Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại

Kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu

Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 2014, 39 năm sau ngày định mệnh 30 Tháng Tư năm 1975, lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã và Miền Nam Tự Do rơi vào tay cộng sản quốc tế, dân chúng Việt Nam

Tác giả: Vann Phan

Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 2014, 39 năm sau ngày định mệnh 30 Tháng Tư năm 1975, lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã và Miền Nam Tự Do rơi vào tay cộng sản quốc tế, dân chúng Việt Nam từ trong nước ra tới hải ngoại nay có thể đi đến một nhận định chung rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được toàn dân ngưỡng mộ và tôn vinh như những anh hùng dân tộc trong lịch sử. Ngược lại, những kẻ từng cầu viện Trung Cộng để đánh lại quân đội đó thì ngày nay đang bị chính “sư phụ” của họ trừng trị thẳng tay bằng những đòn đau điếng liên tiếp, trên bộ cũng như ngoài biển đảo, mà không dám hé miệng kêu ca, bởi vì họ đã lỡ lầm đưa đầu vào miệng cọp qua hành động nhờ vả quá mức quân Trung Cộng trong cả hai cuộc chiến tranh đánh Pháp và chống Mỹ, từ 1946 tới 1975, để Trung Cộng có cớ và có dịp dàn quân lấn sâu vào biên giới Việt Nam, rồi đưa Việt Nam vào thế bị kềm kẹp ngày một nhiều cả về quân sự lẫn kinh tế trong vòng tay “bá quyền nước lớn” của họ.

