Lisa
choàng dậy, ngóc đầu nhìn. Xe bus vừa đi qua Palo Alto Highschool,
nghĩa là chỉ còn vài phút nữa thì tới trạm. Nó gạt cái chăn mỏng sang
một bên, chống tay ngồi dậy. Bên cạnh, Ba vẫn đang ngủ, đầu dựa vào cửa
kính, miệng hơi há ra. Trong giấc ngủ mà trông ổng cũng như đang lo lắng
chuyện gì, đôi lông mày nhíu lại. Lisa lặng lẽ xếp cái chăn rồi nhét
vào túi xách dưới chân.
Đèn trong xe bật sáng, tiếng nói quen thuộc từ chiếc loa tự động
phát lên “Xe bus đang vào trạm Palo Alto Transit Center, trạm cuối của
tuyến đường 22. Xin mọi người chuẩn bị xuống xe.” Trong khoảnh khắc,
trong xe ồn ào hẳn lên với tiếng ngáp, tiếng ho, tiếng lôi kéo hành lý,
tiếng càu nhàu. Ba nó dụi
mắt lia lịa, gài lại áo ấm rồi khoác mấy túi đồ đạc lên vai. Xe ghé
trạm rồi từ từ ngừng lại. Người ta đổ xô ra cửa, Lisa và Ba cũng hòa vào
dòng người, xuống xe.
Lisa đút hai tay vào túi áo. Tháng Mười
rồi, đứng ngoài trời đêm mà không dấu kỹ thì chỉ một lát là hai bàn tay
nó lạnh như nước đá. Từ xa, hai con mắt khổng lồ, vàng rực của chuyến xe
đi hướng Đông đã hiện ra sau lớp sương mỏng. Lisa thở phào, nó sắp được
chui vào trong xe ấm áp…
Chuyến xe về Eastridge Mall cũng gần đầy người. Như thường lệ, hai
ba con Lisa nhanh chân giành được băng ghế cuối. Nó ngồi sát cửa sổ,
nhìn ra ngoài. Con đường El Camino Real ở khúc này là đẹp nhất vì đi
ngang qua thành phố Palo Alto, nơi nó nghe nói rằng chỉ có những người
giàu kinh
khủng mới có nhà ở đó. Xe đang đi dọc theo khoảng đất rộng hút mắt với
những cây thông thật cao, dọc hàng rào có treo những tấm hình rực rỡ về
trường đại học Stanford. Cái trường này nó biết vì mùa hè rồi trong
những ngày trời nắng ấm hai ba con nó có lang thang đi bộ từ bến xe bus
vô đó. Nó mê cái bãi cỏ mênh mông, xanh rờn ở phía trước tòa nhà mái đỏ
ngay giữa trường, nhìn xéo qua ngọn tháp cao có cái nóc tròn trông giống
như cây viết khổng lồ. Nằm ở đó nhìn lên thì trời xanh biếc, cây xanh
nõn nà, nhìn chung quanh thì ai cũng tươi tốt, mạnh khỏe, tự tin. Nó
nghĩ cảnh đó chắc giống như ở thiên đàng. Nó mê bãi cỏ đó đến nỗi có lần
buột miệng hỏi “Ba ơi, nữa lớn con xin vô học trường này, được không
Ba?” Ba nhìn nó, miệng há ra
mà không nói được tiếng nào, một lát sau ổng mới thốt nên lời “Ờ…ờ…được
chứ con… Con ráng hết sức thì… chắc được…” Nghe nói vậy nhưng nó không
tin tưởng lắm vì điệu bộ của Ba nó giống y hệt như lần nó hỏi “Ba ơi
chừng nào Mẹ về? “. Chỉ khác là hồi đó nó mới sáu tuổi và chưa hiểu
“chết” nghĩa là không bao giờ về nữa.
Áp trán vào khung kính lạnh buốt và nhớ lại, nó nghĩ là muốn vô
trường Stanford thì nó phải có cây đũa thần. Mà cũng chưa chắc, vì nếu
cây đũa chỉ cho một điều ước thì nó sẽ ước cha con nó có một nơi để ở.
