Kinh Khổ
Khơi dậy lòng tự hào tự tôn dân tộc ư? Bằng cách nào?
Kỷ niệm 70 năm ngày Toàn quốc Kháng chiến 19.12.1946 càng khơi dậy sự phẫn nộ trong lòng mỗi người Việt Nam có lương tri đang ưu tư về vận nước khi truyền thống
Kỷ niệm 70 năm ngày Toàn quốc Kháng chiến 19.12.1946 càng khơi dậy sự phẫn nộ trong lòng mỗi người Việt Nam có lương tri đang ưu tư về vận nước khi truyền thống vẻ vang đang bị băng hoại vì một bộ phận cầm quyền chóp bu đặt lợi ích của chúng, được khoác cho tấm áo “ý thức hệ” rách nát lên trên Tổ quốc và dân tộc...
Mặc cho nước mắt giàn giụa, tôi vẫn chú mục vào màn hình tivi đang có
hình ảnh “Hà Nội 12 ngày đêm”. Những giọt nước mắt thanh lọc tâm hồn nhờ
những hoài niệm ập đến. Vâng, thanh lọc tâm hồn! Để làm gì? Để tìm lại
cho mình những phút sống cứ ngỡ đã một đi không trở lại bởi những uế tạp
nhiễu nhương đang đầu độc mình, mà dù có gắng hết sức để xua đi bộ mặt
lì lợm ấy, vẫn chất giọng ngái ngủ đều đều phát buồn nôn ấy mà vẫn không
sao thoát được. Thế rồi, từng hình ảnh, từng câu chuyện kể lại của Hà
Nội quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh như một chất tẩy độc loại bỏ cái ám
ảnh tệ hại kia ra khỏi đầu óc.
Những hoài niệm ấm lòng bật dậy, lay động tâm hồn. Chẳng hiểu sao chợt
nhớ đến câu thơ Thâm Tâm: “Đưa người ta không đưa qua sông / Sao có
tiếng sóng ở trong lòng” cho dù thơ của con người Hà Nội ấy viết từ
những năm 40.
Tiếng sóng xốn xang gợi nên sự vương vấn tiễn biệt. Tiễn biệt một quá
khứ? Với tôi, tiếng sóng trong lòng gọi về một sự trôi giạt những kỷ
niệm ấm lòng. Chả là cũng một dịp “mùa đông Hà Nội” cách nay ba bốn năm
gì đó, tôi gặp lại Tuấn Khoa, học sinh cũ từ những năm 55-60 lúc tôi từ
Việt Bắc về dạy tại Hà Nội. Khoa là con trai của nhà thơ Thâm Tâm. Anh
nhắc lại kỷ niệm về bài thơ của bố anh (người đã mất trong khi tham gia
chiến dịch Biên giới 1950) và buổi tôi bình giảng bài thơ ấy trên lớp
học. Cùng với Khoa, những học sinh khác của tôi ở trường Chu Văn An buổi
ấy nay cũng đã ngoại 70 xuân đều nhắc lại niềm xúc động được khởi động
lòng yêu nước và khát vọng dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp.
Kỷ niệm gọi dậy kỷ niệm. Chúng tôi sống trong những kỷ niệm ấm lòng ấy
và tự cảm nhận được đó là những phút sống đẹp nhất. Phải chăng vì vậy mà
kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến 19.12.1946 hôm nay, trong
lòng vẫn dội lên những tiếng sóng? Đúng, tiếng sóng về sự trôi giạt
những kỷ niệm ấm lòng cần được nhớ lại để tự tin mà dấn bước.
Sau buổi gặp ấy, tôi có viết cho các học sinh cũ của tôi: “Gợi lại một
vài hình bóng xưa cũ không nhằm ngoan cố ngụy biện cho những dại dột cả
tin của một thời ấu trĩ, mà là để biết gìn giữ và khẳng định những nét
đẹp không thể phôi pha trong vang bóng một thời thanh sạch và non tơ của
một thế hệ đón chào bình minh của độc lập tự do ra đời từ máu lửa kháng
chiến.
Với tôi, đó là gợi lại trong suy tư và tự nhìn lại mà tự vấn, liệu có
phải từ trên bục giảng, mình đã “xui dại” một thế hệ “cả tin” để rồi họ
chưng hửng, ngơ ngác trước những sự thật phũ phàng của cuộc đời đầy bụi
bặm và không thiếu lừa lọc, dối trá rồi vỡ ra rằng: “cách mạng” không
“cách mạng” như người ta tưởng, và tệ hơn, như người ta nói!
May thay, lời tự vấn ấy tôi đã nhiều lần tâm sự với nhiều thế hệ các học
sinh, sinh viên cũ, tôi đều nhận được cùng một câu trả lời: “Đó là một
thời đáng nhớ sau khi đã thanh lọc, gạt bỏ những dại dột, xốc nổi rất dễ
hiểu, và trong chừng mực nào đấy, cũng rất đáng yêu của sự vụng dại
chân thành. Vì, nói cho cùng, có những giá trị nhất thời được đánh bóng
mạ kền nhưng khi được phơi ra dưới ánh sáng thật của cuộc sống đã sớm
nhạt nhòa, han rỉ để cho những giá trị thật không cần tô son vẽ phấn của
tính nhân bản đích thực, nền tảng của sự định hình tính cách con người,
sẽ tự khẳng định ý nghĩa bền vững của chúng”*.
Lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc chính những giá trị manh tính bền vững ấy.
Thế nhưng khi đọc “Bản đề cương tuyên truyền về kỷ niệm 70 ngày Toàn
quốc kháng chiến 19.12” của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa đưa ra, trong
đó cũng đòi phải “khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc” tôi lại có cảm
giác chờn chợn! Mà chờn chợn vì nó gợi lại cái nghịch lý đã trở thành
phổ biến đang đọng lại trong tâm lý xã hội “nói vậy mà không phải vậy”.
Thì chẳng phải cũng hệ thống Tuyên giáo này đã quyết liệt chỉ đạo đục bỏ
những tấm bia kỷ niệm liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến đấu chống quân
Trung Quốc xâm lược đó sao?
Yêu nước và tự hào dân tộc là điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế Việt
Nam. Đương nhiên, “yêu nước và tự hào dân tộc” không chỉ là sản phẩm độc
đáo Việt Nam, mà là một phẩm chất được xem là cao cả nhất của con người
trong mọi dân tộc, trên mọi quốc gia. Nhưng do đặc thù của sự hình
thành quốc gia, do vị thế địa - chiến lược không giống nhau mà mỗi dân
tộc được hun đúc, nuôi dưỡng phẩm chất cao cả đó không hoàn toàn giống
nhau. Quá trình trường kỳ dựng nước và giữ nước trong một vị thế đặc
biệt của một bán đảo liền kề với một nước khổng lồ phương Bắc chưa bao
giờ nguôi tham vọng bành trướng, đã hình thành, nuôi dưỡng phẩm chất cao
cả đó, khiến cho yêu nước quật cường, thà chết không cúi đầu làm nô lệ
cho “thiên triều phương Bắc” trở thành một bản lĩnh để tồn tại và phát
triển của dân tộc Việt Nam, lưu chảy trong huyết quản của mỗi người Việt
Nam. Ngoại xâm có thể đến từ nhiều hướng, phía Nam, phía Tây và từ
biển, nhưng chủ đạo vẫn là từ phương Bắc.
Không hay gì nuôi dưỡng mối thù truyền kiếp. Nhưng không thể không thấy
rõ rằng đó thật sự là một nét hằn lịch sử chỉ ngày càng tô đậm thêm chứ
chưa bao giờ nguôi ngoai, có chăng, chỉ là những biến tướng lắt léo oái
oăm hơn mà thôi. Cho nên, trong tâm thế Việt Nam, xưa cũng như nay, tinh
thần yêu nước chống ngoại xâm, lòng tự hào tự tôn dân tộc thường đi
liền với chống Tàu. Hình ảnh này không chỉ được ghi vào trong sử sách mà
ông cha ta còn tạc cả vào hình thể núi sông đất nước để răn dạy con
cháu. Chỉ cần gợi lên 99 ngọn đồi và một ngọn thứ 100 bị vạt mất đỉnh ở
miền đất trung du Phú Thọ. Tương truyền đó là con voi bỏ đàn quay đầu về
phương Bắc bị chém mất đầu. Lời răn dạy của ông cha ta thật là nghiêm
cẩn và dữ dội.
Và lịch sử cũng thật là sòng phẳng và bao dung để mong đến một lúc nào
đó, khi “bốn phương vô sản đều là anh em” thì chắc trong “hình khe thế
núi gần xa, đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao” sẽ khỏa lấp đi lời cảnh
báo được tạc vào núi sông kia. Nhưng rồi thực tế phũ phàng đã nghiền nát
cái ảo ảnh mang tính hoang tưởng để trở về với cuộc chiến đấu chống hơn
nửa triệu quân do Hứa Thế Hữu chỉ huy. Cần biết thêm rằng tên tướng Tàu
xâm lược ở thế kỷ 20 này là hậu duệ của Hứa Thế Hanh xưa kia đã bỏ xác
trong cuộc xâm lược Việt Nam thế kỷ 18. Họ Hứa là Ủy viên Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Trung Quốc, “người chiến sĩ cận vệ của Mao Chủ tịch”, vị
thượng tướng được phong đầu tiên của quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc, người bảo vệ Đặng Tiểu Bình trong nguy khốn, được giao làm tổng
chỉ huy cuộc đánh chiếm Hoàng Sa 1974 và cuộc Chiến tranh Biên giới
1979! Thế đó!
Ngộ nhận lịch sử lớn nhất phải chăng cũng là ở đây? Và bi kịch lịch sử
lớn nhất cũng nằm ở cái gọi là “Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương
thông” trong mười sáu chữ bịp bợm mà “thiên triều mới” của Trung Quốc
xảo quyệt đưa ra và các nhà lãnh đạo Việt Nam hớp lấy. Người hăng hái
nhất trong tâm trạng “chết đuối vớ được cọc” này là Nguyễn Văn Linh với
định kiến hẹp hòi và tầm nhìn thiển cận, đặt “ý thức hệ xã hội chủ
nghĩa” cao hơn Tổ quốc và dân tộc, chui đầu vào cái thòng lọng và ngày
càng bị trói chặt vào mật ước Thành Đô để khiến đất nước ngày càng lún
sâu vào sự lệ thuộc Trung Quốc về chính trị, kinh tế và nhiều mặt khác.
Riêng bài này chỉ nói đến sự xúc phạm, làm băng hoại truyền thống yêu
nước và “lòng tự hào tự tôn dân tộc” của người Việt Nam, đặc biệt là thế
hệ trẻ Việt Nam.
Thái độ hèn nhát cúi đầu trước kẻ xâm lược của bộ lãnh đạo chóp bu, với
bộ máy tuyên truyền lừa bịp của hệ thống Tuyên giáo các cấp được mở hết
công suất khiến trong một thời gian dài hàng mấy chục năm liền không một
ai được nhắc đến cuộc chiến tranh xâm lược do Đặng Tiểu Bình khởi
xướng. Táng tận lương tâm hơn, để làm vừa lòng kẻ thù, chúng đã dám cho
đục bỏ những bia liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu chống quân
thù, không cho phép đưa vào sách giáo khoa về cuộc chiến tranh biên giới
đó để dạy lòng yêu nước nhằm “khơi dậy lòng tự hào tự tôn dân tộc” cho
tuổi trẻ Việt Nam mà chỉ nhồi vào đầu họ 16 chữ vàng oan nghiệt và bịp
bợm!
Nếu so với sắc chỉ ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) của Minh
Thành Tổ trao cho tổng binh Lương Năng, viên tướng viễn chinh xâm lược:
“Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo
Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự,
cho đến cả những loại (sách) ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại
sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt
hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay
thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết
thảy, một mảnh một chữ chớ để còn” thì những giải pháp nói trên được
chính những tay sai ngoại bang thực hiện thì bài bản và “sáng tạo” hơn
nhiều. Đã thế lại còn được sự hỗ trợ quyết liệt của bộ máy bạo lực trấn
áp thẳng tay những ai dám cưỡng lại. Nếu đối chiếu với “sắc chỉ của Minh
Thành Tổ” và những việc làm của Lương Năng thế kỷ 15 trên đất nước ta
thuở ấy thì, ở thế kỷ 21 này, lũ “tổng binh trá hình” được cài đặt một
cách quy mô trên khắp nước ta còn tinh vi và trắng trợn đến mức nào?
Mà nào đã là chuyện quá khứ! Chắc nhiều người vẫn nhớ rõ cách giải thích
vừa lì lợm vừa vô sỉ của những “cán bộ tuyên giáo được trên cử về” làm
báo cáo viên tại các cuộc sinh hoạt Đảng ở cơ sở và các đoàn thể quần
chúng cách đây chưa lâu để học tập đường lối chính sách của Đảng liên
quan đến những điều vừa nêu tưởng cũng chẳng cần nhắc lại. Tinh thần yêu
nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc chính là nội dung bọn dư luận viên này
né tránh vì sẽ dễ dàng khơi dậy những câu hỏi dồn chúng vào ngõ cụt.
Thì đó, chuyện Trương Đức Giang, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội
Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (Chủ tịch Nhân đại) của Trung Quốc nghễu
nghện ngồi trên đầu các ông bà nghị Việt Nam tại phòng Diên Hồng để dự
khán Quốc hội Việt Nam đang họp thì so với những việc làm của tên tổng
binh Lương Năng xưa trong việc hủy diệt lòng tự hào tự tôn dân tộc của
người Việt Nam, thủ đoạn nào gian manh, xảo quyệt hơn?
Xin nhắc với những ai thiết kế nên, hoặc bị ép phải thực hiện chuyện “dự
khán” trơ trẽn này để các ông nghị, bà nghị Việt Nam ngồi tại phòng
Diên Hồng hôm đó, nơi mà chưa lâu họ Tập đã đến ban truyền chiếu chỉ và
các vị đã im thin thít “lĩnh chỉ” chứ không dám có mảy may chút phản ứng
nào, hãy nhớ lại lời cảnh báo của nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại: “Kẻ phản
bội Tổ quốc, đầu hàng ngoại bang, vừa không được sự tôn trọng của ngoại
bang, vừa bị sự khinh miệt của đồng bào”. Có lẽ, về “ngoại bang” thì
chúng nó mắc gì phải tôn trọng các vị khi chúng hiểu quá rõ cái tâm thế
của các vị, còn sự khinh miệt của đồng bào thì chắc cũng chẳng cần nói
gì thêm.
