Truyện Ngắn & Phóng Sự
Lá thư không đợi - Trang Châu
Địa chỉ cũ là cái nhà vợ chồng ông Kim đã bán lại cho cặp vợ chồng người Do Thái cách đây hai năm. Ly là em gái của vợ ông Kim, ở cạnh nhà cũ của ông.
Đi làm về ông Kim được vợ cho hay và dặn :
- Con Ly vừa gọi điện thoại, nó nói có thư gởi cho anh về địa cũ, nó
đang giữ, nhớ lại lấy.
Địa chỉ cũ là cái nhà vợ chồng ông Kim đã bán lại cho cặp vợ chồng
người Do Thái cách đây hai năm. Ly là em gái của vợ ông Kim, ở cạnh nhà cũ của
ông. Trong mấy tháng đầu, sau khi bán nhà, chủ mới thỉnh thoảng vẫn đưa cho Ly
những thư từ của vợ chồng ông Kim nhờ trao lại. Tròn cả năm nay không còn thư từ nào gởi về địa chỉ cũ nữa.
Ông Kim ngạc nhiên sao hôm nay lại có thư ? Nhưng sau khi nghe vợ nói thêm là
Ly cho biết thư gởi từ Việt Nam thì ông Kim không còn thắc mắc sao thư lại gởi
vế địa chỉ cũ mà thắc mắc ai ở Việt Nam gởi cho ông lá thư đó vì từ lâu ông
không còn họ hàng thân thích nào ở Việt Nam để liên lạc.
‘’ Kính thưa ông Chủ Tịch
Tôi xin tự giới thiệu tôi là Nguyễn Văn Quý, trước 75, là binh nhất
biệt động quân, bị thương ở mặt trận Long Khánh. Trưa ngày 30 tháng 4 cọng quân
chiếm Sàigòn, tất cả thương bệnh binh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cọng Hòa. Tôi
chạy về nhà cha mẹ với vết thương ở mặt chưa lành. Lúc bị thương tôi mới 21 tuổi.
Tuy còn trẻ nhưng vì là một người tàn phế thuộc chế độ cũ, tôi cũng như bao
nhiêu anh em thương phế binh khác, bị hất ra bên lề xã hội. Cuộc sống do đó thật
vất vả. Riêng tôi, vết thương đã tàn phá mặt tôi (xin ông xem hình đính kèm) khiến
tôi ban ngày không dám ra đường, sợ gặp mặt mọi người, để khỏi mang mặc cảm tạo
giật mình cho kẻ khác với bộ mặt biến dạng xấu xí của mình. Còn trẻ nhưng một
thời gian khá lâu tôi phải sống nương tựa vào gia đình vì chưa biết làm gi để tự
kiếm sống. Cuối cùng thì cha mẹ và hai chị của tôi cũng giúp cho tôi học được một
cái nghề tại gia : nghề thợ may. Chồng của một trong hai bà chị tôi, trước
75, là chủ một tiệm may. Sau khi Sàigòn đổi chủ, ông anh rể tôi vẫn tiếp tục
nghề may nhưng phải đổi kiểu may quần áo cho hợp với thời thế để sống. Thay
vì còm lê, vét tông, bây giờ ông đổi
sang may quần áo kiểu bình dân như bà ba đen, trắng, áo bốn túi màu vàng hay
màu cứt ngựa. Ông còn treo bảng nhận cắt sửa quần áo. Cắt xén những chiếc áo
dài của phụ nữ trước đây thành những chiếc áo ngắn cụt tay. Chị tôi mang quần
áo về nhà, tập cho tôi đơm nút áo rồi tập may, khởi sự bằng cách tập viền những
lai quần, lai áo. Phấn đấu để sống còn đã cho tôi một cái nghề và thưa ông, nhờ
tôi có được chút khéo tay, nên không bao lâu tôi thuần thục nghề may để có thể
may rành rõi mấy thứ quần áo ‘’thời thượng’’ của xã hội chủ nghĩa trong thời
gian đầu. Nhưng tôi chỉ là một tay nghề ở hậu trường, không bao giờ dám chường
mặt ra để gặp mặt khách hàng. Bước sang thời kỳ ‘’đổi mới’’, tiếp theo đó là thời
kỳ ‘’ đại gia ‘’, nghề may của ông anh rể tôi khởi sắc trở lại nhưng khả năng của
tôi sau bao nhiêu năm quen thuộc với các kiểu áo ’’vô sản ‘’ không theo kịp để
đủ tay nghề thực hiện y phục của thời ‘’áo vét quần bò’’ nữa.