Nó rất sợ thời gian ngủ lang thang trên mấy băng ghế lạnh ngắt trong
những công viên tối thui. Có những đêm trời mưa lâm râm, hai ba con nó
nằm ngược đầu đuôi trên băng ghế, đắp
chung tấm nylon. Tiếng mưa lơi lộp độp trên nylon làm nó không ngủ
được, thêm nữa nó cứ sợ ngủ quên mà trời mưa lớn thì ướt hết sách vở ở
trong cái backpack gối dưới đầu. Sau mấy đêm như vậy, giờ hễ thấy trời
âm u chuyển mưa là hai lòng bàn chân nó tự nhiên lạnh ngắt.
Cũng may mà hai cha con nó khám phá ra Khách Sạn 22.
Đó là cái tên mà những người không nhà đặt cho tuyến xe bus số 22.
Buổi
chiều hôm đó, Lisa cứ nấn ná trên bãi cỏ xanh của trường Stanford nên
tới hơn 8 giờ tối mới lên xe bus 22. Hai cha con định đi về khu phía
Đông San Jose kiếm chỗ ngủ để ngày mai Ba còn đi xin việc làm ở mấy cái
chợ Á châu gần đó. Lên xe, nó ngờ ngợ vì thấy xe đông hơn hẳn những
chuyến bình thường, và ai cũng mang nhiều đồ đạc. Một
bà ngồi ở băng ghế trước còn có cả một cái xe đẩy chất túi xách, chăn
mền. Hơn hai tiếng sau, xe ghé trạm cuối ở Eastridge Mall, nó thấy phần
đông khách trên xe lại xếp hàng chờ chuyến xe đi ngược lại. Lúc đó, hai
ba con nó mới hỏi thăm và biết là có ba chiếc xe bus chạy vòng vòng trên
tuyến đường này cho tới sáng. Từ ngày đó, hai cha con nó gia nhập Khách
Sạn 22.
Đây là tuyến xe duy nhất chạy suốt ngày đêm của quận hạt Santa
Clara, cũng là tuyến đông khách nhất và chạy con đường dài nhất. Bắt đầu
từ Eastridge Mall ở phía Đông thành phố San Jose xe chạy qua đường
Tully, quẹo trái đường King, dọc theo đường Santa Clara qua downtown San
Jose, nối qua đường Alameda, lên El Camino Real, chạy qua ba thành phố
Santa Clara, Sunnyvale, Mountain View trước khi vào
thành phố Palo Alto rồi ghé vô trạm chót.
Bây giờ thì Lisa rành
lắm rồi. Nó biết rõ đi một chuyến xe thì phải trả hai đô la. Nhưng hầu
hết những người trên Khách Sạn 22 đều dùng vé tháng, mỗi tháng bảy chục
đô la. Valley Transportation Authority của quận hạt Santa Clara, mà mọi
người gọi là VTA, thỉnh thoảng còn cho những người không nhà hoặc những
người sắp mất chỗ ở một tấm vé dùng được trong ba tháng. Mấy tấm vé miễn
phí đó cũng hiếm hoi như một chỗ ngủ trong những nhà tạm trú (homeless
shelter). Dù sao, chỉ tốn bảy mươi đô la mà có phương tiện đi lại và chỗ
ngủ trong cả một tháng dài, đối với cha con nó lúc này, là một sự may
mắn và vô cùng quan trọng.
*
Dù
đã lang thang không nhà gần năm tháng, Lisa vẫn không nghĩ hai cha con
nó là người homeless. Nó thấy chữ “homeless” nghe buồn bã quá, và chỉ
hợp với những người chấp nhận là từ nay về sau họ sẽ không có nhà ở nữa.
Ba con nó là những người “between homes”, nghĩa là đang kiếm chỗ ở.
Hồi xưa, lúc còn Mẹ, gia đình nó cũng có “home” trong một khu chung
cư rất dễ thương, ở gần cái công viên thật rộng. Cuối tuần Ba tập cho nó
chạy xe đạp còn Mẹ thì trải khăn trên thảm cỏ xanh rờn và nướng thịt
bay mùi thơm phức. Tới giờ thỉnh thoảng nó vẫn còn nằm mơ thấy Mẹ cười
thật tươi dưới tàn lá xanh lấp loáng ánh nắng công viên, và khi tỉnh dậy
nó gần như chắc chắn là
trong mơ nó đã ngửi thấy mùi thịt nướng.