Để làm rõ hơn vấn đề trên, hãy nói đến chuyện vừa xảy ra ngày 8/12/2016,
lãnh đạo Hải quân Trung Quốc đã tổ chức kỉ niệm cái gọi là “70 năm thu
hồi Hoàng Sa, Trường Sa”. Ngoài mấy lời phản đối quen thuộc của Người
Phát ngôn Bộ Ngoại giao, thì vẫn là những lời tụng ca quen thuộc lũ kẻ
cướp trắng trợn đó về: “đi sâu thực hiện nhận thức chung quan trọng đạt
được …nắm chắc định hướng đúng đắn trong phát triển quan hệ giữa hai
Đảng và hai nước, tăng cường giao lưu kinh nghiệm quản lý đất nước, sâu
sắc hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện Trung - Việt phát triển ổn định, lành mạnh lâu
dài”! Kẻ thù đã ngang ngược tổ chức lễ “Kỷ niệm 70 thu hồi Hoàng Sa,
Trường Sa”, những vùng lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ta mà chúng xâm
chiếm bằng vũ lực, một hành động có tính toán từ cấp cao nhất, thế mà
lờ tịt chuyện ngang ngược đó đi để rồi kêu gào “khơi dậy lòng tự hào, tự
tôn dân tộc” thì quả là trơ tráo!
Trong bối cảnh hiện nay, nhân kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến
19.12.1946, làm sống lại truyền thống quật cường của dân tộc là điều hết
sức cần thiết trước những thách đố gay gắt mà đất nước đang phải đương
đầu. Nhưng cũng phải thấy rằng đây là chuyện trái khoáy. Trái khoáy là
vì truyền thống ấy đã bị chà đạp bởi một bộ máy cầm quyền hư hỏng và
ngày càng hư hỏng của một bộ phận rất lớn thoái hóa, biến chất đang thao
túng toàn bộ guồng máy vận hành xã hội. Dưới cái vỏ “ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa” bọc ngoài, thực chất chỉ là lợi ích trần trụi và bẩn thỉu của
giai cấp cầm quyền mới được hình thành và củng cố trong quá trình thâu
tóm quyền lực bằng tiền và mọi biến tướng khác. Cho dù cả bộ máy tuyên
truyền dối trá và bịp bợm được mở hết công suất cũng không thể nào che
giấu được cái thực tế nhầy nhụa đã phơi bày trước mắt mọi người. Vì thế,
sự nhẫn nhục chịu đựng của đám đông thầm lặng chỉ là khoảng lặng trước
một cơn bão!
Trong những ngày này, dù muốn hay không, những hình ảnh được gợi lại về
tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh của người Hà Nội trong 62 ngày
đêm kiên cường chiến đấu kìm chân địch để cả nước chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến trường kỳ đang lay động tâm hồn Việt Nam. Với những cựu
chiến binh cũng như với những ai từng cống hiến tuổi trẻ của mình cho sự
nghiệp cứu nước càng xúc động nhớ lại quãng đời chiến đấu với những
đồng đội đã hy sinh, trong lòng càng dâng trào sự phẫn nộ vì sự nghiệp
thiêng liêng của mình đang bị phản bội. “Lòng tự hào, tự tôn dân tộc”
nếu có, thì chính là được khơi dậy từ sự phẫn nộ đó chứ không từ những
lời bẻm mép trơ tráo kia.
Kỷ niệm 70 năm ngày Toàn quốc Kháng chiến 19.12.1946 càng khơi dậy sự
phẫn nộ trong lòng mỗi người Việt Nam có lương tri đang ưu tư về vận
nước khi truyền thống vẻ vang đang bị băng hoại vì một bộ phận cầm quyền
chóp bu đặt lợi ích của chúng, được khoác cho tấm áo “ý thức hệ” rách
nát lên trên Tổ quốc và dân tộc. Máu người không phải là nước lã. Một sự
nghiệp bị phản bội, thì gợi nhớ lại những trang hào hùng của sự nghiệp
ấy sẽ càng làm cho sự phẫn nộ dâng trào.
Cái tứ thơ trong Tống biệt hành của Thâm Tâm trở nên mông lung, giục
giã: “Chí nhớn chưa về bàn tay không / Thì không bao giờ nói trở lại”.
Liệu có phải đang cần một cuộc dấn thân tìm đường mới giữa một “Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt / Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”?
Thì chẳng phải đất nước đang chìm vào bóng hoàng hôn của một triều đại
suy tàn trước ngưỡng sụp đổ đó sao. Bỗng nhớ đến ý của Bùi Văn Nam Sơn
nói hôm rồi: “Cần khẳng định ta đang là ai, cần phải làm gì và làm thế
nào”. Đã chín muồi cho việc tự định hình một cuộc dấn thân mới của những
ai đang ưu tư về vận mệnh đất nước.
18.12.2016
Gs Tương Lai
Tác giả gửi BVN.
____________
*Xem “Cảm Nhận và Suy Tư” in năm 2015. tr.383 và “Mênh mông thế sự” in ngày 20.11.2016, tr. 87.