Đã ba mươi năm trôi qua, sau cái ngày bị đuổi khỏi Tổng Y Viện Cọng
Hòa với vết thương quái ác ở mặt chưa lành, tôi vẫn còn phải sống độc thân. Với
bộ mặt dị dạng, sứt mũi, sứt môi, tôi có bao giờ dám tơ tưởng đền chuyện lập
gia đình. Cũng hơn mười năm sau 75, ban ngày tôi mới dám ló mặt ra đường, nhờ sự
biến thể của Sàigòn. Sàigòn, hòn ngọc của Viễn đông xưa, nay trở thành kinh đô
của bụi bặm. Ra đường phải mang khẩu trang. Với ai khác, ra đường phải mang khẩu
trang là một phiền toái, với tôi là một cứu cánh. Nhờ mang khẩu trang, ra đường
tôi không bị ai để ý.
Thưa ông Chủ Tịch,
Kể lể hơi dài dòng về cuộc đời và nỗi bất hạnh của tôi, chỉ cốt phần
nào giải thích cơ duyên nào tôi được dịp mạo muội gởi là thư này đến ông. Bị đẩy
vào cuộc sống ẩn dật, tôi tìm thú vui trong việc tập tễnh làm thơ. Buồn thì nhiều,
vui hầu như không có, mơ ước chỉ như thoáng mây trôi, tôi trút tâm tư của mình
và tìm được an ủi trong những vần thơ vụng dại, non nớt của mình. Một hôm tôi bạo
dạn đưa cho bà chị thứ hai của tôi, trước là giáo viên, đọc bài thơ ưng ý nhất
của mình. Chị tôi đọc xong bài thơ, nhìn tôi với đôi mắt ngỡ ngàng : ’’Chị
không ngờ em lại có tâm hồn thi sĩ!’’. Rồi chị ghé tai tôi nói nhỏ :
-Bài thơ này em cho phổ biến trong nước thì công an nó hỏi thăm em
ngay. Chị coi trên mạng biết được ở hải ngoại có Hội Văn Nghệ Sĩ Quốc Gia. Để
chị kiếm cho em địa chỉ , em gởi bài thơ ra cho họ, biết đâu họ sẽ đăng thơ em.
Thưa ông Chủ Tịch
Tôi không dám mong bài thơ tôi gởi kèm theo đây đạt được trình độ để
quí vị cho đăng trên diễn đàn của quí vị, chỉ mong ông hiểu cho niềm hân hoan của
tôi khi nghe lại được hai tiếng ‘’quốc gia’’, sau bao nhiêu năm tắt tiếng ở
trong nước, vẫn âm vang nơi hải ngoại. Tôi chỉ mong được bày tỏ tinh thần và niềm
tin quốc gia của một thương phế binh VNCH đang sống lầm lũi dưới chế độ Cọng Sản.
Kính thư
Nguyễn Văn Quý
T.B. Địa chỉ ngoài phong bì là địa chỉ nhà một người quen cùng cảnh
ngộ như tôi.
Kèm theo lá thư là hai tấm ảnh và một bài thơ. Tấm ảnh nhỏ loại căn
cước là hình một người lính biệt động quân mặc quần áo hoa, đội mũ nâu; tấm ảnh
lớn hơn chụp một người đàn ông trạc ngoài năm mươi tuổi, mặc chiếc áo thun đen,
với khuôn mặt bị tàn phá nặng nề : chiếc mũi bị bay mất phần dưới để lộ một
lỗ hổng và môi trên bị mất phần giữa nhìn thấy cả răng. Nhìn tấm ảnh ông Kim thầm
nghĩ giá mà ông ta ở được bên Bắc Mỹ này thì khoa giải phẫu tái tạo hàm mặt chắc
chắn đã giúp ông ta có một khuôn mặt dễ nhìn hơn. Ông Kim đọc bài thơ có tựa đề :
Phận nước đời trai. Ông xúc động trước cái tứ bi phẫn của bài thơ trong đó nổi
bật mấy câu :
‘’Than ôi! Nát một đời trai!
‘’ Tủi cho phận nước an bài từ đây
‘’Từ đây mộng ước hao gầy
‘’ ôm riêng mối hận biết ngày nào nguôi …
Đọc cái tái bút, ông Kim hơi thắc mắc sao ông thương phế binh Quý
này không lấy địa chỉ nơi ông ở mà lấy địa chỉ của một người đồng cảnh ngộ?
Ăn cơm tối xong ông Kim gọi điện thoại cho bốn thành viên trong Ban
Chấp Hành bàn thảo về lá thư bất ngờ của người thương phế binh biệt động quân. Cuối
cùng Ban Chấp hành đồng ý trích quỹ 100 mỹ kim gởi tặng ông Quý, coi như một
món quà Xuân, đồng thời chuyển lá thư cùng hình ảnh của ông Quý đến Hội Cựu
Quân Nhân để được cứu xét giúp đỡ hàng năm.
Chừng một tháng sau khi gởi tiền về theo địa chỉ ông Quý cho, ông
Kim nhận được hồi âm. Trong thư ông Quý viết rất mừng rỡ nhận được quà, cám ơn
Trời Phật rồi chúc lành ông Kim cùng toàn thể hội viên. Ông Quý cho biết thôi
làm nghề thợ may vì trong nước bây giờ tràn ngập đồ Trung quốc và đồ ‘’ngoại’’.
Bây giờ ngày ngày ông ra ngồi phụ một người bạn cùng cảnh ngộ làm nghề vá và
bơm xe đạp. Phía Hội Cựu Quân Nhân cũng cho biết sẽ gởi tiền hàng năm vào dịp Tết
giúp ông Quý. Nhưng ông Kim vẫn chạnh lòng trắc ẩn khi hình dung bộ mặt bị chiến
tranh tàn phá của ông Quý, ở vào tuổi thanh xuân nhất của cuộc đời. Một hy sinh
chưa được đền bù, mà trái lại, bị vùi dập, lãng quên bởi số phận không may phải
nằm phía bên kẻ thua cuộc. Ông quyết định hằng năm không trích quỹ của hội nữa
mà cá nhân ông sẽ tiếp tục giúp đỡ ông Quý.
Cứ thế đều đặn trong bảy năm, mỗi đầu xuân, một món quà hiện kim gởi
đi, một lá thư hồi âm cảm tạ tri ân. Ở hải ngoại ông Kim cũng đã ngoài bảy mươi
và ông Quý ở trong nước cũng phải gần sáu mươi. Cách nhau gần cả chục tuổi,
nhưng ông Kim nghĩ nếu bây giờ đem so hình hai người, chưa chắc ai đã cằn cỗi
hơn ai. Đất nước đã thống nhất, yên bình mấy mươi năm rồi sao lầm than, nghèo
đói vẫn không thụt lùi, sao còn có người chết phải bó chiếu chở trên xe gắn máy
chạy giữa đường!
Bỗng một hôm, vào giữa tháng năm, ông Kim nhận một lá thư gởi từ
Sàigòn. Dù địa chỉ không thay đổi, nhưng nét chữ ngoài phong bì không phải nét
chữ của ông Quý và tên người gởi là một tên lạ : Trần Thanh Phong.
‘’ Kính thưa bác,
Cháu xin tự giới thiệu cháu là Trần Thanh Phong, 25 tuổi. Cha cháu
là Trần Quốc Hiệp, bạn của bác Nguyễn Văn Quý, người thường hay liên lạc và nhận
quà hàng năm của bác từ hải ngoại gởi về. Lý do cháu gởi bác lá thư này là để
giải bày một uẩn khúc kéo dài từ hai năm nay khiến cháu rất khổ tâm. Hôm nay
cháu xin trình bày hết sự việc cho lòng được giải tỏa và để mong được bác cảm
thông. Cha cháu từng là một phục viên trong quân đội nhân dân miền Bắc. Cha
cháu bị thương hôm lực lượng tấn công chiếm kho xăng nhà Bè năm 75. Cha cháu dẫm
phải mìn, bị cưa chân phải, quá đầu gối. Sau khi Bắc Nam thống nhất, cha cháu
được giải ngũ. Mẹ cháu ở Bắc vào và hai người quyết định ở lại miền Nam sinh sống
vì thấy trong Nam đời sống kinh tế cao hơn. Cháu là đứa con thứ ba trong một
gia đình bốn anh chị em, hai trai hai gái. Cháu hiện là nhân viên của một hãng
ngư nghiệp chuyên về hải sản đông lạnh để xuất cảng. Tiền trợ cấp thương phế
binh của cha cháu không đủ nuôi gia đình nên cha cháu phải làm thêm nghề bơm vá
xe đạp và xe gắn máy. Cháu không rõ cha cháu và bác Quý quen nhau lúc nào, vào
dịp nào; cháu chỉ nghe nói bác Quý là thương phế binh của phía bên kia. Có một
lần cháu nghe cha cháu khen :
- Thằng Quý dân Ngụy mà tốt bụng. Nó sửa quần áo cho tao mà không lấy
tiền.
Rồi một lần khác cháu nghe cha cháu chưởi thề :
- Mẹ kiếp! ’’Ngụy’’ như thằng Quý hay ‘’giải phóng’’ như tao cũng chỉ
là những con chốt thí! Nó nát mặt, tao cụt giò, giờ đây tao với nó được gì? Thống
nhất, độc lập từ lâu mà đất nước có khá lên đâu, tụt hậu thêm nữa là đằng khác!
Bây giờ cháu đã khá lớn. Sau khi nghe câu chưởi thề của cha cháu,
cháu bắt đầu suy nghĩ. Chuyện bác Quý lấy địa chỉ của nhà cháu để nhận tiền từ
hải ngoại gởi về là để tránh sự dòm ngó của công an phường. Dù gì gia đình cháu
cũng thuộc diện có công với cách mạng, với nhân dân. Theo cháu biết, mỗi lần nhận
tiền từ hải ngoại gởi về, bác Quý cũng chia một phần tiền cho cha cháu. Khoảng
tiền mà có lúc vui miệng bác Quý nói là ‘’chi phí bảo vệ’’.
Kính thưa bác,
Hôm nay cháu xin tiết lộ với bác một điều : bác Quý từ trần đã
hai năm nay. Bác Quý ngã chết bất thình lình lúc đang phụ cha cháu khiêng một
thùng đồ nghề. Bác sĩ ở nhà thương nói bác bị đứt gân máu não. Bác Quý mất rồi,
mỗi khi có tiền ở hải ngoại gởi về, cha cháu vẫn an nhiên lãnh thế, vì người
giao tiền biết mặt cả bác Quý lẫn cha cháu. Bác Quý còn dặn người giao tiền,
khi bác vắng mặt, thì cứ giao tiền cho cha cháu. Cháu rất bức xúc vì việc làm
không phải của cha cháu nhưng không dám ngỏ lời ngăn cản khi thấy cha mẹ cháu
cũng túng thiếu. Nhờ quà của bác gởi cho, ngày xuân gia đình cháu có thêm chút
không khí Tết.
Nhưng hôm nay cháu viết thư này để xin bác từ nay đừng gởi quà Xuân
cho bác Quý nữa. Bởi lẽ cha cháu từ trần được cả tháng nay. Cha cháu mất vì bệnh
viêm gan cấp tính. Cha cháu đi rồi cháu không còn lý do gì để tiếp tục nhận quà
của bác, một món quà đã làm ray rứt lương tâm cháu. Càng ngày cháu càng thấy
con người của xã hội này trở nên vô cảm, kể cả người thân của mình. Chua xót là
ở chỗ đó. Rồi thế hệ của cháu, nếu mọi người cũng sẽ trở nên như thế hệ của cha
cháu, thì tương lai đất nước này sẽ đi về đâu ? Con người ngày càng mất lương
tri, xã hội ngày càng lụn bại đạo đức, trong khi đó lãnh hải ngày càng thu hẹp,
chủ quyền đất nước đang dần rơi vào tay ngoại bang.
Kính thưa bác,
Ở trong nước hiện nay, những người vào lứa tuổi của cháu, đang trăn
trở về đất nước, về giá trị con người, không nhiều nhưng không phải là không
có. Một hạt cát thì rất nhỏ, nhưng nếu
nhiều hạt cát tụ lại sẽ trở thành một nhúm cát và nếu nhiều nhúm cát có
cơ hội dồn lại, nhờ gió, nước bồi đắp thêm, sẽ có cơ may trở nên một bãi biển
trắng đẹp. Cháu ao ước được làm một hạt cát cứng cáp và trắng tinh cho một bờ
biển tương lai của dân tộc.’’
Kính thư
Trần Thanh Phong
Ông Kim ngồi lặng im nhìn những dòng chữ rắn rỏi đậm nét trên mặt giấy.
Một niềm vui lẫn một nỗi đau dấy lên trong lòng ông. Vui vì giới trẻ trong nước
không phải tất cả đều là những thành phần thủ phận, buông xuôi, vô cảm hay bị đầu
độc bởi giáo điều. Đau vì ở hải ngoại còn có kẻ vứt bỏ căn cước tị nạn của
mình, trở về ăn chơi thụ hưởng mà không cần biết đến nỗi lầm than của đại đa số
thành phần dân tộc. Tệ hại hơn nữa, dăm ba kẻ, trước đây vỗ ngực xưng mình là
quốc gia, chống cọng, trở về Việt Nam, gặp lại vài thân thuộc xa xưa thuộc bên
kia, nay là thành phần cốt cán của chế độ, được họ ve vuốt chiêu dụ, trở ra hải
ngoại cầm loa, dóng trống ca tụng chế độ! Ông Kim dìm nỗi đau, nghĩ đến niềm vui
cho lòng phấn khởi. Ông lấy giấy bút ra viết trả lời người thanh niên tên
Phong :
‘Cháu Phong
Bác tin cháu và các bạn cháu sẽ là những hạt cát tinh khôi của bờ cõi
đất nước. Các cháu sẽ không đơn độc. Các bạn của các cháu ở hải ngoại, đủ mọi lứa
tuổi, sẽ là gió, là nước bồi đắp cho các cháu. Bác hứa sẽ không gởi quà Xuân
cho gia đình cháu nữa. Nhưng cháu và các bạn cháu sẽ nhận đều đặn niềm tin và
phương tiện cần thiết để vun xới niềm tin đó lên thành một cơn bão quét sạch mọi
cặn bã, ô nhiễm đang tàn phá đất nước.’’
Trang Châu
Montréal 14-10-2016
Lá thư không đợi - Trang Châu
Địa chỉ cũ là cái nhà vợ chồng ông Kim đã bán lại cho cặp vợ chồng người Do Thái cách đây hai năm. Ly là em gái của vợ ông Kim, ở cạnh nhà cũ của ông.
Đi làm về ông Kim được vợ cho hay và dặn :
- Con Ly vừa gọi điện thoại, nó nói có thư gởi cho anh về địa cũ, nó
đang giữ, nhớ lại lấy.
Địa chỉ cũ là cái nhà vợ chồng ông Kim đã bán lại cho cặp vợ chồng
người Do Thái cách đây hai năm. Ly là em gái của vợ ông Kim, ở cạnh nhà cũ của
ông. Trong mấy tháng đầu, sau khi bán nhà, chủ mới thỉnh thoảng vẫn đưa cho Ly
những thư từ của vợ chồng ông Kim nhờ trao lại. Tròn cả năm nay không còn thư từ nào gởi về địa chỉ cũ nữa.
Ông Kim ngạc nhiên sao hôm nay lại có thư ? Nhưng sau khi nghe vợ nói thêm là
Ly cho biết thư gởi từ Việt Nam thì ông Kim không còn thắc mắc sao thư lại gởi
vế địa chỉ cũ mà thắc mắc ai ở Việt Nam gởi cho ông lá thư đó vì từ lâu ông
không còn họ hàng thân thích nào ở Việt Nam để liên lạc.
‘’ Kính thưa ông Chủ Tịch
Tôi xin tự giới thiệu tôi là Nguyễn Văn Quý, trước 75, là binh nhất
biệt động quân, bị thương ở mặt trận Long Khánh. Trưa ngày 30 tháng 4 cọng quân
chiếm Sàigòn, tất cả thương bệnh binh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cọng Hòa. Tôi
chạy về nhà cha mẹ với vết thương ở mặt chưa lành. Lúc bị thương tôi mới 21 tuổi.
Tuy còn trẻ nhưng vì là một người tàn phế thuộc chế độ cũ, tôi cũng như bao
nhiêu anh em thương phế binh khác, bị hất ra bên lề xã hội. Cuộc sống do đó thật
vất vả. Riêng tôi, vết thương đã tàn phá mặt tôi (xin ông xem hình đính kèm) khiến
tôi ban ngày không dám ra đường, sợ gặp mặt mọi người, để khỏi mang mặc cảm tạo
giật mình cho kẻ khác với bộ mặt biến dạng xấu xí của mình. Còn trẻ nhưng một
thời gian khá lâu tôi phải sống nương tựa vào gia đình vì chưa biết làm gi để tự
kiếm sống. Cuối cùng thì cha mẹ và hai chị của tôi cũng giúp cho tôi học được một
cái nghề tại gia : nghề thợ may. Chồng của một trong hai bà chị tôi, trước
75, là chủ một tiệm may. Sau khi Sàigòn đổi chủ, ông anh rể tôi vẫn tiếp tục
nghề may nhưng phải đổi kiểu may quần áo cho hợp với thời thế để sống. Thay
vì còm lê, vét tông, bây giờ ông đổi
sang may quần áo kiểu bình dân như bà ba đen, trắng, áo bốn túi màu vàng hay
màu cứt ngựa. Ông còn treo bảng nhận cắt sửa quần áo. Cắt xén những chiếc áo
dài của phụ nữ trước đây thành những chiếc áo ngắn cụt tay. Chị tôi mang quần
áo về nhà, tập cho tôi đơm nút áo rồi tập may, khởi sự bằng cách tập viền những
lai quần, lai áo. Phấn đấu để sống còn đã cho tôi một cái nghề và thưa ông, nhờ
tôi có được chút khéo tay, nên không bao lâu tôi thuần thục nghề may để có thể
may rành rõi mấy thứ quần áo ‘’thời thượng’’ của xã hội chủ nghĩa trong thời
gian đầu. Nhưng tôi chỉ là một tay nghề ở hậu trường, không bao giờ dám chường
mặt ra để gặp mặt khách hàng. Bước sang thời kỳ ‘’đổi mới’’, tiếp theo đó là thời
kỳ ‘’ đại gia ‘’, nghề may của ông anh rể tôi khởi sắc trở lại nhưng khả năng của
tôi sau bao nhiêu năm quen thuộc với các kiểu áo ’’vô sản ‘’ không theo kịp để
đủ tay nghề thực hiện y phục của thời ‘’áo vét quần bò’’ nữa.
Đã ba mươi năm trôi qua, sau cái ngày bị đuổi khỏi Tổng Y Viện Cọng
Hòa với vết thương quái ác ở mặt chưa lành, tôi vẫn còn phải sống độc thân. Với
bộ mặt dị dạng, sứt mũi, sứt môi, tôi có bao giờ dám tơ tưởng đền chuyện lập
gia đình. Cũng hơn mười năm sau 75, ban ngày tôi mới dám ló mặt ra đường, nhờ sự
biến thể của Sàigòn. Sàigòn, hòn ngọc của Viễn đông xưa, nay trở thành kinh đô
của bụi bặm. Ra đường phải mang khẩu trang. Với ai khác, ra đường phải mang khẩu
trang là một phiền toái, với tôi là một cứu cánh. Nhờ mang khẩu trang, ra đường
tôi không bị ai để ý.
Thưa ông Chủ Tịch,
Kể lể hơi dài dòng về cuộc đời và nỗi bất hạnh của tôi, chỉ cốt phần
nào giải thích cơ duyên nào tôi được dịp mạo muội gởi là thư này đến ông. Bị đẩy
vào cuộc sống ẩn dật, tôi tìm thú vui trong việc tập tễnh làm thơ. Buồn thì nhiều,
vui hầu như không có, mơ ước chỉ như thoáng mây trôi, tôi trút tâm tư của mình
và tìm được an ủi trong những vần thơ vụng dại, non nớt của mình. Một hôm tôi bạo
dạn đưa cho bà chị thứ hai của tôi, trước là giáo viên, đọc bài thơ ưng ý nhất
của mình. Chị tôi đọc xong bài thơ, nhìn tôi với đôi mắt ngỡ ngàng : ’’Chị
không ngờ em lại có tâm hồn thi sĩ!’’. Rồi chị ghé tai tôi nói nhỏ :
-Bài thơ này em cho phổ biến trong nước thì công an nó hỏi thăm em
ngay. Chị coi trên mạng biết được ở hải ngoại có Hội Văn Nghệ Sĩ Quốc Gia. Để
chị kiếm cho em địa chỉ , em gởi bài thơ ra cho họ, biết đâu họ sẽ đăng thơ em.
Thưa ông Chủ Tịch
Tôi không dám mong bài thơ tôi gởi kèm theo đây đạt được trình độ để
quí vị cho đăng trên diễn đàn của quí vị, chỉ mong ông hiểu cho niềm hân hoan của
tôi khi nghe lại được hai tiếng ‘’quốc gia’’, sau bao nhiêu năm tắt tiếng ở
trong nước, vẫn âm vang nơi hải ngoại. Tôi chỉ mong được bày tỏ tinh thần và niềm
tin quốc gia của một thương phế binh VNCH đang sống lầm lũi dưới chế độ Cọng Sản.
Kính thư
Nguyễn Văn Quý
T.B. Địa chỉ ngoài phong bì là địa chỉ nhà một người quen cùng cảnh
ngộ như tôi.
Kèm theo lá thư là hai tấm ảnh và một bài thơ. Tấm ảnh nhỏ loại căn
cước là hình một người lính biệt động quân mặc quần áo hoa, đội mũ nâu; tấm ảnh
lớn hơn chụp một người đàn ông trạc ngoài năm mươi tuổi, mặc chiếc áo thun đen,
với khuôn mặt bị tàn phá nặng nề : chiếc mũi bị bay mất phần dưới để lộ một
lỗ hổng và môi trên bị mất phần giữa nhìn thấy cả răng. Nhìn tấm ảnh ông Kim thầm
nghĩ giá mà ông ta ở được bên Bắc Mỹ này thì khoa giải phẫu tái tạo hàm mặt chắc
chắn đã giúp ông ta có một khuôn mặt dễ nhìn hơn. Ông Kim đọc bài thơ có tựa đề :
Phận nước đời trai. Ông xúc động trước cái tứ bi phẫn của bài thơ trong đó nổi
bật mấy câu :
‘’Than ôi! Nát một đời trai!
‘’ Tủi cho phận nước an bài từ đây
‘’Từ đây mộng ước hao gầy
‘’ ôm riêng mối hận biết ngày nào nguôi …
Đọc cái tái bút, ông Kim hơi thắc mắc sao ông thương phế binh Quý
này không lấy địa chỉ nơi ông ở mà lấy địa chỉ của một người đồng cảnh ngộ?
Ăn cơm tối xong ông Kim gọi điện thoại cho bốn thành viên trong Ban
Chấp Hành bàn thảo về lá thư bất ngờ của người thương phế binh biệt động quân. Cuối
cùng Ban Chấp hành đồng ý trích quỹ 100 mỹ kim gởi tặng ông Quý, coi như một
món quà Xuân, đồng thời chuyển lá thư cùng hình ảnh của ông Quý đến Hội Cựu
Quân Nhân để được cứu xét giúp đỡ hàng năm.
Chừng một tháng sau khi gởi tiền về theo địa chỉ ông Quý cho, ông
Kim nhận được hồi âm. Trong thư ông Quý viết rất mừng rỡ nhận được quà, cám ơn
Trời Phật rồi chúc lành ông Kim cùng toàn thể hội viên. Ông Quý cho biết thôi
làm nghề thợ may vì trong nước bây giờ tràn ngập đồ Trung quốc và đồ ‘’ngoại’’.
Bây giờ ngày ngày ông ra ngồi phụ một người bạn cùng cảnh ngộ làm nghề vá và
bơm xe đạp. Phía Hội Cựu Quân Nhân cũng cho biết sẽ gởi tiền hàng năm vào dịp Tết
giúp ông Quý. Nhưng ông Kim vẫn chạnh lòng trắc ẩn khi hình dung bộ mặt bị chiến
tranh tàn phá của ông Quý, ở vào tuổi thanh xuân nhất của cuộc đời. Một hy sinh
chưa được đền bù, mà trái lại, bị vùi dập, lãng quên bởi số phận không may phải
nằm phía bên kẻ thua cuộc. Ông quyết định hằng năm không trích quỹ của hội nữa
mà cá nhân ông sẽ tiếp tục giúp đỡ ông Quý.
Cứ thế đều đặn trong bảy năm, mỗi đầu xuân, một món quà hiện kim gởi
đi, một lá thư hồi âm cảm tạ tri ân. Ở hải ngoại ông Kim cũng đã ngoài bảy mươi
và ông Quý ở trong nước cũng phải gần sáu mươi. Cách nhau gần cả chục tuổi,
nhưng ông Kim nghĩ nếu bây giờ đem so hình hai người, chưa chắc ai đã cằn cỗi
hơn ai. Đất nước đã thống nhất, yên bình mấy mươi năm rồi sao lầm than, nghèo
đói vẫn không thụt lùi, sao còn có người chết phải bó chiếu chở trên xe gắn máy
chạy giữa đường!
Bỗng một hôm, vào giữa tháng năm, ông Kim nhận một lá thư gởi từ
Sàigòn. Dù địa chỉ không thay đổi, nhưng nét chữ ngoài phong bì không phải nét
chữ của ông Quý và tên người gởi là một tên lạ : Trần Thanh Phong.
‘’ Kính thưa bác,
Cháu xin tự giới thiệu cháu là Trần Thanh Phong, 25 tuổi. Cha cháu
là Trần Quốc Hiệp, bạn của bác Nguyễn Văn Quý, người thường hay liên lạc và nhận
quà hàng năm của bác từ hải ngoại gởi về. Lý do cháu gởi bác lá thư này là để
giải bày một uẩn khúc kéo dài từ hai năm nay khiến cháu rất khổ tâm. Hôm nay
cháu xin trình bày hết sự việc cho lòng được giải tỏa và để mong được bác cảm
thông. Cha cháu từng là một phục viên trong quân đội nhân dân miền Bắc. Cha
cháu bị thương hôm lực lượng tấn công chiếm kho xăng nhà Bè năm 75. Cha cháu dẫm
phải mìn, bị cưa chân phải, quá đầu gối. Sau khi Bắc Nam thống nhất, cha cháu
được giải ngũ. Mẹ cháu ở Bắc vào và hai người quyết định ở lại miền Nam sinh sống
vì thấy trong Nam đời sống kinh tế cao hơn. Cháu là đứa con thứ ba trong một
gia đình bốn anh chị em, hai trai hai gái. Cháu hiện là nhân viên của một hãng
ngư nghiệp chuyên về hải sản đông lạnh để xuất cảng. Tiền trợ cấp thương phế
binh của cha cháu không đủ nuôi gia đình nên cha cháu phải làm thêm nghề bơm vá
xe đạp và xe gắn máy. Cháu không rõ cha cháu và bác Quý quen nhau lúc nào, vào
dịp nào; cháu chỉ nghe nói bác Quý là thương phế binh của phía bên kia. Có một
lần cháu nghe cha cháu khen :
- Thằng Quý dân Ngụy mà tốt bụng. Nó sửa quần áo cho tao mà không lấy
tiền.
Rồi một lần khác cháu nghe cha cháu chưởi thề :
- Mẹ kiếp! ’’Ngụy’’ như thằng Quý hay ‘’giải phóng’’ như tao cũng chỉ
là những con chốt thí! Nó nát mặt, tao cụt giò, giờ đây tao với nó được gì? Thống
nhất, độc lập từ lâu mà đất nước có khá lên đâu, tụt hậu thêm nữa là đằng khác!
Bây giờ cháu đã khá lớn. Sau khi nghe câu chưởi thề của cha cháu,
cháu bắt đầu suy nghĩ. Chuyện bác Quý lấy địa chỉ của nhà cháu để nhận tiền từ
hải ngoại gởi về là để tránh sự dòm ngó của công an phường. Dù gì gia đình cháu
cũng thuộc diện có công với cách mạng, với nhân dân. Theo cháu biết, mỗi lần nhận
tiền từ hải ngoại gởi về, bác Quý cũng chia một phần tiền cho cha cháu. Khoảng
tiền mà có lúc vui miệng bác Quý nói là ‘’chi phí bảo vệ’’.
Kính thưa bác,
Hôm nay cháu xin tiết lộ với bác một điều : bác Quý từ trần đã
hai năm nay. Bác Quý ngã chết bất thình lình lúc đang phụ cha cháu khiêng một
thùng đồ nghề. Bác sĩ ở nhà thương nói bác bị đứt gân máu não. Bác Quý mất rồi,
mỗi khi có tiền ở hải ngoại gởi về, cha cháu vẫn an nhiên lãnh thế, vì người
giao tiền biết mặt cả bác Quý lẫn cha cháu. Bác Quý còn dặn người giao tiền,
khi bác vắng mặt, thì cứ giao tiền cho cha cháu. Cháu rất bức xúc vì việc làm
không phải của cha cháu nhưng không dám ngỏ lời ngăn cản khi thấy cha mẹ cháu
cũng túng thiếu. Nhờ quà của bác gởi cho, ngày xuân gia đình cháu có thêm chút
không khí Tết.
Nhưng hôm nay cháu viết thư này để xin bác từ nay đừng gởi quà Xuân
cho bác Quý nữa. Bởi lẽ cha cháu từ trần được cả tháng nay. Cha cháu mất vì bệnh
viêm gan cấp tính. Cha cháu đi rồi cháu không còn lý do gì để tiếp tục nhận quà
của bác, một món quà đã làm ray rứt lương tâm cháu. Càng ngày cháu càng thấy
con người của xã hội này trở nên vô cảm, kể cả người thân của mình. Chua xót là
ở chỗ đó. Rồi thế hệ của cháu, nếu mọi người cũng sẽ trở nên như thế hệ của cha
cháu, thì tương lai đất nước này sẽ đi về đâu ? Con người ngày càng mất lương
tri, xã hội ngày càng lụn bại đạo đức, trong khi đó lãnh hải ngày càng thu hẹp,
chủ quyền đất nước đang dần rơi vào tay ngoại bang.
Kính thưa bác,
Ở trong nước hiện nay, những người vào lứa tuổi của cháu, đang trăn
trở về đất nước, về giá trị con người, không nhiều nhưng không phải là không
có. Một hạt cát thì rất nhỏ, nhưng nếu
nhiều hạt cát tụ lại sẽ trở thành một nhúm cát và nếu nhiều nhúm cát có
cơ hội dồn lại, nhờ gió, nước bồi đắp thêm, sẽ có cơ may trở nên một bãi biển
trắng đẹp. Cháu ao ước được làm một hạt cát cứng cáp và trắng tinh cho một bờ
biển tương lai của dân tộc.’’
Kính thư
Trần Thanh Phong
Ông Kim ngồi lặng im nhìn những dòng chữ rắn rỏi đậm nét trên mặt giấy.
Một niềm vui lẫn một nỗi đau dấy lên trong lòng ông. Vui vì giới trẻ trong nước
không phải tất cả đều là những thành phần thủ phận, buông xuôi, vô cảm hay bị đầu
độc bởi giáo điều. Đau vì ở hải ngoại còn có kẻ vứt bỏ căn cước tị nạn của
mình, trở về ăn chơi thụ hưởng mà không cần biết đến nỗi lầm than của đại đa số
thành phần dân tộc. Tệ hại hơn nữa, dăm ba kẻ, trước đây vỗ ngực xưng mình là
quốc gia, chống cọng, trở về Việt Nam, gặp lại vài thân thuộc xa xưa thuộc bên
kia, nay là thành phần cốt cán của chế độ, được họ ve vuốt chiêu dụ, trở ra hải
ngoại cầm loa, dóng trống ca tụng chế độ! Ông Kim dìm nỗi đau, nghĩ đến niềm vui
cho lòng phấn khởi. Ông lấy giấy bút ra viết trả lời người thanh niên tên
Phong :
‘Cháu Phong
Bác tin cháu và các bạn cháu sẽ là những hạt cát tinh khôi của bờ cõi
đất nước. Các cháu sẽ không đơn độc. Các bạn của các cháu ở hải ngoại, đủ mọi lứa
tuổi, sẽ là gió, là nước bồi đắp cho các cháu. Bác hứa sẽ không gởi quà Xuân
cho gia đình cháu nữa. Nhưng cháu và các bạn cháu sẽ nhận đều đặn niềm tin và
phương tiện cần thiết để vun xới niềm tin đó lên thành một cơn bão quét sạch mọi
cặn bã, ô nhiễm đang tàn phá đất nước.’’
Trang Châu
Montréal 14-10-2016