Truyện Ngắn & Phóng Sự

NHỚ THỜI TRƯỜNG CŨ CHU VĂN AN *

Một ngày cuối năm 1965, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương lúc bấy giờ có đến thăm trường. Anh em trong trường kháu với nhau về ông Thủ Tướng trẻ tuổi tài cao xuất thân từ Trường Chu Văn An

 
Trung học Chu Văn An

Ðời đi học, kỷ niệm đáng nhớ nhất, đáng yêu nhất vẫn là thời học trò các lớp Ðệ Nhất Cấp, Ðệ Nhị Cấp. Tôi nghĩ như vậy. Bởi vì những ngày tập tễnh cắp sách đến trường, khi mà “mẹ tôi âu yếm, nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp…” thì tuổi còn bé nhỏ, non dại, có gì, nhớ gì. Giỏi lắm, áo sơ mi trắng cụt tay bỏ trong quần xà loỏng đen cụt ngủn ôm nhau vật lộn. Nhớ lắm cũng chỉ nhớ những bà cô, những ông thầy dạy mấy đứa nhỏ sao dữ quá, ác quá, rất đáng sợ nhưng cũng rất đáng kính trọng. Lên Trung Học, dẫu gì cũng là người lớn trong lòng cũng đã biết tơ tơ tưởng tưởng cho thầy Thư dạy Cổ Văn năm Ðệ Ngũ, thầy Mão dạy Toán năm Ðệ Tứ phải nhăn mặt mà la những cô, những cậu học sinh còn non choẹt sao cứ “mơ mơ màng màng, học không lo học, lo thơ với thẩn, lo mèo với mỡ”. Còn ở Ðại Học, giảng đường rộng thênh thang, giảng sư muốn nói gì nói và sinh viên, ai muốn đứng đâu, ngồi đâu, làm gì tùy ý một cách tự do, tự tại, lạt lẽo. Tôi may mắn thi đậu vào Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu, Phan Thiết và được chuyển vào Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An, Sài Gòn về sau. Ở Tỉnh mà vào được Trường Trung Học Công Lập duy nhất thì khó biết chừng nào và hãnh diện hết sức. Hãnh diện cho mình mà cũng hãnh diện cho cha mẹ nữa. Ở Việt Nam, ai không nghe Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An là một trường thầy giỏi, trò giỏi. Tôi rất tự hào, tự cao là học sinh của Trường Chu Văn An có thầy An, thầy Huỳnh dạy Triết, thầy Lương dạy Anh Văn, thầy Lâm dạy Toán, Lý Hóa…và nhất là có thầy Tự là Giám Thị và ông Hiệu Trưởng là thầy Dương Minh Kính. Về Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu Phan Thiết quê tôi, tôi sẽ viết vào một dịp khác. Bây giờ, bài nầy tôi viết về Ngôi Trường Chu Văn An một thời vào học. Trường nằm cuối đường Minh Mạng, đụng Triệu Ðà, bên hông Ðại Học Xá Minh Mạng.

Trường Chu Văn An là một trong những trường Trung Học đầu tiên của nước Việt Nam, được thành lập ngày 9 tháng 12 năm 1908 dưới thời Toàn Quyền Ðông Dương Antony Klobukowski với tên Tây là Lycée du Protectorat. Trường Lycée du Protectorat xây dựng trên đất Làng Bưởi của Thụy Chương bên Hồ Tây, nên người ta cũng thường gọi là Trường Bưởi. Thụy Chương sau đổi lại là Thụy Khuê vì kỵ húy Chương vua Thiệu Trị. Ðến ngày 12 tháng 6 năm 1945, Khâm Sứ Phan Kế Toại đổi tên Trường Lycée du Protectorat thành Trường Quốc Lập Trung Học Hiệu Chu Văn An. Từ ngày thành lập cho đến 30 tháng 4 năm 1975, trường đã bao phen chia đàn, rẽ nghé. Khi thì đi vòng vòng ở Hà Nội. Khi thì chạy xuống Ninh Bình, chạy vào Thanh Hóa. Và sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, đa phần thầy và trò lại cuốn gói vào Nam ăn nhờ ở tạm nơi Trường Trung Học Pétrus Ký vài năm. Ðến năm 1961 mới có trường Trung Học Công Lập Chu Văn An mà học. Trường nằm ngay ngã Tư Minh Mạng, Triệu Ðà ,Ngô Quyền, Hồng Bàng và trước mặt là Nhà Thờ và Công Viên Văn Lang. Sau cái ngày gọi là Giải Phóng, trường bị Việt Cộng chiếm đoạt và đặt nhiều tên nghe dài lê thê điếc cái lỗ tai mà nhìn âm âm u u ngứa cả hai con mắt: Trường Huấn Nghệ Phổ Thông Lao Ðộng, Trung Tâm Giáo Dục Thường Xuyên. Dĩ nhiên, tôi chỉ nói về trường cũ của mình hồi đó là Trường Chu Văn An, không dính dáng gì đến ba cái Trường Huấn Nghệ hay Trung Tâm Giáo Dục hoặc Trường Trung Học Phổ Thông Chu Văn An, Hà Nội ngoài Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa gì ráo. Vùng Sài Gòn-Gia Ðịnh hồi đó có những trường công lớn, nổi tiếng như Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Pétrus Ký, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Hồ Ngọc Cẩn, Võ Trường Toản…Và tôi thì rất hãnh diện đã là học sinh Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An. Về quê ở Phan Thiết, tôi thưòng cao ngạo, tự hào, huênh hoang với bè bạn mà khoe mình là “Dân Chu Văn An”, là “Dân Trường Bưởi” một cách say sưa, buồn cười, lố bịch. Ở ngoải, nghe đến tên Trường Chu Văn An, người ta là những học sinh ai cũng nể, cũng kiêng, cũng dè cho nên, mình cứ lên nước, mình cứ “làm le”. Nói cho cùng, có buồn cười, có lố bịch, có lên nước, có làm le đi nữa cũng chẳng sao. Bởi vì, có ai cắp sách đến trường ở Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ mà lại không biết đến tên tuổi của ngôi trường nổi danh, nổi tiếng nầy khắp Nước Việt Nam Cộng Hòa, dễ gì mà vào. Có khác gì, ông bạn Nguyễn Sĩ Chiêu được vào học Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn về Phan Thiết của tôi còn “nổ hơn tạc đạn”. Tôi người Phan Thiết có tán dóc cách mấy cũng không bằng một góc ông Chiêu Bắc Kỳ nầy. Ổng mà “đía” vô, “đía” ra đố trời mà chịu nổi. Cách đây hơn một tháng, tôi có nói với ông bạn Ðại Úy Nguyễn Chí Viễn, cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa II Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia rằng: “ Các ông đã là Chu Văn An mà thêm gốc Bắc Kỳ nữa thì đố trời mà cãi lại”. Thật vậy, tôi nhớ không chính xác là tháng mấy của năm 1966, các ông bạn của tôi Trường Chu Văn An thi “Tài Bùng Biện” ở phía sau căn nhà lầu đằng trước bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Các ổng toàn người Bắc, không một móng Nam, Trung gì ráo. Các ổng ăn to, nói lớn, rành mạch, dõng dạc, đường bệ…hùng biện một cách rất “hùng biện” thua ai đâu.

Năm ngoái, tôi về Việt Nam sau gần hai chục năm xa quê, nói thằng cháu “chở chú tới Trường Chu Văn An” để nhìn ngôi trường xưa. Qua Ngã Sáu Chợ Lớn ngày xưa bây giờ đổi tên đổi họ hết trơn. Ngã Sáu Chợ Lớn bây giờ còn Nguyễn Tri Phương như cũ, Minh Mạng là Ngô Gia Tự và Ðại Tá Trần Hoàng Quân là Nguyễn Chí Thanh. Ngang qua Ðại Học Xá Minh Mạng hồi đó, bây giờ là Ký Túc Xá Ðại Học Y Dược mà năm 1976 có tên là Ký Túc Xá 230 Ngô Gia Tự. Với những anh em sinh viên thời chúng tôi, ai lại không nghe, không tới Ðại Học Xá Minh Mạng một lần. Tôi thì có chỗ ở nơi dạy kèm mấy đứa nhỏ, hồi đó gọi là “précepteur”, sau lưng Ciné Văn Hoa dưới Tân Ðịnh, không thì cũng xin vào trỏng rồi. Gần như Thứ Bảy, Chủ Nhật nào, tôi cũng chun đầu vào nơi gió cát nầy, vui với anh em “bạch diện thư sinh” nghèo quá đổi là nghèo! Trường Chu Văn An bây giờ không còn tên và sao hiu hắt, cô quanh quá sức. Cửa đóng then cài im ĩm, không một bóng người. Cửa hông bước vào trường ngày trước nằm phía bên phải với Câu Lạc Bộ, nay bị bít kín và trổ cửa khác nằm phía bên trái cổng lớn của trường. Bức tường cao phía trước có kéo những vòng kẽm gai “concertina”, nhìn nhà trường như nhà tù. Ai mà không xúc động, không buồn được tôi khen. Trường tôi vĩ đại, sống động biết mấy ngày nào, sao nay đìu hiu, cô quạnh, không hồn đến như thế! Mà sao lạ nhỉ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không xây được một ngôi trường học mới mẻ nào hết trơn, dù thời gian đã dài 36, 37 năm “giải phóng”rồi, ngoài nhà hàng, khách sạn, tụ điểm ăn chơi…Thẳng tới phía trước, bên kia đường không còn cô gái Tàu phụ với ông già bán nước rau má hồi nào. Cô ta có khi đã về Trung Quốc theo “nạn kiều” rồi chăng? Nhớ năm 1965-1966, xe nưóc rau má của cô ta thường được bu quanh bởi mấy anh “…thứ ba học trò”, nhất là học trò Chu Văn An. Họ tới để uống nước rau má cho “mát” bụng cũng có mà để nhìn cổ cho “mát” hai con mắt cũng có. Tôi chẳng biết cô ta tên là gì, thường anh em cứ gọi là A Muối và chọc cổ mấy tiếng Tàu học lóm: “nị hữu len”. A Muối cười mủm mỉm, ai cũng muốn hun cái má đỏ hây hây của cổ cho đả. Nói đến A Muối lại nhớ đến anh chàng Bình Mập mê gái mà thấy gái thì run chết cha. Khoái A Muối, cứ bao tôi, Sử uống nước rau má hoài khỏi trả tiền, để cho nó lại gần mà dạn miệng dạn mồm chỉ để nói: “A Muối, nị hữu len”. Nó cũng là thằng khoái làm thơ thua xa thơ con cóc người ta mà cứ thơ với thẩn hoài. Thằng Sử ngán quá, gán cho nó một cái tên kể ra cũng xứng, đó là Ngụy Thi Sĩ và nhại mấy câu thở để đời của nó: “Hôm qua tao đi học. Quen cô gái trên đường. Về nhà nhớ nhớ thương. Hôm sau tao đi học. Không gặp cô gái hôm qua. Chắc cổ ở nhà? Ở nhà với mẹ hay đi với bồ? Tao khổ”.

Quây sau lưng là Nhà Thờ Văn Lang đứng uy nghiêm, lặng lẽ, cô độc như thuở nào trời đất ngày xưa tôi đi học, có khác là bây giờ sơn phết màu đỏ hồng sáng chói, không như hồi đó trắng trắng bạc thếch. Nhà thờ khởi công xây dựng từ năm 1922, đến năm 1928 mới xong. Gọi là Nhà Thờ Văn Lang chắc nhà thờ nằm trong Công Viên Văn Lang? Nhà thờ Văn Lang vì nằm kế Ngã Sáu Chợ Lớn nên người ta cũng gọi là Nhà Thờ Ngã Sáu. Nhà Thờ Ngã Sáu còn có tên khác nữa là Nhà Thờ Jeanne d’Arc. Toàn khu công viên nầy, hồi đó tôi được một chú Chệt thuờng mặc bộ đồ tàu vải lụa đen đi tới đi lui trong công viên cho biết: “đất nầy thời trước là nghĩa địa của Người Huê Kiều, Người Pháp gọi là Plaine des Tombeaux”. Công viên, nhà thờ ở đây, ai học Chu Văn An dù thời xưa hay thời nay, tôi dám cả quyết đều nghĩ như nhau là, sao tiếng ve sầu đánh tiếng buồn quá sức, não nùng quá sức và ngôi nhà thờ quanh năm cô quạnh, thê lương, lạnh lẽo cũng quá sức. Tiếng chuông réo rộn ràng giờ giải lao. Người thì vào Câu Lạc Bộ mới, có bà chủ lúc nào cũng la lối và hai cô con gái nhà ai coi cũng xinh xinh lắm chứ. Tôi có vào đây gần như lúc nào cũng “cho ly đá chanh” và lúc nào hai cô cũng nhìn tôi, cười chím chím rồi nhỏ nhẹ “biết rồi, khổ quá, nói mãi” anh ơi. Người thì tụm lại với nhau trong sân trường, nói chuyện đời lính tráng sắp đến nơi. Người thì ra cổng, quẹo phải tới với cô gái Tàu bán nước rau má. Người thì ra cổng đi thẳng qua bên kia đường, dạo vòng vòng trong Công Viên Văn Lang, chắc tìm “yến sĩ phi lý thuần”, không phải “lạy Chúa, con là người ngoại đạo”? Trong công viên nầy, vào một chiều, chắc là Mùa Xuân năm 1966, có khoảng một chục nữ sinh áo dài trắng, quần dài trắng tự giới thiệu là Học Sinh Trung Học Thủ Thừa, Long An “lên đây bán Ðặc San Trung Học Thủ Thừa cho các anh Chu Văn An”. Bán ở đâu không bán lại bán nhằm chỗ anh hùng tứ chiếng thì “các cô từ chết tới bị thương” mà thôi. Thân gái dặm trường từ một quận nhà quê xa lắc xa lơ mà dám vào hang cọp chốn thị thành Thủ Ðô. Chốn thị thành Thủ Ðô đó lại là tụ điểm của những “Anh Hùng Lương Sơn Bạc” Chu Văn An thì các cô khác chi “hoa lạc giữa rừng gươm”. Các cô chỉ lạng, lách, né, tránh cho khỏi đụng qua đụng lại với các anh mua thì không mua mà nhiệt tình muốn xáp lá cà cũng đủ “mệt đứt hơi” rồi, còn đâu mời mọc bán hàng. Túng thế, các cô Nữ Sinh Trung Học Thủ Thừa “cám ơn các anh” chạy lấy thân muốn chết mà thề không bao giờ bén mảng. Chạy hốt hoảng làm sao, một chiếc guốc của cô nào đó bị tuột ra khỏi chưn mà không dám quây trở lại mang đi.

Một ngày cuối năm 1965, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương lúc bấy giờ có đến thăm trường. Anh em trong trường kháu với nhau về ông Thủ Tướng trẻ tuổi tài cao xuất thân từ Trường Chu Văn An cũng là Trường Bưởi của mình đầy khâm phục và hãnh diện. Hồi đó tuổi trẻ chúng tôi, hình ảnh một ông Tướng trẻ, đẹp, oai nghiêm, phong trần, phong lưu như Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là một mẫu người lý tưởng, là một thần tượng. Sân trường chật trò, chật thầy rộn ràng tiếng cười nói, hoan hô, vỗ tay rần rần một khoảng không gian trời đất. Một đề nghị “xin dời Trường Chu Văn An đi một nơi khác vì ở đây gần Bệnh Viện Bài Lao” được Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương “hoàn toàn đồng ý và sẽ dời trường xuống khu Phú Thọ”. “Dời trường xuống khu Phú Thọ” không thấy mà thấy Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An cứ ở lỳ đó cho đến ngày Việt Cộng vào cướp đoạt. Một lời hứa “lèo” của ông “Thủ Tướng Bốc Ðồng” làm mất mặt, thất vọng đàn em đón, đưa ổng hết sức nồng nhiệt buồn biết chừng nào! Tôi không nhớ chắc. nhưng có lẻ là cuối năm 1966, tin đồn một thầy nghe nói là dạy dưới Trường Trung Học Bến Tranh, Ðịnh Tường lên làm Hiệu Trưởng Trường Chu Văn An. Một thầy dưới một Quận của một Tỉnh xa xôi không biết giỏi đến cở nào mà leo lên chức Hiệu Trưởng của một trường nổi tiếng khắp nước là một chuyện lạ. “Chắc có áp phe, nếu không thì con ông cháu cha”, thầy trò to nhỏ với nhau như vậy. Không lâu, Thầy Dương Minh Kính ở dưới lên đây làm Hiệu Trưởng thiệt. Thầy người Bắc, không được cao lắm và cũng chẳng đẹp trai chút nào và chắc chẳng ai những ngày đầu “tâm phục, ý phục” bao giờ. Rồi thầy có cải cách hay không cải cách, có làm tốt hay làm dở tôi cũng không quan tâm chuyện mấy người lớn, hơn nữa mấy tháng sau là tôi đã ra trường rồi. Vài năm sau, nghe thầy là Dân Biểu Quốc Hội. Vậy thì, thầy giỏi thiệt.

Niên khóa 1966-1967 chúng tôi tham dự Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Ðường đầu tiên do thầy giáo Lê Ðình Ðiểu cũng là cựu học sinh Trường Chu Văn An khởi động. Cứ cuối tuần, một nhóm chúng tôi tụ tập trong Sở Thú, Thị Nghè tập hát, kể chuyện, đối thoại, cắm trại…Nhưng không được mấy lần thì tôi nghỉ luôn và chương trình anh em có còn tiếp tục nữa hay ngưng thì tôi không biết. Có điều, bài hát buổi sinh hoạt đầu tiên là bài hát mới sáng tác của Nhạc Sĩ Phạm Duy, bài Việt Nam, Việt Nam. “Việt Nam, Việt nam nghe từ vào đời. Việt Nam hai câu nói bên vành môi. Việt Nam nước tôi…” nghe sao hay quá, mau thuộc lòng quá và nhớ lâu đến bây giờ. Cũng trong năm nay, nếu trí nhớ tôi còn tốt thì anh bạn Tín người Nam, không phải Tín người Bình Ðịnh có làm Ðặc San Nhóm Lửa cho Lớp Ðệ Nhất C. Nói là đặc san, thật ra hình bìa là tờ giấy trắng có in ngọn lửa đỏ là hiệu đoàn của nhà trường. Những bài viết bên trong chắc khoảng 60 trang giấy đánh máy, quay ronéo, mực đen. Tất cả đóng thành tập. Tôi có một bài dài hơn một trang nói về những kẻ giàu thì hoang phí mà những kẻ nghèo một miếng ăn tìm rất khó. Anh Tín nói: “ông bạn là một Nhà Xã Hội Học”. Nói về tên anh em năm học đó, chắc tôi quên nhiều hơn nhớ: Ý, Bách, Lữ, Tín Nam, Tín Bình Ðịnh, Phát, Thắng, Sử, Nghĩa, Chính…Bách thì tôi gặp lại một lần trong Trường Bộ Binh Thủ Ðức, chắc trong trường hợp giáo chức bị động viên. Ngồi kế bên tôi, Chính là anh chàng người Bắc, cao to, giỏi đàn địch, cứ hát và khen hay hoài bài Ai Nói Với Em của Nhạc Sĩ Minh Kỳ mới ra: “ai nói với em, nếu anh là lính, không biết nói yêu mỗi khi gần em” và khoái biết chừng nào, ảnh đập tay, giựt chưn đoạn “khi lính đã yêu, rừng tàn núi lở. Tình còn vững bền muôn thuở. Bao la như lòng đại đương”. Phát sau nầy nghe nói vào Khóa I Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Ðà Lạt không biết phiêu bạt nơi nào. Phát một lần với tôi lên Ðà Lạt dự Trại Hoa Anh Ðào do Tướng Kỳ tổ chức? Chúng tôi uống Cà Phê Tùng, đi ngựa bờ Hồ Xuân Hương, dự lễ Nhà Thờ Con Gà, đi vòng vòng Khu Chợ Hòa Bình. Lữ và một, hai anh em nữa từ Trường Lasan Tabert qua, có giỏi Tiếng Pháp thiệt nhưng không giỏi các môn khác còn lại, có vẻ ít thân thiện với bạn bè chung quanh. Có phải Tây và Ta không hợp nhau hay mấy ông học Trường Tây là con nhà giàu đâu khoái giao du với bàng dân thiên hạ không “môn đăng hộ đối” với mình? Thắng thường khoe mình trong Ban Nhạc Mây Trắng. Tôi không rành ca, nhạc nên không biết Ban Nhạc Mây Trắng, Mây Hồng gì của Thắng. Thường, chiều Thứ Sáu sau khi Thầy Tự, Giám Thị dãy lầu I đi một vòng kiểm điểm là Thắng dzọt qua cửa sổ đi liền, đi tuốt. Sau thi Tú Tài II, không biết Thắng đậu hay rớt và đi đâu. Sử, anh chàng sún răng, con nhà giàu ở Huỳnh Tịnh Của miệt Tân Ðịnh, chơi tennis ở Tao Ðàn, học cũng học mà chơi cũng chơi. Ðậu Tú Tài II một lần với tôi. Nghe nói, Sử Sún vào Quốc Gia Hành Chánh năm 1967, nhưng không gặp một lần. Ý, nhà trong Cư Xá Ðô Thành, sát Trường Tiểu Học Bàn Cờ, thích cà phê đen với thuốc hút, không mần mò học với hành nhiều. Rớt Tú Tài II, Ý vào Thủ Ðức, không biết tới bể dĩa đã lên tới lon gì hay đã “vị quốc vong thân”? Hồi đi học chung, tôi thỉnh thoảng tới nhà Ý nhiều lần nhưng mấy lần sau không biết tại làm sao, tôi không tìm ra được nhà của Ý, đành xa cách nhau biền biệt từ đó. Chúng tôi là tôi, Thắng, Sử, Ý bốn thằng thường “coupe cours” bằng con đường “chun lỗ chó” vách tường trên đường Triệu Ðà hay hàng rào lưa thưa cuối trường. Thường bốn đứa ra Quán Chú Chệt bên kia Ðường Trần Hoàng Quân, ngay ngã tư hai Ðường Trần Hoàng Quân và Ðường Triệu Ðà. Trốn học vì “học không dzô” như thằng Ý nói. Những giờ Triết của Thầy Trần Ðức An, Thầy Huỳnh Già thì không đứa nào đành bỏ học. Thầy Lương dạy Anh Văn cả bốn đứa cũng ráng ngồi nghe, ngồi học đường hoàng. Giờ Lý Hóa và Toán của Thầy Lâm thì y như rằng, rủ nhau “ra uống cà phê tụi bay”, thằng Sử dụ. Mấy giờ Pháp Văn, Sử Ðịa…thì “khi vui nó đậu, khi buồn nó bay” chưa biết chừng. Ra Quán Chú Chệt để làm gì, thì cũng để cho khuây khỏa mà hút thuốc Bastos Ðỏ, Bastos Xanh với cà phê đen, cà phê đá chớ gì. Tôi, bị tụi nó chữi hoài “nghèo mà sang”, cứ hút Capstan không. Thật ra, mình không “bụi đời” mà chơi nổi mấy loại thuốc đó. Nó vừa khô khốc lại vừa đắng nghét, “ngon chỗ nào”. Cà phê tiệm mấy anh Ba Tàu ở Chợ Lớn thì giống nhau y hệt, nấu trong một túi vải. Người Miền Nam bình dân ta đặt cho nó một cái tên hết sức biểu tượng là “cà phê dợt”, “cà phê dớ”. “Cà phê dợt”, “cà phê dớ” vì nấu trong một cái túi vải thụng thịnh như một cái vợt, như một cái vớ. Cũng cà phê đó, bỏ sửa vào là “cà phê sửa”, bỏ đá vào là “cà phê đá”, không bỏ gì hết là “cà phê đen”. Thuở đó, các tiệm nước bình dân Vùng Chợ Lớn đâu có cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc” của mấy anh Bộ Ðội Nhân Dân ngốc nghếch ngoài Bắc đem vào. Ngày đó, đường sá còn rộng thênh thang, tôi đi học bằng xe đạp. Chiếc xe đạp “cà tàng”, cà rịch cà tang tôi đạp từ con hẻm Trần Quang Khải, bên hông Ciné Văn Hoa dưới Tân Ðịnh xuống tới Chợ Lớn, xa cũng xa thiệt. Ði học, tôi thường đi qua khúc Ðinh Tiên Hoàng rồi thẳng trước mặt Hiền Vương, qua Công Trường Dân Chủ đếnTrần Quốc Toản quẹo trái lên Pétrus Ký mà vào Ngã Bảy rồi quẹo phải trên Ðường Minh Mạng để tới trường. Nghĩ đường sá xa xôi, mình cũng bắt chước bạn bè làm Thẻ Công Quản Xe Buýt Saigon đi cho bớt mệt và tiết kiệm được đồng nào hay đồng nấy. Nhưng có thẻ rồi, bây giờ ngồi nghĩ lại, không biết mình đã đi một lần nào chưa nhỉ. Xe Bus, đi còn lâu hơn xe đạp. Nó chạy rề rề, ngừng nhiểu trạm, giờ giấc không chắc ăn. Nghĩ vậy, thôi “ta về ta tắm ao ta” chiếc xe đạp cũ bảo đảm hơn. Thà ta đi một vòng có dài mà nghêu ngao được lời ca, tiếng hát thênh thang, thong dong…Huống gì hồi đó đi học bằng xe đạp, tôi lại có một mối tình nho nhỏ với một cô nữ sinh lớp Ðệ Tam của Trường Gia Long. Chúng tôi cùng trong con Hẽm Trần Quang Khải. Cổ, nhà sát Trường Trung Học Tư Thục Văn Hiến. Tôi, nhà ở sâu trong xóm, bên bờ Kinh Cầu Bông. Khi nào gặp nhau, chúng tôi thường kè kè song đôi, chuyện vu vơ, buâng quơ ra Trần Quang Khải, quẹo phải Ðinh Tiên Hoàng, đến Phan Thanh Giản quẹo phải, chạy tới Ðường Bà Huyện Thanh Quan thì cô bé lúc nào cũng như lúc nấy, vừa cười vừa nói “ráng đạp nghen anh” mà vào trường. Tôi thì tiếp tục hết đường nầy cho tới Ngã 7 rồi vào Minh Mạng, đến Ngã 6 Chợ Lớn, lại tiếp Ðường Minh Mạng để tới trường. Thỉnh thoảng chúng tôi nói với nhau “hôm nay có phim hay” mà rủ vô Ciné Văn Hoa, ngồi kế bên nhau coi mà chưa từng đụng tay, đụng chưn với nhau bao giờ. Rồi tôi đi xa như đời lính người trai thời chiến và cô bạn nho nhỏ Gia Long của tôi đi lấy chồng như đời một người con gái thường tình nhi nữ. Người mà tôi cả gan nắm tay và dám hun lên má đầu tiên đời người con trai nhát gái của tôi chính là vợ tôi, không ai khác. Ðâu cũng là một cái duyên, người ta gọi là “duyên tiền định” phải không? Tôi có học Chu Văn An, tôi mới đi dạy kèm mấy đứa nhỏ dưới Tân Ðịnh. Tôi có đi dạy kèm mấy đứa nhỏ dưới Tân Ðịnh, tôi mới gặp cô nữ sinh Ðệ Tứ của Trường Văn Hiến lấy làm vợ. Trường Chu Văn An từ đó còn thêm một ý nghĩa hết sức thi vị cho đời học sinh của tôi khi nhắc tới.

   

Ði ngang trưòng cũ, trường đã đổi tên, lòng tôi buồn với vợi. Ngày đó niên khóa 1965-1966, năm học cuối cùng của tôi, Trường Trung Học Chu Văn An rộn ràng tiếng nói cười xôn xao, lao xao vút trời cao bao la. Bây giờ cửa sắt lớn, cửa sắt nhỏ đóng kín mít; tường gạch cao rào kẽm gai; chung Niên khóa 1965-1966 là năm học cuối cùng của tôi ở Trường Chu Văn An, lúc nào cũng rộn ràng biết mấy âm thanh vang vang tiếng cười nói xôn xao cả một khu phố, bay bổng lên khoảng trời cao bao la, mênh mông. Bây giờ nhìn lại trường không còn tên như Sài Gòn đã mất tên Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Ðông! Ai mà không cảm thấy quanh quẩn ngột ngạt bầu không khí u buồn hun hút, mịt mùng. Lối vào, cổng sắt lớn, cổng sắt nhỏ đóng kín. Mặt ngoài Câu Lạc Bộ của nhà trường hướng ra đường Minh Mạng, bây giờ là Ngô Gia Tự không có cửa nào như ngày xưa mở toang ra cho học trò cứ ở ngoài mà vẫn mua được ly trà đá, ly cà phê, tập giấy, cây viết…“Trường Chu Văn An của tôi hồi đó, bây giờ nhà tù!?”, tôi buồn buồn tự hỏi trong lòng. Người ta vào đây gọi là “giải phóng”, nhưng giải phóng cái gì nhỉ!? Ðã 37 năm dài như đã nói ở trên, không thèm xây thêm một trường học nào cho ra một trường học nào ngay tại cái đất Sài gòn nầy, nói chi xa xôi ở đâu. Họa chăng, họ làm cho mù mờ đi, nhạt nhòa đi, mất mát đi dấu vết trường xưa nổi tiếng của người ta như Trường Trung Học Chu Văn An của tôi thì có. Họ lo cướp đất của đám dân nghèo thấp cổ bé miệng mà cất thêm nhà tù nhốt ai dám “chê” Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hay cả gan “chỉ trích” các tên cai trị đầu sỏ độc tài, độc ác còn không đủ thì giờ, thì giờ đâu lo ba cái chuyện trường với lớp, học với hành cho mệt? Bất hạnh thay! Trường nào ngày xưa tôi không biết, nhưng với tôi, ai đã học Chu Văn An trước khi Việt Cộng vào, bây giờ về thăm trường cũ mà không bàng hoàng, không xót xa, vẫn tỉnh bơ như không có gì mảy may trong lòng thì tôi chịu thua mà phải khen lên rằng: “ông thiệt là người sắt đá, vô cùng sắt đá”./.

