Sức khỏe và đời sống
Một cái mode mới: thú uống trà
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Trà (tea) thì ai cũng đều biết rồi, thí dụ như trà đen, trà xanh, trà trắng, trà oolong, v.v…
Trà được sản xuất từ lá của một loại thảo mộc, có tên khoa học là Camellia sinensis.
Màu sắc, hương vị, độ chát, tính bổ dưỡng và hàm lượng chất chống oxy
hóa của các loại trà khác nhau tùy theo cách ủ và cách biến chế.
Bên nhà, người mình chia các loại trà ra thành 3 nhóm: trà hương, trà mạn và trà tươi:
– Trà hương đưọc ướp với hoa lài, hoa sói, sen, ngâu, cúc…
– Trà mạn là trà không ướp hương, chỉ chú trọng nhiều về sự tinh tế và
phong cách thưởng thức trà, thí dụ như trà tàu và trà thiền.
– Trà tươi, dùng lá tươi vò nát và cho vô nồi nấu.
Trà dược thảo (herbal tea, tisane): được sản xuất từ các phần như hoa,
trái, thân, củ, rễ của các loại thực vật khác, nhưng không phải là lá
của cây trà Camellia sinensis.
Đem phơi khô, băm nhỏ chế nước sôi cho ra nước trà rồi uống.
Nói tóm lại, trên thị trường trà dược thảo nhiều vô số kể.
Cây gì, trái gì cũng có thể được biến chế thành trà dược thảo hết.
Trà dược thảo đã được con người, đặc biệt là Trung quốc và Ấn độ, sử dụng từ cả ngàn năm nay để phòng bệnh và chữa bệnh.
Tại Québec, các loại trà dược thảo (tisanes) thường thấy bán là Chamomile, Églantier, Fenouil, Framboisier, Lavande, Mélisse, Menthe poivrée, Ortie, Pissenlit, Romarin, Sureau, Thym, Anise tea, Artichoke tea, Chrysanthenum tea, Ginger root, Echinacea tea, v.v.
Bên nhà, thị trường trà dược thảo cũng hết sức là phong phú, đa dạng và rất phổ biến ở khắp mọi nơi. Một vài thí dụ: Trà thảo mộc Hibisc, Trà khổ qua, Trà gừng, Trà chó đẻ răng cưa (Diệp hạ châu), Trà linh chi, Trà đinh, Trà đắng, Trà hoa lài, Trà tim sen, Trà dây (amelopsis cantonensis).
Quảng cáo thấy mà phát ham
Tại Canada, có ít nhất từ 3-4 chục loại trà dược thảo.
Trà dược thảo được thấy bán trong các tiệm thuốc Tây, trong các siêu
thị, chợ Tàu, chợ Á Đông, và có khoảng 90% sản phẩm nhập từ… Trung Quốc.
Trong tiệm Walmart, trà xanh green tea mang nhãn hiệu được sản xuất
chế biến tại California, nhưng khi nhìn kỹ lại thì thấy có ghi chú câu:
“nguyên liệu nhập từ China”!
Đây là chưa kể đến những loại trà quá đặc biệt, đắt như vàng, giá cả
trăm đô một hộp bán trong các cửa hàng đặc biệt tại phố Tàu. Thường chỉ
có dân giàu mới dám mua, hoặc chúng ta phải bấm bụng mua trong những dịp
lễ lộc đặc biệt như để biếu xén trong hôn lễ theo nghi thức Việt Nam
(để vào quả cưới đem qua để biếu nhà gái).
Mấy năm gần đây tại hải ngoại thấy xuất hiện các tiệm chuyên bán trà
(tea house, tea room ) hầu mong cạnh tranh với các tiệm cà phê cổ điển.
Tại sao người ta thích uống trà?
Tác giả nghĩ rằng là tại người ta… già (theo cách suy bụng ta ra bụng người).
Uống riết thành… ghiền!
Uống trà cũng như uống cà phê. Uống cho khỏe hơn, cho tỉnh táo hơn nhờ trà có chứa chất caffeine nhưng ở một nồng độ thấp hơn cà phê. Ăn cơm xong, nhất là sau bữa ăn có nhiều dầu nhiều mỡ, uống một tách trà là thấy ngon, thấy dễ chịu trong cổ họng ngay.
Trà có tính lợi tiểu, cho nên uống trà vào buổi tối thường khó ngủ vì
hay phải thức dậy đôi lần để đi xả xú báp. Người ta thường hay nói giỡn
chơi, đây là trà “Thái Đức”.
Uống trà có lợi hơn uống cà phê vì trà chứa ít caffeine hơn cà phê.
Bên cạnh caffeine, trà còn có chứa chất theophylline và theobromine.
Chất theophylline rất tốt cho phổi, giúp giãn nở phế quản và ngừa suyễn.
Chất theobromine có công dụng làm lợi tiểu và làm êm dịu thần kinh.
Trà cũng còn chứa thêm chất chát tannin nữa. Khác với cà phê, trà nấu
lâu trong nồi thì nồng độ caffeine sẽ tăng không đáng kể, nhưng chất
tannin sẽ tăng nhiều làm cho trà có vị đắng và chát hơn.
Trà và nhất là trà xanh còn có chứa các chất chống oxy hóa antioxidants
như flavonoides, có tác dụng khử các gốc tự do (free radical) là những
chất độc cho tế bào.
Có quảng cáo nói là trà xanh có thể giúp giảm cholesterol và làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại cancer, v.v…
Theo một số khảo cứu khoa học, thì sự kiện uống thường xuyên trà quá
nóng có thể làm tăng nguy cơ bị cancer thực quản hay bao tử?
Trà có thể gây trở ngại trong việc hấp thụ chất sắt. Nếu bạn có bệnh sử
về vấn đề sỏi sạn đường tiết niệu (calcul urinaire oxalo calcique), thì
nên tránh bớt trà nhất là trà đen vì chúng chứa rất nhiều acide
oxalique, vậy hãy cẩn thận!
Ngoài ra, uống trà và cà phê quá thường xuyên dễ làm cho răng trở nên sậm màu làm mất hết đi vẻ thẩm mỹ.
Chuyên bán trà uống tại chỗ hoặc mua đem đi -một hiện tượng mới tại Bắc Mỹ
Tại sao có người ưa chuộng trà dược thảo?
Theo như các quảng cáo của các giới thuốc thiên nhiên, trà dược thảo có
nhiều công dụng như làm êm dịu, giúp an thần, hết lo âu phiền muộn, dễ
ngủ, giúp giảm cân, làm cho ốm bớt, cho thân thể được thon thả, giúp ăn
cho dễ tiêu, đề phòng đủ thứ bệnh như điều hòa kinh nguyệt, tốt cho bệnh
tim, tiểu đường, cholestérol cao, cao máu, viêm gan B, giúp bồi dưỡng
sức khỏe, chống đau nhức, phong thấp, cải thiện sinh lý, kéo dài tuổi
thọ, vân vân…
Trà dược thảo là sản phẩm thiên nhiên có ích trong việc phòng bệnh và chữa bệnh.
Dùng trà gừng hay ăn gừng giúp ngăn chặn cảm giác nôn mửa do hoá trị (Dr A.Weil’s self healing).
Thí nghiệm cho thấy nhờ chất chống oxy hóa polyphenol nên trà dược thảo
có thể ức chế phần sự xuất hiện và phát triển của các khối u cancer.
Theo Giáo sư BR Cassileth, thì dùng thảo dược trong trị liệu có nhiều
ích lợi hơn sử dụng âu dược, vì món thuốc thiên nhiên thường là một tập
hợp của nhiều loại thảo mộc với nhau trong cùng một toa thuốc. Các dược
thảo sẽ tự quân bình và hoá giải tính chất tương khắc của nhau.
Có người hoài nghi, chắc gì đúng như lời quảng cáo
Giáo sư Roger Byard ở Úc Châu cho biết, trong Journal of Forensic
Sciences về sự hiện hữu của nhiều loại độc chất, chẳng hạn như arsenic
và thủy ngân trong một số trà dược thảo mà quảng cáo cho rằng rất an
toàn.
Ngoài ra, một số dược thảo cũng có thể tương tác với một số âu dược để cho ra những phản ứng phụ vô cùng nguy hiểm.
Qua việc phân tích 251 loại dược thảo Á Châu bán tại Hoa Kỳ cho thấy, có đến 36 loại có chứa chất arsenic (thạch tín), 35 loại có chứa thủy ngân và 24 loại có sự hiện diện của chì.
Hơn nữa, có nhiều báo cáo khoa học nói đến việc sử dụng một vài loại
dược thảo đôi khi đưa đến suy tim cardiac failure, suy thận, độc cho gan
hepatotoxic, tai biến mạch máo não, yếu cơ, xáo trộn động tác và co
giật…
Tuy mang danh nghĩa là thuốc thiên nhiên, nhưng nhà sản xuất lại cố tình
pha trộn thêm những loại thuốc tây (prescription drugs, medicaments
d’ordonnance) vào trong đó. Những chất thuốc thường được trộn thêm có
thể là những steroides, hormones, các chất thuốc lợi tiểu, các thuốc
kháng viêm sưng (anti inflammatoires), các thuốc trợ dương
(aphrodisiaques) và thuốc làm giảm đường huyết (hypoglycémiants).
Hội chứng Cushing’s là một bệnh do sự xáo trộn hormones có thể liên hệ
đến sự tiêu thụ chất âu dược steroides trộn chung trong dược thảo.
PC SPE và SPES (thuốc do Botanic Lab Hoa Kỳ sản xuất), dùng để tăng
cường sức miễn dịch và trị các bệnh về tiền liệt tuyến… Cơ quan FDA đã
tìm thấy hai loại thuốc trên có chứa thuốc kháng đông Warfarin và thuốc
chống lo âu sợ hãi Aprazolam (Xanax).
Nếu chẳng may, bệnh nhân uống hai loại thuốc thiên nhiên nầy cùng một
lúc với các loại thuốc an thần thì sẽ rất có hại cho sức khỏe. Thuốc
được bán qua bưu điện và Internet.
Spring Herbal Sleep well Dietary Supplement, Sleepes, Eden herbal
Formulation Sleep Dietary Supplement có chứa bất hợp pháp thuốc
Estazolam là một loại thuốc gây nghiện. Các thuốc trên không có mã số
DIN, NPN-DIN, HM… Santé Canada đã cho thu hồi (2007).
Theo sự nhận định của cơ quan Y Tế Canada, thì sự phối hợp giữa nhiều
loại thuốc thiên nhiên với nhau đều được nghi ngờ là có thể dẫn đến
những phản ứng bất lợi, làm tổn thương gan và có hại cho sức khỏe.
Ngoài ra, còn có vấn đề như những nguyên liệu sử dụng là những nguyên
liệu bị giả mạo hay bị biến đổi cũng được kể như là những nhân tố bất
lợi.
Một vào loại dược thảo trong trà có thể tương tác với thuốc tây
Các loại thảo mộc sau đây thường được thấy dùng làm trà dược thảo:
– Khổ qua (Momordica charantia): Vị đắng, dùng để kích thích tiêu hóa,
ngừa táo bón, ngừa bệnh sốt rét malaria, giúp giảm đường huyết, tăng
tính nhạy cảm của insulin (insulin sensivity) nên thường được sử dụng để
trị bệnh tiểu đường type II…
Tương tác với thuốc trị tiểu đường Chlorpropamide (Diabinese) làm
đường huyết xuống quá nhanh. Lớp vỏ màu đỏ (red aril) bao quanh hạt rất
độc cho trẻ em. Khổ qua có tính làm xuất huyết và co thắt tử cung cho
nên người ta khuyên các phụ nữ đang mang thai nên tránh sử dụng.
– Kava-Kava (Piper methysticum, Tonga, Awa): Trị lo âu, an thần…
Không nên sử dụng chung với các loại thuốc barbituriques,
benzodiazepines, thuốc trị suy nhược tinh thần và thuốc trị bệnh
Parkinson. Kava có ảnh hưởng không tốt đối với các loại thuốc gây mê,
như nó có thể làm gia tăng tác dụng của thuốc mê Halothane, rất nguy
hiểm khi giải phẫu. Không nên uống rượu lúc sử dụng thuốc Kava.
– Echinacée (Echinacea sp, Cone flower, Hedgehog, Indian Head): Trị cảm cúm, cảm nhiễm đường hô hấp, tăng cường sức miễn dịch…
Không sử dụng Echinacée nếu đang xài các loại thuốc làm giảm sức miễn
dịch (immunosuppresseur) như Cyclosporine sau khi được giải phẫu ghép bộ
phận. Kỵ các loại thuốc corticostéroides (Prednisone, Decadron), các
stéroides anabolisants (Winstrol), Amiodarone (Cordarone), Methotrexate
(Rheumatrex) và Ketocomazol (Nizoral).
– Gừng (Gingembre, Ginger): Dùng trong trường hợp muốn nôn mửa, say sóng (motion sickness), ăn không ngon, mất đói…
Gừng kéo dài thời gian chảy máu. Tránh dùng gừng chung với các loại
thuốc làm loãng máu như Aspirine, Coumadin. Lạm dụng gừng có thể ảnh
hưởng đến các thuốc trị bệnh tim và thuốc trị tiểu đường.
– Valériane (Valeriana officinalis, Valerian, Herbe aux chats, Herbe de
st George): Giúp an thần, giảm lo âu bức rức, giảm stress, giảm suy
nhược tinh thần, động kinh, giúp tập trung tư tưởng và ngủ ngon…
Không nên sử dụng chung với các loại thuốc ngủ hay thuốc an thần
(sédatifs) như barbituriques, benzodiazepines (Valium, Librium, Ativan).
Cũng không nên uống chung với các thuốc thiên nhiên có tính an thần như
Chamomile, Kava và Millepertuis vì tính an thần sẽ bị gia tăng gấp bội,
bệnh nhân có thể rơi vào trạng thái mê man. Cùng một lý do vừa nêu,
không nên uống Valeriane chung với rượu vì sẽ làm tăng tác dụng của
alcool. Không nên uống chung cùng lúc với thuốc trị bệnh mất ngủ vì tác
dụng của thuốc nầy sẽ tăng.
– Chamomile (Tanacetum parthenium, Feverfew, Wild Chamomile): Trị tinh
thần căng thẳng, nhức đầu, phong thấp, dị ứng, chóng mặt, đau bụng lúc
hành kinh…
Một khảo cứu Nhật bản đăng trong Journal of Agricultural and Food
Chemistry 2008, cho biết uống trà Chamomile rất tốt vì nó ức chế tác
dụng của hai chất Sorbitol và enzym ALR2. Chính nồng độ cao của hai chất
này trong máu đã dự phần trong việc gây biến chứng của bệnh tiểu đường
type II.
Không nên uống Chamomile chung với các thuốc kháng đông (anticoagulant)
vì sẽ dễ gây xuất huyết. Cũng không nên uống chung với thuốc chống đau
nhức làm loãng máu thuộc nhóm anti inflammatoire non stéroidien như
Tylénol, Aspirine, Ibuprofene (Advil, Motrin), Celebrex.
– Millepertuis (Hypericum perforatum, St John’s Wort, Goatweed, Herbe de
St Jean): Trị suy nhược tinh thần nhẹ, lo âu, mệt mỏi, ăn không biết
ngon, mất ngủ và đau nhức các bắp cơ, tăng sinh lực, giúp ổn định tâm
tánh trong thời gian tiền kinh nguyệt…
Uống chung với các thuốc trị sida như thuốc Indinavir, sẽ làm giảm tác
dụng của loại thuốc diệt siêu vi nầy. Millepertuis cũng ảnh hưởng đến
tác dụng của các thuốc trị kinh phong (antiépileptique), thuốc ngừa
thai, thuốc làm giảm sức miễn dịch, thuốc chống suy nhược tinh thần
(Prozac, Paxil), thuốc chống kết tụ tiểu cầu, thuốc kháng đông
(Coumadin), thuốc ngừa sự loại bỏ bộ phận ghép (Cyclosporine), thuốc
chống siêu vi agents antirétroviraux (Invirase), thuốc trị bệnh tim
Digoxine (Lanoxin) và Théophylline.
– Bạch quả (Ginkgo biloba, Yinhsing, Fossil tree, Kew tree, Maiden hair
tree): Giúp máu lưu thông được dễ dàng, trị viêm phế quản, xơ cứng động
mạch, cholesterol cao, bồi dưỡng trí nhớ, giảm triệu chứng bệnh
Alzheimer, cải thiện tình trạng chóng mặt, giúp gan và túi mật hoạt động
tốt…
Có thể làm xuất huyết nếu xài chung với thuốc kháng đông hoặc thuốc làm
máu loãng như Aspirine, vitamin E, Plavix, Persantine và Ticlid.
Tạp chí New England Journal of Medicine có đề cập đến một ca xuất
huyết trong mắt sau khi bệnh nhân đã thường xuyên uống Ginkgo biloba và
Aspirin trong một thời gian dài.
Tránh xài Ginkgo biloba lúc mang thai và lúc cho con bú.
– Sâm (Panax ginseng): An thần, giảm stress, bồi dưỡng sinh lực, tăng
sức miễn dịch, giảm đường máu, giảm cholesterol và trợ dương…
Dùng Ginseng chung với thuốc kháng đông có thể gây xuất huyết. Với thuốc trị suy nhược tinh thần Phenelzine (Nardil) sẽ gây nhức đầu, run rẩy. Với thuốc trị bệnh tim Digoxin (Lanoxin) sẽ làm khó đo lường hiệu quả và tác dụng của món thuốc nầy. Cũng không nên uống Ginseng nếu đang trị liệu bằng các thuốc tâm thần (antipsychotiques) và thuốc trị suy nhược tinh thần hay trầm cảm (antidepresseur). Nếu đang dùng thuốc trị bệnh tiểu đường (Diabeta, Diamicron) thì cũng không nên dùng Ginseng cùng một lúc vì đường lượng có thể bị kéo xuống quá nhanh…Lạm dụng Ginseng sẽ có nguy cơ làm tăng áp huyết, bồn chồn, mất ngủ, bị tiêu chảy hoặc da nổi đỏ.
– Hà thủ ô (Polygonum multiflorum, Radix Polygoni multiflori,
Chineese knotweed, Flowery knotweed, Ho shou wu, He shou wu, Zi shou wu,
Shou Wu Pian, Fo ti): Rất phổ biến ở Việt Nam và Bắc Mỹ. Theo Đông y,
Hà thủ ô dùng để bồi dưỡng sức khỏe, giữ cho tóc và râu được đen lâu
bạc, bổ gan thận huyết, bổ xương, trợ dương…
Theo cơ quan y tế của Anh quốc Medecine & Health Care Products
Regulatory Agency cho biết, có nhiều khảo cứu nói đến tác dụng độc hại
của Hà thủ ô đối với gan như làm vàng da, vàng mắt, nước tiểu xậm màu,
ói mửa, đau bụng, biếng ăn và làm cho yếu sức.
– Nấm linh chi (Ganoderma lucidum, reishi, ling zhi, mannontake..): Giúp
tăng sức miễn dịch, giảm huyết áp, giảm cholestérol, bổ thận, bổ gan,
ngừa cancer, mất ngủ…
Tương tác với các thuốc thiên nhiên có tính kháng đông hoặc làm loãng
máu (panax ginseng, bạch quả, capsicum, chamomile, celery, cam thảo,
gừng, củ hành, tỏi…) có thể làm dễ chảy máu hơn và làm giảm tuột huyết
áp.
Sử dụng chung với các thuốc tây có tính gây loãng máu hoặc chóng kết tụ
tiểu cầu (antiplaquettaire) như Aspirin, Voltaren, Ibubrofen, Advil,
Motrin, Naproxen, Heparin, Warfarin (Coumadin)…, nấm linh chi sẽ làm gia
tăng tác dụng kháng đông và làm xuất huyết nhiều hơn.
Đối với các thuốc giảm huyết áp như Catopril, Enalapril, Diltiazem, Amlodipine… nấm linh chi làm huyết áp tuột giảm nhanh hơn.
– Kim tảo thảo, Cúc gai, Milk Thistle (Silibum marianum, Chardon Marie):
Dùng để bổ gan, ngừa xơ gan, viêm gan mãn tính, ăn mất ngon, cancer
tiền liệt tuyến, tiểu đường, trầm cảm…
Trên lý thuyết có thể ức chế enzyme Cytochrome P450 2C9 substrates, làm
tăng nồng độ các thuốc Amitriptyline (Elavil), Warfarin (Coumadin),
Diazepam (Valium)), và cũng làm ức chế enzyme nhóm Cytochrome P450 3A4
substrates (tăng nồng độ Indavir thuốc trị Sida).
Tại sao có người chống đối trà dược thảo?
Nói chung, những người chống đối thì nại lý do là dược thảo thiếu sự chuẩn hóa standardization liều lượng và công thức.
Một sản phẩm trà dược thảo thường chứa đựng nhiều thành phần thực vật
chứa tính năng trị liệu khác nhau và có thể tác động lẫn nhau.
Bởi lý do nầy, nên khó xác định được phần nào có lợi thật sự và phần nào có hại!
Ngoài ra, một số trà dược thảo không có nhãn hiệu rõ rệt, thiếu địa chỉ nhà sản xuất.
Mc Cutcheon, giáo sư môn thẩm định dược học pharmacognosis có cho biết
ông ta từng kiểm tra một lô trà dược thảo nhập cảng. Kiện hàng đã nằm
trong diện không có vấn đề gì rồi, nhưng ông lại phát hiện ra là không
đúng như vậy: lô hàng nầy cho thấy đã bị nhiễm thuốc trừ sâu pesticides
và còn bị pha trộn thêm nhiều loại thảo mộc khác có giá trị thấp hơn!
Có nhiều lô hàng dược thảo còn bị nhiễm phân hóa học, hoặc mầm bệnh…
Dược thảo Jin bu huan (trị đau nhức và mất ngủ) cho thấy có phản ứng bất
lợi về tim mạch và thần kinh, và cần phải thông ống dưỡng khí đểgiúp
bệnh nhân thở.
Jin bu huan sẽ làm hư hại gan nếu sử dụng trong thời gian dài.
Nhiệt độ nóng 55-67 độ C của nước trà có thể làm tăng nguy cơ cancer thực quản lên gấp 2 lần.
Một vài loại trà dược thảo có thể hại bao tử, ruột, gan, làm xáo trộn máu huyết và thần kinh.
Những loại như burdock, thorn apple, jimson weed có thể làm khô miệng,
xáo trộn thị giác, giãn nở đồng tử pupils, mất sự định hướng và có thể
gây cơn điên loạn.
Ridker PM. Health hazards of unusual herbal teas. American Family physician 1989; 39(5); 153-156
Một số trường hợp điển hình tiền mất tật mang
*Trà Đinh có những phản ứng hại gan và chết ngưòi
Những năm trước đây, phong trào uống trà Đinh đã xuất hiện sôi nổi tại Việt Nam. Mời các bạn xem bài dưới đây:
Bác sĩ Trần Văn Sáng.Tác hại của trà Đinh
“Trà Đinh hay còn gọi là trà Đắng có tên khoa học (Genus) ILEX thuộc
họ (family) Aquifoliacae. Trà Đinh có những tên khác nhau tùy vùng đất
nào cây được tìm ra và được xử dụng ở nhiều nơi trên thế giới. Riêng ở
Trung quốc và Việt Nam, cây mang tên là Ilex Cornula Lindl. Cũng loại
cây này trên thế giới có các tên khác như sau : Ilex aquifolium,
Chrismast Holly tại Mỹ, cây này dùng để trang trí trong ngày lễ Chúa
Giáng Sinh, English Holly hay European Holly tại Châu âu, Oriental Holly
(linh dược) tại Á châu. Ilex Paraguariensis hay trà Paraquay tìm thấy ở
các nước như Ba Tây, Paraguay, Uruguay, người thổ dân da đỏ gọi là trà
Đen (Indian black drink), ngoài ra còn một số tên nữa như Ilex Asperlla,
Ilex cassene, Ilex chinesis, Mate, Maodongquing. Điều này có nghĩa là
loại cây này đã được sử dụng tại hầu hết các nơi trên thế giới dưới các
mục đích khác nhau.
Riêng tại Việt Nam trà Đinh được quảng cáo trong vấn đề giúp
giảm cân, an thần, ngủ ngon, giúp hạ Cholesterol. Riêng cây Ilex
aqiufolim hay Holly đã được xử dụng tại Châu Âu từ hơn ngàn năm trong
các ngày lễ tôn giáo của các Cơ đốc nhân (Christian) bằng cách trao đổi
các cành cây và hoa này trong ngày lễ, và hiện nay chúng ta vẫn còn thấy
xử dụng trong ngày lễ Giáng Sinh. Cây này được dùng từ xưa để làm một
loại thuốc xổ và hiện nay không còn thấy sử dụng tại Châu Âu.
Tuy nhiên điều quan trọng mà người xử dụng trà không được biết là phản
ứng của nó ra sao, khi dùng lâu ngày thì có gây phản ứng độc hại gì
không ? Theo quan niệm thông thường của dân chúng thì chỉ là trà mà thôi
thì chắc không có hại gì. Sự thật thì trà Đinh hay phần lớn các loại
trà nào khi sử dụng nhiều và lâu dài đều có đưa đến những phản ứng bất
lợi cho cơ thể.
Trà Đinh thuộc nhóm dược thảo có chứa chất PYRROLIZIDINE ALKALOIDS,
chất này cũng được tìm thấy trong số khoảng 230 loại cây cỏ khác nhau.
Chất Pyrrolizidine được tìm thấy là nguyên nhân chính của một số trường
hợp gây độc hại cho gan (veno-occlusive liver disaese) đưa đến sự xáo
trộn cung cấp máu cho gan, làm sưng gan, vàng da, bụng có nưóc, chân phù
và nặng hơn hết là chết do suy gan cấp tính (theo tài liệu của Subhuti
Dharmananda. Ph.D, Giám Đốc trung tâm nghiên cứu về y học cổ truyền tại
Portland, Oregon trong bài tường trình cho tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO)
1988.
Ngoài ra trà Đinh còn có thể gây ra các triệu chứng ói mửa, đau bụng,
tiêu chảy do phản ứng phụ của chất Saponin. Chất Saponin cũng có thể gây
ra bệnh vỡ các hồng huyết cầu ( hermolysis) gây ra bệnh thiếu máu.
Nghiên cứu của DeStefani và các cộng sự viên tại Paraguay cho thấy ở
những người xử dụng nhiều trà Mate tea (thuộc nhóm cây Ilex) tỉ lệ ung
thư bọng đái cao hơn 7 lần bình thường. Trà Đinh cũng có tác dụng làm
chậm nhịp tim giống như chất Digitalis là một loại thuốc đang được xử
dụng để chữa các bệnh xáo trộn nhịp tim. Trà Đinh cũng có tác dụng phụ
làm hạ huyết áp theo các thí nghiệm trên thú vật và trên người, vì thế
trà có thể gây phản ứng làm giảm áp xuất máu ở những người không triệu
chứng cao máu…” (Ngưng trích BS Trần Văn Sáng).
*Bốn phụ nữ Trung quốc có biểu lộ triệu chứng ngứa ngáy do bệnh vẩy
nến (psoriasis) gây ra một thời gian sau khi họ uống một loại loại trà
dược thảo mua từ một du khách Ấn Độ.
Một người ngưng uống, trong khi ba ngưởi còn lại vẫn tiếp tục uống nên
họ đều bị báng, nghĩa là bụng bị trương nước (ascites) và sưng gan
(hepatomegaly). Hai người liền ngưng uống trà dược thảo nói trên thì
triệu chứng cũng dần dần giảm đi. Người thứ ba, không nghe lời khuyên
của bác sĩ và bà ta vẫn tiếp tục uống trà dược thảo nên sau đó phải bỏ
mạng 8 tuần lễ sau đó vì bị suy gan liver failure, áp huyết gia tăng,
xuất huyết bao tử và ruột.
Xét nghiệm tử thi và sinh thiết gan cho thấy bụng trương nước, tĩnh mạch
thực quản trương to, rỉ máu và bao tử thấy có chất nhày nhuộm máu. Sản
phẩm trà dược thảo cho thấy có chứa lá acorns, chà là dates, hạt, nhánh
thảo mộc (?).
Phòng thí nghiệm cho biết lá có chứa một lượng chất unsaturated
pyrrolizidine alkaloids. Và các lá trên nằm trong nhóm thực vật thuộc họ
Compositae.
*Uống trà dược thảo chamomile tea và peppermint tea trong một thời gian
lâu dài có thể bị ngộ độc vì nước water intoxication và dẫn đến co giật
do xáo trộn chất sodium trong máu.
Nguyễn Thượng Chánh
Montreal
Tham khảo
Herbal remedies could be deadly, says forensic pathologist Professor Roger Byard
http://www.adelaidenow.com.au/herbal-remedies-could-be-deadly-says-forensic-pathologist-professor-roger-byard/story-e6frea6u-1225827809823
– Protective Action of Ampelopsis cantoniensis and its major
constituent- Myricetin against LDL oxidation (Nghiên cứu về trà dây…)
Do Thi Ha et al
College of Pharmacy, Chungnam National University, Daejeon 305–764, South Kore
http://dspace.hui.edu.vn:8080/dspace/bitstream/123456789/3898/1/153.pdf
http://thoibao.com/mot-cai-mode-moi-thu-uong-tra/
Một cái mode mới: thú uống trà
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Trà (tea) thì ai cũng đều biết rồi, thí dụ như trà đen, trà xanh, trà trắng, trà oolong, v.v…
Trà được sản xuất từ lá của một loại thảo mộc, có tên khoa học là Camellia sinensis.
Màu sắc, hương vị, độ chát, tính bổ dưỡng và hàm lượng chất chống oxy
hóa của các loại trà khác nhau tùy theo cách ủ và cách biến chế.
Bên nhà, người mình chia các loại trà ra thành 3 nhóm: trà hương, trà mạn và trà tươi:
– Trà hương đưọc ướp với hoa lài, hoa sói, sen, ngâu, cúc…
– Trà mạn là trà không ướp hương, chỉ chú trọng nhiều về sự tinh tế và
phong cách thưởng thức trà, thí dụ như trà tàu và trà thiền.
– Trà tươi, dùng lá tươi vò nát và cho vô nồi nấu.
Trà dược thảo (herbal tea, tisane): được sản xuất từ các phần như hoa,
trái, thân, củ, rễ của các loại thực vật khác, nhưng không phải là lá
của cây trà Camellia sinensis.
Đem phơi khô, băm nhỏ chế nước sôi cho ra nước trà rồi uống.
Nói tóm lại, trên thị trường trà dược thảo nhiều vô số kể.
Cây gì, trái gì cũng có thể được biến chế thành trà dược thảo hết.
Trà dược thảo đã được con người, đặc biệt là Trung quốc và Ấn độ, sử dụng từ cả ngàn năm nay để phòng bệnh và chữa bệnh.
Tại Québec, các loại trà dược thảo (tisanes) thường thấy bán là Chamomile, Églantier, Fenouil, Framboisier, Lavande, Mélisse, Menthe poivrée, Ortie, Pissenlit, Romarin, Sureau, Thym, Anise tea, Artichoke tea, Chrysanthenum tea, Ginger root, Echinacea tea, v.v.
Bên nhà, thị trường trà dược thảo cũng hết sức là phong phú, đa dạng và rất phổ biến ở khắp mọi nơi. Một vài thí dụ: Trà thảo mộc Hibisc, Trà khổ qua, Trà gừng, Trà chó đẻ răng cưa (Diệp hạ châu), Trà linh chi, Trà đinh, Trà đắng, Trà hoa lài, Trà tim sen, Trà dây (amelopsis cantonensis).
Quảng cáo thấy mà phát ham
Tại Canada, có ít nhất từ 3-4 chục loại trà dược thảo.
Trà dược thảo được thấy bán trong các tiệm thuốc Tây, trong các siêu
thị, chợ Tàu, chợ Á Đông, và có khoảng 90% sản phẩm nhập từ… Trung Quốc.
Trong tiệm Walmart, trà xanh green tea mang nhãn hiệu được sản xuất
chế biến tại California, nhưng khi nhìn kỹ lại thì thấy có ghi chú câu:
“nguyên liệu nhập từ China”!
Đây là chưa kể đến những loại trà quá đặc biệt, đắt như vàng, giá cả
trăm đô một hộp bán trong các cửa hàng đặc biệt tại phố Tàu. Thường chỉ
có dân giàu mới dám mua, hoặc chúng ta phải bấm bụng mua trong những dịp
lễ lộc đặc biệt như để biếu xén trong hôn lễ theo nghi thức Việt Nam
(để vào quả cưới đem qua để biếu nhà gái).
Mấy năm gần đây tại hải ngoại thấy xuất hiện các tiệm chuyên bán trà
(tea house, tea room ) hầu mong cạnh tranh với các tiệm cà phê cổ điển.
Tại sao người ta thích uống trà?
Tác giả nghĩ rằng là tại người ta… già (theo cách suy bụng ta ra bụng người).
Uống riết thành… ghiền!
Uống trà cũng như uống cà phê. Uống cho khỏe hơn, cho tỉnh táo hơn nhờ trà có chứa chất caffeine nhưng ở một nồng độ thấp hơn cà phê. Ăn cơm xong, nhất là sau bữa ăn có nhiều dầu nhiều mỡ, uống một tách trà là thấy ngon, thấy dễ chịu trong cổ họng ngay.
Trà có tính lợi tiểu, cho nên uống trà vào buổi tối thường khó ngủ vì
hay phải thức dậy đôi lần để đi xả xú báp. Người ta thường hay nói giỡn
chơi, đây là trà “Thái Đức”.
Uống trà có lợi hơn uống cà phê vì trà chứa ít caffeine hơn cà phê.
Bên cạnh caffeine, trà còn có chứa chất theophylline và theobromine.
Chất theophylline rất tốt cho phổi, giúp giãn nở phế quản và ngừa suyễn.
Chất theobromine có công dụng làm lợi tiểu và làm êm dịu thần kinh.
Trà cũng còn chứa thêm chất chát tannin nữa. Khác với cà phê, trà nấu
lâu trong nồi thì nồng độ caffeine sẽ tăng không đáng kể, nhưng chất
tannin sẽ tăng nhiều làm cho trà có vị đắng và chát hơn.
Trà và nhất là trà xanh còn có chứa các chất chống oxy hóa antioxidants
như flavonoides, có tác dụng khử các gốc tự do (free radical) là những
chất độc cho tế bào.
Có quảng cáo nói là trà xanh có thể giúp giảm cholesterol và làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại cancer, v.v…
Theo một số khảo cứu khoa học, thì sự kiện uống thường xuyên trà quá
nóng có thể làm tăng nguy cơ bị cancer thực quản hay bao tử?
Trà có thể gây trở ngại trong việc hấp thụ chất sắt. Nếu bạn có bệnh sử
về vấn đề sỏi sạn đường tiết niệu (calcul urinaire oxalo calcique), thì
nên tránh bớt trà nhất là trà đen vì chúng chứa rất nhiều acide
oxalique, vậy hãy cẩn thận!
Ngoài ra, uống trà và cà phê quá thường xuyên dễ làm cho răng trở nên sậm màu làm mất hết đi vẻ thẩm mỹ.
Chuyên bán trà uống tại chỗ hoặc mua đem đi -một hiện tượng mới tại Bắc Mỹ
Tại sao có người ưa chuộng trà dược thảo?
Theo như các quảng cáo của các giới thuốc thiên nhiên, trà dược thảo có
nhiều công dụng như làm êm dịu, giúp an thần, hết lo âu phiền muộn, dễ
ngủ, giúp giảm cân, làm cho ốm bớt, cho thân thể được thon thả, giúp ăn
cho dễ tiêu, đề phòng đủ thứ bệnh như điều hòa kinh nguyệt, tốt cho bệnh
tim, tiểu đường, cholestérol cao, cao máu, viêm gan B, giúp bồi dưỡng
sức khỏe, chống đau nhức, phong thấp, cải thiện sinh lý, kéo dài tuổi
thọ, vân vân…
Trà dược thảo là sản phẩm thiên nhiên có ích trong việc phòng bệnh và chữa bệnh.
Dùng trà gừng hay ăn gừng giúp ngăn chặn cảm giác nôn mửa do hoá trị (Dr A.Weil’s self healing).
Thí nghiệm cho thấy nhờ chất chống oxy hóa polyphenol nên trà dược thảo
có thể ức chế phần sự xuất hiện và phát triển của các khối u cancer.
Theo Giáo sư BR Cassileth, thì dùng thảo dược trong trị liệu có nhiều
ích lợi hơn sử dụng âu dược, vì món thuốc thiên nhiên thường là một tập
hợp của nhiều loại thảo mộc với nhau trong cùng một toa thuốc. Các dược
thảo sẽ tự quân bình và hoá giải tính chất tương khắc của nhau.
Có người hoài nghi, chắc gì đúng như lời quảng cáo
Giáo sư Roger Byard ở Úc Châu cho biết, trong Journal of Forensic
Sciences về sự hiện hữu của nhiều loại độc chất, chẳng hạn như arsenic
và thủy ngân trong một số trà dược thảo mà quảng cáo cho rằng rất an
toàn.
Ngoài ra, một số dược thảo cũng có thể tương tác với một số âu dược để cho ra những phản ứng phụ vô cùng nguy hiểm.
Qua việc phân tích 251 loại dược thảo Á Châu bán tại Hoa Kỳ cho thấy, có đến 36 loại có chứa chất arsenic (thạch tín), 35 loại có chứa thủy ngân và 24 loại có sự hiện diện của chì.
Hơn nữa, có nhiều báo cáo khoa học nói đến việc sử dụng một vài loại
dược thảo đôi khi đưa đến suy tim cardiac failure, suy thận, độc cho gan
hepatotoxic, tai biến mạch máo não, yếu cơ, xáo trộn động tác và co
giật…
Tuy mang danh nghĩa là thuốc thiên nhiên, nhưng nhà sản xuất lại cố tình
pha trộn thêm những loại thuốc tây (prescription drugs, medicaments
d’ordonnance) vào trong đó. Những chất thuốc thường được trộn thêm có
thể là những steroides, hormones, các chất thuốc lợi tiểu, các thuốc
kháng viêm sưng (anti inflammatoires), các thuốc trợ dương
(aphrodisiaques) và thuốc làm giảm đường huyết (hypoglycémiants).
Hội chứng Cushing’s là một bệnh do sự xáo trộn hormones có thể liên hệ
đến sự tiêu thụ chất âu dược steroides trộn chung trong dược thảo.
PC SPE và SPES (thuốc do Botanic Lab Hoa Kỳ sản xuất), dùng để tăng
cường sức miễn dịch và trị các bệnh về tiền liệt tuyến… Cơ quan FDA đã
tìm thấy hai loại thuốc trên có chứa thuốc kháng đông Warfarin và thuốc
chống lo âu sợ hãi Aprazolam (Xanax).
Nếu chẳng may, bệnh nhân uống hai loại thuốc thiên nhiên nầy cùng một
lúc với các loại thuốc an thần thì sẽ rất có hại cho sức khỏe. Thuốc
được bán qua bưu điện và Internet.
Spring Herbal Sleep well Dietary Supplement, Sleepes, Eden herbal
Formulation Sleep Dietary Supplement có chứa bất hợp pháp thuốc
Estazolam là một loại thuốc gây nghiện. Các thuốc trên không có mã số
DIN, NPN-DIN, HM… Santé Canada đã cho thu hồi (2007).
Theo sự nhận định của cơ quan Y Tế Canada, thì sự phối hợp giữa nhiều
loại thuốc thiên nhiên với nhau đều được nghi ngờ là có thể dẫn đến
những phản ứng bất lợi, làm tổn thương gan và có hại cho sức khỏe.
Ngoài ra, còn có vấn đề như những nguyên liệu sử dụng là những nguyên
liệu bị giả mạo hay bị biến đổi cũng được kể như là những nhân tố bất
lợi.
Một vào loại dược thảo trong trà có thể tương tác với thuốc tây
Các loại thảo mộc sau đây thường được thấy dùng làm trà dược thảo:
– Khổ qua (Momordica charantia): Vị đắng, dùng để kích thích tiêu hóa,
ngừa táo bón, ngừa bệnh sốt rét malaria, giúp giảm đường huyết, tăng
tính nhạy cảm của insulin (insulin sensivity) nên thường được sử dụng để
trị bệnh tiểu đường type II…
Tương tác với thuốc trị tiểu đường Chlorpropamide (Diabinese) làm
đường huyết xuống quá nhanh. Lớp vỏ màu đỏ (red aril) bao quanh hạt rất
độc cho trẻ em. Khổ qua có tính làm xuất huyết và co thắt tử cung cho
nên người ta khuyên các phụ nữ đang mang thai nên tránh sử dụng.
– Kava-Kava (Piper methysticum, Tonga, Awa): Trị lo âu, an thần…
Không nên sử dụng chung với các loại thuốc barbituriques,
benzodiazepines, thuốc trị suy nhược tinh thần và thuốc trị bệnh
Parkinson. Kava có ảnh hưởng không tốt đối với các loại thuốc gây mê,
như nó có thể làm gia tăng tác dụng của thuốc mê Halothane, rất nguy
hiểm khi giải phẫu. Không nên uống rượu lúc sử dụng thuốc Kava.
– Echinacée (Echinacea sp, Cone flower, Hedgehog, Indian Head): Trị cảm cúm, cảm nhiễm đường hô hấp, tăng cường sức miễn dịch…
Không sử dụng Echinacée nếu đang xài các loại thuốc làm giảm sức miễn
dịch (immunosuppresseur) như Cyclosporine sau khi được giải phẫu ghép bộ
phận. Kỵ các loại thuốc corticostéroides (Prednisone, Decadron), các
stéroides anabolisants (Winstrol), Amiodarone (Cordarone), Methotrexate
(Rheumatrex) và Ketocomazol (Nizoral).
– Gừng (Gingembre, Ginger): Dùng trong trường hợp muốn nôn mửa, say sóng (motion sickness), ăn không ngon, mất đói…
Gừng kéo dài thời gian chảy máu. Tránh dùng gừng chung với các loại
thuốc làm loãng máu như Aspirine, Coumadin. Lạm dụng gừng có thể ảnh
hưởng đến các thuốc trị bệnh tim và thuốc trị tiểu đường.
– Valériane (Valeriana officinalis, Valerian, Herbe aux chats, Herbe de
st George): Giúp an thần, giảm lo âu bức rức, giảm stress, giảm suy
nhược tinh thần, động kinh, giúp tập trung tư tưởng và ngủ ngon…
Không nên sử dụng chung với các loại thuốc ngủ hay thuốc an thần
(sédatifs) như barbituriques, benzodiazepines (Valium, Librium, Ativan).
Cũng không nên uống chung với các thuốc thiên nhiên có tính an thần như
Chamomile, Kava và Millepertuis vì tính an thần sẽ bị gia tăng gấp bội,
bệnh nhân có thể rơi vào trạng thái mê man. Cùng một lý do vừa nêu,
không nên uống Valeriane chung với rượu vì sẽ làm tăng tác dụng của
alcool. Không nên uống chung cùng lúc với thuốc trị bệnh mất ngủ vì tác
dụng của thuốc nầy sẽ tăng.
– Chamomile (Tanacetum parthenium, Feverfew, Wild Chamomile): Trị tinh
thần căng thẳng, nhức đầu, phong thấp, dị ứng, chóng mặt, đau bụng lúc
hành kinh…
Một khảo cứu Nhật bản đăng trong Journal of Agricultural and Food
Chemistry 2008, cho biết uống trà Chamomile rất tốt vì nó ức chế tác
dụng của hai chất Sorbitol và enzym ALR2. Chính nồng độ cao của hai chất
này trong máu đã dự phần trong việc gây biến chứng của bệnh tiểu đường
type II.
Không nên uống Chamomile chung với các thuốc kháng đông (anticoagulant)
vì sẽ dễ gây xuất huyết. Cũng không nên uống chung với thuốc chống đau
nhức làm loãng máu thuộc nhóm anti inflammatoire non stéroidien như
Tylénol, Aspirine, Ibuprofene (Advil, Motrin), Celebrex.
– Millepertuis (Hypericum perforatum, St John’s Wort, Goatweed, Herbe de
St Jean): Trị suy nhược tinh thần nhẹ, lo âu, mệt mỏi, ăn không biết
ngon, mất ngủ và đau nhức các bắp cơ, tăng sinh lực, giúp ổn định tâm
tánh trong thời gian tiền kinh nguyệt…
Uống chung với các thuốc trị sida như thuốc Indinavir, sẽ làm giảm tác
dụng của loại thuốc diệt siêu vi nầy. Millepertuis cũng ảnh hưởng đến
tác dụng của các thuốc trị kinh phong (antiépileptique), thuốc ngừa
thai, thuốc làm giảm sức miễn dịch, thuốc chống suy nhược tinh thần
(Prozac, Paxil), thuốc chống kết tụ tiểu cầu, thuốc kháng đông
(Coumadin), thuốc ngừa sự loại bỏ bộ phận ghép (Cyclosporine), thuốc
chống siêu vi agents antirétroviraux (Invirase), thuốc trị bệnh tim
Digoxine (Lanoxin) và Théophylline.
– Bạch quả (Ginkgo biloba, Yinhsing, Fossil tree, Kew tree, Maiden hair
tree): Giúp máu lưu thông được dễ dàng, trị viêm phế quản, xơ cứng động
mạch, cholesterol cao, bồi dưỡng trí nhớ, giảm triệu chứng bệnh
Alzheimer, cải thiện tình trạng chóng mặt, giúp gan và túi mật hoạt động
tốt…
Có thể làm xuất huyết nếu xài chung với thuốc kháng đông hoặc thuốc làm
máu loãng như Aspirine, vitamin E, Plavix, Persantine và Ticlid.
Tạp chí New England Journal of Medicine có đề cập đến một ca xuất
huyết trong mắt sau khi bệnh nhân đã thường xuyên uống Ginkgo biloba và
Aspirin trong một thời gian dài.
Tránh xài Ginkgo biloba lúc mang thai và lúc cho con bú.
– Sâm (Panax ginseng): An thần, giảm stress, bồi dưỡng sinh lực, tăng
sức miễn dịch, giảm đường máu, giảm cholesterol và trợ dương…
Dùng Ginseng chung với thuốc kháng đông có thể gây xuất huyết. Với thuốc trị suy nhược tinh thần Phenelzine (Nardil) sẽ gây nhức đầu, run rẩy. Với thuốc trị bệnh tim Digoxin (Lanoxin) sẽ làm khó đo lường hiệu quả và tác dụng của món thuốc nầy. Cũng không nên uống Ginseng nếu đang trị liệu bằng các thuốc tâm thần (antipsychotiques) và thuốc trị suy nhược tinh thần hay trầm cảm (antidepresseur). Nếu đang dùng thuốc trị bệnh tiểu đường (Diabeta, Diamicron) thì cũng không nên dùng Ginseng cùng một lúc vì đường lượng có thể bị kéo xuống quá nhanh…Lạm dụng Ginseng sẽ có nguy cơ làm tăng áp huyết, bồn chồn, mất ngủ, bị tiêu chảy hoặc da nổi đỏ.
– Hà thủ ô (Polygonum multiflorum, Radix Polygoni multiflori,
Chineese knotweed, Flowery knotweed, Ho shou wu, He shou wu, Zi shou wu,
Shou Wu Pian, Fo ti): Rất phổ biến ở Việt Nam và Bắc Mỹ. Theo Đông y,
Hà thủ ô dùng để bồi dưỡng sức khỏe, giữ cho tóc và râu được đen lâu
bạc, bổ gan thận huyết, bổ xương, trợ dương…
Theo cơ quan y tế của Anh quốc Medecine & Health Care Products
Regulatory Agency cho biết, có nhiều khảo cứu nói đến tác dụng độc hại
của Hà thủ ô đối với gan như làm vàng da, vàng mắt, nước tiểu xậm màu,
ói mửa, đau bụng, biếng ăn và làm cho yếu sức.
– Nấm linh chi (Ganoderma lucidum, reishi, ling zhi, mannontake..): Giúp
tăng sức miễn dịch, giảm huyết áp, giảm cholestérol, bổ thận, bổ gan,
ngừa cancer, mất ngủ…
Tương tác với các thuốc thiên nhiên có tính kháng đông hoặc làm loãng
máu (panax ginseng, bạch quả, capsicum, chamomile, celery, cam thảo,
gừng, củ hành, tỏi…) có thể làm dễ chảy máu hơn và làm giảm tuột huyết
áp.
Sử dụng chung với các thuốc tây có tính gây loãng máu hoặc chóng kết tụ
tiểu cầu (antiplaquettaire) như Aspirin, Voltaren, Ibubrofen, Advil,
Motrin, Naproxen, Heparin, Warfarin (Coumadin)…, nấm linh chi sẽ làm gia
tăng tác dụng kháng đông và làm xuất huyết nhiều hơn.
Đối với các thuốc giảm huyết áp như Catopril, Enalapril, Diltiazem, Amlodipine… nấm linh chi làm huyết áp tuột giảm nhanh hơn.
– Kim tảo thảo, Cúc gai, Milk Thistle (Silibum marianum, Chardon Marie):
Dùng để bổ gan, ngừa xơ gan, viêm gan mãn tính, ăn mất ngon, cancer
tiền liệt tuyến, tiểu đường, trầm cảm…
Trên lý thuyết có thể ức chế enzyme Cytochrome P450 2C9 substrates, làm
tăng nồng độ các thuốc Amitriptyline (Elavil), Warfarin (Coumadin),
Diazepam (Valium)), và cũng làm ức chế enzyme nhóm Cytochrome P450 3A4
substrates (tăng nồng độ Indavir thuốc trị Sida).
Tại sao có người chống đối trà dược thảo?
Nói chung, những người chống đối thì nại lý do là dược thảo thiếu sự chuẩn hóa standardization liều lượng và công thức.
Một sản phẩm trà dược thảo thường chứa đựng nhiều thành phần thực vật
chứa tính năng trị liệu khác nhau và có thể tác động lẫn nhau.
Bởi lý do nầy, nên khó xác định được phần nào có lợi thật sự và phần nào có hại!
Ngoài ra, một số trà dược thảo không có nhãn hiệu rõ rệt, thiếu địa chỉ nhà sản xuất.
Mc Cutcheon, giáo sư môn thẩm định dược học pharmacognosis có cho biết
ông ta từng kiểm tra một lô trà dược thảo nhập cảng. Kiện hàng đã nằm
trong diện không có vấn đề gì rồi, nhưng ông lại phát hiện ra là không
đúng như vậy: lô hàng nầy cho thấy đã bị nhiễm thuốc trừ sâu pesticides
và còn bị pha trộn thêm nhiều loại thảo mộc khác có giá trị thấp hơn!
Có nhiều lô hàng dược thảo còn bị nhiễm phân hóa học, hoặc mầm bệnh…
Dược thảo Jin bu huan (trị đau nhức và mất ngủ) cho thấy có phản ứng bất
lợi về tim mạch và thần kinh, và cần phải thông ống dưỡng khí đểgiúp
bệnh nhân thở.
Jin bu huan sẽ làm hư hại gan nếu sử dụng trong thời gian dài.
Nhiệt độ nóng 55-67 độ C của nước trà có thể làm tăng nguy cơ cancer thực quản lên gấp 2 lần.
Một vài loại trà dược thảo có thể hại bao tử, ruột, gan, làm xáo trộn máu huyết và thần kinh.
Những loại như burdock, thorn apple, jimson weed có thể làm khô miệng,
xáo trộn thị giác, giãn nở đồng tử pupils, mất sự định hướng và có thể
gây cơn điên loạn.
Ridker PM. Health hazards of unusual herbal teas. American Family physician 1989; 39(5); 153-156
Một số trường hợp điển hình tiền mất tật mang
*Trà Đinh có những phản ứng hại gan và chết ngưòi
Những năm trước đây, phong trào uống trà Đinh đã xuất hiện sôi nổi tại Việt Nam. Mời các bạn xem bài dưới đây:
Bác sĩ Trần Văn Sáng.Tác hại của trà Đinh
“Trà Đinh hay còn gọi là trà Đắng có tên khoa học (Genus) ILEX thuộc
họ (family) Aquifoliacae. Trà Đinh có những tên khác nhau tùy vùng đất
nào cây được tìm ra và được xử dụng ở nhiều nơi trên thế giới. Riêng ở
Trung quốc và Việt Nam, cây mang tên là Ilex Cornula Lindl. Cũng loại
cây này trên thế giới có các tên khác như sau : Ilex aquifolium,
Chrismast Holly tại Mỹ, cây này dùng để trang trí trong ngày lễ Chúa
Giáng Sinh, English Holly hay European Holly tại Châu âu, Oriental Holly
(linh dược) tại Á châu. Ilex Paraguariensis hay trà Paraquay tìm thấy ở
các nước như Ba Tây, Paraguay, Uruguay, người thổ dân da đỏ gọi là trà
Đen (Indian black drink), ngoài ra còn một số tên nữa như Ilex Asperlla,
Ilex cassene, Ilex chinesis, Mate, Maodongquing. Điều này có nghĩa là
loại cây này đã được sử dụng tại hầu hết các nơi trên thế giới dưới các
mục đích khác nhau.
Riêng tại Việt Nam trà Đinh được quảng cáo trong vấn đề giúp
giảm cân, an thần, ngủ ngon, giúp hạ Cholesterol. Riêng cây Ilex
aqiufolim hay Holly đã được xử dụng tại Châu Âu từ hơn ngàn năm trong
các ngày lễ tôn giáo của các Cơ đốc nhân (Christian) bằng cách trao đổi
các cành cây và hoa này trong ngày lễ, và hiện nay chúng ta vẫn còn thấy
xử dụng trong ngày lễ Giáng Sinh. Cây này được dùng từ xưa để làm một
loại thuốc xổ và hiện nay không còn thấy sử dụng tại Châu Âu.
Tuy nhiên điều quan trọng mà người xử dụng trà không được biết là phản
ứng của nó ra sao, khi dùng lâu ngày thì có gây phản ứng độc hại gì
không ? Theo quan niệm thông thường của dân chúng thì chỉ là trà mà thôi
thì chắc không có hại gì. Sự thật thì trà Đinh hay phần lớn các loại
trà nào khi sử dụng nhiều và lâu dài đều có đưa đến những phản ứng bất
lợi cho cơ thể.
Trà Đinh thuộc nhóm dược thảo có chứa chất PYRROLIZIDINE ALKALOIDS,
chất này cũng được tìm thấy trong số khoảng 230 loại cây cỏ khác nhau.
Chất Pyrrolizidine được tìm thấy là nguyên nhân chính của một số trường
hợp gây độc hại cho gan (veno-occlusive liver disaese) đưa đến sự xáo
trộn cung cấp máu cho gan, làm sưng gan, vàng da, bụng có nưóc, chân phù
và nặng hơn hết là chết do suy gan cấp tính (theo tài liệu của Subhuti
Dharmananda. Ph.D, Giám Đốc trung tâm nghiên cứu về y học cổ truyền tại
Portland, Oregon trong bài tường trình cho tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO)
1988.
Ngoài ra trà Đinh còn có thể gây ra các triệu chứng ói mửa, đau bụng,
tiêu chảy do phản ứng phụ của chất Saponin. Chất Saponin cũng có thể gây
ra bệnh vỡ các hồng huyết cầu ( hermolysis) gây ra bệnh thiếu máu.
Nghiên cứu của DeStefani và các cộng sự viên tại Paraguay cho thấy ở
những người xử dụng nhiều trà Mate tea (thuộc nhóm cây Ilex) tỉ lệ ung
thư bọng đái cao hơn 7 lần bình thường. Trà Đinh cũng có tác dụng làm
chậm nhịp tim giống như chất Digitalis là một loại thuốc đang được xử
dụng để chữa các bệnh xáo trộn nhịp tim. Trà Đinh cũng có tác dụng phụ
làm hạ huyết áp theo các thí nghiệm trên thú vật và trên người, vì thế
trà có thể gây phản ứng làm giảm áp xuất máu ở những người không triệu
chứng cao máu…” (Ngưng trích BS Trần Văn Sáng).
*Bốn phụ nữ Trung quốc có biểu lộ triệu chứng ngứa ngáy do bệnh vẩy
nến (psoriasis) gây ra một thời gian sau khi họ uống một loại loại trà
dược thảo mua từ một du khách Ấn Độ.
Một người ngưng uống, trong khi ba ngưởi còn lại vẫn tiếp tục uống nên
họ đều bị báng, nghĩa là bụng bị trương nước (ascites) và sưng gan
(hepatomegaly). Hai người liền ngưng uống trà dược thảo nói trên thì
triệu chứng cũng dần dần giảm đi. Người thứ ba, không nghe lời khuyên
của bác sĩ và bà ta vẫn tiếp tục uống trà dược thảo nên sau đó phải bỏ
mạng 8 tuần lễ sau đó vì bị suy gan liver failure, áp huyết gia tăng,
xuất huyết bao tử và ruột.
Xét nghiệm tử thi và sinh thiết gan cho thấy bụng trương nước, tĩnh mạch
thực quản trương to, rỉ máu và bao tử thấy có chất nhày nhuộm máu. Sản
phẩm trà dược thảo cho thấy có chứa lá acorns, chà là dates, hạt, nhánh
thảo mộc (?).
Phòng thí nghiệm cho biết lá có chứa một lượng chất unsaturated
pyrrolizidine alkaloids. Và các lá trên nằm trong nhóm thực vật thuộc họ
Compositae.
*Uống trà dược thảo chamomile tea và peppermint tea trong một thời gian
lâu dài có thể bị ngộ độc vì nước water intoxication và dẫn đến co giật
do xáo trộn chất sodium trong máu.
Nguyễn Thượng Chánh
Montreal
Tham khảo
Herbal remedies could be deadly, says forensic pathologist Professor Roger Byard
http://www.adelaidenow.com.au/herbal-remedies-could-be-deadly-says-forensic-pathologist-professor-roger-byard/story-e6frea6u-1225827809823
– Protective Action of Ampelopsis cantoniensis and its major
constituent- Myricetin against LDL oxidation (Nghiên cứu về trà dây…)
Do Thi Ha et al
College of Pharmacy, Chungnam National University, Daejeon 305–764, South Kore
http://dspace.hui.edu.vn:8080/dspace/bitstream/123456789/3898/1/153.pdf
http://thoibao.com/mot-cai-mode-moi-thu-uong-tra/