Ngày đầu tiên nó vô lớp
Một, Mẹ nó còn dắt nó đi học, còn đứng lấp ló ngó chừng, khi thấy nó
không khóc Mẹ mới đi làm. Ngày Giáng Sinh năm đó nó còn vẽ tấm hình có
nó, Ba, và Mẹ đánh son đỏ chót thiệt là đẹp. Vậy mà chỉ vài tháng sau Mẹ
vô nhà thương. Bữa cô Cindy, em của Ba, hớt hải chạy vô xin cho nó về
thăm Mẹ, cô giáo nắm tay nó và nói “Poor baby” (tội nghiệp cưng). Đó là
lần đầu tiên nó thấy Ba khóc, nước mắt chảy ròng ròng. Và đó cũng là lần
chót Mẹ mở mắt ra nhìn nó.
Sau đó Ba con nó dọn về ở chung với cô Cindy và chú Ben. Những
chuyện xảy ra trong vài năm sau khi Mẹ mất, Lisa chỉ nhớ lác đác, tựa
như đầu óc nó lạc trong một giấc ngủ dài sau khi Mẹ ra đi. Nhưng những
chuyện gì đã nhớ thì nó nhớ rõ, thí dụ như là nó mới vô lớp Bốn thì Ba
bị đau lưng. Chú Ben nói tại Ba làm cực, khiêng nặng mà không đeo thắt
lưng bảo vệ. Ba bịnh chưa hết thì chú Ben mất việc làm. Ngày chú tìm
được việc làm ở xa, hai cô chú và mấy đứa con phải dọn đi. Cô Cindy ôm
hôn nó và nói “Con ráng ngoan nha”. Giọng cổ nghẹn ở mũi, nó nghĩ cổ nói
vậy để khỏi khóc chứ ở chung mấy năm trời, cổ biết lúc nào nó chẳng
ngoan.
Từ đó, hai cha con dọn một qua căn phòng nhỏ xíu. Ba vẫn đau lưng rề
rề. Ba thuờng phải nghỉ làm, nằm một mình trong căn phòng đóng cửa tối
mờ. Một ngày kia đi học về nó thấy trước nhà dán một phong thư. Đem vô
đưa Ba coi, Ba không nói tiếng nào. Mãi đến khi ăn xong bữa tối Ba mới
lấy thùng dọn đồ
đạc vô và nói mình không có trả tiền nhà tháng rồi, chủ nhà gởi thư bắt
dọn đi.
Bữa đầu hai cha con tới Commercial Street Inn ở San
Jose. Sau khi đứng chờ ở một hàng dài, tới phiên hai cha con nó, cô thư
ký lắc đầu:
- Ở đây là nơi tạm trú của các bà mẹ có con nhỏ.
Ba nó nài nỉ:
- Con tôi cũng nhỏ nhưng mẹ nó chết rồi. Cô làm ơn!
Cô ta vẫn lắc đầu:
- Mỗi phòng có bốn, năm đàn bà, con nít ở chung, làm sao tôi cho ông vô? Mà không có ông, ai chịu trách nhiệm cho con bé?
Thấy cha con nó ngần ngừ, ngơ ngác, không biết đi đâu, cô thư ký
thương tình cho nằm đỡ dưới đất ngay trong phòng chờ đêm hôm đó. Hôm sau
hai cha con lại dắt nhau đi.
Ba dắt nó vô thư viện coi nhờ
Internet và xin tài liệu để đi tìm những
shelter (nhà tạm trú) khác. Được bà coi thư viện tốt bụng in ra cho một
danh sách các shelter trong quận Santa Clara con Lisa mừng quá. Nhìn
thấy tới mười chỗ trong danh sách, nó chắc là cha con nó sẽ tìm được một
nơi ở tạm vài tuần. Nhưng coi vậy mà không phải vậy…
Tuần lễ đó, hai cha con nó chỉ được ngủ trong shelter có hai ngày vì
ở đâu cũng đầy người, nếu tới sau sáu giờ thì chắc chắn không còn
giường trống. Có những shelter chỉ dành riêng cho những người bị bệnh
tâm thần, và chỉ có một shelter dành cho gia đình chịu cấp phòng cho cha
độc thân và con nhỏ. Có lần nó hỏi tại sao quận Santa Clara có tới hai
chỗ cho những người mẹ có con nhỏ mà không có chỗ nào dành cho cha với
con nhỏ, cô thư ký suy nghĩ một chút rồi nói:
- Bởi vì
hầu hết những người có con nhỏ đến nhờ giúp đỡ đều là đàn bà. Em thông
minh lắm, nhưng rất tiếc tôi không giúp được em. Người ta đặt ra những
chương trình để phục vụ số đông. Cha con em là trường hợp đặc biệt.
Nó thấy buồn nhưng chỉ nắm tay Ba và trả lời: Vâng, cha của con là người rất đặc biệt.
Chỉ có một câu vậy thôi mà cả hai người lớn, cha nó và cô thư ký, đều chớp mắt như muốn khóc.
Trong
mấy tháng cha con nó ngày nào cũng vô thư viện tìm thêm tài liệu về
những shelter rồi đi xin khắp nơi. Nhờ đọc nhiều nên nó biết được là cứ
mỗi đêm ở trong quận Santa Clara có tới hơn năm ngàn người không nhà cần
chỗ ngủ. Mỗi shelter thường chỉ có mấy chục phòng, và có những nơi chỉ
mở cửa vào mùa Đông. Hèn gì
mà cha con nó thường phải ghi tên chờ tới phiên, có khi cả mấy tuần mới
được.
Thời đó, cứ sau bữa ăn trưa là hai cha con lo tìm chỗ ngủ.
Đi mấy chuyến xe bus mới tới nơi, người ta hết chỗ, đứng ngẩn ngơ vài
phút rồi lại ráng đoán xem chỗ nào còn chỗ, leo lên xe đi tiếp. Rồi đêm
xuống, vẫn còn ngoài đường, hai cha con thất thểu dắt nhau kiếm tòa nhà
nào có chút mái che và sáng sủa cho đỡ nguy hiểm, rồi ráng quấn chăn cho
ấm và ráng ngủ. Có nhiều đêm nó biết Ba sợ cho nó, bắt nó nằm vô sát
vách rồi lấy chăn trùm kín mít. Vậy mà khi nó giật mình thức giấc vẫn
thấy Ba mở mắt nằm thao thức.
Từ khi có Khách Sạn 22 làm nơi trú mỗi đêm, Lisa thấy đời sống của nó khá hơn nhiều.
Lúc
đầu nó hơi khó ngủ vì xe cứ chạy rung rung rồi lại thắng ken két. Mỗi
lần tới trạm loa phóng thanh còn phát tiếng nhắc nhở làm nó giật mình
hoài. Những khi không ngủ được nó ngồi ngắm các hành khách. Lúc đầu
khuya còn có những người đi làm ca đêm hoặc đi chơi về trễ. Những người
này có vẻ vội vã, họ thường chăm chú bấm lia lịa trên điện thoại di động
trong suốt chuyến xe. Qua hai giờ đêm, xe chỉ còn toàn là những người
đi xe mà không có chỗ đến như cha con nó. Họ ngồi gật gù trong giấc ngủ
chập chờn hoặc nằm co ro trên các băng ghế. Rồi nó cũng từ từ nằm xuống,
gối
đầu lên chiếc backpack, và thiếp đi.
Sau vài tuần nó đã quen. Nó có thể ngủ say nhưng luôn thức dậy khi xe tới bến chót, rồi lại ngủ tiếp trên chuyến xe ngược lại.
Điều
làm Ba nó mừng nhất là trên xe bus an toàn. Về phần nó, nó thích nhất
vì Khách Sạn 22 giúp mọi chuyện trở nên đều đặn. Mỗi sáng nó đi xe tới
trường học, chiều về đón xe bus tới thư viện ở đường Alum Rock học bài.
Tới giờ thư viện đóng cửa thì nó đi bộ qua tiệm Goodwill ngay gần đó.
Tiệm này là nơi bán đồ cho người nghèo, những ngày Ba không đi xin việc
thì ổng làm không có lương ở đây.
Những người lái xe chuyến 22 đều biết rõ là nhiều người không nhà
dùng chiếc xe làm nơi ngủ nhưng họ không làm khó dễ. Chỉ cần những “hành
khách đi không bao giờ
tới” này tuân theo luật lệ, không ăn uống, hút thuốc, xả rác, hay làm
ồn ào trên xe. Ông Tom, một trong những người lái xe, có lần nói:
-
Đối với tôi, những người không nhà cũng như mọi hành khách khác. Nếu họ
có vé thì họ được đi xe. Thường thường họ đều là người tốt, chỉ đang
gặp khó khăn.
Thoát khỏi nổi lo lắng về chỗ ngủ đeo đuổi suốt ngày, Lisa học giỏi
hơn trước. Có lẽ nhờ ngày nào cũng học trong thư viện nên năm nay nó đạt
nhiều điểm cao nhất. Từ khi khai trường vô lớp Năm, nó thường xuyên
được điểm A. Lần đi họp phụ huynh về, Ba nó ôm nó thật chặt rồi nói “Ba
thiệt không dám tưởng tượng là con giỏi vậy!”