NGUYỄN THỪA BÌNH


Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

NHỚ THỜI TRƯỜNG CŨ CHU VĂN AN *

Một ngày cuối năm 1965, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương lúc bấy giờ có đến thăm trường. Anh em trong trường kháu với nhau về ông Thủ Tướng trẻ tuổi tài cao xuất thân từ Trường Chu Văn An

 
Trung học Chu Văn An

Ðời đi học, kỷ niệm đáng nhớ nhất, đáng yêu nhất vẫn là thời học trò các lớp Ðệ Nhất Cấp, Ðệ Nhị Cấp. Tôi nghĩ như vậy. Bởi vì những ngày tập tễnh cắp sách đến trường, khi mà “mẹ tôi âu yếm, nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp…” thì tuổi còn bé nhỏ, non dại, có gì, nhớ gì. Giỏi lắm, áo sơ mi trắng cụt tay bỏ trong quần xà loỏng đen cụt ngủn ôm nhau vật lộn. Nhớ lắm cũng chỉ nhớ những bà cô, những ông thầy dạy mấy đứa nhỏ sao dữ quá, ác quá, rất đáng sợ nhưng cũng rất đáng kính trọng. Lên Trung Học, dẫu gì cũng là người lớn trong lòng cũng đã biết tơ tơ tưởng tưởng cho thầy Thư dạy Cổ Văn năm Ðệ Ngũ, thầy Mão dạy Toán năm Ðệ Tứ phải nhăn mặt mà la những cô, những cậu học sinh còn non choẹt sao cứ “mơ mơ màng màng, học không lo học, lo thơ với thẩn, lo mèo với mỡ”. Còn ở Ðại Học, giảng đường rộng thênh thang, giảng sư muốn nói gì nói và sinh viên, ai muốn đứng đâu, ngồi đâu, làm gì tùy ý một cách tự do, tự tại, lạt lẽo. Tôi may mắn thi đậu vào Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu, Phan Thiết và được chuyển vào Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An, Sài Gòn về sau. Ở Tỉnh mà vào được Trường Trung Học Công Lập duy nhất thì khó biết chừng nào và hãnh diện hết sức. Hãnh diện cho mình mà cũng hãnh diện cho cha mẹ nữa. Ở Việt Nam, ai không nghe Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An là một trường thầy giỏi, trò giỏi. Tôi rất tự hào, tự cao là học sinh của Trường Chu Văn An có thầy An, thầy Huỳnh dạy Triết, thầy Lương dạy Anh Văn, thầy Lâm dạy Toán, Lý Hóa…và nhất là có thầy Tự là Giám Thị và ông Hiệu Trưởng là thầy Dương Minh Kính. Về Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu Phan Thiết quê tôi, tôi sẽ viết vào một dịp khác. Bây giờ, bài nầy tôi viết về Ngôi Trường Chu Văn An một thời vào học. Trường nằm cuối đường Minh Mạng, đụng Triệu Ðà, bên hông Ðại Học Xá Minh Mạng.

Trường Chu Văn An là một trong những trường Trung Học đầu tiên của nước Việt Nam, được thành lập ngày 9 tháng 12 năm 1908 dưới thời Toàn Quyền Ðông Dương Antony Klobukowski với tên Tây là Lycée du Protectorat. Trường Lycée du Protectorat xây dựng trên đất Làng Bưởi của Thụy Chương bên Hồ Tây, nên người ta cũng thường gọi là Trường Bưởi. Thụy Chương sau đổi lại là Thụy Khuê vì kỵ húy Chương vua Thiệu Trị. Ðến ngày 12 tháng 6 năm 1945, Khâm Sứ Phan Kế Toại đổi tên Trường Lycée du Protectorat thành Trường Quốc Lập Trung Học Hiệu Chu Văn An. Từ ngày thành lập cho đến 30 tháng 4 năm 1975, trường đã bao phen chia đàn, rẽ nghé. Khi thì đi vòng vòng ở Hà Nội. Khi thì chạy xuống Ninh Bình, chạy vào Thanh Hóa. Và sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, đa phần thầy và trò lại cuốn gói vào Nam ăn nhờ ở tạm nơi Trường Trung Học Pétrus Ký vài năm. Ðến năm 1961 mới có trường Trung Học Công Lập Chu Văn An mà học. Trường nằm ngay ngã Tư Minh Mạng, Triệu Ðà ,Ngô Quyền, Hồng Bàng và trước mặt là Nhà Thờ và Công Viên Văn Lang. Sau cái ngày gọi là Giải Phóng, trường bị Việt Cộng chiếm đoạt và đặt nhiều tên nghe dài lê thê điếc cái lỗ tai mà nhìn âm âm u u ngứa cả hai con mắt: Trường Huấn Nghệ Phổ Thông Lao Ðộng, Trung Tâm Giáo Dục Thường Xuyên. Dĩ nhiên, tôi chỉ nói về trường cũ của mình hồi đó là Trường Chu Văn An, không dính dáng gì đến ba cái Trường Huấn Nghệ hay Trung Tâm Giáo Dục hoặc Trường Trung Học Phổ Thông Chu Văn An, Hà Nội ngoài Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa gì ráo. Vùng Sài Gòn-Gia Ðịnh hồi đó có những trường công lớn, nổi tiếng như Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Pétrus Ký, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Hồ Ngọc Cẩn, Võ Trường Toản…Và tôi thì rất hãnh diện đã là học sinh Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An. Về quê ở Phan Thiết, tôi thưòng cao ngạo, tự hào, huênh hoang với bè bạn mà khoe mình là “Dân Chu Văn An”, là “Dân Trường Bưởi” một cách say sưa, buồn cười, lố bịch. Ở ngoải, nghe đến tên Trường Chu Văn An, người ta là những học sinh ai cũng nể, cũng kiêng, cũng dè cho nên, mình cứ lên nước, mình cứ “làm le”. Nói cho cùng, có buồn cười, có lố bịch, có lên nước, có làm le đi nữa cũng chẳng sao. Bởi vì, có ai cắp sách đến trường ở Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ mà lại không biết đến tên tuổi của ngôi trường nổi danh, nổi tiếng nầy khắp Nước Việt Nam Cộng Hòa, dễ gì mà vào. Có khác gì, ông bạn Nguyễn Sĩ Chiêu được vào học Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn về Phan Thiết của tôi còn “nổ hơn tạc đạn”. Tôi người Phan Thiết có tán dóc cách mấy cũng không bằng một góc ông Chiêu Bắc Kỳ nầy. Ổng mà “đía” vô, “đía” ra đố trời mà chịu nổi. Cách đây hơn một tháng, tôi có nói với ông bạn Ðại Úy Nguyễn Chí Viễn, cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa II Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia rằng: “ Các ông đã là Chu Văn An mà thêm gốc Bắc Kỳ nữa thì đố trời mà cãi lại”. Thật vậy, tôi nhớ không chính xác là tháng mấy của năm 1966, các ông bạn của tôi Trường Chu Văn An thi “Tài Bùng Biện” ở phía sau căn nhà lầu đằng trước bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Các ổng toàn người Bắc, không một móng Nam, Trung gì ráo. Các ổng ăn to, nói lớn, rành mạch, dõng dạc, đường bệ…hùng biện một cách rất “hùng biện” thua ai đâu.

Năm ngoái, tôi về Việt Nam sau gần hai chục năm xa quê, nói thằng cháu “chở chú tới Trường Chu Văn An” để nhìn ngôi trường xưa. Qua Ngã Sáu Chợ Lớn ngày xưa bây giờ đổi tên đổi họ hết trơn. Ngã Sáu Chợ Lớn bây giờ còn Nguyễn Tri Phương như cũ, Minh Mạng là Ngô Gia Tự và Ðại Tá Trần Hoàng Quân là Nguyễn Chí Thanh. Ngang qua Ðại Học Xá Minh Mạng hồi đó, bây giờ là Ký Túc Xá Ðại Học Y Dược mà năm 1976 có tên là Ký Túc Xá 230 Ngô Gia Tự. Với những anh em sinh viên thời chúng tôi, ai lại không nghe, không tới Ðại Học Xá Minh Mạng một lần. Tôi thì có chỗ ở nơi dạy kèm mấy đứa nhỏ, hồi đó gọi là “précepteur”, sau lưng Ciné Văn Hoa dưới Tân Ðịnh, không thì cũng xin vào trỏng rồi. Gần như Thứ Bảy, Chủ Nhật nào, tôi cũng chun đầu vào nơi gió cát nầy, vui với anh em “bạch diện thư sinh” nghèo quá đổi là nghèo! Trường Chu Văn An bây giờ không còn tên và sao hiu hắt, cô quanh quá sức. Cửa đóng then cài im ĩm, không một bóng người. Cửa hông bước vào trường ngày trước nằm phía bên phải với Câu Lạc Bộ, nay bị bít kín và trổ cửa khác nằm phía bên trái cổng lớn của trường. Bức tường cao phía trước có kéo những vòng kẽm gai “concertina”, nhìn nhà trường như nhà tù. Ai mà không xúc động, không buồn được tôi khen. Trường tôi vĩ đại, sống động biết mấy ngày nào, sao nay đìu hiu, cô quạnh, không hồn đến như thế! Mà sao lạ nhỉ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không xây được một ngôi trường học mới mẻ nào hết trơn, dù thời gian đã dài 36, 37 năm “giải phóng”rồi, ngoài nhà hàng, khách sạn, tụ điểm ăn chơi…Thẳng tới phía trước, bên kia đường không còn cô gái Tàu phụ với ông già bán nước rau má hồi nào. Cô ta có khi đã về Trung Quốc theo “nạn kiều” rồi chăng? Nhớ năm 1965-1966, xe nưóc rau má của cô ta thường được bu quanh bởi mấy anh “…thứ ba học trò”, nhất là học trò Chu Văn An. Họ tới để uống nước rau má cho “mát” bụng cũng có mà để nhìn cổ cho “mát” hai con mắt cũng có. Tôi chẳng biết cô ta tên là gì, thường anh em cứ gọi là A Muối và chọc cổ mấy tiếng Tàu học lóm: “nị hữu len”. A Muối cười mủm mỉm, ai cũng muốn hun cái má đỏ hây hây của cổ cho đả. Nói đến A Muối lại nhớ đến anh chàng Bình Mập mê gái mà thấy gái thì run chết cha. Khoái A Muối, cứ bao tôi, Sử uống nước rau má hoài khỏi trả tiền, để cho nó lại gần mà dạn miệng dạn mồm chỉ để nói: “A Muối, nị hữu len”. Nó cũng là thằng khoái làm thơ thua xa thơ con cóc người ta mà cứ thơ với thẩn hoài. Thằng Sử ngán quá, gán cho nó một cái tên kể ra cũng xứng, đó là Ngụy Thi Sĩ và nhại mấy câu thở để đời của nó: “Hôm qua tao đi học. Quen cô gái trên đường. Về nhà nhớ nhớ thương. Hôm sau tao đi học. Không gặp cô gái hôm qua. Chắc cổ ở nhà? Ở nhà với mẹ hay đi với bồ? Tao khổ”.

Quây sau lưng là Nhà Thờ Văn Lang đứng uy nghiêm, lặng lẽ, cô độc như thuở nào trời đất ngày xưa tôi đi học, có khác là bây giờ sơn phết màu đỏ hồng sáng chói, không như hồi đó trắng trắng bạc thếch. Nhà thờ khởi công xây dựng từ năm 1922, đến năm 1928 mới xong. Gọi là Nhà Thờ Văn Lang chắc nhà thờ nằm trong Công Viên Văn Lang? Nhà thờ Văn Lang vì nằm kế Ngã Sáu Chợ Lớn nên người ta cũng gọi là Nhà Thờ Ngã Sáu. Nhà Thờ Ngã Sáu còn có tên khác nữa là Nhà Thờ Jeanne d’Arc. Toàn khu công viên nầy, hồi đó tôi được một chú Chệt thuờng mặc bộ đồ tàu vải lụa đen đi tới đi lui trong công viên cho biết: “đất nầy thời trước là nghĩa địa của Người Huê Kiều, Người Pháp gọi là Plaine des Tombeaux”. Công viên, nhà thờ ở đây, ai học Chu Văn An dù thời xưa hay thời nay, tôi dám cả quyết đều nghĩ như nhau là, sao tiếng ve sầu đánh tiếng buồn quá sức, não nùng quá sức và ngôi nhà thờ quanh năm cô quạnh, thê lương, lạnh lẽo cũng quá sức. Tiếng chuông réo rộn ràng giờ giải lao. Người thì vào Câu Lạc Bộ mới, có bà chủ lúc nào cũng la lối và hai cô con gái nhà ai coi cũng xinh xinh lắm chứ. Tôi có vào đây gần như lúc nào cũng “cho ly đá chanh” và lúc nào hai cô cũng nhìn tôi, cười chím chím rồi nhỏ nhẹ “biết rồi, khổ quá, nói mãi” anh ơi. Người thì tụm lại với nhau trong sân trường, nói chuyện đời lính tráng sắp đến nơi. Người thì ra cổng, quẹo phải tới với cô gái Tàu bán nước rau má. Người thì ra cổng đi thẳng qua bên kia đường, dạo vòng vòng trong Công Viên Văn Lang, chắc tìm “yến sĩ phi lý thuần”, không phải “lạy Chúa, con là người ngoại đạo”? Trong công viên nầy, vào một chiều, chắc là Mùa Xuân năm 1966, có khoảng một chục nữ sinh áo dài trắng, quần dài trắng tự giới thiệu là Học Sinh Trung Học Thủ Thừa, Long An “lên đây bán Ðặc San Trung Học Thủ Thừa cho các anh Chu Văn An”. Bán ở đâu không bán lại bán nhằm chỗ anh hùng tứ chiếng thì “các cô từ chết tới bị thương” mà thôi. Thân gái dặm trường từ một quận nhà quê xa lắc xa lơ mà dám vào hang cọp chốn thị thành Thủ Ðô. Chốn thị thành Thủ Ðô đó lại là tụ điểm của những “Anh Hùng Lương Sơn Bạc” Chu Văn An thì các cô khác chi “hoa lạc giữa rừng gươm”. Các cô chỉ lạng, lách, né, tránh cho khỏi đụng qua đụng lại với các anh mua thì không mua mà nhiệt tình muốn xáp lá cà cũng đủ “mệt đứt hơi” rồi, còn đâu mời mọc bán hàng. Túng thế, các cô Nữ Sinh Trung Học Thủ Thừa “cám ơn các anh” chạy lấy thân muốn chết mà thề không bao giờ bén mảng. Chạy hốt hoảng làm sao, một chiếc guốc của cô nào đó bị tuột ra khỏi chưn mà không dám quây trở lại mang đi.