(Bauxitevn)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Vài Chuyện Buồn 30 Tháng 4" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Sinh Nhật Buồn" - by Khuất Đẩu / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Sự thật về “Nước mắm Việt Hương” của Tàu (?) - by Kỳ Đỗ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Mỹ và người Việt khác nhau ở chỗ này !" - by Nguyễn Đắc Phúc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Lịch sử và hoài nghi _ Trần Thế Kỷ
Khơi dậy lòng tự hào tự tôn dân tộc ư? Bằng cách nào?
Kỷ niệm 70 năm ngày Toàn quốc Kháng chiến 19.12.1946 càng khơi dậy sự phẫn nộ trong lòng mỗi người Việt Nam có lương tri đang ưu tư về vận nước khi truyền thống
Kỷ niệm 70 năm ngày Toàn quốc Kháng chiến 19.12.1946 càng khơi dậy sự phẫn nộ trong lòng mỗi người Việt Nam có lương tri đang ưu tư về vận nước khi truyền thống vẻ vang đang bị băng hoại vì một bộ phận cầm quyền chóp bu đặt lợi ích của chúng, được khoác cho tấm áo “ý thức hệ” rách nát lên trên Tổ quốc và dân tộc...
Mặc cho nước mắt giàn giụa, tôi vẫn chú mục vào màn hình tivi đang có
hình ảnh “Hà Nội 12 ngày đêm”. Những giọt nước mắt thanh lọc tâm hồn nhờ
những hoài niệm ập đến. Vâng, thanh lọc tâm hồn! Để làm gì? Để tìm lại
cho mình những phút sống cứ ngỡ đã một đi không trở lại bởi những uế tạp
nhiễu nhương đang đầu độc mình, mà dù có gắng hết sức để xua đi bộ mặt
lì lợm ấy, vẫn chất giọng ngái ngủ đều đều phát buồn nôn ấy mà vẫn không
sao thoát được. Thế rồi, từng hình ảnh, từng câu chuyện kể lại của Hà
Nội quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh như một chất tẩy độc loại bỏ cái ám
ảnh tệ hại kia ra khỏi đầu óc.
Những hoài niệm ấm lòng bật dậy, lay động tâm hồn. Chẳng hiểu sao chợt
nhớ đến câu thơ Thâm Tâm: “Đưa người ta không đưa qua sông / Sao có
tiếng sóng ở trong lòng” cho dù thơ của con người Hà Nội ấy viết từ
những năm 40.
Tiếng sóng xốn xang gợi nên sự vương vấn tiễn biệt. Tiễn biệt một quá
khứ? Với tôi, tiếng sóng trong lòng gọi về một sự trôi giạt những kỷ
niệm ấm lòng. Chả là cũng một dịp “mùa đông Hà Nội” cách nay ba bốn năm
gì đó, tôi gặp lại Tuấn Khoa, học sinh cũ từ những năm 55-60 lúc tôi từ
Việt Bắc về dạy tại Hà Nội. Khoa là con trai của nhà thơ Thâm Tâm. Anh
nhắc lại kỷ niệm về bài thơ của bố anh (người đã mất trong khi tham gia
chiến dịch Biên giới 1950) và buổi tôi bình giảng bài thơ ấy trên lớp
học. Cùng với Khoa, những học sinh khác của tôi ở trường Chu Văn An buổi
ấy nay cũng đã ngoại 70 xuân đều nhắc lại niềm xúc động được khởi động
lòng yêu nước và khát vọng dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp.
Kỷ niệm gọi dậy kỷ niệm. Chúng tôi sống trong những kỷ niệm ấm lòng ấy
và tự cảm nhận được đó là những phút sống đẹp nhất. Phải chăng vì vậy mà
kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến 19.12.1946 hôm nay, trong
lòng vẫn dội lên những tiếng sóng? Đúng, tiếng sóng về sự trôi giạt
những kỷ niệm ấm lòng cần được nhớ lại để tự tin mà dấn bước.
Sau buổi gặp ấy, tôi có viết cho các học sinh cũ của tôi: “Gợi lại một
vài hình bóng xưa cũ không nhằm ngoan cố ngụy biện cho những dại dột cả
tin của một thời ấu trĩ, mà là để biết gìn giữ và khẳng định những nét
đẹp không thể phôi pha trong vang bóng một thời thanh sạch và non tơ của
một thế hệ đón chào bình minh của độc lập tự do ra đời từ máu lửa kháng
chiến.
Với tôi, đó là gợi lại trong suy tư và tự nhìn lại mà tự vấn, liệu có
phải từ trên bục giảng, mình đã “xui dại” một thế hệ “cả tin” để rồi họ
chưng hửng, ngơ ngác trước những sự thật phũ phàng của cuộc đời đầy bụi
bặm và không thiếu lừa lọc, dối trá rồi vỡ ra rằng: “cách mạng” không
“cách mạng” như người ta tưởng, và tệ hơn, như người ta nói!
May thay, lời tự vấn ấy tôi đã nhiều lần tâm sự với nhiều thế hệ các học
sinh, sinh viên cũ, tôi đều nhận được cùng một câu trả lời: “Đó là một
thời đáng nhớ sau khi đã thanh lọc, gạt bỏ những dại dột, xốc nổi rất dễ
hiểu, và trong chừng mực nào đấy, cũng rất đáng yêu của sự vụng dại
chân thành. Vì, nói cho cùng, có những giá trị nhất thời được đánh bóng
mạ kền nhưng khi được phơi ra dưới ánh sáng thật của cuộc sống đã sớm
nhạt nhòa, han rỉ để cho những giá trị thật không cần tô son vẽ phấn của
tính nhân bản đích thực, nền tảng của sự định hình tính cách con người,
sẽ tự khẳng định ý nghĩa bền vững của chúng”*.
Lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc chính những giá trị manh tính bền vững ấy.
Thế nhưng khi đọc “Bản đề cương tuyên truyền về kỷ niệm 70 ngày Toàn
quốc kháng chiến 19.12” của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa đưa ra, trong
đó cũng đòi phải “khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc” tôi lại có cảm
giác chờn chợn! Mà chờn chợn vì nó gợi lại cái nghịch lý đã trở thành
phổ biến đang đọng lại trong tâm lý xã hội “nói vậy mà không phải vậy”.
Thì chẳng phải cũng hệ thống Tuyên giáo này đã quyết liệt chỉ đạo đục bỏ
những tấm bia kỷ niệm liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến đấu chống quân
Trung Quốc xâm lược đó sao?
Yêu nước và tự hào dân tộc là điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế Việt
Nam. Đương nhiên, “yêu nước và tự hào dân tộc” không chỉ là sản phẩm độc
đáo Việt Nam, mà là một phẩm chất được xem là cao cả nhất của con người
trong mọi dân tộc, trên mọi quốc gia. Nhưng do đặc thù của sự hình
thành quốc gia, do vị thế địa - chiến lược không giống nhau mà mỗi dân
tộc được hun đúc, nuôi dưỡng phẩm chất cao cả đó không hoàn toàn giống
nhau. Quá trình trường kỳ dựng nước và giữ nước trong một vị thế đặc
biệt của một bán đảo liền kề với một nước khổng lồ phương Bắc chưa bao
giờ nguôi tham vọng bành trướng, đã hình thành, nuôi dưỡng phẩm chất cao
cả đó, khiến cho yêu nước quật cường, thà chết không cúi đầu làm nô lệ
cho “thiên triều phương Bắc” trở thành một bản lĩnh để tồn tại và phát
triển của dân tộc Việt Nam, lưu chảy trong huyết quản của mỗi người Việt
Nam. Ngoại xâm có thể đến từ nhiều hướng, phía Nam, phía Tây và từ
biển, nhưng chủ đạo vẫn là từ phương Bắc.
Không hay gì nuôi dưỡng mối thù truyền kiếp. Nhưng không thể không thấy
rõ rằng đó thật sự là một nét hằn lịch sử chỉ ngày càng tô đậm thêm chứ
chưa bao giờ nguôi ngoai, có chăng, chỉ là những biến tướng lắt léo oái
oăm hơn mà thôi. Cho nên, trong tâm thế Việt Nam, xưa cũng như nay, tinh
thần yêu nước chống ngoại xâm, lòng tự hào tự tôn dân tộc thường đi
liền với chống Tàu. Hình ảnh này không chỉ được ghi vào trong sử sách mà
ông cha ta còn tạc cả vào hình thể núi sông đất nước để răn dạy con
cháu. Chỉ cần gợi lên 99 ngọn đồi và một ngọn thứ 100 bị vạt mất đỉnh ở
miền đất trung du Phú Thọ. Tương truyền đó là con voi bỏ đàn quay đầu về
phương Bắc bị chém mất đầu. Lời răn dạy của ông cha ta thật là nghiêm
cẩn và dữ dội.
Và lịch sử cũng thật là sòng phẳng và bao dung để mong đến một lúc nào
đó, khi “bốn phương vô sản đều là anh em” thì chắc trong “hình khe thế
núi gần xa, đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao” sẽ khỏa lấp đi lời cảnh
báo được tạc vào núi sông kia. Nhưng rồi thực tế phũ phàng đã nghiền nát
cái ảo ảnh mang tính hoang tưởng để trở về với cuộc chiến đấu chống hơn
nửa triệu quân do Hứa Thế Hữu chỉ huy. Cần biết thêm rằng tên tướng Tàu
xâm lược ở thế kỷ 20 này là hậu duệ của Hứa Thế Hanh xưa kia đã bỏ xác
trong cuộc xâm lược Việt Nam thế kỷ 18. Họ Hứa là Ủy viên Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Trung Quốc, “người chiến sĩ cận vệ của Mao Chủ tịch”, vị
thượng tướng được phong đầu tiên của quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc, người bảo vệ Đặng Tiểu Bình trong nguy khốn, được giao làm tổng
chỉ huy cuộc đánh chiếm Hoàng Sa 1974 và cuộc Chiến tranh Biên giới
1979! Thế đó!
Ngộ nhận lịch sử lớn nhất phải chăng cũng là ở đây? Và bi kịch lịch sử
lớn nhất cũng nằm ở cái gọi là “Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương
thông” trong mười sáu chữ bịp bợm mà “thiên triều mới” của Trung Quốc
xảo quyệt đưa ra và các nhà lãnh đạo Việt Nam hớp lấy. Người hăng hái
nhất trong tâm trạng “chết đuối vớ được cọc” này là Nguyễn Văn Linh với
định kiến hẹp hòi và tầm nhìn thiển cận, đặt “ý thức hệ xã hội chủ
nghĩa” cao hơn Tổ quốc và dân tộc, chui đầu vào cái thòng lọng và ngày
càng bị trói chặt vào mật ước Thành Đô để khiến đất nước ngày càng lún
sâu vào sự lệ thuộc Trung Quốc về chính trị, kinh tế và nhiều mặt khác.
Riêng bài này chỉ nói đến sự xúc phạm, làm băng hoại truyền thống yêu
nước và “lòng tự hào tự tôn dân tộc” của người Việt Nam, đặc biệt là thế
hệ trẻ Việt Nam.
Thái độ hèn nhát cúi đầu trước kẻ xâm lược của bộ lãnh đạo chóp bu, với
bộ máy tuyên truyền lừa bịp của hệ thống Tuyên giáo các cấp được mở hết
công suất khiến trong một thời gian dài hàng mấy chục năm liền không một
ai được nhắc đến cuộc chiến tranh xâm lược do Đặng Tiểu Bình khởi
xướng. Táng tận lương tâm hơn, để làm vừa lòng kẻ thù, chúng đã dám cho
đục bỏ những bia liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu chống quân
thù, không cho phép đưa vào sách giáo khoa về cuộc chiến tranh biên giới
đó để dạy lòng yêu nước nhằm “khơi dậy lòng tự hào tự tôn dân tộc” cho
tuổi trẻ Việt Nam mà chỉ nhồi vào đầu họ 16 chữ vàng oan nghiệt và bịp
bợm!
Nếu so với sắc chỉ ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) của Minh
Thành Tổ trao cho tổng binh Lương Năng, viên tướng viễn chinh xâm lược:
“Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo
Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự,
cho đến cả những loại (sách) ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại
sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt
hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay
thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết
thảy, một mảnh một chữ chớ để còn” thì những giải pháp nói trên được
chính những tay sai ngoại bang thực hiện thì bài bản và “sáng tạo” hơn
nhiều. Đã thế lại còn được sự hỗ trợ quyết liệt của bộ máy bạo lực trấn
áp thẳng tay những ai dám cưỡng lại. Nếu đối chiếu với “sắc chỉ của Minh
Thành Tổ” và những việc làm của Lương Năng thế kỷ 15 trên đất nước ta
thuở ấy thì, ở thế kỷ 21 này, lũ “tổng binh trá hình” được cài đặt một
cách quy mô trên khắp nước ta còn tinh vi và trắng trợn đến mức nào?
Mà nào đã là chuyện quá khứ! Chắc nhiều người vẫn nhớ rõ cách giải thích
vừa lì lợm vừa vô sỉ của những “cán bộ tuyên giáo được trên cử về” làm
báo cáo viên tại các cuộc sinh hoạt Đảng ở cơ sở và các đoàn thể quần
chúng cách đây chưa lâu để học tập đường lối chính sách của Đảng liên
quan đến những điều vừa nêu tưởng cũng chẳng cần nhắc lại. Tinh thần yêu
nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc chính là nội dung bọn dư luận viên này
né tránh vì sẽ dễ dàng khơi dậy những câu hỏi dồn chúng vào ngõ cụt.
Thì đó, chuyện Trương Đức Giang, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội
Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (Chủ tịch Nhân đại) của Trung Quốc nghễu
nghện ngồi trên đầu các ông bà nghị Việt Nam tại phòng Diên Hồng để dự
khán Quốc hội Việt Nam đang họp thì so với những việc làm của tên tổng
binh Lương Năng xưa trong việc hủy diệt lòng tự hào tự tôn dân tộc của
người Việt Nam, thủ đoạn nào gian manh, xảo quyệt hơn?
Xin nhắc với những ai thiết kế nên, hoặc bị ép phải thực hiện chuyện “dự
khán” trơ trẽn này để các ông nghị, bà nghị Việt Nam ngồi tại phòng
Diên Hồng hôm đó, nơi mà chưa lâu họ Tập đã đến ban truyền chiếu chỉ và
các vị đã im thin thít “lĩnh chỉ” chứ không dám có mảy may chút phản ứng
nào, hãy nhớ lại lời cảnh báo của nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại: “Kẻ phản
bội Tổ quốc, đầu hàng ngoại bang, vừa không được sự tôn trọng của ngoại
bang, vừa bị sự khinh miệt của đồng bào”. Có lẽ, về “ngoại bang” thì
chúng nó mắc gì phải tôn trọng các vị khi chúng hiểu quá rõ cái tâm thế
của các vị, còn sự khinh miệt của đồng bào thì chắc cũng chẳng cần nói
gì thêm.
Để làm rõ hơn vấn đề trên, hãy nói đến chuyện vừa xảy ra ngày 8/12/2016,
lãnh đạo Hải quân Trung Quốc đã tổ chức kỉ niệm cái gọi là “70 năm thu
hồi Hoàng Sa, Trường Sa”. Ngoài mấy lời phản đối quen thuộc của Người
Phát ngôn Bộ Ngoại giao, thì vẫn là những lời tụng ca quen thuộc lũ kẻ
cướp trắng trợn đó về: “đi sâu thực hiện nhận thức chung quan trọng đạt
được …nắm chắc định hướng đúng đắn trong phát triển quan hệ giữa hai
Đảng và hai nước, tăng cường giao lưu kinh nghiệm quản lý đất nước, sâu
sắc hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện Trung - Việt phát triển ổn định, lành mạnh lâu
dài”! Kẻ thù đã ngang ngược tổ chức lễ “Kỷ niệm 70 thu hồi Hoàng Sa,
Trường Sa”, những vùng lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ta mà chúng xâm
chiếm bằng vũ lực, một hành động có tính toán từ cấp cao nhất, thế mà
lờ tịt chuyện ngang ngược đó đi để rồi kêu gào “khơi dậy lòng tự hào, tự
tôn dân tộc” thì quả là trơ tráo!
Trong bối cảnh hiện nay, nhân kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến
19.12.1946, làm sống lại truyền thống quật cường của dân tộc là điều hết
sức cần thiết trước những thách đố gay gắt mà đất nước đang phải đương
đầu. Nhưng cũng phải thấy rằng đây là chuyện trái khoáy. Trái khoáy là
vì truyền thống ấy đã bị chà đạp bởi một bộ máy cầm quyền hư hỏng và
ngày càng hư hỏng của một bộ phận rất lớn thoái hóa, biến chất đang thao
túng toàn bộ guồng máy vận hành xã hội. Dưới cái vỏ “ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa” bọc ngoài, thực chất chỉ là lợi ích trần trụi và bẩn thỉu của
giai cấp cầm quyền mới được hình thành và củng cố trong quá trình thâu
tóm quyền lực bằng tiền và mọi biến tướng khác. Cho dù cả bộ máy tuyên
truyền dối trá và bịp bợm được mở hết công suất cũng không thể nào che
giấu được cái thực tế nhầy nhụa đã phơi bày trước mắt mọi người. Vì thế,
sự nhẫn nhục chịu đựng của đám đông thầm lặng chỉ là khoảng lặng trước
một cơn bão!
Trong những ngày này, dù muốn hay không, những hình ảnh được gợi lại về
tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh của người Hà Nội trong 62 ngày
đêm kiên cường chiến đấu kìm chân địch để cả nước chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến trường kỳ đang lay động tâm hồn Việt Nam. Với những cựu
chiến binh cũng như với những ai từng cống hiến tuổi trẻ của mình cho sự
nghiệp cứu nước càng xúc động nhớ lại quãng đời chiến đấu với những
đồng đội đã hy sinh, trong lòng càng dâng trào sự phẫn nộ vì sự nghiệp
thiêng liêng của mình đang bị phản bội. “Lòng tự hào, tự tôn dân tộc”
nếu có, thì chính là được khơi dậy từ sự phẫn nộ đó chứ không từ những
lời bẻm mép trơ tráo kia.
Kỷ niệm 70 năm ngày Toàn quốc Kháng chiến 19.12.1946 càng khơi dậy sự
phẫn nộ trong lòng mỗi người Việt Nam có lương tri đang ưu tư về vận
nước khi truyền thống vẻ vang đang bị băng hoại vì một bộ phận cầm quyền
chóp bu đặt lợi ích của chúng, được khoác cho tấm áo “ý thức hệ” rách
nát lên trên Tổ quốc và dân tộc. Máu người không phải là nước lã. Một sự
nghiệp bị phản bội, thì gợi nhớ lại những trang hào hùng của sự nghiệp
ấy sẽ càng làm cho sự phẫn nộ dâng trào.
Cái tứ thơ trong Tống biệt hành của Thâm Tâm trở nên mông lung, giục
giã: “Chí nhớn chưa về bàn tay không / Thì không bao giờ nói trở lại”.
Liệu có phải đang cần một cuộc dấn thân tìm đường mới giữa một “Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt / Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”?
Thì chẳng phải đất nước đang chìm vào bóng hoàng hôn của một triều đại
suy tàn trước ngưỡng sụp đổ đó sao. Bỗng nhớ đến ý của Bùi Văn Nam Sơn
nói hôm rồi: “Cần khẳng định ta đang là ai, cần phải làm gì và làm thế
nào”. Đã chín muồi cho việc tự định hình một cuộc dấn thân mới của những
ai đang ưu tư về vận mệnh đất nước.
18.12.2016
Gs Tương Lai
Tác giả gửi BVN.
____________
*Xem “Cảm Nhận và Suy Tư” in năm 2015. tr.383 và “Mênh mông thế sự” in ngày 20.11.2016, tr. 87.
(Bauxitevn)