Truyện Ngắn & Phóng Sự
Mùi Dân Tộc - đồ biển
Đám thuyền nhân khệ
nệ khuân vác những vật dụng cá nhân rời trại Terempa để xuống tàu Teguh Mulia
cuả Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc để di chuyển đến trại tỵ nạn Kuku. Dọc
theo con đường làng, dân đảo người
Vưà bước lên cầu
tàu đồ lại chạm trán chúa đảo là ông hải quân đại uý Bambang, người đã ra lệnh
cho nam cảnh sát Indo khám xét phụ nữ trên ghe do đồ là tài công. Ông ta
lừ lừ mắt nhìn đồ. đồ nhìn lại không nói không rằng, thầm nhủ:”Tớ không tố
cáo nhà ngươi với Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ về việc cho nam nhân xâm phạm thân thể phụ
nữ Việt, lại còn gạt tay tớ trong khi đang chống nạnh, làm tớ mất thăng bằng
suýt ngã mà còn đứng đó làm tàng.”. đồ đoán chắn hắn đang phân vân không
biết đồ có khai báo hành động cuả hắn trên tờ khai báo do Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp
Quốc phân phát cho trước khi lên tàu. Hai bên chẳng ai chào ai, đồ
lẳng lặng bước lên boong tàu, kệ ai muốn làm gì thì làm.
Muà Hè đỏ lưả
1972
Vầng trăng từ từ
lên cao, hơn 3000 giáo dân cùng cất tiếng đồng ca:” Mẹ ơi đoái thương cho nước
VN, trời u ám, chiến tranh điêu tàn…” trên chiếc dương vận hạm Qui
Nhơn HQ 504, chuyến tàu chở đồng bào tỵ nạn từ từ lướt sóng rời vịnh Chu
Lai. Một vùng biển trời lung linh, lấp lánh ánh trăng trước mắt, cảnh tượng, âm
thanh hòa với tiếng sóng dạt dào thật bi hùng, khiến đồ và các nhân viên
đương phiên hải hành đều bùi ngùi, xúc động. Trong chuyền công tác
đáng ghi nhớ này, có một thuỷ thủ cơ khí bị thả bom “phân tươi” trúng đầu, người
thả bom là một em bé tưởng lầm cưả thông khí trên boong là chỗ để trút bầu tâm
sự. Một sản phụ đã hạ sanh một cháu trai kháu khỉnh, được hạm trưởng lấy
tên chiến hạm đặt tên cho là Trần Văn Qui Nhơn. Một cụ bà đã lớn tuổi, yếu
sức đã qua đời trước khi tới nơi định cư mới an bình hơn.
Đến Bình Tuy, chiến
hạm thả neo ngoải khơi để chờ phiên ủi bãi, trong khi các thuỷ thủ làm công tác
vệ sinh, hạm trưởng ra lệnh hạ cưả ram đổ bộ để cho đồng bào nằm dưới hầm chiến
xa đỡ ngộp thở. Trên đài chỉ huy đồ thấy trước mũi tàu một vùng nước biển
nhuộm màu đen thui từ cánh cưả đổ bộ đổ ra, kèm theo mùi “dân tộc” bốc lên ngào
ngạt khiến cho lồng ngực đồ muốn tức thở. Hóa ra mặc dù chiến hạm đã thiết trí
những cầu tiêu lộ thiên để họ sử dụng, hàng trăm người đã dùng khu vưc cưả đổ bộ
có độ dốc chúi xuống để làm chỗ đi cầu.
Mải nói chuyện với
anh bạn thân tại phi trường
Tháng 5 năm 1985
Trên chuyến bay bằng
máy bay khổng lồ Boeing 747 từ Tokyo đến San Francisco cuả hãng Delta Airline,
đã mấy lần đảo qua khu vực đoàn người tỵ nạn người Kampuchia ngồi, đồ vẫn đánh
hơi thấy mùi ngai ngái xông lên nồng cả lỗ mũi, dù máy bay đang mở máy điều hoà
không khí. đồ thật cảm phục những cô chiêu đãi viên hàng không người Mỹ
xinh đẹp, sạch sẽ vẫn xông xáo, lịch sự tiếp đãi họ rất ân cần, chu đáo.
Chợt đồ nghĩ thầm:”
Coi chừng chó chê chuột lắm lông, thổ công chê ông Táo nhọ mõm.”. đồ vội
ghé mũi đánh hơi nách xem có xông ra mùi thiu thiu hay không?
Phi lộ
Người Tây Phương và
người Á Châu có phản ứng khác nhau khi ngửi thấy mùi hôi thối, người Á Đông họ
sẽ bịt mũi, khạc nhổ, thậm chí có người nôn oẹ; trong khi đó người Tây Phương họ
vẫn thản nhiên, tôn trọng những nguyên nhân gây ra mùi thối, hoặc họ im lặng,
hoặc bình phẩm chân thực, hoặc pha chút khôi hài, nhưng không làm hạ phẩm giá
người đối tượng gây ra mùi thối.
Riêng một số người
Việt ta ở hải ngoại bắt đầu bịt mũi chê mùi nước mắm, mắm tôm, thì người Mỹ và Tây Phương lại tấm tắc khen các món quốc
hồn quốc túy nặng mùi dân tộc này ngon và tận tình thưởng thức. Cách đây khá
lâu, đồ có mời hai vợ chồng một ông Bill, Đại Tá hải quân Mỹ đi ăn bún bó Huế, ông ta dặn ông chủ
quán đừng quên thêm mắm ruốc và vài miếng tiết (huyết) heo. Nay ông Bill đã ra
người thiên cổ, chắc hẳn ông vẫn còn nhớ đến những thủy thủ của chiếc Tuần
Duyên Hạm đã cùng ông đi tuần tiễu trên biển và giới thiệu cho ông những món ăn
đặc biệt tại các vùng biển Phú Quốc, Phan Rang, Phan Rí, Hội An, Đà Nẵng…. nặc
mùi mắm muối.
đồ biển HNPD
Mùi Dân Tộc - đồ biển
Đám thuyền nhân khệ
nệ khuân vác những vật dụng cá nhân rời trại Terempa để xuống tàu Teguh Mulia
cuả Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc để di chuyển đến trại tỵ nạn Kuku. Dọc
theo con đường làng, dân đảo người
Vưà bước lên cầu
tàu đồ lại chạm trán chúa đảo là ông hải quân đại uý Bambang, người đã ra lệnh
cho nam cảnh sát Indo khám xét phụ nữ trên ghe do đồ là tài công. Ông ta
lừ lừ mắt nhìn đồ. đồ nhìn lại không nói không rằng, thầm nhủ:”Tớ không tố
cáo nhà ngươi với Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ về việc cho nam nhân xâm phạm thân thể phụ
nữ Việt, lại còn gạt tay tớ trong khi đang chống nạnh, làm tớ mất thăng bằng
suýt ngã mà còn đứng đó làm tàng.”. đồ đoán chắn hắn đang phân vân không
biết đồ có khai báo hành động cuả hắn trên tờ khai báo do Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp
Quốc phân phát cho trước khi lên tàu. Hai bên chẳng ai chào ai, đồ
lẳng lặng bước lên boong tàu, kệ ai muốn làm gì thì làm.
Muà Hè đỏ lưả
1972
Vầng trăng từ từ
lên cao, hơn 3000 giáo dân cùng cất tiếng đồng ca:” Mẹ ơi đoái thương cho nước
VN, trời u ám, chiến tranh điêu tàn…” trên chiếc dương vận hạm Qui
Nhơn HQ 504, chuyến tàu chở đồng bào tỵ nạn từ từ lướt sóng rời vịnh Chu
Lai. Một vùng biển trời lung linh, lấp lánh ánh trăng trước mắt, cảnh tượng, âm
thanh hòa với tiếng sóng dạt dào thật bi hùng, khiến đồ và các nhân viên
đương phiên hải hành đều bùi ngùi, xúc động. Trong chuyền công tác
đáng ghi nhớ này, có một thuỷ thủ cơ khí bị thả bom “phân tươi” trúng đầu, người
thả bom là một em bé tưởng lầm cưả thông khí trên boong là chỗ để trút bầu tâm
sự. Một sản phụ đã hạ sanh một cháu trai kháu khỉnh, được hạm trưởng lấy
tên chiến hạm đặt tên cho là Trần Văn Qui Nhơn. Một cụ bà đã lớn tuổi, yếu
sức đã qua đời trước khi tới nơi định cư mới an bình hơn.
Đến Bình Tuy, chiến
hạm thả neo ngoải khơi để chờ phiên ủi bãi, trong khi các thuỷ thủ làm công tác
vệ sinh, hạm trưởng ra lệnh hạ cưả ram đổ bộ để cho đồng bào nằm dưới hầm chiến
xa đỡ ngộp thở. Trên đài chỉ huy đồ thấy trước mũi tàu một vùng nước biển
nhuộm màu đen thui từ cánh cưả đổ bộ đổ ra, kèm theo mùi “dân tộc” bốc lên ngào
ngạt khiến cho lồng ngực đồ muốn tức thở. Hóa ra mặc dù chiến hạm đã thiết trí
những cầu tiêu lộ thiên để họ sử dụng, hàng trăm người đã dùng khu vưc cưả đổ bộ
có độ dốc chúi xuống để làm chỗ đi cầu.
Mải nói chuyện với
anh bạn thân tại phi trường
Tháng 5 năm 1985
Trên chuyến bay bằng
máy bay khổng lồ Boeing 747 từ Tokyo đến San Francisco cuả hãng Delta Airline,
đã mấy lần đảo qua khu vực đoàn người tỵ nạn người Kampuchia ngồi, đồ vẫn đánh
hơi thấy mùi ngai ngái xông lên nồng cả lỗ mũi, dù máy bay đang mở máy điều hoà
không khí. đồ thật cảm phục những cô chiêu đãi viên hàng không người Mỹ
xinh đẹp, sạch sẽ vẫn xông xáo, lịch sự tiếp đãi họ rất ân cần, chu đáo.
Chợt đồ nghĩ thầm:”
Coi chừng chó chê chuột lắm lông, thổ công chê ông Táo nhọ mõm.”. đồ vội
ghé mũi đánh hơi nách xem có xông ra mùi thiu thiu hay không?
Phi lộ
Người Tây Phương và
người Á Châu có phản ứng khác nhau khi ngửi thấy mùi hôi thối, người Á Đông họ
sẽ bịt mũi, khạc nhổ, thậm chí có người nôn oẹ; trong khi đó người Tây Phương họ
vẫn thản nhiên, tôn trọng những nguyên nhân gây ra mùi thối, hoặc họ im lặng,
hoặc bình phẩm chân thực, hoặc pha chút khôi hài, nhưng không làm hạ phẩm giá
người đối tượng gây ra mùi thối.
Riêng một số người
Việt ta ở hải ngoại bắt đầu bịt mũi chê mùi nước mắm, mắm tôm, thì người Mỹ và Tây Phương lại tấm tắc khen các món quốc
hồn quốc túy nặng mùi dân tộc này ngon và tận tình thưởng thức. Cách đây khá
lâu, đồ có mời hai vợ chồng một ông Bill, Đại Tá hải quân Mỹ đi ăn bún bó Huế, ông ta dặn ông chủ
quán đừng quên thêm mắm ruốc và vài miếng tiết (huyết) heo. Nay ông Bill đã ra
người thiên cổ, chắc hẳn ông vẫn còn nhớ đến những thủy thủ của chiếc Tuần
Duyên Hạm đã cùng ông đi tuần tiễu trên biển và giới thiệu cho ông những món ăn
đặc biệt tại các vùng biển Phú Quốc, Phan Rang, Phan Rí, Hội An, Đà Nẵng…. nặc
mùi mắm muối.
đồ biển HNPD