khách Đường Thi như quý cụ Quách Tấn, Đông Hồ
( đã quá cố) , Giản Chi, Vũ Hoàng Chương ( đã quá cố ) Hà Thượng Nhân vv...
Song
le, mỗi quý vị nữ sĩ Quỳnh Dao lại giao hảo với số khách Đường Thi riêng, mà
khác đường lối chơi thơ cổ điển chung của thi đàn Quỳnh Dao, nên tôi vì là
" Em út Quỳnh Dao " gần như tôi có bổn phận phải biết từng tích tắc
khác biệt đó.
Thí
dụ : Nữ sĩ Thu Nga thì thỉnh thoảng xướng hoạ với quý cụ thi sĩ Tế Nhị, Như Ý,
Trình Xuyên, Linh Điểu vv...
Đại
khái " xã giao " thơ, mà lại là thơ luật Đường , không phải đơn giản,
chỉ 2 chữ " Thôi, Xao " của Giả Đảo đã là một thần thoại thích thú.
Nay,
sau cuộc đổi đời 30 -4 -1975, sĩ khí người cầm bút đã gây nhiều mâu thuẫn thời
thế, huống hồ chơi thơ luật, là các bậc thịnh Hán, túc Nho, có dịp biểu lộ tinh
thần " chi hồ giả dã " thời đại ra, để khích bác điều bất như ý.
Do
đó thế giới thơ của mỗi vị thì vô cùng ...
Chuyện
xướng hoạ thơ luật Đường vô hình chung cho ta cảm giác tôn ti trật tự của trước
nhất là tuổi tác, các yếu tố khác như địa vị, gia thế vv...và nhất là thơ, có
hay ho tới đâu, cũng phải qua ngưỡng cửa " niên tuế " khách thơ đang
hiện diện ở hội thơ lúc đó.
Trong
hội thơ Quỳnh Dao chúng tôi, kể từ ngày tôi tham dự , tôi luôn luôn là người
giới thiệu chương trình hội thơ, thường thi đàn tổ chức thay phiên tại các tư
gia của các nữ sĩ.
Cũng
từ đấy, tôi may mắn được diện kiến các bậc " Đường thi khách " lão
luyện còn ...sót lại, mà tôi rất kính phục như quý cụ Quách Tấn ( Nha Trang ),
Bùi Khánh Đản ( Saigon ) Chánh Hà, và nhất là nữ sĩ tiền chiến Ngân Giang, các
vị ở Hà Nội vào.
Ngoài
việc nữ sĩ chủ nhà buổi hội thơ hôm đó, mời tiệc, hội có thể mời thêm dăm ba
khách " thời thế ), không làm thơ, nhưng muốn thả hồn theo dòng suy nghĩ
riêng tư, thể hiện nơi hội thơ hậu chiến .
Cũng
chính vì thế, mà không khí loãng ở một vài hội thơ sau cuộc đổi đời nêu trên,
đã có lúc được khách tham dự phải bỏ cuộc, để mau chóng ra về, cho khỏi mang
hoạ " chính trị " vào thân.
Thí
dụ : Tại tư thất nhà thơ hoàng phái Vĩnh Mạnh Thường Quân vào mùa xuân năm
1982, buổi đó được giới thiệu là có 3 vị thi sĩ lão thành đại diện cho 3 miền,
gồm : cụ Vũ Đình
Liên ( Bắc) tác giả bài thơ" Ông Đồ ", cụ Vân Giang ( Trung ) và cụ
Trác Ngọc ( Nam ) ngồi phía đầu dãy chiếu hoa trải kín nền phòng khách Thạch
Động, chủ toạ.
Chúng
tôi ngồi chung quanh chu vi chiếu thơ mở rộng.
Sau
tất cả các thủ tục ban đầu, gồm giới thiệu thi tướng, thi tài vv... là ai muốn
trình bầy ý thơ gì, cứ việc " phát biểu ".
Nhà
thơ " Đường thi tức vị " theo thời thế cho yên thân, đã hỏi cụ Vũ
Đình Liên rằng :
"
Cụ là chứng nhân của 2 thời đại thơ như Ông Đồ trước khi đi ...cách mạng, và
bài thơ Ông Đồ csvn, bút sắt thay bút lông ngày xưa vốn hoa tay thảo những nét,
như phượng múa, rồng bay. Nay, nói theo thời đại " logic " tình hình
thơ chung và riêng của cụ thế nào ?
Chúng
" cháu " đã mất hết cảm hứng khi đọc lại bài thơ Ông Đồ xưa của cụ .
Và, tại sao các cụ vô đây, để làm cái việc cho xe ba gác chở tất cả thơ hay,
thơ đúng nghĩa thơ, của các thi sĩ danh tiếng cả nước, như thơ Vũ Hoàng Chương,
thơ Đinh Hùng vv..."
Câu
hỏi được đặt ra, nhưng không cần chờ nghe câu trả lời, nhà thơ trẻ( ngoài 30
tuổi, cái tuổi dễ bị bắt nhất ) đứng lên cáo từ, và đi như chạy ra khỏi hội
thơ.
Như
tôi đã có dịp trình bầy nhiều lần là: Thơ luật Đường Tống đã phổ biến trong xã
hội VN từ nhiều đời . Nét tinh hoa của thể luật này, tưởng kết thúc ngay từ đầu
thế kỷ 20 vừa qua, với 2 hồi chuông báo tử thất thanh, của quý vị thi sĩ lỗi
lạc Đường luật là cụ Tú Xương qua nỗi buồn phải chấp nhận hoàn cảnh tây học :
"
Ném bút lông đi, viết bút chì ..."
Cùng
một cuốn thơ tạ từ năm tháng cũ :
"
Mùa Cổ Điển " của cụ Quách Tấn .
Tôi
vốn ưa những điều " ham hố " .
Sau
đại nạn 30 - 4 - 1975, thay vì đi tìm một ngoại ngữ học để có thể kiếm sống,
tôi lại rong chơi " Thơ Đường ", học hỏi và đi sát quý cụ để thấy
được những kỳ bí, mà có lẽ chỉ thể loại này, người ta mới dễ bày tỏ, hứa hẹn,
dặn dò quyết liệt người được nhận, hay phải trả lời thơ trao, hoặc tặng .
Nghe
tin tôi vừa từ trại tù cải tạo về. Thi sĩ danh tiếng Bùi Khánh Đản cùng thi sĩ
Bàng Bá Lân ( viết thơ mới nhiều hơn ) đã mỗi cụ một xe đạp mi ni, ghé thăm tôi
sức khoẻ và hồn thơ khoảng khoát thế nào.
Cụ
Bùi Khánh Đản viết trên một tờ giấy mầu vàng, rộng bằng trang báo lớn, bài thơ
tên Quang Vinh như sau:
QUANG VINH ( Bài xướng )
Xiết
chặt vòng tay cùng chặn gió
Mở
đường kiếm khí dậy hào quang
Nước
mây sẽ ấm trời băng lạnh
Cây
cỏ rồi thay sắc đoạn trường
Hương
chính nghĩa tràn trên đỉnh mộng
Lửa
kiêu hùng đốt sạch rừng hoang
Chúng
ta bỗng bật tim thành tiếng
"
Sử Việt từ nay đẹp chữ vàng ".
Saigon
7/1980 BÙI KHÁNH
ĐẢN
Dù
mới từ trại tù cải tạo về, tôi cũng quên béng thân phận sĩ quan chế độ VNCH,
rất dễ tái tù, khó tránh .
Tôi
kính hoạ thơ cụ Bùi tặng tôi như sau :
GỌI GIÓ VÀNG ( Bài hoạ )
Vẫn
thả diều lên, tìm hướng gió
Những
ngày xanh biếc bầu trời quang
Để
xem bóng nắng bao hy vọng
Còn
thấy hơi sương phủ dặm trường
Thật
rất vô tình nghe nước chảy
Thà
đừng cố ý bước chân hoang
Đôi
phen tim thắt vì thương tủi
"
Mộng với thơ ai chép sử vàng ? ".
Saigon
11-8-1980 CAO MỴ NHÂN
Cụ
Bùi Khánh Đản ( _ 2010 ) và cụ
Đỗ Bằng Đoàn ( 1908 - 1986 ) là đồng tác giả cuốn " Đường Thi Trích Dịch
" in roneo 300 cuốn tại Saigon năm 1959, gồm 503 bài của 133 tác giả .
Mới
đây tôi được nghe: nhà xuất bản Văn Học Hà Nội đã in tái bản tác phẩm đồ sộ Đường Thi
Trích Dịch của 2 cụ nêu trên, dày 1271 trang, năm 2006.
Mỗi
lần nhật nguyệt lững lờ trôi trên biển trời, cả thế giới
"
Đường Thi " lại như vần vũ gió mưa.
Những
thế hệ suy tụng Đường Thi không xếp nếp thời gian, hiện nay ở quốc nội lẫn Hải
ngoại, đang vun vén cả rừng hoa tuy bình cũ, nhưng rượu mới, ý thơ bát ngát,
thanh sắc lạ lùng, nhưng đầy hứng cảm. Khách yêu thơ cổ điển ưa chuộng những
tinh hoa ẩn hiện, linh diệu.
Song
cũng chỉ hợp với quý vị tồn cổ, mang cảm giác thầm lặng trước sóng gió phế hưng
của thể loại thi ca...đầy nguyên tắc từ xưa tới nay này.
CAO MỴ NHÂN (HNPD)