Bạn bè nó không ai biết là nó không có nhà, có lẽ vì hai cha con nó
luôn giữ sạch sẽ, gọn
gàng. Ngày nào sau giờ học nó cũng tới một trung tâm sinh hoạt cộng
đồng có hồ bơi và phòng tắm cho người đi bơi. Nó hòa vô đám người đó tắm
rửa rồi giặt quần áo, vắt khô bỏ vô bịch, sau đó trải một tấm nylon
phơi lén ở cái bãi đậu xe đằng sau Goodwill.
Từ hồi tháng Chín, mỗi sáng khi xuống xe ở trạm gần trường, nó đều
gặp một cặp vợ chồng với một đứa con trai nhỏ đón xe ở đó. Đứa bé chắc
đang học lớp Một, giống như nó thời còn Mẹ. Lần đầu tiên nó nhìn họ từ
trên xe bus, bà mẹ đang cúi xuống gài lại áo lạnh cho thằng bé. Không
hiểu sao nó thấy cái cử chỉ đó, cái dáng điệu đó, giống in như mẹ nó
ngày xưa. Lần đó, sau khi xuống xe, nó chậm bước nhìn họ cho rõ. Từ đó,
lần nào gặp họ nó cũng phải nhìn, vừa
nhìn vừa thầm mong cái buồn buồn xốn xang trong bụng đừng hiện ra trong
con mắt. Có lẽ vì nó nhìn họ hoài, họ cũng nhớ mặt nó. Gần đây, ngày
nào hai bên cũng nói Hello chào nhau. Thỉnh thoảng có ngày không gặp họ,
nó cảm thấy chút gì như là mong nhớ…
Một đêm cuối tháng Mười, trên Khách Sạn 22 xuất hiện vài khuôn mặt
lạ. Họ tự giới thiệu là phóng viên của báo San Jose Mercury News, nghe
nói về nơi này và muốn tìm hiểu thêm. Lisa không muốn nhắc đến chuyện
không có nhà nên kéo chăn che mặt, làm bộ ngủ. Ba chỉ miễn cưỡng trả lời
vài câu hỏi và không đưa tên tuổi gì hết.
*
Lá
phong trên hàng cây dọc con đường Alameda đã đổi màu, cửa kính của các
nhà hàng đã xuất hiện hình vẽ gà tây bên cạnh những trái bí rợ. Màu cam,
màu đỏ của mùa lễ làm Lisa thấy buồn buồn. Cái vui vẻ, ấm áp của người
ta làm nó chợt nhớ rằng lâu lắm rồi nó không được nhìn thấy một nồi súp
đang bốc khói, trên cái lò cháy đỏ, trong một căn bếp. Nơi mà các gia
đình quây quần ăn bữa tối…
…Thứ Bảy, buổi sáng trời nắng ấm. Hai cha con nó xuống xe ở đường
Santa Clara rồi đi bộ tới công viên Cesar Chavez. Có một nhóm người đang
phát những thức ăn nóng tại đó. Nghe nói có súp đậu, gà nướng, khoai
tán, và cả bánh nhân bí đỏ nữa. Những món ăn tuyệt vời,
chỉ nghĩ thôi mà đã phát thèm! Nó nắm tay Ba nối đuôi xếp hàng, và háo
hức chờ đợi. Chỉ còn năm, bẩy người nữa là tới phiên nó.
Bỗng tim nó thót lại!
Nó
vừa nhìn thấy bà-mẹ-của-thằng-bé mà nó gặp hàng ngày đang tươi cười
đứng trong đám múc đồ ăn cho đoàn người không nhà. Nó lôi Ba tách khỏi
hàng, quay ngoắt đi, vội vàng như chạy trốn. Ba nó vừa rảo bước theo vừa
hỏi “Sao vậy? Cái gì vậy? Lisa?” Nó không nói gì, chỉ cắm đầu đi. Qua
một khúc quẹo, khi biết chắc là bà ta không thể thấy hai cha con nó,
Lisa mới đứng lại. Rồi tự nhiên nó thấy giận. Giận vì mình không có nhà,
giận vì mình sợ người ta biết, giận vì mình đã làm Ba mất một bữa ăn
ngon. Nó bật khóc nức nở…
- Lisa, con ăn đi!
Tiếng Ba nó nhắc
nhở làm nó trở về hiện tại. Nó đang ngồi trong một nhà hàng sang trọng
ngay trung tâm thành phố San Jose, đối diện với ông Sam, bà Nancy, và
thằng bé Danny (bây giờ nó đã biết tên của họ.) Ánh mắt của bà Nancy
thật là vui và ấm áp. Nhưng nó vẫn thấy ngại ngùng, thắc mắc không hiểu
tại sao họ cất công mời Ba và nó đi ăn. Không lẽ bà Nancy đã thấy nó bỏ
chạy từ đoàn người xếp hàng xin thức ăn hôm nọ, và muốn đền bù cho hai
cha con một bữa?
Sáng hôm qua, thứ Sáu, Ba và nó cũng mỉm cười chào gia đình thằng bé như mọi ngày. Bỗng ông Sam tiến tới bắt tay Ba rồi nói:
-
Chào ông. Tôi là Sam, đây là vợ tôi, Nancy, và cháu trai Daniel. Chúng
ta biết nhau khá lâu rồi, hôm nay tôi muốn được hỏi tên ông và cháu gái.
- Chào ông bà. Tôi là
John, con gái tôi là Lisa.
Sau vài câu trao đổi, họ mời cha con
nó đi ăn vào ngày mai. Ba nó cũng rất ngạc nhiên, ấp úng từ chối. Nhưng
họ thuyết phục mãi, và bây giờ cha con nó đang ngồi đây.
Dù sao
những món ăn trên bàn cũng quá hấp dẫn, và vẻ cởi mở, ân cần của hai ông
bà cũng không có dấu hiệu gì đáng lo. Lisa bắt đầu cắn vào miếng thịt
gà vàng rộm và mỉm cười với thằng bé Danny.
Khi Lisa vét xong muỗng kem tráng miệng cuối cùng, bà Nancy ngồi thẳng lên. Bà nhìn Lisa, rồi nhìn Ba, rồi nói:
- Cách đây hai tuần tôi thấy hình ông và cháu Lisa trên báo San Jose Mercury News.
Lisa
nghe máu chạy một cái rần lên mặt. Nó không biết mặt nó đang đỏ bừng
hay tái mét. Bên cạnh nó, Ba cũng có vẻ sững sờ. Hai cha con mở to mắt
nhìn những
người phía bên kia bàn.
Bà Nancy phác một cử chỉ như muốn nắm lấy tay nó. Bà tiếp tục nói, thật dịu dàng:
-
Tôi có đưa bài báo đó cho nhà tôi coi. Ổng là giám đốc chương trình của
một cơ quan thiện nguyện tên là Dịch Vụ Về Chỗ Ở Vùng Vịnh, và tôi là
giáo sư ở trường Đại Học San Jose. Chúng tôi muốn giúp ông và cháu rời
khỏi chiếc xe bus 22. Từ đó tới nay, chúng tôi đã gọi cho những người
quen biết và tìm được một nơi có thể giúp ông và cháu. Thứ Hai, mời ông
tới văn phòng….
*
Bây
giờ hai cha con Lisa đã được cấp một căn phòng tại một nơi tạm trú cho
các gia đình đang gặp khó khăn. Trong thời gian ở đây, Ba nó được đi học
những lớp dạy nghề, và người ta hứa sẽ giúp Ba đi kiếm việc.
Mỗi khi nghĩ lại, Lisa thấy có nhiều việc liên hệ với nhau một cách
diệu kỳ. Không biết có phải Mẹ đã đưa đẩy cho nó quen được những người
tốt bụng để họ giúp đỡ cha con nó hay không.
Bây giờ ước mơ của
nó là khi lớn lên sẽ làm giám đốc chương trình giúp đỡ nhà cửa cho người
nghèo, giống như người ân nhân của nó. Khi đó, nó cũng có thể làm điều
kỳ diệu cho những đứa bé không nhà khác, những đứa bé mà nó biết là có
rất nhiều ở khắp
nơi. Nó tin là nó sẽ làm được, chỉ cần ráng học thật giỏi và quyết tâm.
Và Lisa còn học được một điều mới nữa trong thời gian nương náu trên Khách Sạn 22.
Rằng, có những người thật sự có chiếc đũa thần, nhưng khi mới gặp mình không thấy được.
Bởi vì, chiếc đũa đó, họ cất ở trong tim.
Khôi An |