Một ngày cuối năm 1965, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương lúc bấy giờ có đến thăm trường. Anh em trong trường kháu với nhau về ông Thủ Tướng trẻ tuổi tài cao xuất thân từ Trường Chu Văn An cũng là Trường Bưởi của mình đầy khâm phục và hãnh diện. Hồi đó tuổi trẻ chúng tôi, hình ảnh một ông Tướng trẻ, đẹp, oai nghiêm, phong trần, phong lưu như Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là một mẫu người lý tưởng, là một thần tượng. Sân trường chật trò, chật thầy rộn ràng tiếng cười nói, hoan hô, vỗ tay rần rần một khoảng không gian trời đất. Một đề nghị “xin dời Trường Chu Văn An đi một nơi khác vì ở đây gần Bệnh Viện Bài Lao” được Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương “hoàn toàn đồng ý và sẽ dời trường xuống khu Phú Thọ”. “Dời trường xuống khu Phú Thọ” không thấy mà thấy Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An cứ ở lỳ đó cho đến ngày Việt Cộng vào cướp đoạt. Một lời hứa “lèo” của ông “Thủ Tướng Bốc Ðồng” làm mất mặt, thất vọng đàn em đón, đưa ổng hết sức nồng nhiệt buồn biết chừng nào! Tôi không nhớ chắc. nhưng có lẻ là cuối năm 1966, tin đồn một thầy nghe nói là dạy dưới Trường Trung Học Bến Tranh, Ðịnh Tường lên làm Hiệu Trưởng Trường Chu Văn An. Một thầy dưới một Quận của một Tỉnh xa xôi không biết giỏi đến cở nào mà leo lên chức Hiệu Trưởng của một trường nổi tiếng khắp nước là một chuyện lạ. “Chắc có áp phe, nếu không thì con ông cháu cha”, thầy trò to nhỏ với nhau như vậy. Không lâu, Thầy Dương Minh Kính ở dưới lên đây làm Hiệu Trưởng thiệt. Thầy người Bắc, không được cao lắm và cũng chẳng đẹp trai chút nào và chắc chẳng ai những ngày đầu “tâm phục, ý phục” bao giờ. Rồi thầy có cải cách hay không cải cách, có làm tốt hay làm dở tôi cũng không quan tâm chuyện mấy người lớn, hơn nữa mấy tháng sau là tôi đã ra trường rồi. Vài năm sau, nghe thầy là Dân Biểu Quốc Hội. Vậy thì, thầy giỏi thiệt.

Niên khóa 1966-1967 chúng tôi tham dự Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Ðường đầu tiên do thầy giáo Lê Ðình Ðiểu cũng là cựu học sinh Trường Chu Văn An khởi động. Cứ cuối tuần, một nhóm chúng tôi tụ tập trong Sở Thú, Thị Nghè tập hát, kể chuyện, đối thoại, cắm trại…Nhưng không được mấy lần thì tôi nghỉ luôn và chương trình anh em có còn tiếp tục nữa hay ngưng thì tôi không biết. Có điều, bài hát buổi sinh hoạt đầu tiên là bài hát mới sáng tác của Nhạc Sĩ Phạm Duy, bài Việt Nam, Việt Nam. “Việt Nam, Việt nam nghe từ vào đời. Việt Nam hai câu nói bên vành môi. Việt Nam nước tôi…” nghe sao hay quá, mau thuộc lòng quá và nhớ lâu đến bây giờ. Cũng trong năm nay, nếu trí nhớ tôi còn tốt thì anh bạn Tín người Nam, không phải Tín người Bình Ðịnh có làm Ðặc San Nhóm Lửa cho Lớp Ðệ Nhất C. Nói là đặc san, thật ra hình bìa là tờ giấy trắng có in ngọn lửa đỏ là hiệu đoàn của nhà trường. Những bài viết bên trong chắc khoảng 60 trang giấy đánh máy, quay ronéo, mực đen. Tất cả đóng thành tập. Tôi có một bài dài hơn một trang nói về những kẻ giàu thì hoang phí mà những kẻ nghèo một miếng ăn tìm rất khó. Anh Tín nói: “ông bạn là một Nhà Xã Hội Học”. Nói về tên anh em năm học đó, chắc tôi quên nhiều hơn nhớ: Ý, Bách, Lữ, Tín Nam, Tín Bình Ðịnh, Phát, Thắng, Sử, Nghĩa, Chính…Bách thì tôi gặp lại một lần trong Trường Bộ Binh Thủ Ðức, chắc trong trường hợp giáo chức bị động viên. Ngồi kế bên tôi, Chính là anh chàng người Bắc, cao to, giỏi đàn địch, cứ hát và khen hay hoài bài Ai Nói Với Em của Nhạc Sĩ Minh Kỳ mới ra: “ai nói với em, nếu anh là lính, không biết nói yêu mỗi khi gần em” và khoái biết chừng nào, ảnh đập tay, giựt chưn đoạn “khi lính đã yêu, rừng tàn núi lở. Tình còn vững bền muôn thuở. Bao la như lòng đại đương”. Phát sau nầy nghe nói vào Khóa I Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Ðà Lạt không biết phiêu bạt nơi nào. Phát một lần với tôi lên Ðà Lạt dự Trại Hoa Anh Ðào do Tướng Kỳ tổ chức? Chúng tôi uống Cà Phê Tùng, đi ngựa bờ Hồ Xuân Hương, dự lễ Nhà Thờ Con Gà, đi vòng vòng Khu Chợ Hòa Bình. Lữ và một, hai anh em nữa từ Trường Lasan Tabert qua, có giỏi Tiếng Pháp thiệt nhưng không giỏi các môn khác còn lại, có vẻ ít thân thiện với bạn bè chung quanh. Có phải Tây và Ta không hợp nhau hay mấy ông học Trường Tây là con nhà giàu đâu khoái giao du với bàng dân thiên hạ không “môn đăng hộ đối” với mình? Thắng thường khoe mình trong Ban Nhạc Mây Trắng. Tôi không rành ca, nhạc nên không biết Ban Nhạc Mây Trắng, Mây Hồng gì của Thắng. Thường, chiều Thứ Sáu sau khi Thầy Tự, Giám Thị dãy lầu I đi một vòng kiểm điểm là Thắng dzọt qua cửa sổ đi liền, đi tuốt. Sau thi Tú Tài II, không biết Thắng đậu hay rớt và đi đâu. Sử, anh chàng sún răng, con nhà giàu ở Huỳnh Tịnh Của miệt Tân Ðịnh, chơi tennis ở Tao Ðàn, học cũng học mà chơi cũng chơi. Ðậu Tú Tài II một lần với tôi. Nghe nói, Sử Sún vào Quốc Gia Hành Chánh năm 1967, nhưng không gặp một lần. Ý, nhà trong Cư Xá Ðô Thành, sát Trường Tiểu Học Bàn Cờ, thích cà phê đen với thuốc hút, không mần mò học với hành nhiều. Rớt Tú Tài II, Ý vào Thủ Ðức, không biết tới bể dĩa đã lên tới lon gì hay đã “vị quốc vong thân”? Hồi đi học chung, tôi thỉnh thoảng tới nhà Ý nhiều lần nhưng mấy lần sau không biết tại làm sao, tôi không tìm ra được nhà của Ý, đành xa cách nhau biền biệt từ đó. Chúng tôi là tôi, Thắng, Sử, Ý bốn thằng thường “coupe cours” bằng con đường “chun lỗ chó” vách tường trên đường Triệu Ðà hay hàng rào lưa thưa cuối trường. Thường bốn đứa ra Quán Chú Chệt bên kia Ðường Trần Hoàng Quân, ngay ngã tư hai Ðường Trần Hoàng Quân và Ðường Triệu Ðà. Trốn học vì “học không dzô” như thằng Ý nói. Những giờ Triết của Thầy Trần Ðức An, Thầy Huỳnh Già thì không đứa nào đành bỏ học. Thầy Lương dạy Anh Văn cả bốn đứa cũng ráng ngồi nghe, ngồi học đường hoàng. Giờ Lý Hóa và Toán của Thầy Lâm thì y như rằng, rủ nhau “ra uống cà phê tụi bay”, thằng Sử dụ. Mấy giờ Pháp Văn, Sử Ðịa…thì “khi vui nó đậu, khi buồn nó bay” chưa biết chừng. Ra Quán Chú Chệt để làm gì, thì cũng để cho khuây khỏa mà hút thuốc Bastos Ðỏ, Bastos Xanh với cà phê đen, cà phê đá chớ gì. Tôi, bị tụi nó chữi hoài “nghèo mà sang”, cứ hút Capstan không. Thật ra, mình không “bụi đời” mà chơi nổi mấy loại thuốc đó. Nó vừa khô khốc lại vừa đắng nghét, “ngon chỗ nào”. Cà phê tiệm mấy anh Ba Tàu ở Chợ Lớn thì giống nhau y hệt, nấu trong một túi vải. Người Miền Nam bình dân ta đặt cho nó một cái tên hết sức biểu tượng là “cà phê dợt”, “cà phê dớ”. “Cà phê dợt”, “cà phê dớ” vì nấu trong một cái túi vải thụng thịnh như một cái vợt, như một cái vớ. Cũng cà phê đó, bỏ sửa vào là “cà phê sửa”, bỏ đá vào là “cà phê đá”, không bỏ gì hết là “cà phê đen”. Thuở đó, các tiệm nước bình dân Vùng Chợ Lớn đâu có cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc” của mấy anh Bộ Ðội Nhân Dân ngốc nghếch ngoài Bắc đem vào. Ngày đó, đường sá còn rộng thênh thang, tôi đi học bằng xe đạp. Chiếc xe đạp “cà tàng”, cà rịch cà tang tôi đạp từ con hẻm Trần Quang Khải, bên hông Ciné Văn Hoa dưới Tân Ðịnh xuống tới Chợ Lớn, xa cũng xa thiệt. Ði học, tôi thường đi qua khúc Ðinh Tiên Hoàng rồi thẳng trước mặt Hiền Vương, qua Công Trường Dân Chủ đếnTrần Quốc Toản quẹo trái lên Pétrus Ký mà vào Ngã Bảy rồi quẹo phải trên Ðường Minh Mạng để tới trường. Nghĩ đường sá xa xôi, mình cũng bắt chước bạn bè làm Thẻ Công Quản Xe Buýt Saigon đi cho bớt mệt và tiết kiệm được đồng nào hay đồng nấy. Nhưng có thẻ rồi, bây giờ ngồi nghĩ lại, không biết mình đã đi một lần nào chưa nhỉ. Xe Bus, đi còn lâu hơn xe đạp. Nó chạy rề rề, ngừng nhiểu trạm, giờ giấc không chắc ăn. Nghĩ vậy, thôi “ta về ta tắm ao ta” chiếc xe đạp cũ bảo đảm hơn. Thà ta đi một vòng có dài mà nghêu ngao được lời ca, tiếng hát thênh thang, thong dong…Huống gì hồi đó đi học bằng xe đạp, tôi lại có một mối tình nho nhỏ với một cô nữ sinh lớp Ðệ Tam của Trường Gia Long. Chúng tôi cùng trong con Hẽm Trần Quang Khải. Cổ, nhà sát Trường Trung Học Tư Thục Văn Hiến. Tôi, nhà ở sâu trong xóm, bên bờ Kinh Cầu Bông. Khi nào gặp nhau, chúng tôi thường kè kè song đôi, chuyện vu vơ, buâng quơ ra Trần Quang Khải, quẹo phải Ðinh Tiên Hoàng, đến Phan Thanh Giản quẹo phải, chạy tới Ðường Bà Huyện Thanh Quan thì cô bé lúc nào cũng như lúc nấy, vừa cười vừa nói “ráng đạp nghen anh” mà vào trường. Tôi thì tiếp tục hết đường nầy cho tới Ngã 7 rồi vào Minh Mạng, đến Ngã 6 Chợ Lớn, lại tiếp Ðường Minh Mạng để tới trường. Thỉnh thoảng chúng tôi nói với nhau “hôm nay có phim hay” mà rủ vô Ciné Văn Hoa, ngồi kế bên nhau coi mà chưa từng đụng tay, đụng chưn với nhau bao giờ. Rồi tôi đi xa như đời lính người trai thời chiến và cô bạn nho nhỏ Gia Long của tôi đi lấy chồng như đời một người con gái thường tình nhi nữ. Người mà tôi cả gan nắm tay và dám hun lên má đầu tiên đời người con trai nhát gái của tôi chính là vợ tôi, không ai khác. Ðâu cũng là một cái duyên, người ta gọi là “duyên tiền định” phải không? Tôi có học Chu Văn An, tôi mới đi dạy kèm mấy đứa nhỏ dưới Tân Ðịnh. Tôi có đi dạy kèm mấy đứa nhỏ dưới Tân Ðịnh, tôi mới gặp cô nữ sinh Ðệ Tứ của Trường Văn Hiến lấy làm vợ. Trường Chu Văn An từ đó còn thêm một ý nghĩa hết sức thi vị cho đời học sinh của tôi khi nhắc tới.

   

Ði ngang trưòng cũ, trường đã đổi tên, lòng tôi buồn với vợi. Ngày đó niên khóa 1965-1966, năm học cuối cùng của tôi, Trường Trung Học Chu Văn An rộn ràng tiếng nói cười xôn xao, lao xao vút trời cao bao la. Bây giờ cửa sắt lớn, cửa sắt nhỏ đóng kín mít; tường gạch cao rào kẽm gai; chung Niên khóa 1965-1966 là năm học cuối cùng của tôi ở Trường Chu Văn An, lúc nào cũng rộn ràng biết mấy âm thanh vang vang tiếng cười nói xôn xao cả một khu phố, bay bổng lên khoảng trời cao bao la, mênh mông. Bây giờ nhìn lại trường không còn tên như Sài Gòn đã mất tên Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Ðông! Ai mà không cảm thấy quanh quẩn ngột ngạt bầu không khí u buồn hun hút, mịt mùng. Lối vào, cổng sắt lớn, cổng sắt nhỏ đóng kín. Mặt ngoài Câu Lạc Bộ của nhà trường hướng ra đường Minh Mạng, bây giờ là Ngô Gia Tự không có cửa nào như ngày xưa mở toang ra cho học trò cứ ở ngoài mà vẫn mua được ly trà đá, ly cà phê, tập giấy, cây viết…“Trường Chu Văn An của tôi hồi đó, bây giờ nhà tù!?”, tôi buồn buồn tự hỏi trong lòng. Người ta vào đây gọi là “giải phóng”, nhưng giải phóng cái gì nhỉ!? Ðã 37 năm dài như đã nói ở trên, không thèm xây thêm một trường học nào cho ra một trường học nào ngay tại cái đất Sài gòn nầy, nói chi xa xôi ở đâu. Họa chăng, họ làm cho mù mờ đi, nhạt nhòa đi, mất mát đi dấu vết trường xưa nổi tiếng của người ta như Trường Trung Học Chu Văn An của tôi thì có. Họ lo cướp đất của đám dân nghèo thấp cổ bé miệng mà cất thêm nhà tù nhốt ai dám “chê” Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hay cả gan “chỉ trích” các tên cai trị đầu sỏ độc tài, độc ác còn không đủ thì giờ, thì giờ đâu lo ba cái chuyện trường với lớp, học với hành cho mệt? Bất hạnh thay! Trường nào ngày xưa tôi không biết, nhưng với tôi, ai đã học Chu Văn An trước khi Việt Cộng vào, bây giờ về thăm trường cũ mà không bàng hoàng, không xót xa, vẫn tỉnh bơ như không có gì mảy may trong lòng thì tôi chịu thua mà phải khen lên rằng: “ông thiệt là người sắt đá, vô cùng sắt đá”./.

NGUYỄN THỪA BÌNH


BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm