Cà Kê Dê Ngỗng
GS Nguyễn Minh Thuyết: Tham vọng của Trung Quốc không chỉ là Biển Đông
Thưa GS, những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian qua nói lên ý đồ gì của họ?
Gần đây, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, tích lũy ngoại tệ dồi dào, đưa được người và trạm không gian lên vũ trụ, trang bị vũ khí mạnh,… nên họ cho rằng thời cơ trỗi dậy để phân chia lại ảnh hưởng với các cường quốc đã đến. Chính vì vậy, họ tỏ ra rất hung hăng, gây chuyện với tất cả các nước có chung đường biển, từ các nước Đông Nam Á cho đến Nhật Bản, Hàn Quốc, thậm chí nhiều lần tàu cá xâm phạm cả lãnh hải của Nga. Trên bộ, ngoài chuyện tranh chấp từng mét vuông đất với Việt Nam bằng những thủ đoạn ti tiện, không hề xứng với cương vị một nước lớn, họ vẫn còn chiếm hàng chục nghìn km2 của Ấn Độ và vẫn ngang ngược xếp một bang của nước này vào lãnh thổ nước mình. Có thể thấy dã tâm của chính quyền Trung Quốc đã bộc lộ rất rõ, không khác gì mưu đồ thống trị thế giới của chế độ Hitler những năm 30 – 40 thế kỷ trước.
Riêng ở Biển Đông, mưu đồ biến vùng biển này thành “ao nhà” [dã tâm này] bộc lộ qua những bước đi rất rõ ràng: từ chỗ biến vùng biển không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp đến thực hiện hàng loạt hành động ngang ngược nhằm xác lập chủ quyền như đơn phương công bố lệnh cấm đánh bắt cá, đưa giàn khoan khủng ra Biển Đông, kéo hàng chục, rồi hàng nghìn, hàng chục nghìn tàu đánh cá liên hoàn theo kiểu “Xích Bích” ngày xưa kèm tàu vũ trang vào vùng biển các nước, tiến hành tuần tiễu ngoài lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, thành lập đơn vị hành chính và quân đồn trú ở cái gọi là “thành phố Tam Sa” v.v… Trong quá trình tìm phương cách bành trướng, mỗi khi có thời cơ thuận lợi là họ sẵn sàng dùng vũ lực đánh chiếm các đảo thuộc chủ quyền của nước khác để tạo thế áp đặt “đường lưỡi bò” trên biển, như đã từng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tháng 1 năm 1974 với sự làm ngơ của chính quyền Mỹ lúc bấy giờ hoặc chiếm một số đảo và bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988 lúc Liên Xô đã suy yếu.
Với Việt Nam ta, tham vọng của Trung Quốc còn lớn hơn nhiều. Họ không chỉ muốn chiếm biển đảo của ta, mà còn muốn nô dịch ta, biến cả nước ta thành thuộc quốc, thậm chí thành tỉnh, huyện của họ. Ngay từ năm 1939, trong cuốn “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc”, Mao Trạch Đông đã nhìn nhận Việt Nam như một xứ thuộc địa mà Trung Quốc mất vào tay người Pháp. Ông Mao viết:“Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”. Trong cuộc họp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965, nhà lãnh đạo Trung Quốc vạch ra chiến lược tràn xuống Đông Nam Á như sau: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore,…Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản […] xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy […] Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô – Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây”.
Suốt hàng chục năm qua, Trung Quốc đã dùng đủ mọi thủ đoạn làm suy yếu nước ta: Họ tổ chức thu mua từ rễ hồi đến móng trâu bò, đẩy giá một số mặt hàng nông nghiệp lên để làm lạc hướng canh tác của nông dân ta rồi bất ngờ chấm dứt giao dịch,… cốt để phá hoại sản xuất. Tiền giả cũng từ Trung Quốc tuồn vào. Hơn 90% các gói thầu xây dựng quan trọng của Việt Nam đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc nhưng tiến độ thực hiện chậm, công nghệ tồi, chất lượng không đảm bảo. Chỉ cần nhìn tiến độ xây dựng các nhà máy nhiệt điện ở một số tỉnh phía Bắc chậm 5, 7 năm trời cũng có thể thấy vấn đề. Về quân sự, tàu vũ trang của họ đã đến tận vùng biển của ta, cướp bóc, đánh đập ngư dân ta. Bên cạnh đó, đội quân thứ 5 của họ đã cài cắm khắp nơi, từ các công trình ở đồng bằng đến Tây Nguyên, từ những mảnh đất rừng biên giới, đầu nguồn cho đến những vùng biển quan trọng. Người giả danh du lịch, giả danh sang học cũng rất đông.
Có thể nói rằng độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ nước ta đang đứng trước thử thách lịch sử rất to lớn. Trách nhiệm trước lịch sử đang đòi hỏi thế hệ chúng ta nhận rõ nguy cơ bị xâm lược, bị lệ thuộc và có quyết sách sáng suốt, quyết tâm mạnh mẽ để bảo vệ giang sơn gấm vóc, xứng đáng với công lao của các bậc tiên liệt đã mở nước, giữ nước trong hàng ngàn năm qua và đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc vững bền của các thế hệ con cháu muôn đời mai sau.
Vì sao trong thời điểm này Trung Quốc lại dám leo thang như vậy, đặc biệt họ có những động thái ngang ngược [rất liều lĩnh] ngay sau khi Quốc hội ta thông qua Luật Biển Việt Nam?
Phản ứng với Luật Biển Việt Nam chỉ là cái cớ để Trung Quốc thực hiện mưu đồ đã tính toán từ lâu. Các nước Philippines, Nhật Bản đâu có chuyện gì mắc mớ với họ về Luật Biển mà họ cũng hăm doạ và xâm phạm chủ quyền? Với thế giới, Trung Quốc cho rằng bây giờ là thời cơ của họ vì Mỹ và các nước phương Tây đang sa lầy ở Afghanistan và Trung Đông, khó có thể phản ứng mạnh với các hành vi ngang ngược của họ. Với Việt Nam, họ thấy nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, sự đồng thuận xã hội không cao. Cho nên, họ nghĩ rằng có thể tranh thủ thời cơ này mà thôn tính biển đảo, tiến tới nô dịch dân ta. Có thể nói Trung Quốc luôn biết tận dụng cơ hội, nhưng lần này họ đã không làm đúng lời dặn của Đặng Tiểu Bình là “náu mình chờ thời”. Họ trỗi dậy hơi sớm, vì vậy, hình ảnh “bạn của các dân tộc bị áp bức” được họ tạo dựng công phu từ bao năm nay sẽ bị lật tẩy. “Các dân tộc bị áp bức” sẽ đề phòng họ, còn các cường quốc sẽ có biện pháp để kiềm chế họ, không cho họ thực hiện giấc mơ bá quyền.
Trước nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cần hành động thế nào?
Nhìn lại lịch sử, Việt Nam ta từng có ba lần mất nước mà mỗi lần có một nguyên nhân riêng: Lần thứ nhất vào thời An Dương Vương, mà nguyên nhân là mất cảnh giác, đem giặc vào nhà. Từ đó, nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Bắc suốt 1000 năm (từ năm 179 tr. CN đến năm 938). Lần thứ hai mất nước là vào thời nhà Hồ. Hồ Quý Ly có tài nhưng không được lòng dân nên mới lập ra triều Hồ được 7 năm thì nước mất vào tay giặc Minh. Lần đô hộ này kéo dài chẵn 20 năm (1407 – 1427). Lần thứ ba mất nước là vào thời Nguyễn. Khiếp nhược trước sức mạnh của giặc ngoại xâm, nhà Nguyễn không những không cho quân dân ta đánh Pháp mà còn đem quân triều đình đi “dẹp loạn”. Đó là lần mất nước do triều đình hèn nhát, sợ dân hơn sợ giặc, khiến nước ta trở thành thuộc địa của thực dân (1884 – 1945).
Đó là những bài học xương máu cho chúng ta hôm nay. Chúng ta phải tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhưng quan trọng hơn là phải luôn mài sắc tinh thần cảnh giác, không vì bất kỳ lý do nào để người ngoài “ru ngủ” dẫn đến tình thế khó gỡ của An Dương Vương. Về đối nội thì phải khoan sức dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải làm cho mỗi người Việt Nam thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và tin tưởng vào sức mạnh Việt Nam trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Về đối ngoại, cần tăng cường thông tin cho nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề; tăng cường đoàn kết nhất trí trong khối ASEAN; tranh thủ mọi sự hỗ trợ quốc tế. Có được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận quốc tế, trong đó có những người dân Trung Quốc yêu chuộng hoà bình, công lý thì sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta mới thành công.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần làm gì để tăng cường sự đoàn kết nhất trí với các nước ASEAN ?
Nhìn chung, các nước ASEAN có nhiều điểm giống nhau, trong đó có mục tiêu chung là vươn lên về kinh tế và các mặt khác. Nhưng mỗi nước ASEAN có trình độ phát triển một khác; những vấn đề quan tâm của các nước tuy giống nhau nhưng quyền lợi không hoàn toàn thống nhất với nhau. Trong khối cũng có những nước, do hoàn cảnh riêng, dễ bị Trung Quốc mua chuộc, chi phối. Để thực sự có một ASEAN hoàn toàn thống nhất trong nhận thức và hành động, một mặt chúng ta cần tăng cường trao đổi thông tin và quan điểm với các nước bạn, mặt khác cần giải quyết những bất đồng với một số nước ASEAN về biển đảo, tiến tới ký kết những văn bản có tính chất pháp lý về lãnh thổ, lãnh hải. Sự đồng thuận cao trong ASEAN có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ngay hành động của Campuchia vừa rồi rất đáng chê trách, nhưng ta cũng phải có cách xử lý đúng đắn, không đẩy người bạn láng giềng từng chia ngọt sẻ bùi nhiều năm với mình về phía kẻ đang muốn chi phối họ.
Còn chính sách đối với Trung Quốc?
TQ là nước láng giềng. Về chiến lược, mình phải giữ được quan hệ hoà bình với họ, đồng thời làm cho họ dần dần hành xử một cách có trách nhiệm như một nước lớn trong quan hệ láng giềng. Lãnh đạo hai nước đã thiết lập đường dây nóng. Chắc chắn là phải sử dụng đường dây nóng này để bàn bạc, giải quyết vấn đề mỗi khi có “việc nóng”. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đàm phán về biên giới và các vấn đề biển đảo để đi đến giải pháp cả hai bên chấp nhận được. Phải tích cực thúc đẩy để sớm ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên biển (COC) giữa các nước ASEAN với Trung Quốc.
Nhưng đứng trước hành động đe doạ xâm lược và xâm lược thì phải có thái độ cứng rắn, không thể nhân nhượng. Một mặt, phải đưa vấn đề Biển Đông, bao gồm những chứng cứ về chủ quyền của Việt Nam và hành vi ngang ngược của Trung Quốc [của nhà cầm quyền Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền Việt Nam] ra các diễn đàn quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Đại hội đồng Liên hợp quốc, các tổ chức tài phán quốc tế. Mặt khác, phải sẵn sàng đáp trả đúng mức các hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Giáo sư nghĩ sao về chiến lược phát triển biển của Việt Nam, vai trò của biển trong tương lai của đất nước và dân tộc?
Từ lâu ta đã nhận thức được vai trò của kinh tế biển và có chủ trương phát triển kinh tế biển. Nhưng việc thực hiện chủ trương chưa đạt yêu cầu. Ta chưa có tàu công suất lớn để ra khơi xa. Chưa có công nghệ và thiết bị bảo quản, chế biến hải sản ngay trên biển. Lực lượng an ninh biển chưa được trang bị mạnh. Lực lượng kiểm ngư cũng chỉ mới được đề xuất thành lập. Một nước muốn tự bảo vệ mình thì phải mạnh về kinh tế và quân sự. Phát triển kinh tế biển ngoài ý nghĩa kinh tế còn là một cách để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, cần làm gì để người dân hiểu và đồng thuận với chính sách bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ?
Dân ta ai cũng sẵn sàng gánh vác sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, chia sẻ với những khó khăn của đất nước. Phần đông dân chúng chia sẻ với những khó khăn và yêu cầu tế nhị của công tác ngoại giao. Nhưng nếu những tin tức về hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền nước ta cũng như tin tức về chủ trương và các biện pháp xử lý của Đảng, Nhà nước ta, kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp đó không được thông báo một cách đầy đủ và kịp thời thì sẽ khó nhận được sự đồng thuận của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm thiêng liêng của cả 90 triệu đồng bào ta. Đó là những người chủ thật sự của đất nước. Không thông báo đầy đủ, kịp thời cho dân và lắng nghe ý kiến của dân về những vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nước mà họ đang làm chủ là không thực hiện đúng bổn phận của những người đang nhận trách nhiệm làm công bộc cho dân.
Tăng cường thông tin, tuyên truyền cũng là để nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề. Bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc nói rất nhiều, rất mạnh, thậm chí sẵn sàng xuyên tạc, miễn có lợi cho họ. Trong khi đó, công tác thông tin, tuyên truyền của ta [mình] vừa qua dường như chưa được chú trọng đúng mức [quá yếu]. Lỗi này không phải là của các cơ quan báo chí, mà do lỗi từ trên, lúc mở ra, lúc thít lại, không cho nói. Thông tin, tuyên truyền như thế thì chẳng nói người dân Trung Quốc, người dân nước ngoài, mà ngay người dân Việt Nam cũng không hiểu được vấn đề.
Cụ thể, theo GS, cần thông tin, tuyên truyền những gì?
Như tôi đã nói, trước tiên, phải thông báo đầy đủ, kịp thời về diễn biến của tình hình, chủ trương, biện pháp giải quyết của Đảng, Nhà nước và kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp đó.
Thứ hai, cần làm rõ chỗ mạnh, chỗ yếu và mưu đồ của Trung Quốc. Hiện nay, nếu Trung Quốc gây ngay ra một cuộc chiến tranh thì họ cũng không làm được, bởi họ có những tử huyệt rất rõ ràng. Nhưng họ đang tự tung tự tác, phô trương “cơ bắp” trên biển để doạ dẫm những người yếu bóng vía và xác lập chủ quyền đối với các vùng biển quốc tế và vùng biển thuộc chủ quyền của nước khác. Nếu thấy thời cơ thuận lợi, họ có thể cô lập, thậm chí đánh chiếm các đảo của nước ta. Họ gặm nhấm dần như thế mà mình cứ lùi, cứ chờ xảy ra chiến tranh quy mô mới ra tay thì lúc ấy không kịp nữa. Cho nên, không thể nào nhân nhượng mãi. Lùi nhiều quá sẽ đến lúc không còn đường ra.
Thứ ba, theo tôi, phải khích lệ lòng yêu nước của người dân. Trước các hành vi gây hấn và xâm lược của Trung Quốc, đứng về phía một người dân bình thường mà nói, lòng tự trọng không cho phép người ta im lặng. Nhà nước cần tôn trọng quyền nói lên ý kiến của người dân. Không để xảy ra những phát ngôn, hành động xúc phạm lòng yêu nước của người dân. Phải tăng cường tuyên truyền các tấm gương yêu nước trong lịch sử. Có như vậy mới hun đúc được ngọn lửa nhiệt tình yêu nước, sẵn sàng xả thân cứu nước của nhân dân, đặc biệt là của thanh niên.
Thú thật, đọc một số bài báo và nghe một số ý kiến trên đài phát thanh – truyền hình gần đây xúc phạm người biểu tình chống những hành động gây hấn và xâm phạm chủ quyền nước ta, tôi thấy rất đau lòng. Xúc phạm người dân như vậy, đến lúc cần, làm sao động viên được sự ủng hộ của nhân dân? Theo tôi, nếu chính quyền thấy những cuộc biểu tình của người dân không thật có lợi cho công tác đối ngoại hiện thời thì có thể cử một số cán bộ có trách nhiệm đến trao đổi với người dân. Mình có đường lối đúng thì lo gì dân không hiểu, không ủng hộ? Giả sử trong những người đi biểu tình phản đối Trung Quốc, có người lợi dụng để kêu gọi lật đổ chính quyền, làm gì không phát hiện ra được! Ai vi phạm pháp luật thì cứ việc xử, nhưng không nên vì thế mà đánh đồng, xúc phạm tất cả mọi người.
Xin cảm ơn Giáo sư !
Nguyễn Tuấn – Cao Nhật
thực hiện
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
GS Nguyễn Minh Thuyết: Tham vọng của Trung Quốc không chỉ là Biển Đông
Thưa GS, những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian qua nói lên ý đồ gì của họ?
Gần đây, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, tích lũy ngoại tệ dồi dào, đưa được người và trạm không gian lên vũ trụ, trang bị vũ khí mạnh,… nên họ cho rằng thời cơ trỗi dậy để phân chia lại ảnh hưởng với các cường quốc đã đến. Chính vì vậy, họ tỏ ra rất hung hăng, gây chuyện với tất cả các nước có chung đường biển, từ các nước Đông Nam Á cho đến Nhật Bản, Hàn Quốc, thậm chí nhiều lần tàu cá xâm phạm cả lãnh hải của Nga. Trên bộ, ngoài chuyện tranh chấp từng mét vuông đất với Việt Nam bằng những thủ đoạn ti tiện, không hề xứng với cương vị một nước lớn, họ vẫn còn chiếm hàng chục nghìn km2 của Ấn Độ và vẫn ngang ngược xếp một bang của nước này vào lãnh thổ nước mình. Có thể thấy dã tâm của chính quyền Trung Quốc đã bộc lộ rất rõ, không khác gì mưu đồ thống trị thế giới của chế độ Hitler những năm 30 – 40 thế kỷ trước.
Riêng ở Biển Đông, mưu đồ biến vùng biển này thành “ao nhà” [dã tâm này] bộc lộ qua những bước đi rất rõ ràng: từ chỗ biến vùng biển không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp đến thực hiện hàng loạt hành động ngang ngược nhằm xác lập chủ quyền như đơn phương công bố lệnh cấm đánh bắt cá, đưa giàn khoan khủng ra Biển Đông, kéo hàng chục, rồi hàng nghìn, hàng chục nghìn tàu đánh cá liên hoàn theo kiểu “Xích Bích” ngày xưa kèm tàu vũ trang vào vùng biển các nước, tiến hành tuần tiễu ngoài lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, thành lập đơn vị hành chính và quân đồn trú ở cái gọi là “thành phố Tam Sa” v.v… Trong quá trình tìm phương cách bành trướng, mỗi khi có thời cơ thuận lợi là họ sẵn sàng dùng vũ lực đánh chiếm các đảo thuộc chủ quyền của nước khác để tạo thế áp đặt “đường lưỡi bò” trên biển, như đã từng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tháng 1 năm 1974 với sự làm ngơ của chính quyền Mỹ lúc bấy giờ hoặc chiếm một số đảo và bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988 lúc Liên Xô đã suy yếu.
Với Việt Nam ta, tham vọng của Trung Quốc còn lớn hơn nhiều. Họ không chỉ muốn chiếm biển đảo của ta, mà còn muốn nô dịch ta, biến cả nước ta thành thuộc quốc, thậm chí thành tỉnh, huyện của họ. Ngay từ năm 1939, trong cuốn “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc”, Mao Trạch Đông đã nhìn nhận Việt Nam như một xứ thuộc địa mà Trung Quốc mất vào tay người Pháp. Ông Mao viết:“Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”. Trong cuộc họp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965, nhà lãnh đạo Trung Quốc vạch ra chiến lược tràn xuống Đông Nam Á như sau: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore,…Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản […] xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy […] Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô – Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây”.
Suốt hàng chục năm qua, Trung Quốc đã dùng đủ mọi thủ đoạn làm suy yếu nước ta: Họ tổ chức thu mua từ rễ hồi đến móng trâu bò, đẩy giá một số mặt hàng nông nghiệp lên để làm lạc hướng canh tác của nông dân ta rồi bất ngờ chấm dứt giao dịch,… cốt để phá hoại sản xuất. Tiền giả cũng từ Trung Quốc tuồn vào. Hơn 90% các gói thầu xây dựng quan trọng của Việt Nam đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc nhưng tiến độ thực hiện chậm, công nghệ tồi, chất lượng không đảm bảo. Chỉ cần nhìn tiến độ xây dựng các nhà máy nhiệt điện ở một số tỉnh phía Bắc chậm 5, 7 năm trời cũng có thể thấy vấn đề. Về quân sự, tàu vũ trang của họ đã đến tận vùng biển của ta, cướp bóc, đánh đập ngư dân ta. Bên cạnh đó, đội quân thứ 5 của họ đã cài cắm khắp nơi, từ các công trình ở đồng bằng đến Tây Nguyên, từ những mảnh đất rừng biên giới, đầu nguồn cho đến những vùng biển quan trọng. Người giả danh du lịch, giả danh sang học cũng rất đông.
Có thể nói rằng độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ nước ta đang đứng trước thử thách lịch sử rất to lớn. Trách nhiệm trước lịch sử đang đòi hỏi thế hệ chúng ta nhận rõ nguy cơ bị xâm lược, bị lệ thuộc và có quyết sách sáng suốt, quyết tâm mạnh mẽ để bảo vệ giang sơn gấm vóc, xứng đáng với công lao của các bậc tiên liệt đã mở nước, giữ nước trong hàng ngàn năm qua và đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc vững bền của các thế hệ con cháu muôn đời mai sau.
Vì sao trong thời điểm này Trung Quốc lại dám leo thang như vậy, đặc biệt họ có những động thái ngang ngược [rất liều lĩnh] ngay sau khi Quốc hội ta thông qua Luật Biển Việt Nam?
Phản ứng với Luật Biển Việt Nam chỉ là cái cớ để Trung Quốc thực hiện mưu đồ đã tính toán từ lâu. Các nước Philippines, Nhật Bản đâu có chuyện gì mắc mớ với họ về Luật Biển mà họ cũng hăm doạ và xâm phạm chủ quyền? Với thế giới, Trung Quốc cho rằng bây giờ là thời cơ của họ vì Mỹ và các nước phương Tây đang sa lầy ở Afghanistan và Trung Đông, khó có thể phản ứng mạnh với các hành vi ngang ngược của họ. Với Việt Nam, họ thấy nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, sự đồng thuận xã hội không cao. Cho nên, họ nghĩ rằng có thể tranh thủ thời cơ này mà thôn tính biển đảo, tiến tới nô dịch dân ta. Có thể nói Trung Quốc luôn biết tận dụng cơ hội, nhưng lần này họ đã không làm đúng lời dặn của Đặng Tiểu Bình là “náu mình chờ thời”. Họ trỗi dậy hơi sớm, vì vậy, hình ảnh “bạn của các dân tộc bị áp bức” được họ tạo dựng công phu từ bao năm nay sẽ bị lật tẩy. “Các dân tộc bị áp bức” sẽ đề phòng họ, còn các cường quốc sẽ có biện pháp để kiềm chế họ, không cho họ thực hiện giấc mơ bá quyền.
Trước nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cần hành động thế nào?
Nhìn lại lịch sử, Việt Nam ta từng có ba lần mất nước mà mỗi lần có một nguyên nhân riêng: Lần thứ nhất vào thời An Dương Vương, mà nguyên nhân là mất cảnh giác, đem giặc vào nhà. Từ đó, nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Bắc suốt 1000 năm (từ năm 179 tr. CN đến năm 938). Lần thứ hai mất nước là vào thời nhà Hồ. Hồ Quý Ly có tài nhưng không được lòng dân nên mới lập ra triều Hồ được 7 năm thì nước mất vào tay giặc Minh. Lần đô hộ này kéo dài chẵn 20 năm (1407 – 1427). Lần thứ ba mất nước là vào thời Nguyễn. Khiếp nhược trước sức mạnh của giặc ngoại xâm, nhà Nguyễn không những không cho quân dân ta đánh Pháp mà còn đem quân triều đình đi “dẹp loạn”. Đó là lần mất nước do triều đình hèn nhát, sợ dân hơn sợ giặc, khiến nước ta trở thành thuộc địa của thực dân (1884 – 1945).
Đó là những bài học xương máu cho chúng ta hôm nay. Chúng ta phải tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhưng quan trọng hơn là phải luôn mài sắc tinh thần cảnh giác, không vì bất kỳ lý do nào để người ngoài “ru ngủ” dẫn đến tình thế khó gỡ của An Dương Vương. Về đối nội thì phải khoan sức dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải làm cho mỗi người Việt Nam thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và tin tưởng vào sức mạnh Việt Nam trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Về đối ngoại, cần tăng cường thông tin cho nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề; tăng cường đoàn kết nhất trí trong khối ASEAN; tranh thủ mọi sự hỗ trợ quốc tế. Có được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận quốc tế, trong đó có những người dân Trung Quốc yêu chuộng hoà bình, công lý thì sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta mới thành công.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần làm gì để tăng cường sự đoàn kết nhất trí với các nước ASEAN ?
Nhìn chung, các nước ASEAN có nhiều điểm giống nhau, trong đó có mục tiêu chung là vươn lên về kinh tế và các mặt khác. Nhưng mỗi nước ASEAN có trình độ phát triển một khác; những vấn đề quan tâm của các nước tuy giống nhau nhưng quyền lợi không hoàn toàn thống nhất với nhau. Trong khối cũng có những nước, do hoàn cảnh riêng, dễ bị Trung Quốc mua chuộc, chi phối. Để thực sự có một ASEAN hoàn toàn thống nhất trong nhận thức và hành động, một mặt chúng ta cần tăng cường trao đổi thông tin và quan điểm với các nước bạn, mặt khác cần giải quyết những bất đồng với một số nước ASEAN về biển đảo, tiến tới ký kết những văn bản có tính chất pháp lý về lãnh thổ, lãnh hải. Sự đồng thuận cao trong ASEAN có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ngay hành động của Campuchia vừa rồi rất đáng chê trách, nhưng ta cũng phải có cách xử lý đúng đắn, không đẩy người bạn láng giềng từng chia ngọt sẻ bùi nhiều năm với mình về phía kẻ đang muốn chi phối họ.
Còn chính sách đối với Trung Quốc?
TQ là nước láng giềng. Về chiến lược, mình phải giữ được quan hệ hoà bình với họ, đồng thời làm cho họ dần dần hành xử một cách có trách nhiệm như một nước lớn trong quan hệ láng giềng. Lãnh đạo hai nước đã thiết lập đường dây nóng. Chắc chắn là phải sử dụng đường dây nóng này để bàn bạc, giải quyết vấn đề mỗi khi có “việc nóng”. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đàm phán về biên giới và các vấn đề biển đảo để đi đến giải pháp cả hai bên chấp nhận được. Phải tích cực thúc đẩy để sớm ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên biển (COC) giữa các nước ASEAN với Trung Quốc.
Nhưng đứng trước hành động đe doạ xâm lược và xâm lược thì phải có thái độ cứng rắn, không thể nhân nhượng. Một mặt, phải đưa vấn đề Biển Đông, bao gồm những chứng cứ về chủ quyền của Việt Nam và hành vi ngang ngược của Trung Quốc [của nhà cầm quyền Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền Việt Nam] ra các diễn đàn quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Đại hội đồng Liên hợp quốc, các tổ chức tài phán quốc tế. Mặt khác, phải sẵn sàng đáp trả đúng mức các hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Giáo sư nghĩ sao về chiến lược phát triển biển của Việt Nam, vai trò của biển trong tương lai của đất nước và dân tộc?
Từ lâu ta đã nhận thức được vai trò của kinh tế biển và có chủ trương phát triển kinh tế biển. Nhưng việc thực hiện chủ trương chưa đạt yêu cầu. Ta chưa có tàu công suất lớn để ra khơi xa. Chưa có công nghệ và thiết bị bảo quản, chế biến hải sản ngay trên biển. Lực lượng an ninh biển chưa được trang bị mạnh. Lực lượng kiểm ngư cũng chỉ mới được đề xuất thành lập. Một nước muốn tự bảo vệ mình thì phải mạnh về kinh tế và quân sự. Phát triển kinh tế biển ngoài ý nghĩa kinh tế còn là một cách để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, cần làm gì để người dân hiểu và đồng thuận với chính sách bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ?
Dân ta ai cũng sẵn sàng gánh vác sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, chia sẻ với những khó khăn của đất nước. Phần đông dân chúng chia sẻ với những khó khăn và yêu cầu tế nhị của công tác ngoại giao. Nhưng nếu những tin tức về hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền nước ta cũng như tin tức về chủ trương và các biện pháp xử lý của Đảng, Nhà nước ta, kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp đó không được thông báo một cách đầy đủ và kịp thời thì sẽ khó nhận được sự đồng thuận của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm thiêng liêng của cả 90 triệu đồng bào ta. Đó là những người chủ thật sự của đất nước. Không thông báo đầy đủ, kịp thời cho dân và lắng nghe ý kiến của dân về những vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nước mà họ đang làm chủ là không thực hiện đúng bổn phận của những người đang nhận trách nhiệm làm công bộc cho dân.
Tăng cường thông tin, tuyên truyền cũng là để nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề. Bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc nói rất nhiều, rất mạnh, thậm chí sẵn sàng xuyên tạc, miễn có lợi cho họ. Trong khi đó, công tác thông tin, tuyên truyền của ta [mình] vừa qua dường như chưa được chú trọng đúng mức [quá yếu]. Lỗi này không phải là của các cơ quan báo chí, mà do lỗi từ trên, lúc mở ra, lúc thít lại, không cho nói. Thông tin, tuyên truyền như thế thì chẳng nói người dân Trung Quốc, người dân nước ngoài, mà ngay người dân Việt Nam cũng không hiểu được vấn đề.
Cụ thể, theo GS, cần thông tin, tuyên truyền những gì?
Như tôi đã nói, trước tiên, phải thông báo đầy đủ, kịp thời về diễn biến của tình hình, chủ trương, biện pháp giải quyết của Đảng, Nhà nước và kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp đó.
Thứ hai, cần làm rõ chỗ mạnh, chỗ yếu và mưu đồ của Trung Quốc. Hiện nay, nếu Trung Quốc gây ngay ra một cuộc chiến tranh thì họ cũng không làm được, bởi họ có những tử huyệt rất rõ ràng. Nhưng họ đang tự tung tự tác, phô trương “cơ bắp” trên biển để doạ dẫm những người yếu bóng vía và xác lập chủ quyền đối với các vùng biển quốc tế và vùng biển thuộc chủ quyền của nước khác. Nếu thấy thời cơ thuận lợi, họ có thể cô lập, thậm chí đánh chiếm các đảo của nước ta. Họ gặm nhấm dần như thế mà mình cứ lùi, cứ chờ xảy ra chiến tranh quy mô mới ra tay thì lúc ấy không kịp nữa. Cho nên, không thể nào nhân nhượng mãi. Lùi nhiều quá sẽ đến lúc không còn đường ra.
Thứ ba, theo tôi, phải khích lệ lòng yêu nước của người dân. Trước các hành vi gây hấn và xâm lược của Trung Quốc, đứng về phía một người dân bình thường mà nói, lòng tự trọng không cho phép người ta im lặng. Nhà nước cần tôn trọng quyền nói lên ý kiến của người dân. Không để xảy ra những phát ngôn, hành động xúc phạm lòng yêu nước của người dân. Phải tăng cường tuyên truyền các tấm gương yêu nước trong lịch sử. Có như vậy mới hun đúc được ngọn lửa nhiệt tình yêu nước, sẵn sàng xả thân cứu nước của nhân dân, đặc biệt là của thanh niên.
Thú thật, đọc một số bài báo và nghe một số ý kiến trên đài phát thanh – truyền hình gần đây xúc phạm người biểu tình chống những hành động gây hấn và xâm phạm chủ quyền nước ta, tôi thấy rất đau lòng. Xúc phạm người dân như vậy, đến lúc cần, làm sao động viên được sự ủng hộ của nhân dân? Theo tôi, nếu chính quyền thấy những cuộc biểu tình của người dân không thật có lợi cho công tác đối ngoại hiện thời thì có thể cử một số cán bộ có trách nhiệm đến trao đổi với người dân. Mình có đường lối đúng thì lo gì dân không hiểu, không ủng hộ? Giả sử trong những người đi biểu tình phản đối Trung Quốc, có người lợi dụng để kêu gọi lật đổ chính quyền, làm gì không phát hiện ra được! Ai vi phạm pháp luật thì cứ việc xử, nhưng không nên vì thế mà đánh đồng, xúc phạm tất cả mọi người.
Xin cảm ơn Giáo sư !
Nguyễn Tuấn – Cao Nhật
thực hiện