Nên nhớ rằng, vào năm 1974, khi Trung Cộng chỉ mới vừa tập trung lực lượng hải quân quanh đảo Hoàng Sa với ý đồ đánh chiếm quần đảo này thì Hải Quân Việt Nam của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tuân hành mệnh lệnh lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tổng tư lệnh quân đội, đã ra tay đánh Trung Cộng trước, chứ không phải đợi kẻ thù phát pháo tấn công rồi mình mới đánh, hoàn toàn trái ngược với chuyện Trung Cộng, hôm 2 Tháng Năm năm 2014, đem tàu chiến và giàn khoan dầu Hải Dương 981 đến chiếm đóng hải phận Việt Nam, xịt nước rồi tông hỏng các tàu kiểm ngư thuộc cảnh sát biển của Cộng Sản Việt Nam, làm một số người trong thủy thủ đoàn Việt Nam bị thương, rồi tuyên bố đây là lãnh hải của họ, nơi họ vĩnh viễn có quyền vĩnh khai thác dầu mỏ mà Cộng Sản Việt Nam chỉ biết một mực răm rắp xin cầu hòa. (1)
Ý nghĩa Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu
Do đâu mà dân chúng Miền Nam Tự Do trước đây và người Việt hải ngoại bây giờ có Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu?
Ngày 19 Tháng Sáu năm nay là kỷ niệm lần thứ 49 Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 19 Tháng Sáu hằng năm được chọn làm Ngày Quân Lực bởi vì vào ngày 19 Tháng Sáu năm 1965, tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chính thức nhận nhiệm vụ điều khiển guồng máy hành chánh và quân sự của Việt Nam Cộng Hòa do Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát của chính quyền dân sự giao phó trước tình hình đất nước đang lâm nguy bởi vì quân Cộng Sản Bắc Việt đang gia tăng cường độ đánh phá các quận lỵ và tỉnh lỵ trên toàn quốc nhằm thôn tính Miền Nam Việt Nam, giữa lúc các đảng phái chính trị tại Miền Nam Việt Nam vẫn liên tục kèn cựa nhau để đòi quyền lợi riêng sau khi guồng máy hành chính của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa bị sụp đổ qua vụ đảo chánh và ám sát Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vào ngày 2 Tháng Mười Một năm 1963. Thêm vào đó, tại nhiều tỉnh, thành trên toàn quốc, sinh viên, học sinh rủ nhau bãi khóa, xuống đường, hoan hô, đả đảo lung tung, trong khi các tín đồ quá khích của cả Phật Giáo lẫn Thiên Chúa Giáo đua nhau yêu sách và tác động ảnh hưởng lên các chính phủ non yếu tại Miền Nam Việt Nam thời hậu Tổng Thống Diệm, tạo nên tình trạng hỗn loạn và hầu như vô chính phủ tại Miền Nam Việt Nam, rất có lợi cho cộng sản.
Sau khi nhận lãnh nhiệm vụ, các tướng lãnh cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã ủy thác cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (trong vai trò quốc trưởng) và Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (trong vai trò thủ tướng chính phủ). Sau khi bản Hiến Pháp mới được ban hành tại Miền Nam Việt Nam vào ngày 1 Tháng Tư năm 1967, và sau các cuộc bầu cử tổng thống và hai viện quốc hội, lần lượt vào các ngày 3 Tháng Chín và 22 Tháng Mười năm đó, nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam ra đời vào ngày 1 Tháng Mười Một năm 1967, với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu là tổng thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là phó tổng thống, trong khi ông Nguyễn Văn Lộc được bổ nhiệm vào chức vụ thủ tướng chính phủ đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa.
Một sắc lệnh được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành sau đó đã quyết định lấy ngày 19 Tháng Sáu hằng năm làm Ngày Quân Lực để đánh dấu một cột mốc lịch sử quan trọng khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng ra điều khiển cùng một lúc nền hành chính quốc gia và tập thể quân đội, nhờ thế mà Việt Nam Cộng Hòa đã đứng vững và sống còn thêm một thập niên nữa trước cuộc chiến tranh xâm lược không ngừng nghỉ của quân Cộng Sản Bắc Việt cho tới ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Chính nghĩa sáng ngời và sứ mạng cao cả của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Sau khi mọi trang sử thời chinh chiến đã được mở hết ra và khi mọi sự thật uẩn khúc của cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã được phơi bày, mọi người đều thấy rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là đội quân đã chiến đấu với chính nghĩa sáng ngời nhất, tức là “bảo vệ nền tự do, dân chủ cùng sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,” và với sứ mạng cao cả nhất, tức là “vì dân trừ bạo,” trong khi kẻ thù của quân đội này, dù là kẻ chiến thắng, chỉ là tập đoàn “cõng rắn cắn gà nhà” từng cầu viện Trung Cộng để đánh lại chính dân tộc mình, và từ khi chiếm được cả giang sơn thì chỉ chuyên cắt đất, dâng biển của tổ tiên để trả nợ cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.
Nếu hiện tượng “sinh vi tướng, tử vi thần,” đã đúng trong trường hợp của các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từ vị Thiếu Tướng Tư Lệnh Vùng 4 Chiến Thuật Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết cho tới vị Ðại Tá Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn quyết tử chứ không chịu đầu hàng địch hồi năm 1975, thì chuyện Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được coi là các anh hùng dân tộc 39 năm sau ngày buông súng chỉ vì bị bức tử cũng là chuyện hợp tình, hợp lý. Văn hóa Việt Nam, dù chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý Khổng-Nho từ Trung Hoa, vẫn không có thói quen trọng văn, khinh võ, bởi lẽ hầu hết các bậc minh quân trong lịch sử Việt Nam đều là những bậc văn, võ kiêm toàn, lấy võ công mà dựng nước, và các vị danh tướng cũng như công thần của đất nước vẫn thường được người dân sùng bái như thần thánh. Sử chép rằng, vào đời Hùng Vương Thứ 6 (2879-258 Trước Tây Lịch), sau khi phá được giặc Ân xâm lấn bờ cõi, Phù Ðổng Thiên Vương đã “hiển thánh,” tức là đã trở thành một vị thánh gọi là “Thánh Gióng.” Ðời Trần Thái Tông (1218-1277), “Ðức Thánh Trần,” tức Hưng Ðạo Ðại Vương, cũng đã “hiển thánh,” tức là được dân chúng tôn thờ như bậc thần thánh vì lòng trung quân, ái quốc của Vương đã cứu nước Ðại Việt khỏi tay quân Nguyên xâm lược đến ba lần.
Hồi trước năm 1975, quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa không ai là không biết rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã từng gọi cuộc chiến đấu chống quân xâm lược từ miền Bắc tiến vào trong suốt 2 thập niên chiến tranh chống cộng sản là “cuộc kháng chiến thần thánh” của dân chúng Miền Nam Việt Nam do bởi những gian lao, khổ nhọc cùng những chiến thắng huy hoàng của chính phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa trong quá trình chiến đấu để giữ nước, từ đất liền tới biển đảo, cho đến khi bị bức tử vì bị người bạn Ðồng Minh – tức các chính trị gia tại Washington – phản bội và bỏ rơi (2), trong khi một bộ phận không nhỏ dân chúng Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ thì còn lầm mê và phản chiến, mãi cho tới khi bị cộng sản lên đè đầu, cỡi cổ rồi mới chịu tỉnh ra, thì đã quá muộn rồi.
Dưới đây là một số trong vô số những sự kiện lịch sử có khả năng biện minh một cách hùng hồn cho chính nghĩa sáng ngời và sứ mạng cao cả của Quân Lực Việt Nam Cộng Hỏa cũng như của các lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia và Xây Dựng Nông Thôn cùng các lực lượng võ trang bán quân sự khác tại Miền Nam Việt Nam trong suốt giai đoạn lịch sử chống quân cộng sản xâm lược từ Miền Bắc tiến vào kéo dài 21 năm trời, từ 1954 đến 1975, khiến cho tập thể này mãi mãi xứng đáng được tôn vinh là những anh hùng của dân tộc:
1. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mất đi đã để lại bao tiếc thương trong lòng dân chúng Miền Nam Tự Do do những thành tích “vì dân trừ bạo” lẫy lừng cũng có mà do cái tính thần “lòng súng nhân đạo cứu người lầm than” cũng có của quân đội này: “Thương dân nghèo, ruộng hoang cỏ cháy/Thấy nỗi xót xa của kiếp đọa đày, anh đi…” (Phạm Ðình Chương/”Anh Ði Chiến Dịch.”) Những vụ truy đuổi và bắn giết thường dân vô tội không nương tay của quân Cộng Sản Bắc Việt trên Ðại Lộ Kinh Hoàng (từ Quảng Trị vào Huế) hồi năm 1972 và “Quốc Lộ 7B” (từ Phú Bổn đến Tuy Hòa) hồi năm 1975 cho thấy người chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, dù trong cuộc lui binh đầy khổ nạn, vẫn không bỏ rơi dân chúng đang một lòng, một dạ chạy theo họ dưới những cơn mưa pháo phũ phàng của quân địch. Chính vì lòng thương dân vô bờ bến đó mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã giành được niềm tin tuyệt đối của dân chúng Miền Nam Việt Nam, không những chỉ có “từ sáu chốn miền Ðồng Nai” không thôi mà là từ Bến Hải đến Cà Mau. (3)
Chỉ vài tháng sau khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cáo chung, dân chúng tại các tỉnh ở Miền Nam Việt Nam – và sau đó, mỉa mai thay, là dân chúng từ các tỉnh ở Miền Bắc Việt Nam – đã đã lũ lượt kéo nhau trốn khỏi Việt Nam, đất nước đang nằm dưới chế độ cai trị hà khắc của những người cộng sản Việt Nam, trên những chiếc thuyền gỗ mong manh và lậu nước, vượt qua Vịnh Thái Lan và Biển Ðông để tìm đến các quốc gia tự do còn lại trên thế giới mà xin tị nạn, tạo nên phong trào “thuyền nhân” bi tráng kéo dài mãi cho tới thập niên 1990 mới chấm dứt. Ðiều này rõ ràng đã nói lên cái chính nghĩa sáng ngời của chính phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã trở thành một thực thể được dân chúng coi là lẽ sống (raison d’être) của Miền Nam Tự Do trong suốt 21 năm dựng nước và giữ nước.
2. Năm 1979, chỉ mới 25 năm sau ngày quân Trung Cộng giúp quân Cộng Sản Việt Nam đánh Pháp tại Ðiện Biên Phủ (1954) và đánh chiếm Miền Nam Tự Do (1975), chính Trung Cộng đã trở mặt đem quân đánh chiếm và tàn sát dân chúng tại 6 tỉnh địa đầu của Miền Bắc Việt Nam trong kế hoạch gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” của nhà lãnh đạo Trung Cộng Ðặng Tiểu Bình.
Ðiều mỉa mai là, hồi 1974, khi Trung Cộng đem tàu chiến đến đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa và bị Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đang bảo vệ Hoàng Sa giáng cho những đòn chí tử, từ Thủ Tướng Bắc Việt Phạm Văn Ðồng cho tới các đơn vị Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam và Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đều hùa theo phe Trung Cộng mà vỗ tay reo mừng, chỉ vì họ cứ tưởng bở rằng Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa lúc đó là để “giữ hộ” quần đảo này cho Việt Nam, rồi sau ngày chiến thắng Miền Nam thì họ sẽ đem trao trả lại cho phía Cộng Sản Bắc Việt (4). Thủ Tướng Bắc Việt Phạm Văn Ðồng lúc bấy giờ đã gởi công hàm cho Trung Cộng, chính thức xác nhận vùng lãnh hải của Trung Cộng bao trùm luôn cả quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
3. Năm 1984, chỉ 5 năm sau ngày tấn công lấn chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, quân Trung Cộng lại tiến đánh Núi Lão Sơn, tức cao điểm 1509, và núi Giả Âm Sơn, tức cao điểm 1250, của Việt Nam, rồi tràn ngập và chiếm đóng vĩnh viễn 2 nơi này, khiến biên giới Việt-Trung phải một phen di dời cột mốc đã có tự ngàn xưa. Biến cố này cho thấy cuộc chiến tranh xâm lược gieo chết chóc và tàn phá tại Miền Nam Việt Nam hồi trước năm 1975 -mà những người cộng sản gọi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” – của Cộng Sản Việt Nam đã mất hết chính nghĩa khi chính người đồng minh thân thiết “môi hở, răng lạnh” của họ mới chính là kẻ thù hung ác mà họ phải chống đánh để cứu nước và giữ nước, chứ không phải quân và dân Miền Nam Tự Do hiền hòa mà họ đã lầm lẫn thù hằn và gây hấn. Phải biết rằng các lực lượng hải quân của Miền Nam Việt Nam đã kiên quyết giáng trả những đòn chí tử vào hải quân Trung Cộng để bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước đó 1 thập niên.
4. Năm 1988, chỉ 4 năm sau ngày chiếm đất của Việt Nam tại các cao điểm 1509 và 1250 ở Miền Bắc Việt Nam, “bậc thầy” Trung Cộng đã mang lực lượng hải quân đến tấn công và đánh chiếm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa, nơi một đơn vị Hải Quân Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam đang trấn giữ sau khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Một lầu nữa, Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam phải nhận thức rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là đội quân có chính nghĩa nhất trong lịch sử cận đại của Việt Nam, với lập trường cương quyết bao vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia chống lại bất cứ kẻ thù nào đến từ bất cứ nơi đâu.
5. Chỉ 11 năm sau ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã và Miền Nam Việt Nam Tự Do rơi vào tay cộng sản, chế độ cộng sản tại Việt Nam đã thật sự phá sản qua chính sách gọi là “Ðổi Mới Kinh Tế” vào năm 1986, theo đó Cộng Sản Việt Nam, tức nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngoại trừ việc vẫn cứ bám víu vào thế độc quyền cai trị đất nước của người cộng sản, đã khởi sự đi theo con đường “làm ăn” của chủ nghĩa tư bản mà họ từng không tiếc lời miệt thị và chửi bới, đồng thời lên tiếng cầu cạnh các nhà tư bản của Ðế Quốc Mỹ, kẻ từng “xâm lược nước ta và là kẻ thù của nhân dân ta,” đổ vốn vào Việt Nam để cứu vớt dân tộc “ta” khỏi chết đói vì sự phá sản của chủ nghĩa xã hội mà “ta” đã lỡ tiến thẳng lên đó từ cả chục năm rồi. (5)
6. Từ thập niên 1990 trở đi, với sự bùng nổ của kỷ nguyên Internet và sự xuất hiện của các trang mạng xã hội toàn cầu, dân chúng tại nước Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam, hiểu biết hơn, đã bắt đầu tranh đấu chống bạo quyền cộng sản trong nước, làm cái điều mà hơn 1 thập niên trước dân chúng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Miền Nam Tự Do đã làm nhưng không thành công, chỉ vì bị đám dân chúng ngu dốt chuyên nghe theo lời Việt Cộng mà phá hoại nỗ lực chống cộng cũng như vì bị thế giới lầm mê tin theo các luận điệu tuyên truyền dối trá của Cộng Sản Quốc Tế mà xúm lại đánh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho tới khi bại trận. Thế là các phong trào của những “người bất đồng chính kiến,” những “nhà tranh đấu cho dân chủ đa nguyên,” những “dân oan khiếu kiện,” những “nhà báo lề trái,” những “blogger vì tự do, dân chủ” – và đáng kể hơn cả là phong trào “bỏ Ðảng, trả thẻ Ðảng” trong số các đảng viên gạo cội của Ðảng Cộng Sản Việt Nam – rùng rùng nổi lên. Những khuôn mặt đối kháng đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là cựu Trung Tướng Trần Ðộ, cựu Trung Tá Trần Anh Kim, và cựu đảng viên Cộng Sản Lê Hiếu Ðằng.
7. Mới đây nhất là các phong trào “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” và “Vinh danh các chiến sĩ Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa” của dân chúng từ Nam chi Bắc và từ Sài Gòn tới Hà Nội. Trong khi các phong trào này đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải từ bỏ thái độ ươn hèn trong cuộc tranh chấp biển đảo với quân bá quyền bành trướng Trung Cộng thì họ cũng đã phần nào đề cao chính nghĩa sáng ngời của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong sứ mạng diệt thù để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc.
8. Ba sự kiện gây ngạc nhiên lớn trong dịp tưởng niệm biến cố 30 Tháng Tư đau thương của dân tộc Việt Nam năm nay là việc cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vị anh hùng đã tuẫn tiết trong ngày Miền Nam Việt Nam sụp đổ cách nay 39 năm, đã được các thuộc cấp cũ của ông cũng như một số thường dân tại Sài Gòn lam lễ tưởng niệm; việc hơn 400 thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa được dân chúng chào đón và vinh danh qua buổi lễ “Tri ân các ông thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa” tại Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn; và việc một nhóm dân chúng, gọi là “dân oan,” đã mở một cuộc biểu tình “bỏ túi” trên các đường phố Sài Gòn để tưởng niệm ngày 30 Tháng Tư mà cho tới bây giờ dân chúng khắp nơi tại Việt Nam đều nhìn nhận là “ngày quốc hận” chứ chẳng phải là ngày “giải phóng Miền Nam Việt Nam” chút nào như chính quyền Cộng Sản Việt Nam đã rêu rao suốt 39 năm qua.
9. Những diễn biến mới nhất về các cuộc đụng độ trên biển giữa lực lượng Cảnh Sát Biển Cộng Sản Việt Nam và các tàu hải quân cũng như hải giám có nhiệm vụ bảo vệ giàn khoan dầu bất hợp pháp Hải Dương 981 của của Trung Cộng ngoài khơi đảo Lý Sơn trong hải phận Việt Nam từ những ngày đầu Tháng Năm năm 2014 đã cho thấy một điều nổi bật là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu thật vô cùng sáng suốt khi hạ lệnh cho Hải Quân Việt Nam của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mở cuộc tấn công trực diện vào đoàn tàu xâm lược Trung Cộng trong trận chiến bảo vệ đảo Hoàng Sa cách nay 40 năm, mặc dù hải quân Miền Nam Việt Nam đã thất bại vì lực lượng không cân xứng và vì bị Ðồng Minh Mỹ bỏ rơi, không chịu giúp sức.
Gần đây, viên phi công Nguyễn Thành Trung, một cựu trung úy Không Quân, từng phản bội Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà theo về với địch rồi lái chiếc oanh tạc cơ A-37 cướp được của Không Quân Việt Nam bay đến thả bom Phi Trường Tân Sơn Nhứt vào ngày 29 Tháng Tư năm 1975, ý chừng đã phản tỉnh, có viết một bài ca ngợi Không Quân Việt Nam Cộng Hòa về sự thể, vào lúc sắp xảy ra trận đánh Hoàng Sa chống quân Trung Cộng xâm lược hồi Tháng Giêng năm 1974, đã có vô số người hùng Không Quân Việt Nam tình nguyện lập một phi đội “quyết tử” để bay ra Hoàng Sa đánh chìm các chiến hạm Trung Cộng mà hỗ trợ cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trong trận chiến bảo vệ quần đảo này. Tiếc rằng kế hoạch đó đã không được thực hiện, bởi vì Ðồng Minh Hoa Kỳ lúc bấy giờ đã cực lực phản đối cuộc hành quân quyết tử đó và hăm dọa sẽ cúp viện trợ quân sự dành cho phía Việt Nam nếu các phi công Việt Nam nói trên mở cuộc tấn công vào các tàu chiến Trung Cộng (6). Sự thật thì Hoa Kỳ, tức Nixon và Kissinger, đã thỏa thuận để cho Trung Cộng chiếm lấy Hoàng Sa, với ảo tưởng rằng cứ điểm này, do nước “đồng minh mới” của Mỹ trấn đóng, sẽ ngăn chặn Liên Sô từ Vịnh Cam Ranh tiến ra sau khi cộng sản đã chiếm được Miền Nam Việt Nam – như kế hoạch mà các cường quốc từng thỏa thuận với nhau trên bàn cờ quốc tế – nhưng không ngờ Liên Xô lại tan rã sớm, làm Mỹ thấy mình bị hố to khi Trung Cộng, tương kế, tựu kế, đã dùng Hoàng Sa để tiến chiếm gần hết Biển Ðông, thu hẹp đáng kể vùng hoạt động của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ từ Biển Nhật Bản tới Ấn Ðộ Dương.
Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa gắn liền với vận mạng đất nước
Từ các sự kiện nói trên, dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc và tập thể người Việt ở hải ngoại có thể đi đến kết luận rằng Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã gắn liền với vận mạng của đất nước, hay nói cách khác, luôn hiện diện trong “dòng sinh mệnh” của dân tộc Việt Nam do tấm gương sáng ngời về đạo đức làm người, về tinh thần thượng võ, và về chính nghĩa bảo vệ tự do, dân chủ mà hai thực thể đó đã thể hiện trong cuộc hiện hữu ngắn ngủi của mình.
Những sự kiện dưới đây có khả năng làm sáng tỏ kết luận đó.
Thứ nhất, khi đọc lại lịch sử Việt Nam thời cận đại, đa số người Việt Nam vẫn cho rằng giai đoạn huy hoàng và thời kỳ no cơm, ấm áo nhất của dân tộc Việt Nam là 21 năm dưới hai nền Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam, từ 1954 đến 1975, một thời đại vàng son mà khi còn đó thì không ai để ý thấy, chỉ khi đã mất đi rồi thì mới biết là không thể nào tìm lại được, nhất là sau khi toàn bộ đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc đã nằm gọn trong vòng kềm kẹp của chế độ độc tài, đảng trị của những người Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên, trước đó, toàn dân Việt Nam từ Nam Quan cho tới Cà Mau cũng đã được hưởng cảnh ấm no, hạnh phúc trong một khoảng thời gian ngắn hơn, chừng 7 năm, dưới chính thể Quốc Gia Việt Nam (État du Vietnam) do Quốc Trưởng Bảo Ðại lãnh đạo. Quốc Gia Việt Nam được thành lập sau khi Pháp chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long vào ngày 5 Tháng Sáu năm 1948, với Cựu Hoàng Bảo Ðại là Quốc Trưởng và lần lượt dưới quyền các Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Phúc Bửu Lộc và Ngô Ðình Diệm. Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được thành lập vào ngày 8 Tháng Mười Hai năm 1950, và cho đến ngày 26 Tháng Mười năm 1956 thì trở thành Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, rồi sau đó được gọi là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa kể từ ngày 19 Tháng Sáu năm 1965, tức Ngày Quân Lực của Miền Nam Tự Do. Ngày 20 Tháng Bảy năm 1954, Hiệp Ðịnh Geneva chia đôi đất nước Việt Nam, với nửa phía Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở ra, thuộc quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Chủ Tịch Hồ Chi Minh lãnh đạo, và nửa phía Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào, thuộc quyền Quốc Gia Việt Nam do Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lãnh đạo. Ngày 26 Tháng Mười năm 1956, Ngô Thủ Tướng ban hành bản Hiến Pháp đầu tiên của đất nước, lấy quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa, và Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm trở thành vị tổng thống đầu tiên của nền Cộng Hòa Việt Nam.
Thứ nhì, những người Việt Nam nào từng biết đến đất nước dưới thời Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa đều nhận thấy đất nước và con người Việt Nam ngày nay thật là tồi tệ, lộ liễu nhất là sau những vụ bạo động, đập phá và hôi của các hãng xưởng Trung Cộng và cả những hãng xưởng ngoại quốc vào những ngày đầu Tháng Năm năm 2014 để bày tỏ phản ứng giận dữ – một cách hỗn loạn và vô luật pháp – của công nhân Việt Nam trước vụ Trung Cộng đem Giàn Khoan Hải Dương 981 lấn sâu vào hải phận Việt Nam để “cắm dùi” chiếm biển mà xác nhận chủ quyền của họ bên trong hải phận Việt Nam. Ðó là chưa kể những hành động có tính vô liêm sỉ, làm nhục quốc thể và tàn ác của người Việt Nam, như vụ dân chúng hôi của làm hỏng Lễ Hội Hoa Anh Ðào do Nhật Bản tổ chức tại Hà Nội, vụ dân chúng cướp thực phẩm phá hỏng cuộc chiêu đãi các món ăn Ðại Hàn miễn phí do tòa lãnh sự Nam Hàn tổ chức tại Sài Gòn, vụ kiều dân Việt Nam tại Ðông Kinh đánh cắp hàng hóa từ các siêu thị ở Nhật rồi đưa cho nhân viên hãng Hàng Không Việt Nam chuyển lậu về nước để đem ra chợ bán, và vụ dân chúng tại nhiều tỉnh đánh chết những kẻ lỡ dại trộm chó hoặc trộm gà trong xóm nhà của họ. Ðó là chưa kể tới những tệ nạn xã hội như trộm cắp, giết người, cướp của, mại dâm… tuy thời nào cũng có và dưới chính thể nào cũng có nhưng lại đặc biệt trầm trọng dưới chế độ “xã hội chủ nghĩa” ngày nay chỉ vì cuộc sống của tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam quá thấp kém và lầm than trong khi một thiểu số người thuộc thành phần “tư bản đỏ” trong xã hội thỉ lại dư thừa tiền bạc tới độ mua sắm được máy bay trực thăng riêng, một điều mà dân chúng tại “Ðế Quốc Mỹ” ngày nay cũng ít người dám mơ tới. Rồi còn biết bao tệ nạn và khổ đau gây ra do những vụ “hợp tác lao động” giữa Việt Nam và các nước ngoài (để cho công nhân Việt Nam ra ngoại quốc làm nô lệ sản xuất và bị bóc lột tàn tệ) cũng như những vụ “làm dâu nước ngoài” (khi phụ nữ Việt Nam phải bán mình và bán thân cho những chú rể hoặc gia đình chú rể tại các nước láng giềng để bị hành hạ thể xác hoặc biến thành nô lệ tình dục), tất cả chỉ vì dân chúng đã bị bần cùng hóa đến tột độ trong một đất nước vừa cực kỳ độc tài vừa dẫy đầy tham nhũng. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam bây giờ sẽ phải trả lời trước lịch sử và tổ quốc – nếu tổ quốc đó thoát khỏi nanh vuốt Trung Cộng lần này-lý do vì sao mà họ mới cai trị đất nước chỉ có 50 năm, trong 5,000 năm lịch sử dân tộc, mà đã làm thay đổi tận gốc rễ nền văn minh rực rỡ và đầy tính nhân bản của Việt Nam đến mức tồi tệ hết chỗ nói trong hiện tại, một việc làm mà trên suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam, không một chế độ nào khác trên mảnh đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương có khả năng và đủ nhẫn tâm thực hiện (7), khiến cho dân chúng Việt Nam ngày nay cảm thấy mình bị “nhục quốc thể” chứ chẳng cảm thấy “hãnh diện vì được làm người Việt Nam” (sau khi ngủ một đêm rồi thức giấc thấy vậy) chút nào, như một anh chàng Cuba nào đó bị chính quyền cộng sản tại nước này ép buộc phải nói thế (mới được cấp thẻ mua thực phẩm hợp tác xã) hồi Cộng Sản Bắc Việt mới chiếm được Miền Nam Tự Do năm 1975.
Thứ ba, có thể nói rằng, kể từ sau khi Triều Ðại Nhà Nguyễn (1802-1945) cáo chung vào năm 1945, chỉ có Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hậu thân của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, mới xứng đáng được gọi là đội quân chính thống của dân tộc, đã “đem đại nghĩa để thắng hung tàn” và “lấy chí nhân mà thay cường bạo,” như lời của bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi thời Hậu Lê (1427-1789) đã nói trong bài Bình Ngô Ðại Cáo, từng được ông công bố với quốc dân sau khi toàn bộ quân Nhà Minh (1368-1644) chiếm đóng đất nước ta bị đuổi về Tàu và nước Ðai Việt, một lần nữa, trở thành một quốc gia độc lập, tự chủ. Các chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn là đối tượng được ngưỡng mộ và ca ngợi qua các sáng tác trong nền văn chương và âm nhạc của Miền Nam Việt Nam suốt 2 thập niên chiến tranh. (8) Những kẻ chiến thắng từng miệt thị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là “ngụy quân” thì nay, mỉa mai thay, chính họ mới là kẻ đáng bị gọi là “ngụy quân,” bởi vì cái chính quyền đẻ ra họ chưa bao giờ là một chính quyền do dân chúng bầu lên một cách dân chủ và vì thành tích “cõng rắn cắn gà nhà” của họ trong 2 cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua cũng như vì hành động khúm núm trước quân Tàu của họ trong hiện tại. Nhạc sĩ trẻ Việt Khang, kẻ đang bị nhà cầm quyền Hà Nội bỏ tù – không biết cho tới bao giờ mới được trả tự do – vì lập trường chống Trung Cộng xâm lược Việt Nam, từng hát câu sau đây, ngụ ý rằng nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc, khi đã hiểu rõ bộ mặt bịp bợm và những luận điệu tuyên truyền dối trá của giới lãnh đạo cộng sản Hà Nội trước và sau cuộc Chiến Tranh Việt Nam chỉ với mỗi một mục đích là giành lấy chính quyền vào tay họ cho bằng được, thì mọi sự đã muộn màng rồi: “Việt Nam ơi/Thời gian quá nữa đời người/Và ta đã tỏ tường rồi/Ôi cuộc đời, ngày sau tàn lửa khói&” (Việt Khang/”Việt Nam Tôi Ðâu.”) Sau những hy sinh gian khổ trong công cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, từ đất liền cho tới biển đảo, và trước khí phách rạng ngời mà người quân nhân Việt Nam Cộng Hòa từng biểu tỏ trước cảnh nước mất, nhà tan – trong đó có việc tuẫn tiết hoặc chiến đấu tới hơi thở cuối cùng của 5 vị tướng, 1 vị đại tá và 2 vị trung tá cảnh sát- chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – bao gồm luôn lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia, lực lượng Xây Dựng Nông Thôn và các lực lượng bán quân sự đã cùng nhau chiến đấu dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ của Miền Nam Tự Do – đang ngày càng ngời sáng trên toàn thế giới. Chính nghĩa này đã làm cho dư luận toàn cầu phải sám hối vì đã “trót nghe theo lời u mê” của Cộng Sản Quốc Tế mà hè nhau tấn công Miền Nam Tự Do qua nhiều mặt trận, khiến cho chiếc tiền đồn duy nhất của Thế Giới Tự Do thời Chiến Tranh lạnh phải sụp đổ. (9) Chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa cũng đã làm hổ thẹn biết bao nhiêu kẻ phản chiến ngày xưa từng quay lưng lại với cuộc “kháng chiến thần thánh” của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa và từng “đâm sau lưng chiến sĩ” qua việc ra sức cổ võ cho kẻ thù đang xâm lược Miền Nam Tự Do để họ nhanh chóng nhận chìm dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc xuống làn sóng đỏ lầm than, thống khổ, phải “rên xiết đêm ngày” – như lời văn công cộng sản Huỳnh Minh Siêng nói xấu dân tình tại Sài Gòn, qua bài hát “Tiến Về Sài Gòn” trước giờ thành phố này rơi vào tay quân cộng sản.
Thứ tư, chính vì cái chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa ngày càng sáng tỏ như thế mà những người Việt Nam công chính từ trong nước ra tới hải ngoại đều không khỏi buồn lòng khi thấy, giữa lúc dân chúng trong nước ngày càng khinh miệt và thù ghét chính quyền cộng sản đang cai trị họ, thì một số không nhỏ những người Việt tại hải ngoại lại ngày càng tôn sùng đồng tiền do những người cộng sản tung ra mồi nhử, rồi thỏa hiệp với giới lãnh đạo cộng sản tai Hà Nội mà quên đi cái “căn cước tị nạn” của mình. Thử hỏi, nếu không có những hy sinh gian khổ của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản để bảo vệ tự do, dân chủ tại Miền Nam Việt Nam thì những người tị nạn Việt Nam trên toàn thế giới sẽ lấy lý do gì để xin được đến định cư tại các nước tự do, dân chủ khác, chưa nói tới chuyện họ có xứng đáng được các quốc gia tự do, dân chủ đó đón nhận và bảo bọc cho tới ngày nay hay không?
Thứ năm, trước sự thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được tôn vinh là những vị anh hùng dân tộc nhờ công lao hãn mã trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của họ, Quân Ðội Nhân Dân của Cộng Sản Việt Nam có thể sẽ làm một cái gì đó ngoạn mục để lấy lại uy tín đã mất sau gần 40 năm vì “trung với Ðảng” mà trở thành thù địch với dân tộc và luôn phải chịu nhục trước quân Trung Cộng xâm lấn biên thùy, biển đảo. (10) Uy tín từ trận Ðiện Biên Phủ năm xưa (1954) nay đã bị xói mòn gần hết khi Trung Cộng khoe khoang rằng chính họ – và cũng có thể là cả Cộng Sản Bắc Hàn, những kẻ có mặt mũi nom giống Việt Nam- đã đưa chí nguyện quân gồm quân bộ chiến và pháo binh vào chiến trường Ðiện Biên Phủ để giúp Tướng Võ Nguyên Giáp đánh Tướng Christian de Castries của Pháp, và nhất là khi Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam liên tiếp bị Quân Ðội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc uy hiếp và đè bẹp từ đất liền cho tới biển đảo. Hầu hết các chuyên gia lạc quan đều tiên đoán rằng 3 lực lượng đang cai trị Việt Nam hiện nay, là Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Quân Ðội Nhân Dân, và Công An Nhân Dân, sẽ sụp đổ trước khí thế đấu tranh của dân chúng từ Nam chí Bắc đã chán ghét họ tới tột cùng.
Ðiều này có thể đúng. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là Cộng Sản Việt Nam và các công cụ kềm kẹp dân chúng của họ sẽ sụp đổ như thế nào. Các thể chế độc tài, chuyên chế hoặc các Ðế Quốc, cỡ Ðế Quốc La Mã hoặc Ðế Quốc Anh và Ðế Quốc Pháp, cho dù hùng mạnh đến đâu, cũng đều có ngày sụp đổ. Nhưng Ðế Quốc La Mã (Thế kỷ 1 Trước Công Nguyên – Thế kỷ 6), Ðế Quốc Anh và Ðế Quốc Pháp (Thế kỷ 17-Thế kỷ 20), tất cả đã sụp đổ vào lòng dân tộc của họ chứ không sụp đổ vào tay ngoại bang, cho nên ngày nay người ta vẫn còn chứng kiến được các nền văn minh huy hoàng của Ý, Anh và Pháp còn tồn tại từ cả nghìn năm qua. (Ngay cả Ðế Quốc Nguyên Mông khi sụp đổ cũng đã sụp đổ vào lòng dân tộc Trung Hoa, là nơi quân Nguyên Mông đến chinh phục, sau đó ở lại cai trị Trung Nguyên và bị người Hán đồng hóa luôn.) Còn Việt Nam thì e rằng khác, bởi vì khi cả 3 thực thể là Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam và Công An Nhân Dân Việt Nam, tức là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, sụp đổ thì lại họ lại sụp đổ ngay vào tay Trung Cộng, nơi mà 3 thực thể đó từng được nuôi dưỡng và ru ngủ kể từ khi Ðảng Cộng Sản Việt Nam được Hồ Chí Minh thành lập hồi năm 1930 cho tới ngày nay. (11) Như vậy, tương lai Việt Nam sẽ ra sao đây ngay cả sau khi Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Quân Ðội Nhân Dân, và Công An Nhân Dân Việt Nam đều sụp đổ? Lúc đó, Việt Nam có thể sẽ là một Crimea (ở Ukraine) của Trung Cộng, bởi vì hiện đã có hằng triệu người Hoa được Trung Cộng cài vào Việt Nam, tại các “khu dành riêng cho người Hoa” – khu cư dân được hưởng đặc quyền, đặc lợi riêng, không hề giống như những Chinatown ở các nước Tây phương chút nào cả- mà tỉnh nào, thành phố nào ở Việt Nam ngày nay cũng có (12), dưới hình thức các chuyên gia, dân buôn bán, khai thác khoáng sản, kinh doanh, lao động, thuê mướn đất canh tác dài hạn, con rể, con dâu, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, và thậm chí còn là các cố vấn quân sự và hành chính trong guồng máy chính quyền Cộng Sản Việt Nam nữa. Ðiều đáng lo sợ nhất cho dân tộc Việt Nam là rất có thể nhạc sĩ Việt Khang đã đúng khi anh buộc miệng hát lên: “Cội nguồn ở đâu khi thế giới này đã không còn Việt Nam?” (Việt Khang/”Anh Là Ai”), có nghĩa là Việt Nam không còn đứng vững được nữa sau hơn 4,000 năm. (13)
Thứ sáu, cho dù lịch sử Việt Nam sẽ chuyển biến ra sao và về hướng nào đi nữa trong tương lai, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân đội hùng mạnh và đầy tính nhân đạo nhưng đã bị bức tử từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975, cũng đã trở thành bất tử (14) – như ý nhạc trong ca khúc “Anh Không Chết Ðâu Anh,” của Trần Thiện Thanh – và đã thực sự trở thành những người anh hùng dân tộc để cho dân chúng Việt Nam từ Nam chi Bắc mãi mãi tôn vinh, không phải chỉ ở “trong lòng muôn người biết yêu đời lính” mà còn ở trong khối óc và con tim của muôn triệu con người Việt Nam chân chính biết yêu thương tổ quốc và giống nòi.
Sau cùng, điều nổi bật là Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, qua 21 năm hiện hữu tuy ngăn ngủi nhưng đầy hào quang, đã trở thành ngọn đuốc sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam trong tương lai nếu, nhờ ơn Quốc Tổ Hùng Vương, tương lai đó vẫn còn nằm trong vòng tay của dân tộc Việt Nam sau bao cuộc bể dâu và thăng trầm của lịch sử.
Vann Phan

Ghi chú:

(1) Qua vụ Giàn Khoan Hải Dương 981, Trung Cộng đã lộ rõ bộ mặt xâm chiếm đất đai và biển đảo của Việt Nam đến thế mà trong diễn văn vào ngày 30 Tháng Năm năm 2014 tại Diễn Ðàn Shangri-La ở Singapore, Tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, lại cố giảm nhẹ hành động xâm lược đó xuống hàng một xích mích tầm thường giữa các anh em trong một gia đình. Nhật báo Người Việt tại California, số ra ngày 2 Tháng Sáu, trích dẫn lời tuyên bố của Tướng Thanh tại hội nghị đó như sau: “Quan hệ giữa Việt Nam và ‘nước bạn láng giềng Trung Quốc’ về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Ðông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng.” Cũng theo ông Thanh, “trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.” Cũng theo báo Người Việt, một blogger có nickname là “Cầu Nhật Tân” đưa ra nhận định rằng phát biểu của ông Thanh đã đưa Hoa Kỳ và Nhật vào “thế việt vị” (tức là bị “trớt quớt”). Trước đó, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel đã công khai cáo buộc Trung Quốc gây bất ổn ở biển Ðông và xem vụ Giàn Khoan Hải Dương 981 là hành động đe dọa quá trình phát triển của khu vực. Trước ông Hagel, với tư cách một diễn giả chính của Diễn Ðàn Shangri-La, ông Shinzo Abe, thủ tướng Nhật, quả quyết rằng Nhật sẽ ủng hộ tối đa cho nỗ lực bảo vệ an ninh hải phận và không phận, duy trì tự do hàng hải và tự do hàng không của các quốc gia trong Khối ASEAN.
 
(2) Các chính trị gia thuộc đảng Dân Chủ tại cả Thượng Viện và Hạ Viện Hoa Kỳ lúc bấy giờ vẫn chủ trương Hoa Kỳ phải chấm dứt cuộc chiến tranh tại Việt Nam bằng bất cứ giá nào để dùng tiền bạc (của người đóng thuế Mỹ) vào các chương trình phúc lợi xã hội trong nước, một lập trường đúng đắn vì quyền lợi nước Mỹ nhưng đã bất chấp đạo lý làm người và tình bè bạn mà những nước thật sự là đồng minh với nhau sẽ không bao giờ làm vậy. (Sau Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của Việt Nam, hồi năm 1975, Tổng Thống Hosni Mubarak của Ai Cập, hồi năm 2011, cũng bị người bạn đồng minh Mỹ bỏ rơi không tiếc xót một khi Mỹ thấy cần phải bảo vệ quyền lợi của riêng họ.) Vào giai đoạn Quốc Hội Hoa Kỳ cắt đứt tất cả viện trợ quân sự và kinh tế dành cho Việt Nam Cộng Hòa, thời Tổng Thống Gerald Ford, đảng Dân Chủ đang nắm đa số tai cả 2 viện Quốc Hội.
(3) Lời trong nhạc phẩm “Anh Ði Chiến Dịch” của Phạm Ðình Chương. Trên hết tất cả, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là đội quân có tinh thần “võ sĩ đạo” và mã thượng nhất thế giới. Hồi năm 1975, vào lúc tuân lệnh các chính trị gia tại Washington mà bỏ rơi hoàn toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân địch để an toàn rút khỏi Miền Nam Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ từng dự trù có lúc phải chống trả các lực lượng của quân đội Miền Nam Việt Nam sau khi họ đã bị trắng trợn bỏ rơi, nhưng điều đó đã không xảy ra, mà thay vào đó nhiều cấp chỉ huy cùng binh lính Việt Nam Cộng Hòa đã chọn việc quay súng tự sát hoặc chiến đấu đến viên đạn cuối cùng để biểu lộ khí phách anh hùng của người quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng để tạ lỗi với tổ quốc chứ không quay súng bắn vào người bạn “Ðồng Minh tháo chạy” như họ tưởng. Kinh nghiệm đau thương của quân đội Mỹ, từng bị các “đồng minh” của họ từ Iraq đến Afghanistan bắn giết dã man, cho thấy các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thật sự là đồng minh thân thiết và đáng nể phục nhất của quân đội Mỹ trong suốt dòng lịch sử.
(4) Theo lời bà bà Bảy Vân, phu nhân cố Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẫn, Ông Duẫn từng giải thích vụ Trung Cộng đem quân chiếm Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa bằng câu: “Ta nhờ Trung Quốc giữ hộ Hoàng Sa….”
(5) Nhiều người Việt Nam vẫn không hiểu tại sao sau khi Liên Xô sụp đổ (hồi 1991), Cộng Sản Việt Nam lại ngã vào vòng tay ôm siết của Trung Cộng, kẻ thù truyền kiếp mà trong thời cận đại đã 3 lần đánh Việt Nam chí tử trên bộ cũng như trên biển trong các năm 1979, 1984 và 1988, mà không nhích lại gần hơn với Mỹ, cũng là một trong những kẻ thù cũ của họ. Người ta lại càng tức tối hơn khi thấy sau vụ Trung Cộng tiếp tục xâm lấn biển đảo Việt Nam bằng Giàn Khoan Hải Dương 981 mới đây, Cộng Sản Việt Nam vẫn không chịu bỏ Tàu mà theo Mỹ để được bảo vệ, như Nhật và Phi Luật Tân. Một lý do thầm kín có thể giải thích điều nghịch lý này: Nếu Cộng Sản Việt Nam theo Mỹ để giải quyết quyết cái nghịch lý ngày nay thì họ lại tạo nên một nghịch lý khác, đó là tại sao hồi xưa Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản Việt Nam phải “theo Tàu chống Mỹ cứu nước” để gây nên cảnh núi xương, sông máu, gieo tàn phá, tang tóc, điêu linh cho đất nước từ Nam chi Bắc suốt gần 3 thập niên? Ðó là chưa kể tới chuyện kháng chiến chống Pháp, hóa ra, cũng đã là chuyện sai lầm nghiêm trọng khi, theo tiến trình tự nhiên của lịch sử, chủ nghĩa thực dân toàn cầu phải dần dần cáo chung. Hóa ra, “ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta” đúng như lời Lê Duẫn, Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam, từng nói.
(6) Cựu Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ, lúc còn nắm quyền Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, từng yêu cầu phía Hoa Kỳ phải cung cấp cho Không Quân Việt Nam các phản lực chiến đấu cơ F-4 Phantom II đủ sức bay xa tới Hà Nội và biên giới Trung Cộng rồi quay về, để Không Quân Việt Nam tiện việc hành quân Bắc phạt mà không cần phải nhờ vả phi cơ Mỹ hộ tống. Nhưng phía Mỹ vẫn muốn kềm hãm phía Việt Nam Cộng Hòa và bắt họ phải tùy thuộc vào Mỹ nên chỉ trang bị cho Không Quân Việt Nam loại phản lực chiến đấu cơ F-5A/B/C Freedom Fighter và sau đó là F-5E Tiger II, có khả năng oanh kích yểm trợ hữu hiệu trên các chiến trường trong phạm vi Miền Nam Việt Nam nhưng lại có tầm hoạt động rất ngắn, cho nên nếu Không Quân Việt Nam tham chiến tại Hoàng Sa để yểm trợ cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chống quân Trung Cộng (hồi năm 1974) thì các phi công chỉ đủ sức từ Ðà Nẵng bay ra Hoàng Sa chiến đấu chừng 15 phút thì phải quay về vì đã hết xăng, dù phi cơ đã được lắp bình xăng phụ.
(7) Vì toàn bộ đất nước Việt Nam tồi tệ đến như vậy dưới chế độ cộng sản, thế mới biết Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, lúc bấy giờ, đã đúng khi xác định lập trường kiên quyết chống cộng của Miền Nam Việt Nam ngay từ đầu. (Vì ông Ngô Ðình Diệm chống cộng nên mới được Mỹ ủng hộ chứ không phải Mỹ ủng hộ ông Diệm để bắt ông phải chống cộng cho Mỹ như lời cộng sản vẩn gièm pha nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa.) Vị thủ tướng (và sau đó là tổng thống) họ Ngô cũng đã sáng suốt khi ông không chấp nhận tổ chức bầu cử thống nhất đất nước với Cộng Sản Bắc Việt trong vòng 2 năm sau khi Hiệp Ðịnh Geneva 1954 được ký kết, bởi vì, trên thực tế, nếu cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước được thực hiện ngay vào thời điểm đó thì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng Sản Bắc Việt) đã thắng và sát nhập Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam Tự Do) vào lãnh thổ của họ rồi, chứ không cần phải đợi đến khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, bởi vì, ngoài chuyện dùng thủ đoạn khủng bố đe dọa cử tri phải bỏ phiếu cho họ – mà ghê gớm nhất là việc đêm đêm du kích xách dao, mang súng đến từng nhà bắt những người bị coi là phản động rồi đem ra đồng trống hoặc bờ sông bắn bỏ xong thủ tiêu xác – những người cộng sản Việt Nam, vào lúc đó, vẫn có một “ma lực” lớn lao, thu hút đa số quần chúng thiếu ý thức chính trị và chưa hiểu biết gì về chủ nghĩa cộng sản ngoài Bắc cũng như trong Nam. Vì thế, đa số dân chúng sẵn sàng không bỏ phiếu cho ông Ngô Ðình Diệm mà dồn phiếu cho ông Hồ Chí Minh, một lãnh tụ đầy huyền thoại nhưng sự thật lại là là kẻ vô đạo đức và cực kỳ ham mê nữ sắc –từng ra lệnh thủ tiêu chính người vợ đã sinh con nối dõi cho mình để bảo vệ nếp sống đạo đức giả của ông, theo đó những người cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng Hồ Chủ Tịch đã chọn nếp sống độc thân để có thể hiến mình trọn vẹn cho tổ quốc – như sau này lịch sử đã phanh phui ra. Ngay cả tới năm 1975, trước khi có dịp sống với và hiểu rõ chế độ cộng sản, một số không nhỏ trí thức thành phố và dân quê tại Miền Nam Việt Nam, với bản tình “đứng núi này, trông núi nọ” cố hữu của dân tộc, vẫn nghĩ rằng chế độ cộng sản của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay hơn và tốt hơn chế độ tự do, dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa. Sự thật thì giới lãnh đạo cộng sản, cứ y như là những đứa con hư trong một gia đình giàu có, chỉ chuyên vơ vét các tài sản quốc gia như dầu khi, bô-xít, vàng mỏ, than mỏ, lâm sản, hải sản, thú quý… của tổ tiên để lại để làm của riêng phòng khi đảng cộng sản thất thế thì chạy ra ngoại quốc mà sống đời lưu vong nhưng vẫn được vinh thân, phì da và phè phỡn. Cũng nhờ Tổng Thống Diệm quyết định như vậy mà dân chúng tại Miền Nam Tự Do mới được hưởng 21 năm ngắn ngủi có đầy đủ tự do, dân chủ, đầy đủ cương thường, đạo lý và no cơm ấm áo trong một giai đoạn lịch sử luôn được coi là huy hoàng nhất của Việt Nam thời hậu Pháp thuộc.
(8) “Hỡi người trai lính em yêu ơi/hỡi người anh chốn xa xôi/áo xanh pha màu lá/Có khi em ngỡ rằng mình yêu nhau từ kiếp trước/tới bây giờ mơ ước thành duyên tơ/để má em thêm hồng…” (Anh Chương-Trần Thiện Thanh/”Người Yêu Của Lính.”)
(9) Cái thế giới lầm mê chuyên nghe lởi cộng sản mà chống Mỹ, chống Việt Nam Tự Do này rất bao la, bao gồm nhiều nhà lãnh đạo quốc gia, nhân sĩ, trí thức ưu việt của thời đại& kể ra không hết: De Gaulle, Olof Palmer, Bertrand Russell, Jean Paul Sartre, Martin Luther King, Jr., Tom Hayden, Jane Fonda, Joan Baez, John Kerry& Sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam kết thúc, dường như chỉ có ca sĩ Joan Baez là biết dẹp tự ái để lên tiếng nhận mình là đã sai lầm rồi mạnh dạn nói lên lời tạ lỗi với hơn 58,000 quân nhân Mỹ đã bỏ mình vì lý tưởng Tự Do trên các chiến trường Ðông Nam Á và hằng trăm nghìn quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh chống cộng tại Miền Nam Việt Nam và trong các cuộc vượt biên, vượt biển tìm tự do sau đó. Khi Trung Cộng khởi sự xâm lược và lấn chiếm trắng trợn đất đai Việt Nam hồi những năm 1979, 1984, 1988 và, mới đây nhất, là vụ xâm lấn hải phận Việt Nam của Giàn Khoan Hải Dương 981 vào Tháng Năm 2014, những người Cộng Sản Việt Nam vẫn nghĩ đến chuyện cầu cứu Mỹ, nhưng lại cảm thấy vô cùng xấu hổ khi trước đây đã lầm mê hô hào cả nước chống Mỹ và đã lỡ viết vào sách giáo khoa câu “Ðế Quốc Mỹ xâm lược nước ta, là kẻ thù của nhân dân ta,” trong khi Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ chưa hề lấy một tấc đất của ai từ sau Thế Chiến 2, kể cả của Nhật Bản là nước đang nằm dưới quyền sinh sát của Tướng Douglas McArthur, vị tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương và là nhà cai trị thật sự của Nhật Bản (the effective ruler of Japan), sau khi Nhật Bản đã đầu hàng Hoa Kỳ không điều kiện vào ngày 2 Tháng Chín năm 1945. Bây giờ, qua vụ Senkaku, tức là Ðiếu Ngư, (ở Biển Hoa Ðông), Crimea (ở Ukraine), và vụ Giàn Khoan 981 (ở Biển Ðông) – trong đó những kẻ chuyên chiếm đất nước khác toàn là cộng sản thứ thiệt (Tập Cận Bình) hoặc là cựu cộng sản (KGB Vladimir Putin – những người cộng sản Việt Nam phải biết mình đã lầm mê tới mức độ nào – hay nói như nhạc sĩ Phạm Duy trong “Con Ðường Tình Ta Ði” là “đi lạc vào những phía không đường về” – khi nhắm mắt, nhắm mũi cưỡng bách toàn bộ đất nước Việt Nam đi theo con đường cộng sản.
 
(10) Nhiều chuyên gia về Việt Nam vẫn tin rằng, đến một lúc nào đó tức nước, vỡ bờ, có thể các lực lượng Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam sẽ phối hợp với các lực lượng Công An Nhân Dân mà làm một cuộc đảo chính nhằm thay đổi chế độ để đất nước Việt Nam khỏi lệ thuộc vào Tàu Cộng. Nhưng điều này rất khó xảy ra, xét vì, từ mấy chục năm nay, các lực lượng nói trên vẫn quen được Ðảng Cộng Sản Việt Nam dung dưỡng và ban cho nhiều quyền hành, bổng lộc để cho họ luôn phải tận “trung với Ðảng” trong khi chính Ðảng này cũng đang được Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đứng ra bảo đảm cho sự trường tồn, với mục đích làm cho dân tộc Việt Nam mất đi cơ hội quật cường, y như hồi thời Nhà Ðường (618-907), Thái Thú Cao Biền của Giao Chỉ Quận đêm đêm cỡi diều đi ếm các long mạch từ Giao Châu tới Chiêm Thành để Việt Nam chỉ sản sinh được các con rồng yểu tử, cỡ Quang Trung Hoàng Ðế, không đủ sức đe dọa Bắc triều. Hơn nữa, Trung Cộng luôn nghĩ rằng giải giang sơn gấm vóc, rừng vàng, biển bạc từ Ải Nam Quan -mà Trung Cộng đã lấy đi rồi – tới Cà Mau của Việt Nam đã không thuộc về những người cộng sản Việt Nam nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Trung Cộng từ lúc Ðảng Cộng Sản Việt Nam mới thành lập hồi năm 1930 cho tới lúc cộng sản chiếm được Miền Nam Việt Nam hồi năm 1975. Ðó là lý do tại sao Trung Cộng luôn gọi những người cộng sản Việt Nam là quân “vong ân, bội nghĩa” mỗi khi thấy họ có ý định chống lại kế hoạch trường kỳ thôn tính đất đai Việt Nam của Trung Cộng. Ðiều đáng lo ngại nhất là sự thể, cho dù cuộc đảo chánh do quân đội và công an thực hiện như thế có thật sự xảy ra, biết đâu lúc đó sẽ xuất hiện thêm một Quân Ðội Nhân Dân khác cùng với một Công An Nhân Dân khác “made in China” (giống như in, như thật) do Trung Cộng đưa sang  – qua một mật ước giữa các tổng bí thư của 2 đảng Cộng Sản Trung-Việt luôn có khả năng qua mặt chính phủ và quốc hội 2 nước-để đánh dẹp cuộc đảo chánh mới được triển khai rồi tái lập trật tự “(vẫn) như cũ” tại Việt Nam? Qua “vụ Giàn Khoan Hải Dương 981” mới đây, đã rõ ràng là Trung Cộng đang dùng chiêu thức “siết cổ” để cho Việt Nam phải vùng ra mà bỏ chạy, còn nếu đứng lại chống cự thì sẽ bị nghẹt thở mà chết.
(11) Ông Hồ Chí Minh đã để lộ gốc gác của ông là một người Trung Hoa, bởi vì, trước lúc lìa đời hồi năm 1969, ông đã đòi được nghe một ca khúc tiếng Hoa do một phụ nữ người Hoa hát lên. Sản phẩm “Hồ Chí Minh made in China” của Trung Cộng tinh xảo tới nỗi mãi cho đến hồi gần đây, sau hơn 8 thập niên, tức là lâu hơn cả mức tồn tại của Ðảng Cộng Sản Liên Sô, các nhà nghiên cứu lịch sử thế giới mới phát giác thấy. Dù vậy, không có dân tộc xấu mà chỉ có các chế độ chính trị xấu xa hay tàn ác. Dân tộc Trung Hoa, từng có một nền văn minh lâu đời và rực rỡ từ mấy nghìn năm qua, không phải là những con người xấu. Dù nước Tàu đã nhiều lần đô hộ Việt Nam trong qua khứ, người Hoa, tức là Hoa Kiều -và sau đó là người Việt gốc Hoa- kể từ thời Việt Nam bị Pháp cai trị (1862-1949), vẫn luôn là người bạn tốt của dân tộc Việt Nam, và cả hai dân tộc cũng đã từng cùng nhau gánh chịu nhiều đau thương, thống khổ dưới ách xâm lược và thống trị của ngoại bang từ cuối thế kỷ thứ 19 tới giữa thế kỷ 20. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) luôn sát cánh với quân và dân Miền Nam Việt Nam một cách chí tình trong cuộc chiến đấu chống cộng, và Tòa Ðại Sứ Trung Hoa Dân Quốc đã ở lại với Miền Nam Tự Do cho tới phút chót, để trở thành cơ sở ngoại giao cuối cùng di tản khỏi Sài Gòn khi xe tăng cộng sản tiến vào hồi năm 1975. Người Việt Nam luôn ghi nhớ công lao của nhà họ Mạc (Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích), từ bên Trung Hoa sang, đã khai khẩn và bình định vùng Hà Tiên hoang vu thời Chúa Nguyễn (1558-1777) mở mang bờ cõi xuống phương Nam trên các miền đất của Chiêm Thành (Chăm) và Thủy Chân Lạp (Khmer), cũng như biết ơn việc quan lại và dân chúng Long Châu bên Tàu đã cưu mang Tướng Quốc Tôn Thất Thuyết sau khi ông thất bại trong sứ mạng phò vua Hàm Nghi kháng chiến chống Pháp để rồi phải chạy sang nương náu xứ người cho đến lúc gởi nắm xương tàn tại đó (từ năm 1895 đến năm 1913). Chính giới lãnh đạo Trung Cộng, tức là Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, đã làm cho hình ảnh người Trung Hoa trở nên xấu xí trong con mắt của thế giới, bằng hành động ỷ mạnh hiếp yếu và xâm lấn đất đai các dân tộc láng giềng nhỏ bé cũng như bằng mánh khóe buôn bán lọc lừa, chuyên làm đồ giả và chuyên chế tạo các sản phẩm độc hại hay mất vệ sinh để thu lợi.
(12) Hiện nay, “khu dành riêng cho người Hoa” lớn nhất ở Việt Nam tọa lạc tại tỉnh Bình Dương, nơi có nhiều cơ sở kỹ nghệ và thương mại do giới tư bản (đỏ) từ Hoa Lục bỏ tiền ra xây dựng vừa để họ có chốn ăn chơi cho thỏa thích -vì gái làng chơi Việt Nam luôn luôn rẻ (do quá nghèo) và đẹp hơn những chỗ khác- mà cũng vừa để họ kinh doanh, buôn bán lấy tiền mang về xứ, theo kiểu “ngộ có của, ngộ đem về Tàu,” như lời trích từ ca khúc “Sang Nam Việt Bán Buôn Làm Giàu,”một bài Tạ (bài hát) phổ thông tại Nam Kỳ Lục Tinh của Việt Nam thời Pháp thuộc: “Bên Tàu, ngộ ở bên Tàu, bên Tàu ngộ mới sang qua, sang Nam Việt bán buôn làm giàu…”
(13) Lời trong ca khúc “Anh Là Ai” của Việt Khang. Nhạc sĩ trẻ tuổi này hiện đang bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam giam giữ chỉ vì, qua các ca khúc như “Anh Là Ai” và “Việt Nam Tôi Ðâu,” anh đã bày tỏ lòng yêu nước của mình trước việc Trung Cộng liên tục xâm chiếm đất đai và biển đảo Việt Nam. Vậy chính quyền Việt Nam trong nước hiện nay là chính quyền của ai mà hành động như thế?
(14) Cái tính bất tử đó của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hiển hiện khi các nhân tố của quân đội này “hóa thân” để trở thành các nhân tố của Quân Lực Hoa Kỳ. Nguồn tin nhật báo Người Việt tại California cho hay, ngày 20 Tháng Năm năm 2014, Ðại Tá Lương Xuân Việt, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 1 Thiết Kỵ Hoa Kỳ, đã được đề cử thăng cấp Chuẩn Tướng. Như vậy, Lương Xuân Việt là người Mỹ gốc Việt đầu tiên trong lịch sử trở thành một tướng lãnh trong Quân Lực Hoa Kỳ. Chuẩn Tướng Việt là con trai của Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến Lương Xuân Ðương trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay, hậu duệ của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từng tốt nghiệp các trường võ bị danh tiếng của Hoa Kỳ, kể cả West Point, đã trở thành những chiến binh phục vụ trong các quân, binh chủng của Quân Lực Hoa Kỳ, và nhiều người đang là sĩ quan cấp Ðại Tá, trong đó có Hải Quân Ðại Tá Lê Bá Hùng, vị sĩ quan từng chỉ huy chiến hạm USS Lassen đến thăm Ðà Nẵng, Việt Nam, hồi Tháng Mười Một năm 2009. Ðại Tá Hùng là con trai của Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


hung-viet.org
Sinh Tồn chuyển

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu

Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 2014, 39 năm sau ngày định mệnh 30 Tháng Tư năm 1975, lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã và Miền Nam Tự Do rơi vào tay cộng sản quốc tế, dân chúng Việt Nam

Tác giả: Vann Phan

Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 2014, 39 năm sau ngày định mệnh 30 Tháng Tư năm 1975, lúc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã và Miền Nam Tự Do rơi vào tay cộng sản quốc tế, dân chúng Việt Nam từ trong nước ra tới hải ngoại nay có thể đi đến một nhận định chung rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được toàn dân ngưỡng mộ và tôn vinh như những anh hùng dân tộc trong lịch sử. Ngược lại, những kẻ từng cầu viện Trung Cộng để đánh lại quân đội đó thì ngày nay đang bị chính “sư phụ” của họ trừng trị thẳng tay bằng những đòn đau điếng liên tiếp, trên bộ cũng như ngoài biển đảo, mà không dám hé miệng kêu ca, bởi vì họ đã lỡ lầm đưa đầu vào miệng cọp qua hành động nhờ vả quá mức quân Trung Cộng trong cả hai cuộc chiến tranh đánh Pháp và chống Mỹ, từ 1946 tới 1975, để Trung Cộng có cớ và có dịp dàn quân lấn sâu vào biên giới Việt Nam, rồi đưa Việt Nam vào thế bị kềm kẹp ngày một nhiều cả về quân sự lẫn kinh tế trong vòng tay “bá quyền nước lớn” của họ.

Nên nhớ rằng, vào năm 1974, khi Trung Cộng chỉ mới vừa tập trung lực lượng hải quân quanh đảo Hoàng Sa với ý đồ đánh chiếm quần đảo này thì Hải Quân Việt Nam của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tuân hành mệnh lệnh lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tổng tư lệnh quân đội, đã ra tay đánh Trung Cộng trước, chứ không phải đợi kẻ thù phát pháo tấn công rồi mình mới đánh, hoàn toàn trái ngược với chuyện Trung Cộng, hôm 2 Tháng Năm năm 2014, đem tàu chiến và giàn khoan dầu Hải Dương 981 đến chiếm đóng hải phận Việt Nam, xịt nước rồi tông hỏng các tàu kiểm ngư thuộc cảnh sát biển của Cộng Sản Việt Nam, làm một số người trong thủy thủ đoàn Việt Nam bị thương, rồi tuyên bố đây là lãnh hải của họ, nơi họ vĩnh viễn có quyền vĩnh khai thác dầu mỏ mà Cộng Sản Việt Nam chỉ biết một mực răm rắp xin cầu hòa. (1)
Ý nghĩa Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu
Do đâu mà dân chúng Miền Nam Tự Do trước đây và người Việt hải ngoại bây giờ có Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu?
Ngày 19 Tháng Sáu năm nay là kỷ niệm lần thứ 49 Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 19 Tháng Sáu hằng năm được chọn làm Ngày Quân Lực bởi vì vào ngày 19 Tháng Sáu năm 1965, tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chính thức nhận nhiệm vụ điều khiển guồng máy hành chánh và quân sự của Việt Nam Cộng Hòa do Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát của chính quyền dân sự giao phó trước tình hình đất nước đang lâm nguy bởi vì quân Cộng Sản Bắc Việt đang gia tăng cường độ đánh phá các quận lỵ và tỉnh lỵ trên toàn quốc nhằm thôn tính Miền Nam Việt Nam, giữa lúc các đảng phái chính trị tại Miền Nam Việt Nam vẫn liên tục kèn cựa nhau để đòi quyền lợi riêng sau khi guồng máy hành chính của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa bị sụp đổ qua vụ đảo chánh và ám sát Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vào ngày 2 Tháng Mười Một năm 1963. Thêm vào đó, tại nhiều tỉnh, thành trên toàn quốc, sinh viên, học sinh rủ nhau bãi khóa, xuống đường, hoan hô, đả đảo lung tung, trong khi các tín đồ quá khích của cả Phật Giáo lẫn Thiên Chúa Giáo đua nhau yêu sách và tác động ảnh hưởng lên các chính phủ non yếu tại Miền Nam Việt Nam thời hậu Tổng Thống Diệm, tạo nên tình trạng hỗn loạn và hầu như vô chính phủ tại Miền Nam Việt Nam, rất có lợi cho cộng sản.
Sau khi nhận lãnh nhiệm vụ, các tướng lãnh cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã ủy thác cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (trong vai trò quốc trưởng) và Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (trong vai trò thủ tướng chính phủ). Sau khi bản Hiến Pháp mới được ban hành tại Miền Nam Việt Nam vào ngày 1 Tháng Tư năm 1967, và sau các cuộc bầu cử tổng thống và hai viện quốc hội, lần lượt vào các ngày 3 Tháng Chín và 22 Tháng Mười năm đó, nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam ra đời vào ngày 1 Tháng Mười Một năm 1967, với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu là tổng thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là phó tổng thống, trong khi ông Nguyễn Văn Lộc được bổ nhiệm vào chức vụ thủ tướng chính phủ đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa.
Một sắc lệnh được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành sau đó đã quyết định lấy ngày 19 Tháng Sáu hằng năm làm Ngày Quân Lực để đánh dấu một cột mốc lịch sử quan trọng khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng ra điều khiển cùng một lúc nền hành chính quốc gia và tập thể quân đội, nhờ thế mà Việt Nam Cộng Hòa đã đứng vững và sống còn thêm một thập niên nữa trước cuộc chiến tranh xâm lược không ngừng nghỉ của quân Cộng Sản Bắc Việt cho tới ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Chính nghĩa sáng ngời và sứ mạng cao cả của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Sau khi mọi trang sử thời chinh chiến đã được mở hết ra và khi mọi sự thật uẩn khúc của cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã được phơi bày, mọi người đều thấy rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là đội quân đã chiến đấu với chính nghĩa sáng ngời nhất, tức là “bảo vệ nền tự do, dân chủ cùng sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,” và với sứ mạng cao cả nhất, tức là “vì dân trừ bạo,” trong khi kẻ thù của quân đội này, dù là kẻ chiến thắng, chỉ là tập đoàn “cõng rắn cắn gà nhà” từng cầu viện Trung Cộng để đánh lại chính dân tộc mình, và từ khi chiếm được cả giang sơn thì chỉ chuyên cắt đất, dâng biển của tổ tiên để trả nợ cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.
Nếu hiện tượng “sinh vi tướng, tử vi thần,” đã đúng trong trường hợp của các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từ vị Thiếu Tướng Tư Lệnh Vùng 4 Chiến Thuật Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết cho tới vị Ðại Tá Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn quyết tử chứ không chịu đầu hàng địch hồi năm 1975, thì chuyện Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được coi là các anh hùng dân tộc 39 năm sau ngày buông súng chỉ vì bị bức tử cũng là chuyện hợp tình, hợp lý. Văn hóa Việt Nam, dù chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý Khổng-Nho từ Trung Hoa, vẫn không có thói quen trọng văn, khinh võ, bởi lẽ hầu hết các bậc minh quân trong lịch sử Việt Nam đều là những bậc văn, võ kiêm toàn, lấy võ công mà dựng nước, và các vị danh tướng cũng như công thần của đất nước vẫn thường được người dân sùng bái như thần thánh. Sử chép rằng, vào đời Hùng Vương Thứ 6 (2879-258 Trước Tây Lịch), sau khi phá được giặc Ân xâm lấn bờ cõi, Phù Ðổng Thiên Vương đã “hiển thánh,” tức là đã trở thành một vị thánh gọi là “Thánh Gióng.” Ðời Trần Thái Tông (1218-1277), “Ðức Thánh Trần,” tức Hưng Ðạo Ðại Vương, cũng đã “hiển thánh,” tức là được dân chúng tôn thờ như bậc thần thánh vì lòng trung quân, ái quốc của Vương đã cứu nước Ðại Việt khỏi tay quân Nguyên xâm lược đến ba lần.
Hồi trước năm 1975, quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa không ai là không biết rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã từng gọi cuộc chiến đấu chống quân xâm lược từ miền Bắc tiến vào trong suốt 2 thập niên chiến tranh chống cộng sản là “cuộc kháng chiến thần thánh” của dân chúng Miền Nam Việt Nam do bởi những gian lao, khổ nhọc cùng những chiến thắng huy hoàng của chính phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa trong quá trình chiến đấu để giữ nước, từ đất liền tới biển đảo, cho đến khi bị bức tử vì bị người bạn Ðồng Minh – tức các chính trị gia tại Washington – phản bội và bỏ rơi (2), trong khi một bộ phận không nhỏ dân chúng Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ thì còn lầm mê và phản chiến, mãi cho tới khi bị cộng sản lên đè đầu, cỡi cổ rồi mới chịu tỉnh ra, thì đã quá muộn rồi.
Dưới đây là một số trong vô số những sự kiện lịch sử có khả năng biện minh một cách hùng hồn cho chính nghĩa sáng ngời và sứ mạng cao cả của Quân Lực Việt Nam Cộng Hỏa cũng như của các lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia và Xây Dựng Nông Thôn cùng các lực lượng võ trang bán quân sự khác tại Miền Nam Việt Nam trong suốt giai đoạn lịch sử chống quân cộng sản xâm lược từ Miền Bắc tiến vào kéo dài 21 năm trời, từ 1954 đến 1975, khiến cho tập thể này mãi mãi xứng đáng được tôn vinh là những anh hùng của dân tộc:
1. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mất đi đã để lại bao tiếc thương trong lòng dân chúng Miền Nam Tự Do do những thành tích “vì dân trừ bạo” lẫy lừng cũng có mà do cái tính thần “lòng súng nhân đạo cứu người lầm than” cũng có của quân đội này: “Thương dân nghèo, ruộng hoang cỏ cháy/Thấy nỗi xót xa của kiếp đọa đày, anh đi…” (Phạm Ðình Chương/”Anh Ði Chiến Dịch.”) Những vụ truy đuổi và bắn giết thường dân vô tội không nương tay của quân Cộng Sản Bắc Việt trên Ðại Lộ Kinh Hoàng (từ Quảng Trị vào Huế) hồi năm 1972 và “Quốc Lộ 7B” (từ Phú Bổn đến Tuy Hòa) hồi năm 1975 cho thấy người chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, dù trong cuộc lui binh đầy khổ nạn, vẫn không bỏ rơi dân chúng đang một lòng, một dạ chạy theo họ dưới những cơn mưa pháo phũ phàng của quân địch. Chính vì lòng thương dân vô bờ bến đó mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã giành được niềm tin tuyệt đối của dân chúng Miền Nam Việt Nam, không những chỉ có “từ sáu chốn miền Ðồng Nai” không thôi mà là từ Bến Hải đến Cà Mau. (3)
Chỉ vài tháng sau khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cáo chung, dân chúng tại các tỉnh ở Miền Nam Việt Nam – và sau đó, mỉa mai thay, là dân chúng từ các tỉnh ở Miền Bắc Việt Nam – đã đã lũ lượt kéo nhau trốn khỏi Việt Nam, đất nước đang nằm dưới chế độ cai trị hà khắc của những người cộng sản Việt Nam, trên những chiếc thuyền gỗ mong manh và lậu nước, vượt qua Vịnh Thái Lan và Biển Ðông để tìm đến các quốc gia tự do còn lại trên thế giới mà xin tị nạn, tạo nên phong trào “thuyền nhân” bi tráng kéo dài mãi cho tới thập niên 1990 mới chấm dứt. Ðiều này rõ ràng đã nói lên cái chính nghĩa sáng ngời của chính phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã trở thành một thực thể được dân chúng coi là lẽ sống (raison d’être) của Miền Nam Tự Do trong suốt 21 năm dựng nước và giữ nước.
2. Năm 1979, chỉ mới 25 năm sau ngày quân Trung Cộng giúp quân Cộng Sản Việt Nam đánh Pháp tại Ðiện Biên Phủ (1954) và đánh chiếm Miền Nam Tự Do (1975), chính Trung Cộng đã trở mặt đem quân đánh chiếm và tàn sát dân chúng tại 6 tỉnh địa đầu của Miền Bắc Việt Nam trong kế hoạch gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” của nhà lãnh đạo Trung Cộng Ðặng Tiểu Bình.
Ðiều mỉa mai là, hồi 1974, khi Trung Cộng đem tàu chiến đến đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa và bị Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đang bảo vệ Hoàng Sa giáng cho những đòn chí tử, từ Thủ Tướng Bắc Việt Phạm Văn Ðồng cho tới các đơn vị Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam và Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đều hùa theo phe Trung Cộng mà vỗ tay reo mừng, chỉ vì họ cứ tưởng bở rằng Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa lúc đó là để “giữ hộ” quần đảo này cho Việt Nam, rồi sau ngày chiến thắng Miền Nam thì họ sẽ đem trao trả lại cho phía Cộng Sản Bắc Việt (4). Thủ Tướng Bắc Việt Phạm Văn Ðồng lúc bấy giờ đã gởi công hàm cho Trung Cộng, chính thức xác nhận vùng lãnh hải của Trung Cộng bao trùm luôn cả quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
3. Năm 1984, chỉ 5 năm sau ngày tấn công lấn chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, quân Trung Cộng lại tiến đánh Núi Lão Sơn, tức cao điểm 1509, và núi Giả Âm Sơn, tức cao điểm 1250, của Việt Nam, rồi tràn ngập và chiếm đóng vĩnh viễn 2 nơi này, khiến biên giới Việt-Trung phải một phen di dời cột mốc đã có tự ngàn xưa. Biến cố này cho thấy cuộc chiến tranh xâm lược gieo chết chóc và tàn phá tại Miền Nam Việt Nam hồi trước năm 1975 -mà những người cộng sản gọi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” – của Cộng Sản Việt Nam đã mất hết chính nghĩa khi chính người đồng minh thân thiết “môi hở, răng lạnh” của họ mới chính là kẻ thù hung ác mà họ phải chống đánh để cứu nước và giữ nước, chứ không phải quân và dân Miền Nam Tự Do hiền hòa mà họ đã lầm lẫn thù hằn và gây hấn. Phải biết rằng các lực lượng hải quân của Miền Nam Việt Nam đã kiên quyết giáng trả những đòn chí tử vào hải quân Trung Cộng để bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước đó 1 thập niên.
4. Năm 1988, chỉ 4 năm sau ngày chiếm đất của Việt Nam tại các cao điểm 1509 và 1250 ở Miền Bắc Việt Nam, “bậc thầy” Trung Cộng đã mang lực lượng hải quân đến tấn công và đánh chiếm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa, nơi một đơn vị Hải Quân Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam đang trấn giữ sau khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Một lầu nữa, Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam phải nhận thức rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là đội quân có chính nghĩa nhất trong lịch sử cận đại của Việt Nam, với lập trường cương quyết bao vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia chống lại bất cứ kẻ thù nào đến từ bất cứ nơi đâu.
5. Chỉ 11 năm sau ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã và Miền Nam Việt Nam Tự Do rơi vào tay cộng sản, chế độ cộng sản tại Việt Nam đã thật sự phá sản qua chính sách gọi là “Ðổi Mới Kinh Tế” vào năm 1986, theo đó Cộng Sản Việt Nam, tức nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngoại trừ việc vẫn cứ bám víu vào thế độc quyền cai trị đất nước của người cộng sản, đã khởi sự đi theo con đường “làm ăn” của chủ nghĩa tư bản mà họ từng không tiếc lời miệt thị và chửi bới, đồng thời lên tiếng cầu cạnh các nhà tư bản của Ðế Quốc Mỹ, kẻ từng “xâm lược nước ta và là kẻ thù của nhân dân ta,” đổ vốn vào Việt Nam để cứu vớt dân tộc “ta” khỏi chết đói vì sự phá sản của chủ nghĩa xã hội mà “ta” đã lỡ tiến thẳng lên đó từ cả chục năm rồi. (5)
6. Từ thập niên 1990 trở đi, với sự bùng nổ của kỷ nguyên Internet và sự xuất hiện của các trang mạng xã hội toàn cầu, dân chúng tại nước Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam, hiểu biết hơn, đã bắt đầu tranh đấu chống bạo quyền cộng sản trong nước, làm cái điều mà hơn 1 thập niên trước dân chúng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Miền Nam Tự Do đã làm nhưng không thành công, chỉ vì bị đám dân chúng ngu dốt chuyên nghe theo lời Việt Cộng mà phá hoại nỗ lực chống cộng cũng như vì bị thế giới lầm mê tin theo các luận điệu tuyên truyền dối trá của Cộng Sản Quốc Tế mà xúm lại đánh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho tới khi bại trận. Thế là các phong trào của những “người bất đồng chính kiến,” những “nhà tranh đấu cho dân chủ đa nguyên,” những “dân oan khiếu kiện,” những “nhà báo lề trái,” những “blogger vì tự do, dân chủ” – và đáng kể hơn cả là phong trào “bỏ Ðảng, trả thẻ Ðảng” trong số các đảng viên gạo cội của Ðảng Cộng Sản Việt Nam – rùng rùng nổi lên. Những khuôn mặt đối kháng đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là cựu Trung Tướng Trần Ðộ, cựu Trung Tá Trần Anh Kim, và cựu đảng viên Cộng Sản Lê Hiếu Ðằng.
7. Mới đây nhất là các phong trào “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” và “Vinh danh các chiến sĩ Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa” của dân chúng từ Nam chi Bắc và từ Sài Gòn tới Hà Nội. Trong khi các phong trào này đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải từ bỏ thái độ ươn hèn trong cuộc tranh chấp biển đảo với quân bá quyền bành trướng Trung Cộng thì họ cũng đã phần nào đề cao chính nghĩa sáng ngời của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong sứ mạng diệt thù để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc.
8. Ba sự kiện gây ngạc nhiên lớn trong dịp tưởng niệm biến cố 30 Tháng Tư đau thương của dân tộc Việt Nam năm nay là việc cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vị anh hùng đã tuẫn tiết trong ngày Miền Nam Việt Nam sụp đổ cách nay 39 năm, đã được các thuộc cấp cũ của ông cũng như một số thường dân tại Sài Gòn lam lễ tưởng niệm; việc hơn 400 thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa được dân chúng chào đón và vinh danh qua buổi lễ “Tri ân các ông thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa” tại Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn; và việc một nhóm dân chúng, gọi là “dân oan,” đã mở một cuộc biểu tình “bỏ túi” trên các đường phố Sài Gòn để tưởng niệm ngày 30 Tháng Tư mà cho tới bây giờ dân chúng khắp nơi tại Việt Nam đều nhìn nhận là “ngày quốc hận” chứ chẳng phải là ngày “giải phóng Miền Nam Việt Nam” chút nào như chính quyền Cộng Sản Việt Nam đã rêu rao suốt 39 năm qua.
9. Những diễn biến mới nhất về các cuộc đụng độ trên biển giữa lực lượng Cảnh Sát Biển Cộng Sản Việt Nam và các tàu hải quân cũng như hải giám có nhiệm vụ bảo vệ giàn khoan dầu bất hợp pháp Hải Dương 981 của của Trung Cộng ngoài khơi đảo Lý Sơn trong hải phận Việt Nam từ những ngày đầu Tháng Năm năm 2014 đã cho thấy một điều nổi bật là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu thật vô cùng sáng suốt khi hạ lệnh cho Hải Quân Việt Nam của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mở cuộc tấn công trực diện vào đoàn tàu xâm lược Trung Cộng trong trận chiến bảo vệ đảo Hoàng Sa cách nay 40 năm, mặc dù hải quân Miền Nam Việt Nam đã thất bại vì lực lượng không cân xứng và vì bị Ðồng Minh Mỹ bỏ rơi, không chịu giúp sức.
Gần đây, viên phi công Nguyễn Thành Trung, một cựu trung úy Không Quân, từng phản bội Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà theo về với địch rồi lái chiếc oanh tạc cơ A-37 cướp được của Không Quân Việt Nam bay đến thả bom Phi Trường Tân Sơn Nhứt vào ngày 29 Tháng Tư năm 1975, ý chừng đã phản tỉnh, có viết một bài ca ngợi Không Quân Việt Nam Cộng Hòa về sự thể, vào lúc sắp xảy ra trận đánh Hoàng Sa chống quân Trung Cộng xâm lược hồi Tháng Giêng năm 1974, đã có vô số người hùng Không Quân Việt Nam tình nguyện lập một phi đội “quyết tử” để bay ra Hoàng Sa đánh chìm các chiến hạm Trung Cộng mà hỗ trợ cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trong trận chiến bảo vệ quần đảo này. Tiếc rằng kế hoạch đó đã không được thực hiện, bởi vì Ðồng Minh Hoa Kỳ lúc bấy giờ đã cực lực phản đối cuộc hành quân quyết tử đó và hăm dọa sẽ cúp viện trợ quân sự dành cho phía Việt Nam nếu các phi công Việt Nam nói trên mở cuộc tấn công vào các tàu chiến Trung Cộng (6). Sự thật thì Hoa Kỳ, tức Nixon và Kissinger, đã thỏa thuận để cho Trung Cộng chiếm lấy Hoàng Sa, với ảo tưởng rằng cứ điểm này, do nước “đồng minh mới” của Mỹ trấn đóng, sẽ ngăn chặn Liên Sô từ Vịnh Cam Ranh tiến ra sau khi cộng sản đã chiếm được Miền Nam Việt Nam – như kế hoạch mà các cường quốc từng thỏa thuận với nhau trên bàn cờ quốc tế – nhưng không ngờ Liên Xô lại tan rã sớm, làm Mỹ thấy mình bị hố to khi Trung Cộng, tương kế, tựu kế, đã dùng Hoàng Sa để tiến chiếm gần hết Biển Ðông, thu hẹp đáng kể vùng hoạt động của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ từ Biển Nhật Bản tới Ấn Ðộ Dương.
Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa gắn liền với vận mạng đất nước
Từ các sự kiện nói trên, dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc và tập thể người Việt ở hải ngoại có thể đi đến kết luận rằng Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã gắn liền với vận mạng của đất nước, hay nói cách khác, luôn hiện diện trong “dòng sinh mệnh” của dân tộc Việt Nam do tấm gương sáng ngời về đạo đức làm người, về tinh thần thượng võ, và về chính nghĩa bảo vệ tự do, dân chủ mà hai thực thể đó đã thể hiện trong cuộc hiện hữu ngắn ngủi của mình.
Những sự kiện dưới đây có khả năng làm sáng tỏ kết luận đó.
Thứ nhất, khi đọc lại lịch sử Việt Nam thời cận đại, đa số người Việt Nam vẫn cho rằng giai đoạn huy hoàng và thời kỳ no cơm, ấm áo nhất của dân tộc Việt Nam là 21 năm dưới hai nền Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam, từ 1954 đến 1975, một thời đại vàng son mà khi còn đó thì không ai để ý thấy, chỉ khi đã mất đi rồi thì mới biết là không thể nào tìm lại được, nhất là sau khi toàn bộ đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc đã nằm gọn trong vòng kềm kẹp của chế độ độc tài, đảng trị của những người Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên, trước đó, toàn dân Việt Nam từ Nam Quan cho tới Cà Mau cũng đã được hưởng cảnh ấm no, hạnh phúc trong một khoảng thời gian ngắn hơn, chừng 7 năm, dưới chính thể Quốc Gia Việt Nam (État du Vietnam) do Quốc Trưởng Bảo Ðại lãnh đạo. Quốc Gia Việt Nam được thành lập sau khi Pháp chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long vào ngày 5 Tháng Sáu năm 1948, với Cựu Hoàng Bảo Ðại là Quốc Trưởng và lần lượt dưới quyền các Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Phúc Bửu Lộc và Ngô Ðình Diệm. Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được thành lập vào ngày 8 Tháng Mười Hai năm 1950, và cho đến ngày 26 Tháng Mười năm 1956 thì trở thành Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, rồi sau đó được gọi là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa kể từ ngày 19 Tháng Sáu năm 1965, tức Ngày Quân Lực của Miền Nam Tự Do. Ngày 20 Tháng Bảy năm 1954, Hiệp Ðịnh Geneva chia đôi đất nước Việt Nam, với nửa phía Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở ra, thuộc quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Chủ Tịch Hồ Chi Minh lãnh đạo, và nửa phía Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào, thuộc quyền Quốc Gia Việt Nam do Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lãnh đạo. Ngày 26 Tháng Mười năm 1956, Ngô Thủ Tướng ban hành bản Hiến Pháp đầu tiên của đất nước, lấy quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa, và Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm trở thành vị tổng thống đầu tiên của nền Cộng Hòa Việt Nam.
Thứ nhì, những người Việt Nam nào từng biết đến đất nước dưới thời Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa đều nhận thấy đất nước và con người Việt Nam ngày nay thật là tồi tệ, lộ liễu nhất là sau những vụ bạo động, đập phá và hôi của các hãng xưởng Trung Cộng và cả những hãng xưởng ngoại quốc vào những ngày đầu Tháng Năm năm 2014 để bày tỏ phản ứng giận dữ – một cách hỗn loạn và vô luật pháp – của công nhân Việt Nam trước vụ Trung Cộng đem Giàn Khoan Hải Dương 981 lấn sâu vào hải phận Việt Nam để “cắm dùi” chiếm biển mà xác nhận chủ quyền của họ bên trong hải phận Việt Nam. Ðó là chưa kể những hành động có tính vô liêm sỉ, làm nhục quốc thể và tàn ác của người Việt Nam, như vụ dân chúng hôi của làm hỏng Lễ Hội Hoa Anh Ðào do Nhật Bản tổ chức tại Hà Nội, vụ dân chúng cướp thực phẩm phá hỏng cuộc chiêu đãi các món ăn Ðại Hàn miễn phí do tòa lãnh sự Nam Hàn tổ chức tại Sài Gòn, vụ kiều dân Việt Nam tại Ðông Kinh đánh cắp hàng hóa từ các siêu thị ở Nhật rồi đưa cho nhân viên hãng Hàng Không Việt Nam chuyển lậu về nước để đem ra chợ bán, và vụ dân chúng tại nhiều tỉnh đánh chết những kẻ lỡ dại trộm chó hoặc trộm gà trong xóm nhà của họ. Ðó là chưa kể tới những tệ nạn xã hội như trộm cắp, giết người, cướp của, mại dâm… tuy thời nào cũng có và dưới chính thể nào cũng có nhưng lại đặc biệt trầm trọng dưới chế độ “xã hội chủ nghĩa” ngày nay chỉ vì cuộc sống của tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam quá thấp kém và lầm than trong khi một thiểu số người thuộc thành phần “tư bản đỏ” trong xã hội thỉ lại dư thừa tiền bạc tới độ mua sắm được máy bay trực thăng riêng, một điều mà dân chúng tại “Ðế Quốc Mỹ” ngày nay cũng ít người dám mơ tới. Rồi còn biết bao tệ nạn và khổ đau gây ra do những vụ “hợp tác lao động” giữa Việt Nam và các nước ngoài (để cho công nhân Việt Nam ra ngoại quốc làm nô lệ sản xuất và bị bóc lột tàn tệ) cũng như những vụ “làm dâu nước ngoài” (khi phụ nữ Việt Nam phải bán mình và bán thân cho những chú rể hoặc gia đình chú rể tại các nước láng giềng để bị hành hạ thể xác hoặc biến thành nô lệ tình dục), tất cả chỉ vì dân chúng đã bị bần cùng hóa đến tột độ trong một đất nước vừa cực kỳ độc tài vừa dẫy đầy tham nhũng. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam bây giờ sẽ phải trả lời trước lịch sử và tổ quốc – nếu tổ quốc đó thoát khỏi nanh vuốt Trung Cộng lần này-lý do vì sao mà họ mới cai trị đất nước chỉ có 50 năm, trong 5,000 năm lịch sử dân tộc, mà đã làm thay đổi tận gốc rễ nền văn minh rực rỡ và đầy tính nhân bản của Việt Nam đến mức tồi tệ hết chỗ nói trong hiện tại, một việc làm mà trên suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam, không một chế độ nào khác trên mảnh đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương có khả năng và đủ nhẫn tâm thực hiện (7), khiến cho dân chúng Việt Nam ngày nay cảm thấy mình bị “nhục quốc thể” chứ chẳng cảm thấy “hãnh diện vì được làm người Việt Nam” (sau khi ngủ một đêm rồi thức giấc thấy vậy) chút nào, như một anh chàng Cuba nào đó bị chính quyền cộng sản tại nước này ép buộc phải nói thế (mới được cấp thẻ mua thực phẩm hợp tác xã) hồi Cộng Sản Bắc Việt mới chiếm được Miền Nam Tự Do năm 1975.
Thứ ba, có thể nói rằng, kể từ sau khi Triều Ðại Nhà Nguyễn (1802-1945) cáo chung vào năm 1945, chỉ có Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hậu thân của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, mới xứng đáng được gọi là đội quân chính thống của dân tộc, đã “đem đại nghĩa để thắng hung tàn” và “lấy chí nhân mà thay cường bạo,” như lời của bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi thời Hậu Lê (1427-1789) đã nói trong bài Bình Ngô Ðại Cáo, từng được ông công bố với quốc dân sau khi toàn bộ quân Nhà Minh (1368-1644) chiếm đóng đất nước ta bị đuổi về Tàu và nước Ðai Việt, một lần nữa, trở thành một quốc gia độc lập, tự chủ. Các chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn là đối tượng được ngưỡng mộ và ca ngợi qua các sáng tác trong nền văn chương và âm nhạc của Miền Nam Việt Nam suốt 2 thập niên chiến tranh. (8) Những kẻ chiến thắng từng miệt thị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là “ngụy quân” thì nay, mỉa mai thay, chính họ mới là kẻ đáng bị gọi là “ngụy quân,” bởi vì cái chính quyền đẻ ra họ chưa bao giờ là một chính quyền do dân chúng bầu lên một cách dân chủ và vì thành tích “cõng rắn cắn gà nhà” của họ trong 2 cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua cũng như vì hành động khúm núm trước quân Tàu của họ trong hiện tại. Nhạc sĩ trẻ Việt Khang, kẻ đang bị nhà cầm quyền Hà Nội bỏ tù – không biết cho tới bao giờ mới được trả tự do – vì lập trường chống Trung Cộng xâm lược Việt Nam, từng hát câu sau đây, ngụ ý rằng nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc, khi đã hiểu rõ bộ mặt bịp bợm và những luận điệu tuyên truyền dối trá của giới lãnh đạo cộng sản Hà Nội trước và sau cuộc Chiến Tranh Việt Nam chỉ với mỗi một mục đích là giành lấy chính quyền vào tay họ cho bằng được, thì mọi sự đã muộn màng rồi: “Việt Nam ơi/Thời gian quá nữa đời người/Và ta đã tỏ tường rồi/Ôi cuộc đời, ngày sau tàn lửa khói&” (Việt Khang/”Việt Nam Tôi Ðâu.”) Sau những hy sinh gian khổ trong công cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, từ đất liền cho tới biển đảo, và trước khí phách rạng ngời mà người quân nhân Việt Nam Cộng Hòa từng biểu tỏ trước cảnh nước mất, nhà tan – trong đó có việc tuẫn tiết hoặc chiến đấu tới hơi thở cuối cùng của 5 vị tướng, 1 vị đại tá và 2 vị trung tá cảnh sát- chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – bao gồm luôn lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia, lực lượng Xây Dựng Nông Thôn và các lực lượng bán quân sự đã cùng nhau chiến đấu dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ của Miền Nam Tự Do – đang ngày càng ngời sáng trên toàn thế giới. Chính nghĩa này đã làm cho dư luận toàn cầu phải sám hối vì đã “trót nghe theo lời u mê” của Cộng Sản Quốc Tế mà hè nhau tấn công Miền Nam Tự Do qua nhiều mặt trận, khiến cho chiếc tiền đồn duy nhất của Thế Giới Tự Do thời Chiến Tranh lạnh phải sụp đổ. (9) Chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa cũng đã làm hổ thẹn biết bao nhiêu kẻ phản chiến ngày xưa từng quay lưng lại với cuộc “kháng chiến thần thánh” của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa và từng “đâm sau lưng chiến sĩ” qua việc ra sức cổ võ cho kẻ thù đang xâm lược Miền Nam Tự Do để họ nhanh chóng nhận chìm dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc xuống làn sóng đỏ lầm than, thống khổ, phải “rên xiết đêm ngày” – như lời văn công cộng sản Huỳnh Minh Siêng nói xấu dân tình tại Sài Gòn, qua bài hát “Tiến Về Sài Gòn” trước giờ thành phố này rơi vào tay quân cộng sản.
Thứ tư, chính vì cái chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa ngày càng sáng tỏ như thế mà những người Việt Nam công chính từ trong nước ra tới hải ngoại đều không khỏi buồn lòng khi thấy, giữa lúc dân chúng trong nước ngày càng khinh miệt và thù ghét chính quyền cộng sản đang cai trị họ, thì một số không nhỏ những người Việt tại hải ngoại lại ngày càng tôn sùng đồng tiền do những người cộng sản tung ra mồi nhử, rồi thỏa hiệp với giới lãnh đạo cộng sản tai Hà Nội mà quên đi cái “căn cước tị nạn” của mình. Thử hỏi, nếu không có những hy sinh gian khổ của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản để bảo vệ tự do, dân chủ tại Miền Nam Việt Nam thì những người tị nạn Việt Nam trên toàn thế giới sẽ lấy lý do gì để xin được đến định cư tại các nước tự do, dân chủ khác, chưa nói tới chuyện họ có xứng đáng được các quốc gia tự do, dân chủ đó đón nhận và bảo bọc cho tới ngày nay hay không?
Thứ năm, trước sự thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được tôn vinh là những vị anh hùng dân tộc nhờ công lao hãn mã trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của họ, Quân Ðội Nhân Dân của Cộng Sản Việt Nam có thể sẽ làm một cái gì đó ngoạn mục để lấy lại uy tín đã mất sau gần 40 năm vì “trung với Ðảng” mà trở thành thù địch với dân tộc và luôn phải chịu nhục trước quân Trung Cộng xâm lấn biên thùy, biển đảo. (10) Uy tín từ trận Ðiện Biên Phủ năm xưa (1954) nay đã bị xói mòn gần hết khi Trung Cộng khoe khoang rằng chính họ – và cũng có thể là cả Cộng Sản Bắc Hàn, những kẻ có mặt mũi nom giống Việt Nam- đã đưa chí nguyện quân gồm quân bộ chiến và pháo binh vào chiến trường Ðiện Biên Phủ để giúp Tướng Võ Nguyên Giáp đánh Tướng Christian de Castries của Pháp, và nhất là khi Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam liên tiếp bị Quân Ðội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc uy hiếp và đè bẹp từ đất liền cho tới biển đảo. Hầu hết các chuyên gia lạc quan đều tiên đoán rằng 3 lực lượng đang cai trị Việt Nam hiện nay, là Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Quân Ðội Nhân Dân, và Công An Nhân Dân, sẽ sụp đổ trước khí thế đấu tranh của dân chúng từ Nam chí Bắc đã chán ghét họ tới tột cùng.
Ðiều này có thể đúng. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là Cộng Sản Việt Nam và các công cụ kềm kẹp dân chúng của họ sẽ sụp đổ như thế nào. Các thể chế độc tài, chuyên chế hoặc các Ðế Quốc, cỡ Ðế Quốc La Mã hoặc Ðế Quốc Anh và Ðế Quốc Pháp, cho dù hùng mạnh đến đâu, cũng đều có ngày sụp đổ. Nhưng Ðế Quốc La Mã (Thế kỷ 1 Trước Công Nguyên – Thế kỷ 6), Ðế Quốc Anh và Ðế Quốc Pháp (Thế kỷ 17-Thế kỷ 20), tất cả đã sụp đổ vào lòng dân tộc của họ chứ không sụp đổ vào tay ngoại bang, cho nên ngày nay người ta vẫn còn chứng kiến được các nền văn minh huy hoàng của Ý, Anh và Pháp còn tồn tại từ cả nghìn năm qua. (Ngay cả Ðế Quốc Nguyên Mông khi sụp đổ cũng đã sụp đổ vào lòng dân tộc Trung Hoa, là nơi quân Nguyên Mông đến chinh phục, sau đó ở lại cai trị Trung Nguyên và bị người Hán đồng hóa luôn.) Còn Việt Nam thì e rằng khác, bởi vì khi cả 3 thực thể là Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam và Công An Nhân Dân Việt Nam, tức là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, sụp đổ thì lại họ lại sụp đổ ngay vào tay Trung Cộng, nơi mà 3 thực thể đó từng được nuôi dưỡng và ru ngủ kể từ khi Ðảng Cộng Sản Việt Nam được Hồ Chí Minh thành lập hồi năm 1930 cho tới ngày nay. (11) Như vậy, tương lai Việt Nam sẽ ra sao đây ngay cả sau khi Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Quân Ðội Nhân Dân, và Công An Nhân Dân Việt Nam đều sụp đổ? Lúc đó, Việt Nam có thể sẽ là một Crimea (ở Ukraine) của Trung Cộng, bởi vì hiện đã có hằng triệu người Hoa được Trung Cộng cài vào Việt Nam, tại các “khu dành riêng cho người Hoa” – khu cư dân được hưởng đặc quyền, đặc lợi riêng, không hề giống như những Chinatown ở các nước Tây phương chút nào cả- mà tỉnh nào, thành phố nào ở Việt Nam ngày nay cũng có (12), dưới hình thức các chuyên gia, dân buôn bán, khai thác khoáng sản, kinh doanh, lao động, thuê mướn đất canh tác dài hạn, con rể, con dâu, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, và thậm chí còn là các cố vấn quân sự và hành chính trong guồng máy chính quyền Cộng Sản Việt Nam nữa. Ðiều đáng lo sợ nhất cho dân tộc Việt Nam là rất có thể nhạc sĩ Việt Khang đã đúng khi anh buộc miệng hát lên: “Cội nguồn ở đâu khi thế giới này đã không còn Việt Nam?” (Việt Khang/”Anh Là Ai”), có nghĩa là Việt Nam không còn đứng vững được nữa sau hơn 4,000 năm. (13)
Thứ sáu, cho dù lịch sử Việt Nam sẽ chuyển biến ra sao và về hướng nào đi nữa trong tương lai, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân đội hùng mạnh và đầy tính nhân đạo nhưng đã bị bức tử từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975, cũng đã trở thành bất tử (14) – như ý nhạc trong ca khúc “Anh Không Chết Ðâu Anh,” của Trần Thiện Thanh – và đã thực sự trở thành những người anh hùng dân tộc để cho dân chúng Việt Nam từ Nam chi Bắc mãi mãi tôn vinh, không phải chỉ ở “trong lòng muôn người biết yêu đời lính” mà còn ở trong khối óc và con tim của muôn triệu con người Việt Nam chân chính biết yêu thương tổ quốc và giống nòi.
Sau cùng, điều nổi bật là Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, qua 21 năm hiện hữu tuy ngăn ngủi nhưng đầy hào quang, đã trở thành ngọn đuốc sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam trong tương lai nếu, nhờ ơn Quốc Tổ Hùng Vương, tương lai đó vẫn còn nằm trong vòng tay của dân tộc Việt Nam sau bao cuộc bể dâu và thăng trầm của lịch sử.
Vann Phan

Ghi chú:

(1) Qua vụ Giàn Khoan Hải Dương 981, Trung Cộng đã lộ rõ bộ mặt xâm chiếm đất đai và biển đảo của Việt Nam đến thế mà trong diễn văn vào ngày 30 Tháng Năm năm 2014 tại Diễn Ðàn Shangri-La ở Singapore, Tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, lại cố giảm nhẹ hành động xâm lược đó xuống hàng một xích mích tầm thường giữa các anh em trong một gia đình. Nhật báo Người Việt tại California, số ra ngày 2 Tháng Sáu, trích dẫn lời tuyên bố của Tướng Thanh tại hội nghị đó như sau: “Quan hệ giữa Việt Nam và ‘nước bạn láng giềng Trung Quốc’ về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Ðông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng.” Cũng theo ông Thanh, “trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.” Cũng theo báo Người Việt, một blogger có nickname là “Cầu Nhật Tân” đưa ra nhận định rằng phát biểu của ông Thanh đã đưa Hoa Kỳ và Nhật vào “thế việt vị” (tức là bị “trớt quớt”). Trước đó, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel đã công khai cáo buộc Trung Quốc gây bất ổn ở biển Ðông và xem vụ Giàn Khoan Hải Dương 981 là hành động đe dọa quá trình phát triển của khu vực. Trước ông Hagel, với tư cách một diễn giả chính của Diễn Ðàn Shangri-La, ông Shinzo Abe, thủ tướng Nhật, quả quyết rằng Nhật sẽ ủng hộ tối đa cho nỗ lực bảo vệ an ninh hải phận và không phận, duy trì tự do hàng hải và tự do hàng không của các quốc gia trong Khối ASEAN.
 
(2) Các chính trị gia thuộc đảng Dân Chủ tại cả Thượng Viện và Hạ Viện Hoa Kỳ lúc bấy giờ vẫn chủ trương Hoa Kỳ phải chấm dứt cuộc chiến tranh tại Việt Nam bằng bất cứ giá nào để dùng tiền bạc (của người đóng thuế Mỹ) vào các chương trình phúc lợi xã hội trong nước, một lập trường đúng đắn vì quyền lợi nước Mỹ nhưng đã bất chấp đạo lý làm người và tình bè bạn mà những nước thật sự là đồng minh với nhau sẽ không bao giờ làm vậy. (Sau Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của Việt Nam, hồi năm 1975, Tổng Thống Hosni Mubarak của Ai Cập, hồi năm 2011, cũng bị người bạn đồng minh Mỹ bỏ rơi không tiếc xót một khi Mỹ thấy cần phải bảo vệ quyền lợi của riêng họ.) Vào giai đoạn Quốc Hội Hoa Kỳ cắt đứt tất cả viện trợ quân sự và kinh tế dành cho Việt Nam Cộng Hòa, thời Tổng Thống Gerald Ford, đảng Dân Chủ đang nắm đa số tai cả 2 viện Quốc Hội.
(3) Lời trong nhạc phẩm “Anh Ði Chiến Dịch” của Phạm Ðình Chương. Trên hết tất cả, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là đội quân có tinh thần “võ sĩ đạo” và mã thượng nhất thế giới. Hồi năm 1975, vào lúc tuân lệnh các chính trị gia tại Washington mà bỏ rơi hoàn toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân địch để an toàn rút khỏi Miền Nam Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ từng dự trù có lúc phải chống trả các lực lượng của quân đội Miền Nam Việt Nam sau khi họ đã bị trắng trợn bỏ rơi, nhưng điều đó đã không xảy ra, mà thay vào đó nhiều cấp chỉ huy cùng binh lính Việt Nam Cộng Hòa đã chọn việc quay súng tự sát hoặc chiến đấu đến viên đạn cuối cùng để biểu lộ khí phách anh hùng của người quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng để tạ lỗi với tổ quốc chứ không quay súng bắn vào người bạn “Ðồng Minh tháo chạy” như họ tưởng. Kinh nghiệm đau thương của quân đội Mỹ, từng bị các “đồng minh” của họ từ Iraq đến Afghanistan bắn giết dã man, cho thấy các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thật sự là đồng minh thân thiết và đáng nể phục nhất của quân đội Mỹ trong suốt dòng lịch sử.
(4) Theo lời bà bà Bảy Vân, phu nhân cố Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẫn, Ông Duẫn từng giải thích vụ Trung Cộng đem quân chiếm Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa bằng câu: “Ta nhờ Trung Quốc giữ hộ Hoàng Sa….”
(5) Nhiều người Việt Nam vẫn không hiểu tại sao sau khi Liên Xô sụp đổ (hồi 1991), Cộng Sản Việt Nam lại ngã vào vòng tay ôm siết của Trung Cộng, kẻ thù truyền kiếp mà trong thời cận đại đã 3 lần đánh Việt Nam chí tử trên bộ cũng như trên biển trong các năm 1979, 1984 và 1988, mà không nhích lại gần hơn với Mỹ, cũng là một trong những kẻ thù cũ của họ. Người ta lại càng tức tối hơn khi thấy sau vụ Trung Cộng tiếp tục xâm lấn biển đảo Việt Nam bằng Giàn Khoan Hải Dương 981 mới đây, Cộng Sản Việt Nam vẫn không chịu bỏ Tàu mà theo Mỹ để được bảo vệ, như Nhật và Phi Luật Tân. Một lý do thầm kín có thể giải thích điều nghịch lý này: Nếu Cộng Sản Việt Nam theo Mỹ để giải quyết quyết cái nghịch lý ngày nay thì họ lại tạo nên một nghịch lý khác, đó là tại sao hồi xưa Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản Việt Nam phải “theo Tàu chống Mỹ cứu nước” để gây nên cảnh núi xương, sông máu, gieo tàn phá, tang tóc, điêu linh cho đất nước từ Nam chi Bắc suốt gần 3 thập niên? Ðó là chưa kể tới chuyện kháng chiến chống Pháp, hóa ra, cũng đã là chuyện sai lầm nghiêm trọng khi, theo tiến trình tự nhiên của lịch sử, chủ nghĩa thực dân toàn cầu phải dần dần cáo chung. Hóa ra, “ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta” đúng như lời Lê Duẫn, Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam, từng nói.
(6) Cựu Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ, lúc còn nắm quyền Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, từng yêu cầu phía Hoa Kỳ phải cung cấp cho Không Quân Việt Nam các phản lực chiến đấu cơ F-4 Phantom II đủ sức bay xa tới Hà Nội và biên giới Trung Cộng rồi quay về, để Không Quân Việt Nam tiện việc hành quân Bắc phạt mà không cần phải nhờ vả phi cơ Mỹ hộ tống. Nhưng phía Mỹ vẫn muốn kềm hãm phía Việt Nam Cộng Hòa và bắt họ phải tùy thuộc vào Mỹ nên chỉ trang bị cho Không Quân Việt Nam loại phản lực chiến đấu cơ F-5A/B/C Freedom Fighter và sau đó là F-5E Tiger II, có khả năng oanh kích yểm trợ hữu hiệu trên các chiến trường trong phạm vi Miền Nam Việt Nam nhưng lại có tầm hoạt động rất ngắn, cho nên nếu Không Quân Việt Nam tham chiến tại Hoàng Sa để yểm trợ cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa chống quân Trung Cộng (hồi năm 1974) thì các phi công chỉ đủ sức từ Ðà Nẵng bay ra Hoàng Sa chiến đấu chừng 15 phút thì phải quay về vì đã hết xăng, dù phi cơ đã được lắp bình xăng phụ.
(7) Vì toàn bộ đất nước Việt Nam tồi tệ đến như vậy dưới chế độ cộng sản, thế mới biết Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, lúc bấy giờ, đã đúng khi xác định lập trường kiên quyết chống cộng của Miền Nam Việt Nam ngay từ đầu. (Vì ông Ngô Ðình Diệm chống cộng nên mới được Mỹ ủng hộ chứ không phải Mỹ ủng hộ ông Diệm để bắt ông phải chống cộng cho Mỹ như lời cộng sản vẩn gièm pha nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa.) Vị thủ tướng (và sau đó là tổng thống) họ Ngô cũng đã sáng suốt khi ông không chấp nhận tổ chức bầu cử thống nhất đất nước với Cộng Sản Bắc Việt trong vòng 2 năm sau khi Hiệp Ðịnh Geneva 1954 được ký kết, bởi vì, trên thực tế, nếu cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước được thực hiện ngay vào thời điểm đó thì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng Sản Bắc Việt) đã thắng và sát nhập Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam Tự Do) vào lãnh thổ của họ rồi, chứ không cần phải đợi đến khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, bởi vì, ngoài chuyện dùng thủ đoạn khủng bố đe dọa cử tri phải bỏ phiếu cho họ – mà ghê gớm nhất là việc đêm đêm du kích xách dao, mang súng đến từng nhà bắt những người bị coi là phản động rồi đem ra đồng trống hoặc bờ sông bắn bỏ xong thủ tiêu xác – những người cộng sản Việt Nam, vào lúc đó, vẫn có một “ma lực” lớn lao, thu hút đa số quần chúng thiếu ý thức chính trị và chưa hiểu biết gì về chủ nghĩa cộng sản ngoài Bắc cũng như trong Nam. Vì thế, đa số dân chúng sẵn sàng không bỏ phiếu cho ông Ngô Ðình Diệm mà dồn phiếu cho ông Hồ Chí Minh, một lãnh tụ đầy huyền thoại nhưng sự thật lại là là kẻ vô đạo đức và cực kỳ ham mê nữ sắc –từng ra lệnh thủ tiêu chính người vợ đã sinh con nối dõi cho mình để bảo vệ nếp sống đạo đức giả của ông, theo đó những người cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng Hồ Chủ Tịch đã chọn nếp sống độc thân để có thể hiến mình trọn vẹn cho tổ quốc – như sau này lịch sử đã phanh phui ra. Ngay cả tới năm 1975, trước khi có dịp sống với và hiểu rõ chế độ cộng sản, một số không nhỏ trí thức thành phố và dân quê tại Miền Nam Việt Nam, với bản tình “đứng núi này, trông núi nọ” cố hữu của dân tộc, vẫn nghĩ rằng chế độ cộng sản của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay hơn và tốt hơn chế độ tự do, dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa. Sự thật thì giới lãnh đạo cộng sản, cứ y như là những đứa con hư trong một gia đình giàu có, chỉ chuyên vơ vét các tài sản quốc gia như dầu khi, bô-xít, vàng mỏ, than mỏ, lâm sản, hải sản, thú quý… của tổ tiên để lại để làm của riêng phòng khi đảng cộng sản thất thế thì chạy ra ngoại quốc mà sống đời lưu vong nhưng vẫn được vinh thân, phì da và phè phỡn. Cũng nhờ Tổng Thống Diệm quyết định như vậy mà dân chúng tại Miền Nam Tự Do mới được hưởng 21 năm ngắn ngủi có đầy đủ tự do, dân chủ, đầy đủ cương thường, đạo lý và no cơm ấm áo trong một giai đoạn lịch sử luôn được coi là huy hoàng nhất của Việt Nam thời hậu Pháp thuộc.
(8) “Hỡi người trai lính em yêu ơi/hỡi người anh chốn xa xôi/áo xanh pha màu lá/Có khi em ngỡ rằng mình yêu nhau từ kiếp trước/tới bây giờ mơ ước thành duyên tơ/để má em thêm hồng…” (Anh Chương-Trần Thiện Thanh/”Người Yêu Của Lính.”)
(9) Cái thế giới lầm mê chuyên nghe lởi cộng sản mà chống Mỹ, chống Việt Nam Tự Do này rất bao la, bao gồm nhiều nhà lãnh đạo quốc gia, nhân sĩ, trí thức ưu việt của thời đại& kể ra không hết: De Gaulle, Olof Palmer, Bertrand Russell, Jean Paul Sartre, Martin Luther King, Jr., Tom Hayden, Jane Fonda, Joan Baez, John Kerry& Sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam kết thúc, dường như chỉ có ca sĩ Joan Baez là biết dẹp tự ái để lên tiếng nhận mình là đã sai lầm rồi mạnh dạn nói lên lời tạ lỗi với hơn 58,000 quân nhân Mỹ đã bỏ mình vì lý tưởng Tự Do trên các chiến trường Ðông Nam Á và hằng trăm nghìn quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh chống cộng tại Miền Nam Việt Nam và trong các cuộc vượt biên, vượt biển tìm tự do sau đó. Khi Trung Cộng khởi sự xâm lược và lấn chiếm trắng trợn đất đai Việt Nam hồi những năm 1979, 1984, 1988 và, mới đây nhất, là vụ xâm lấn hải phận Việt Nam của Giàn Khoan Hải Dương 981 vào Tháng Năm 2014, những người Cộng Sản Việt Nam vẫn nghĩ đến chuyện cầu cứu Mỹ, nhưng lại cảm thấy vô cùng xấu hổ khi trước đây đã lầm mê hô hào cả nước chống Mỹ và đã lỡ viết vào sách giáo khoa câu “Ðế Quốc Mỹ xâm lược nước ta, là kẻ thù của nhân dân ta,” trong khi Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ chưa hề lấy một tấc đất của ai từ sau Thế Chiến 2, kể cả của Nhật Bản là nước đang nằm dưới quyền sinh sát của Tướng Douglas McArthur, vị tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương và là nhà cai trị thật sự của Nhật Bản (the effective ruler of Japan), sau khi Nhật Bản đã đầu hàng Hoa Kỳ không điều kiện vào ngày 2 Tháng Chín năm 1945. Bây giờ, qua vụ Senkaku, tức là Ðiếu Ngư, (ở Biển Hoa Ðông), Crimea (ở Ukraine), và vụ Giàn Khoan 981 (ở Biển Ðông) – trong đó những kẻ chuyên chiếm đất nước khác toàn là cộng sản thứ thiệt (Tập Cận Bình) hoặc là cựu cộng sản (KGB Vladimir Putin – những người cộng sản Việt Nam phải biết mình đã lầm mê tới mức độ nào – hay nói như nhạc sĩ Phạm Duy trong “Con Ðường Tình Ta Ði” là “đi lạc vào những phía không đường về” – khi nhắm mắt, nhắm mũi cưỡng bách toàn bộ đất nước Việt Nam đi theo con đường cộng sản.
 
(10) Nhiều chuyên gia về Việt Nam vẫn tin rằng, đến một lúc nào đó tức nước, vỡ bờ, có thể các lực lượng Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam sẽ phối hợp với các lực lượng Công An Nhân Dân mà làm một cuộc đảo chính nhằm thay đổi chế độ để đất nước Việt Nam khỏi lệ thuộc vào Tàu Cộng. Nhưng điều này rất khó xảy ra, xét vì, từ mấy chục năm nay, các lực lượng nói trên vẫn quen được Ðảng Cộng Sản Việt Nam dung dưỡng và ban cho nhiều quyền hành, bổng lộc để cho họ luôn phải tận “trung với Ðảng” trong khi chính Ðảng này cũng đang được Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đứng ra bảo đảm cho sự trường tồn, với mục đích làm cho dân tộc Việt Nam mất đi cơ hội quật cường, y như hồi thời Nhà Ðường (618-907), Thái Thú Cao Biền của Giao Chỉ Quận đêm đêm cỡi diều đi ếm các long mạch từ Giao Châu tới Chiêm Thành để Việt Nam chỉ sản sinh được các con rồng yểu tử, cỡ Quang Trung Hoàng Ðế, không đủ sức đe dọa Bắc triều. Hơn nữa, Trung Cộng luôn nghĩ rằng giải giang sơn gấm vóc, rừng vàng, biển bạc từ Ải Nam Quan -mà Trung Cộng đã lấy đi rồi – tới Cà Mau của Việt Nam đã không thuộc về những người cộng sản Việt Nam nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Trung Cộng từ lúc Ðảng Cộng Sản Việt Nam mới thành lập hồi năm 1930 cho tới lúc cộng sản chiếm được Miền Nam Việt Nam hồi năm 1975. Ðó là lý do tại sao Trung Cộng luôn gọi những người cộng sản Việt Nam là quân “vong ân, bội nghĩa” mỗi khi thấy họ có ý định chống lại kế hoạch trường kỳ thôn tính đất đai Việt Nam của Trung Cộng. Ðiều đáng lo ngại nhất là sự thể, cho dù cuộc đảo chánh do quân đội và công an thực hiện như thế có thật sự xảy ra, biết đâu lúc đó sẽ xuất hiện thêm một Quân Ðội Nhân Dân khác cùng với một Công An Nhân Dân khác “made in China” (giống như in, như thật) do Trung Cộng đưa sang  – qua một mật ước giữa các tổng bí thư của 2 đảng Cộng Sản Trung-Việt luôn có khả năng qua mặt chính phủ và quốc hội 2 nước-để đánh dẹp cuộc đảo chánh mới được triển khai rồi tái lập trật tự “(vẫn) như cũ” tại Việt Nam? Qua “vụ Giàn Khoan Hải Dương 981” mới đây, đã rõ ràng là Trung Cộng đang dùng chiêu thức “siết cổ” để cho Việt Nam phải vùng ra mà bỏ chạy, còn nếu đứng lại chống cự thì sẽ bị nghẹt thở mà chết.
(11) Ông Hồ Chí Minh đã để lộ gốc gác của ông là một người Trung Hoa, bởi vì, trước lúc lìa đời hồi năm 1969, ông đã đòi được nghe một ca khúc tiếng Hoa do một phụ nữ người Hoa hát lên. Sản phẩm “Hồ Chí Minh made in China” của Trung Cộng tinh xảo tới nỗi mãi cho đến hồi gần đây, sau hơn 8 thập niên, tức là lâu hơn cả mức tồn tại của Ðảng Cộng Sản Liên Sô, các nhà nghiên cứu lịch sử thế giới mới phát giác thấy. Dù vậy, không có dân tộc xấu mà chỉ có các chế độ chính trị xấu xa hay tàn ác. Dân tộc Trung Hoa, từng có một nền văn minh lâu đời và rực rỡ từ mấy nghìn năm qua, không phải là những con người xấu. Dù nước Tàu đã nhiều lần đô hộ Việt Nam trong qua khứ, người Hoa, tức là Hoa Kiều -và sau đó là người Việt gốc Hoa- kể từ thời Việt Nam bị Pháp cai trị (1862-1949), vẫn luôn là người bạn tốt của dân tộc Việt Nam, và cả hai dân tộc cũng đã từng cùng nhau gánh chịu nhiều đau thương, thống khổ dưới ách xâm lược và thống trị của ngoại bang từ cuối thế kỷ thứ 19 tới giữa thế kỷ 20. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) luôn sát cánh với quân và dân Miền Nam Việt Nam một cách chí tình trong cuộc chiến đấu chống cộng, và Tòa Ðại Sứ Trung Hoa Dân Quốc đã ở lại với Miền Nam Tự Do cho tới phút chót, để trở thành cơ sở ngoại giao cuối cùng di tản khỏi Sài Gòn khi xe tăng cộng sản tiến vào hồi năm 1975. Người Việt Nam luôn ghi nhớ công lao của nhà họ Mạc (Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích), từ bên Trung Hoa sang, đã khai khẩn và bình định vùng Hà Tiên hoang vu thời Chúa Nguyễn (1558-1777) mở mang bờ cõi xuống phương Nam trên các miền đất của Chiêm Thành (Chăm) và Thủy Chân Lạp (Khmer), cũng như biết ơn việc quan lại và dân chúng Long Châu bên Tàu đã cưu mang Tướng Quốc Tôn Thất Thuyết sau khi ông thất bại trong sứ mạng phò vua Hàm Nghi kháng chiến chống Pháp để rồi phải chạy sang nương náu xứ người cho đến lúc gởi nắm xương tàn tại đó (từ năm 1895 đến năm 1913). Chính giới lãnh đạo Trung Cộng, tức là Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, đã làm cho hình ảnh người Trung Hoa trở nên xấu xí trong con mắt của thế giới, bằng hành động ỷ mạnh hiếp yếu và xâm lấn đất đai các dân tộc láng giềng nhỏ bé cũng như bằng mánh khóe buôn bán lọc lừa, chuyên làm đồ giả và chuyên chế tạo các sản phẩm độc hại hay mất vệ sinh để thu lợi.
(12) Hiện nay, “khu dành riêng cho người Hoa” lớn nhất ở Việt Nam tọa lạc tại tỉnh Bình Dương, nơi có nhiều cơ sở kỹ nghệ và thương mại do giới tư bản (đỏ) từ Hoa Lục bỏ tiền ra xây dựng vừa để họ có chốn ăn chơi cho thỏa thích -vì gái làng chơi Việt Nam luôn luôn rẻ (do quá nghèo) và đẹp hơn những chỗ khác- mà cũng vừa để họ kinh doanh, buôn bán lấy tiền mang về xứ, theo kiểu “ngộ có của, ngộ đem về Tàu,” như lời trích từ ca khúc “Sang Nam Việt Bán Buôn Làm Giàu,”một bài Tạ (bài hát) phổ thông tại Nam Kỳ Lục Tinh của Việt Nam thời Pháp thuộc: “Bên Tàu, ngộ ở bên Tàu, bên Tàu ngộ mới sang qua, sang Nam Việt bán buôn làm giàu…”
(13) Lời trong ca khúc “Anh Là Ai” của Việt Khang. Nhạc sĩ trẻ tuổi này hiện đang bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam giam giữ chỉ vì, qua các ca khúc như “Anh Là Ai” và “Việt Nam Tôi Ðâu,” anh đã bày tỏ lòng yêu nước của mình trước việc Trung Cộng liên tục xâm chiếm đất đai và biển đảo Việt Nam. Vậy chính quyền Việt Nam trong nước hiện nay là chính quyền của ai mà hành động như thế?
(14) Cái tính bất tử đó của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hiển hiện khi các nhân tố của quân đội này “hóa thân” để trở thành các nhân tố của Quân Lực Hoa Kỳ. Nguồn tin nhật báo Người Việt tại California cho hay, ngày 20 Tháng Năm năm 2014, Ðại Tá Lương Xuân Việt, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 1 Thiết Kỵ Hoa Kỳ, đã được đề cử thăng cấp Chuẩn Tướng. Như vậy, Lương Xuân Việt là người Mỹ gốc Việt đầu tiên trong lịch sử trở thành một tướng lãnh trong Quân Lực Hoa Kỳ. Chuẩn Tướng Việt là con trai của Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến Lương Xuân Ðương trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay, hậu duệ của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từng tốt nghiệp các trường võ bị danh tiếng của Hoa Kỳ, kể cả West Point, đã trở thành những chiến binh phục vụ trong các quân, binh chủng của Quân Lực Hoa Kỳ, và nhiều người đang là sĩ quan cấp Ðại Tá, trong đó có Hải Quân Ðại Tá Lê Bá Hùng, vị sĩ quan từng chỉ huy chiến hạm USS Lassen đến thăm Ðà Nẵng, Việt Nam, hồi Tháng Mười Một năm 2009. Ðại Tá Hùng là con trai của Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


hung-viet.org
Sinh Tồn chuyển

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm