Truyện Ngắn & Phóng Sự

Lược Sử Sư Đoàn 7 Bộ Binh Trên Chiến Trường Tiền Giang

Được thành lập ngày 1 tháng 1/1955 với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn bộ binh số 31. Đến tháng 8/1955, theo nghị định số 612 QP, sư đoàn được cải danh thành sư đoàn dã chiến số 11
* Lược sử chiến trường của Sư đoàn 7 Bộ Binh:
Được thành lập ngày 1 tháng 1/1955 với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn bộ binh số 31. Đến tháng 8/1955, theo nghị định số 612 QP, sư đoàn được cải danh thành sư đoàn dã chiến số 11. Tới tháng 10/1955, bộ Tổng tham mưu ban hành Sự vụ văn thư số 3975/TTM/1/1/SC, cải danh các sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực theo một phương pháp thống nhất: các sư đoàn dã chiến đánh số từ 1 đến 4, các sư đoàn khinh chiến đánh số từ 11 đến 16. Theo Sự vụ văn thư nói trên, Sư đoàn Dã chiến số 11 được cải danh thành Sư đoàn dã chiến số 4. Danh hiệu các trung đoàn và tiểu đoàn cũng được đổi lại như sau: Trung đoàn Bộ binh số 51 với các tiểu đoàn 16, 50, 719 được cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 10 với các tiểu đoàn: 1/10, 2/10, 3/10. Trung đoàn Bộ binh số 52 với các tiểu đoàn 54, 704, 713 được cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 11 với 3 tiểu đoàn: 1/11, 2/11, 3/11. Trung đoàn Bộ binh số 53 gồm 3 tiểu đoàn 22, 58, 76 được cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 12 với các tiểu đoàn 1/12, 2/12, 3/12.
Cuối năm 1958, trong chiều hướng cải tổ các đại đơn vị, 10 sư đoàn rút xuống còn 7 sư đoàn, và lại được cải danh thành bảy sư đoàn Bộ binh giống nhau, không còn gọi là sư đoàn dã chiến hay khinh chiến nữa. Trong kế hoạch cải tổ này, Sư đoàn dã chiến số 4 được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ binh, các trung đoàn Bộ binh số 10, số 11, số 12 được cải thành trung đoàn 10, 11, 12 Bộ binh. Về hệ thống chỉ huy, kể từ tháng 4/1961, theo sắc lệnh số 98/QP ngày 13 tháng 4/1961, Sư đoàn 7 Bộ binh là 1 trong 3 sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn 3/Vùng 3 chiến thuật (thời gian này chưa có Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật), lãnh thổ hoạt động của Sư đoàn là các tỉnh Tiền Giang, vị tư lệnh Sư đoàn 7 đồng thời là tư lệnh Khu chiến thuật Tiền Giang. Đến đầu tháng 12/1962, bộ Quốc phòng VNCH cho thành lập thêm Quân đoàn 4/Vùng 4 chiến thuật, Sư đoàn 7 Bộ binh trở thành Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn tân lập này. Từ ngày thành lập cho đến 30 tháng 4/1975, Sư đoàn 7 Bộ binh đã lập nhiều chiến tích trong các cuộc hành quân quy mô trong khu vực trách nhiệm, nhất là trong các cuộc hành quân bên kia biên giới Việt-Căm Bốt trong thời gian 1970-1972, và trong cuộc chiến Mùa Hè 1972 ở Kiến Tường và Kiến Phong (sẽ trình bày chi tiết trong các số báo tới).

* 15 vị tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh:
-Tư lệnh đầu tiên Sư đoàn 7 Bộ binh: trung tá Nguyễn Hữu Có:
Trung tá Nguyễn Hữu Có chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ binh từ ngày 1/1/1955 đến 15 tháng 6/1955. Vị tư lệnh này xuất thân trường Thiếu sinh quân, vào năm 1948, ông được tuyển lựa theo học khóa 1 Sĩ quan Việt Nam tại Huế, ra trường đậu thủ khoa (cùng khóa với cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu). Thăng đại tá vào năm 1956 và lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng: tư lệnh Sư đoàn 16 Khinh chiến (1957), tư lệnh Quân khu 1 (Miền Đông Nam phần, sau này là Vùng 3 chiến thuật), tư lệnh phó Quân đoàn 3 (1962-1963), thăng thiếu tướng vào đầu tháng 11/1964, trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ binh trong 5 ngày khi cuộc đảo chánh 1/11/1963 diễn ra. Ngày 5/11/1963, ông được cử làm quyền tư lệnh Quân đoàn 4. Ngày 31/1/1964, sau cuộc chỉnh lý của tướng Khánh, ông bị thay thế bởi trung tướng Dương Văn Đức, nhưng vẫn tiếp tục ở lại Quân đoàn 4 với chức vụ tư lệnh phó. Giữa tháng 9/1964, được cử làm tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật; 19/6/1965: được bổ nhiệm giữ chức Tổng ủy viên chiến tranh kiêm Ủy viên Quốc phòng (tổng trưởng Quốc phòng) trong nội các của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ; từ 14/7/1965 đến 1/10/1965: kiêm nhiệm chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, Ngày 26 tháng 1/1967, khi đang công du ở Đài Loan, ông nhận được thông báo của chính phủ VNCH là bị giải nhiệm và không được trở về nước trong một thời gian.
Từ 6/1955 đến tháng 2/1964, Sư đoàn 7 Bộ binh được chỉ huy bởi các tư lệnh sau đây:
- Đại tá Tôn Thất Xứng: (15/6/1955 đến 27/4/1957), các chức vụ kế tiếp: tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, chỉ huy trưởng Biệt động quân (1961-1963), thăng thiếu tướng tháng 2/1964, giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật; từ tháng 11/1964 đến 1966, chỉ huy trường Đại học Quân sự (trường Chỉ huy Tham Mưu); Đầu năm 1967, rời quân ngũ, ông nghiên cứu biên soạn binh thư.
- Trung tá Ngô Dzu: (27/4/1957 đến 17/3/1958), các chức vụ quan trọng kế tiếp: tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh (1964), thăng chuẩn tướng vào tháng 5/1964; phụ tá Tư lệnh Vùng 3 (1965-1966), từ 1967 thuyên chuyển về bộ Tổng tham mưu phụ trách về Bình Định, thăng thiếu tướng 1968; quyền tư lệnh Quân đoàn 4 từ tháng 5/1970 đến tháng 8/1970, tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật từ tháng 8/1970 đến tháng 5/1972- thăng trung tướng trong thời gian giữ chức vụ này, giải ngũ vào tháng 3/1974 cùng đợt với các trung tướng: Nguyễn Văn Vỹ, Trần Ngọc Tám, Nguyễn Văn Là, Trần Văn Minh (Minh con), Linh Quang Viên, Hoàng Xuân Lãm...
- Đại tá Trần Thiện Khiêm: (17 tháng 3/1958 đến 30/3/1959), từ tháng 4/1959 đến tháng 12/1962: đại tá Khiêm tiếp tục giữ các chức vụ: tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh, quyền tư lệnh Quân khu 5 (Miền Tây Nam phần, sau này là Vùng 4 chiến thuật), thăng thiếu tướng vào tháng 12/1962 và được cử giữ chức tham mưu trưởng Liên quân; thăng trung tướng ngày 2 tháng 11/1963; từ 1/1/1964 đến 31/1/1964: tư lệnh Quân đoàn 3. Sau cuộc chỉnh ký của tướng Khánh (31/1/1964), tướng Khiêm được cử giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội (từ tháng 1/1964 đến tháng 5/1965: chức vụ Tổng tham mưu trưởng được cải danh thành tổng tư lệnh Quân đội), thăng đại tướng vào tháng 8/1964. Ngày 24 tháng 10/1964, rời quân đội và được bổ nhiệm làm đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ, sau đó được điều động về làm đại sứ VNCH tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Tháng 6/1968: trở về nước, giữ chức tổng trưởng Nội vụ trong nội các của thủ tướng Trần Văn Hương. Ngày 1 tháng 9/1969: được cử giữ chức thủ tướng VNCH; đại tướng Khiêm giữ chức vụ này cho đến giữa tháng 4/1975.
- Đại tá Huỳnh Văn Cao (30/3/1959 đến 22/12/1962): Giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh khi còn mang cấp trung tá, chỉ một thời gian được thăng cấp đại tá. 22/tháng 12/ 1962, được thăng cấp thiếu tướng và giữ chức vụ tư lệnh Quân đoàn 4/ Vùng 4 chiến thuật vừa được thành lập. Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, bị giải nhiệm chức vụ tư lệnh Quân đoàn 4, thuyên chuyển về Bộ Tổng tham mưu; từ 1/1/1965 đến 15/5/1966: tổng cục trưởng Tổng cục Chiến tranh chính trị. Ngày 16/5/1966: được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 (trong vụ biến động tại Miền Trung hè 1966), chỉ 15 ngày sau, được lệnh bàn giao chức vụ cho thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm. Giữa năm 1966: giải ngũ; 1967: Thượng nghị sĩ.
- Đại tá Bùi Đình Đạm: 22/12/1962 đến 1/11/1963; chức vụ kế tiếp: giám đốc Nha Động viên (từ tháng 11/1964 đến tháng 4/1975), thăng chuẩn tướng tháng 6/1968, thăng thiếu tướng tháng 6/1970.
- Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có: (1/11/1963 đến 5/11/1963): đã trình bày ở phần trên.
- Đại tá Phạm Văn Đổng (5/11/1963 đến 2/12/1963): các chức vụ kế tiếp: tư lệnh Biệt khu Thủ đô (1964- tháng 5/1965) thăng chuẩn tướng tháng 5/1964, thăng thiếu tướng 10/1964. 1996: giải ngũ; 1/9/1 1969: tổng trưởng Cựu Chiến Binh, nội các thủ tướng Trần Thiện Khiêm.
- Thiếu tướng Lâm Văn Phát (2/12/1963 đến 2/2/1964): thăng thiếu tướng ngày 2 tháng 11/1963 khi đang giữ chức vụ tư lệnh phó Quân đoàn 3. Từ tháng 2/1964 đến tháng 4/1964: tư lệnh Quân đoàn 3, tháng 4 đến tháng 9/1964: Tổng trưởng Nội vụ; 13 tháng 9/1964: cùng với trung tướng Dương Văn Đức cầm đầu cuộc chỉnh lý chống tướng Nguyễn Khánh nhưng bất thành. Tháng 10/1964: giải ngũ; 29/4/1975: tư lệnh Biệt khu Thủ đô; từ trần tại Hoa Kỳ năm 1998.

* Từ tháng 2/1964 đến ngày 30/4/1975:
Sư đoàn 7 BB được chỉ huy bởi các tư lệnh sau đây:
- Đại tá Bùi Hữu Nhơn (2/2/1964 đến 7/3/1964): thăng chuẩn tướng tháng 5/1964, thăng thiếu tướng tháng 11/1964 khi đang giữ chức chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức; từ tháng 11/1964 đến tháng 11/1966: tổng cục trưởng Tiếp vận, tham mưu trưởng Liên quân. Tháng 12/1966: chỉ huy trưởng trường Bộ binh, giữa năm 1967: phó chủ tịch Ủy ban điều hành Quốc tế Quân viện.
- Đại tá Huỳnh Văn Tồn (7/3/1964 đến 16/9/1964): tham gia chỉnh lý 13 tháng 9/1964 nhưng bất thành, giải ngũ.
- Chuẩn tướng Nguyễn Bảo Trị (16/9/1964 đến 9/10/1965): thăng thiếu tướng tháng 11/1965, giữ chức tư lệnh Quân đoàn 3; tháng 5/1966 đến tháng 11/1966: tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, thăng trung tướng tháng 11/1967; từ tháng 6/1966 đến tháng 11/1967: tổng ủy viên (tổng trưởng) Thông tin Chiêu Hồi-trước tháng 12/1966:vẫn kiêm nhiệm chức vụ tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị; tháng 11/1967 đến tháng 6/1968: tổng trưởng Xây dựng Nông Thôn; chức vụ cuối cùng: chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy Tham Mưu.
- Chuẩn tướng Nguyễn Viết Thanh (9/10/1965 đến 3/7/1968): giữ chức tư lệnh Sư đoàn khi vừa thăng cấp đại tá, thăng chuẩn tướng giữa năm 1966, thăng thiếu tướng tháng 6/1968 sau đó giữ chức tư lệnh Quân đoàn 4, tử nạn trực thăng tháng 5/1970.
-Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng (3/7/1968 đến 16/1/1970), chức vụ cuối cùng: Chánh thanh tra cấp Quân đoàn.
- Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: (16/1/1970 đến 1/11/1974): giữ chức tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng giữa năm 1970; tháng 11/1974: thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 4, tự sát ngày 1 tháng 5/1975.
- Chuẩn tướng Trần Văn Hai: 1/11/1974 đến 30/4/1975: thăng chuẩn tướng giữa năm 1970 khi đang giữ chức tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia. Trước khi trở thành tư lệnh Sư đoàn 7 BB, tướng Hai đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: chỉ huy trưởng Biệt động quân, tư lệnh Biệt khu 44, tư lệnh phó Quân đoàn 2, chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ, tự sát ngày 30 tháng 4/1975.
Kỳ sau: Sư đoàn 7 Bộ binh và những trận đánh lớn tại miềm Tây.

 

vietbao.com

Biên Hùng chuyển

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Lược Sử Sư Đoàn 7 Bộ Binh Trên Chiến Trường Tiền Giang

Được thành lập ngày 1 tháng 1/1955 với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn bộ binh số 31. Đến tháng 8/1955, theo nghị định số 612 QP, sư đoàn được cải danh thành sư đoàn dã chiến số 11
* Lược sử chiến trường của Sư đoàn 7 Bộ Binh:
Được thành lập ngày 1 tháng 1/1955 với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn bộ binh số 31. Đến tháng 8/1955, theo nghị định số 612 QP, sư đoàn được cải danh thành sư đoàn dã chiến số 11. Tới tháng 10/1955, bộ Tổng tham mưu ban hành Sự vụ văn thư số 3975/TTM/1/1/SC, cải danh các sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực theo một phương pháp thống nhất: các sư đoàn dã chiến đánh số từ 1 đến 4, các sư đoàn khinh chiến đánh số từ 11 đến 16. Theo Sự vụ văn thư nói trên, Sư đoàn Dã chiến số 11 được cải danh thành Sư đoàn dã chiến số 4. Danh hiệu các trung đoàn và tiểu đoàn cũng được đổi lại như sau: Trung đoàn Bộ binh số 51 với các tiểu đoàn 16, 50, 719 được cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 10 với các tiểu đoàn: 1/10, 2/10, 3/10. Trung đoàn Bộ binh số 52 với các tiểu đoàn 54, 704, 713 được cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 11 với 3 tiểu đoàn: 1/11, 2/11, 3/11. Trung đoàn Bộ binh số 53 gồm 3 tiểu đoàn 22, 58, 76 được cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 12 với các tiểu đoàn 1/12, 2/12, 3/12.
Cuối năm 1958, trong chiều hướng cải tổ các đại đơn vị, 10 sư đoàn rút xuống còn 7 sư đoàn, và lại được cải danh thành bảy sư đoàn Bộ binh giống nhau, không còn gọi là sư đoàn dã chiến hay khinh chiến nữa. Trong kế hoạch cải tổ này, Sư đoàn dã chiến số 4 được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ binh, các trung đoàn Bộ binh số 10, số 11, số 12 được cải thành trung đoàn 10, 11, 12 Bộ binh. Về hệ thống chỉ huy, kể từ tháng 4/1961, theo sắc lệnh số 98/QP ngày 13 tháng 4/1961, Sư đoàn 7 Bộ binh là 1 trong 3 sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn 3/Vùng 3 chiến thuật (thời gian này chưa có Quân đoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật), lãnh thổ hoạt động của Sư đoàn là các tỉnh Tiền Giang, vị tư lệnh Sư đoàn 7 đồng thời là tư lệnh Khu chiến thuật Tiền Giang. Đến đầu tháng 12/1962, bộ Quốc phòng VNCH cho thành lập thêm Quân đoàn 4/Vùng 4 chiến thuật, Sư đoàn 7 Bộ binh trở thành Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn tân lập này. Từ ngày thành lập cho đến 30 tháng 4/1975, Sư đoàn 7 Bộ binh đã lập nhiều chiến tích trong các cuộc hành quân quy mô trong khu vực trách nhiệm, nhất là trong các cuộc hành quân bên kia biên giới Việt-Căm Bốt trong thời gian 1970-1972, và trong cuộc chiến Mùa Hè 1972 ở Kiến Tường và Kiến Phong (sẽ trình bày chi tiết trong các số báo tới).

* 15 vị tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh:
-Tư lệnh đầu tiên Sư đoàn 7 Bộ binh: trung tá Nguyễn Hữu Có:
Trung tá Nguyễn Hữu Có chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ binh từ ngày 1/1/1955 đến 15 tháng 6/1955. Vị tư lệnh này xuất thân trường Thiếu sinh quân, vào năm 1948, ông được tuyển lựa theo học khóa 1 Sĩ quan Việt Nam tại Huế, ra trường đậu thủ khoa (cùng khóa với cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu). Thăng đại tá vào năm 1956 và lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng: tư lệnh Sư đoàn 16 Khinh chiến (1957), tư lệnh Quân khu 1 (Miền Đông Nam phần, sau này là Vùng 3 chiến thuật), tư lệnh phó Quân đoàn 3 (1962-1963), thăng thiếu tướng vào đầu tháng 11/1964, trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ binh trong 5 ngày khi cuộc đảo chánh 1/11/1963 diễn ra. Ngày 5/11/1963, ông được cử làm quyền tư lệnh Quân đoàn 4. Ngày 31/1/1964, sau cuộc chỉnh lý của tướng Khánh, ông bị thay thế bởi trung tướng Dương Văn Đức, nhưng vẫn tiếp tục ở lại Quân đoàn 4 với chức vụ tư lệnh phó. Giữa tháng 9/1964, được cử làm tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật; 19/6/1965: được bổ nhiệm giữ chức Tổng ủy viên chiến tranh kiêm Ủy viên Quốc phòng (tổng trưởng Quốc phòng) trong nội các của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ; từ 14/7/1965 đến 1/10/1965: kiêm nhiệm chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, Ngày 26 tháng 1/1967, khi đang công du ở Đài Loan, ông nhận được thông báo của chính phủ VNCH là bị giải nhiệm và không được trở về nước trong một thời gian.
Từ 6/1955 đến tháng 2/1964, Sư đoàn 7 Bộ binh được chỉ huy bởi các tư lệnh sau đây:
- Đại tá Tôn Thất Xứng: (15/6/1955 đến 27/4/1957), các chức vụ kế tiếp: tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, chỉ huy trưởng Biệt động quân (1961-1963), thăng thiếu tướng tháng 2/1964, giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật; từ tháng 11/1964 đến 1966, chỉ huy trường Đại học Quân sự (trường Chỉ huy Tham Mưu); Đầu năm 1967, rời quân ngũ, ông nghiên cứu biên soạn binh thư.
- Trung tá Ngô Dzu: (27/4/1957 đến 17/3/1958), các chức vụ quan trọng kế tiếp: tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh (1964), thăng chuẩn tướng vào tháng 5/1964; phụ tá Tư lệnh Vùng 3 (1965-1966), từ 1967 thuyên chuyển về bộ Tổng tham mưu phụ trách về Bình Định, thăng thiếu tướng 1968; quyền tư lệnh Quân đoàn 4 từ tháng 5/1970 đến tháng 8/1970, tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật từ tháng 8/1970 đến tháng 5/1972- thăng trung tướng trong thời gian giữ chức vụ này, giải ngũ vào tháng 3/1974 cùng đợt với các trung tướng: Nguyễn Văn Vỹ, Trần Ngọc Tám, Nguyễn Văn Là, Trần Văn Minh (Minh con), Linh Quang Viên, Hoàng Xuân Lãm...
- Đại tá Trần Thiện Khiêm: (17 tháng 3/1958 đến 30/3/1959), từ tháng 4/1959 đến tháng 12/1962: đại tá Khiêm tiếp tục giữ các chức vụ: tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh, quyền tư lệnh Quân khu 5 (Miền Tây Nam phần, sau này là Vùng 4 chiến thuật), thăng thiếu tướng vào tháng 12/1962 và được cử giữ chức tham mưu trưởng Liên quân; thăng trung tướng ngày 2 tháng 11/1963; từ 1/1/1964 đến 31/1/1964: tư lệnh Quân đoàn 3. Sau cuộc chỉnh ký của tướng Khánh (31/1/1964), tướng Khiêm được cử giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội (từ tháng 1/1964 đến tháng 5/1965: chức vụ Tổng tham mưu trưởng được cải danh thành tổng tư lệnh Quân đội), thăng đại tướng vào tháng 8/1964. Ngày 24 tháng 10/1964, rời quân đội và được bổ nhiệm làm đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ, sau đó được điều động về làm đại sứ VNCH tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Tháng 6/1968: trở về nước, giữ chức tổng trưởng Nội vụ trong nội các của thủ tướng Trần Văn Hương. Ngày 1 tháng 9/1969: được cử giữ chức thủ tướng VNCH; đại tướng Khiêm giữ chức vụ này cho đến giữa tháng 4/1975.
- Đại tá Huỳnh Văn Cao (30/3/1959 đến 22/12/1962): Giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh khi còn mang cấp trung tá, chỉ một thời gian được thăng cấp đại tá. 22/tháng 12/ 1962, được thăng cấp thiếu tướng và giữ chức vụ tư lệnh Quân đoàn 4/ Vùng 4 chiến thuật vừa được thành lập. Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, bị giải nhiệm chức vụ tư lệnh Quân đoàn 4, thuyên chuyển về Bộ Tổng tham mưu; từ 1/1/1965 đến 15/5/1966: tổng cục trưởng Tổng cục Chiến tranh chính trị. Ngày 16/5/1966: được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 (trong vụ biến động tại Miền Trung hè 1966), chỉ 15 ngày sau, được lệnh bàn giao chức vụ cho thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm. Giữa năm 1966: giải ngũ; 1967: Thượng nghị sĩ.
- Đại tá Bùi Đình Đạm: 22/12/1962 đến 1/11/1963; chức vụ kế tiếp: giám đốc Nha Động viên (từ tháng 11/1964 đến tháng 4/1975), thăng chuẩn tướng tháng 6/1968, thăng thiếu tướng tháng 6/1970.
- Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có: (1/11/1963 đến 5/11/1963): đã trình bày ở phần trên.
- Đại tá Phạm Văn Đổng (5/11/1963 đến 2/12/1963): các chức vụ kế tiếp: tư lệnh Biệt khu Thủ đô (1964- tháng 5/1965) thăng chuẩn tướng tháng 5/1964, thăng thiếu tướng 10/1964. 1996: giải ngũ; 1/9/1 1969: tổng trưởng Cựu Chiến Binh, nội các thủ tướng Trần Thiện Khiêm.
- Thiếu tướng Lâm Văn Phát (2/12/1963 đến 2/2/1964): thăng thiếu tướng ngày 2 tháng 11/1963 khi đang giữ chức vụ tư lệnh phó Quân đoàn 3. Từ tháng 2/1964 đến tháng 4/1964: tư lệnh Quân đoàn 3, tháng 4 đến tháng 9/1964: Tổng trưởng Nội vụ; 13 tháng 9/1964: cùng với trung tướng Dương Văn Đức cầm đầu cuộc chỉnh lý chống tướng Nguyễn Khánh nhưng bất thành. Tháng 10/1964: giải ngũ; 29/4/1975: tư lệnh Biệt khu Thủ đô; từ trần tại Hoa Kỳ năm 1998.

* Từ tháng 2/1964 đến ngày 30/4/1975:
Sư đoàn 7 BB được chỉ huy bởi các tư lệnh sau đây:
- Đại tá Bùi Hữu Nhơn (2/2/1964 đến 7/3/1964): thăng chuẩn tướng tháng 5/1964, thăng thiếu tướng tháng 11/1964 khi đang giữ chức chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức; từ tháng 11/1964 đến tháng 11/1966: tổng cục trưởng Tiếp vận, tham mưu trưởng Liên quân. Tháng 12/1966: chỉ huy trưởng trường Bộ binh, giữa năm 1967: phó chủ tịch Ủy ban điều hành Quốc tế Quân viện.
- Đại tá Huỳnh Văn Tồn (7/3/1964 đến 16/9/1964): tham gia chỉnh lý 13 tháng 9/1964 nhưng bất thành, giải ngũ.
- Chuẩn tướng Nguyễn Bảo Trị (16/9/1964 đến 9/10/1965): thăng thiếu tướng tháng 11/1965, giữ chức tư lệnh Quân đoàn 3; tháng 5/1966 đến tháng 11/1966: tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, thăng trung tướng tháng 11/1967; từ tháng 6/1966 đến tháng 11/1967: tổng ủy viên (tổng trưởng) Thông tin Chiêu Hồi-trước tháng 12/1966:vẫn kiêm nhiệm chức vụ tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị; tháng 11/1967 đến tháng 6/1968: tổng trưởng Xây dựng Nông Thôn; chức vụ cuối cùng: chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy Tham Mưu.
- Chuẩn tướng Nguyễn Viết Thanh (9/10/1965 đến 3/7/1968): giữ chức tư lệnh Sư đoàn khi vừa thăng cấp đại tá, thăng chuẩn tướng giữa năm 1966, thăng thiếu tướng tháng 6/1968 sau đó giữ chức tư lệnh Quân đoàn 4, tử nạn trực thăng tháng 5/1970.
-Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng (3/7/1968 đến 16/1/1970), chức vụ cuối cùng: Chánh thanh tra cấp Quân đoàn.
- Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: (16/1/1970 đến 1/11/1974): giữ chức tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng giữa năm 1970; tháng 11/1974: thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 4, tự sát ngày 1 tháng 5/1975.
- Chuẩn tướng Trần Văn Hai: 1/11/1974 đến 30/4/1975: thăng chuẩn tướng giữa năm 1970 khi đang giữ chức tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia. Trước khi trở thành tư lệnh Sư đoàn 7 BB, tướng Hai đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: chỉ huy trưởng Biệt động quân, tư lệnh Biệt khu 44, tư lệnh phó Quân đoàn 2, chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ, tự sát ngày 30 tháng 4/1975.
Kỳ sau: Sư đoàn 7 Bộ binh và những trận đánh lớn tại miềm Tây.

 

vietbao.com

Biên Hùng chuyển

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm