
Dương Hùng Cường
(1934-1988). Nguồn: OntheNet
Dương
Hùng Cường sinh ngày 1/10/1934 tại Hà Nội; ông gia nhập không quân và
đi học về cơ khí tại Pháp năm 1953, là hạ sĩ quan phục vụ ở nhiều đơn vị
từ 1955. Đến giữa những năm 1960, ông là chuẩn úy làm việc tại phòng
Tâm lý chiến, bộ
Tư lệnh Không quân.
Dương
Hùng Cường là một nhà văn có tiếng ở Sai Gòn qua những bút hiệu khác
như Dê Húc Càn, Lão Húc, Lão Dương, v.v. Ông có ba tác phẩm đã xuất bản
là Lính thành phố, Buồn vui phi trường, Vĩnh biệt Phượng.
Ông
bị đi tù cải tạo từ 1975 đến 1979. Năm 1984 ông bị bắt
giam cùng những cây bút khác như Khuất Duy Trác, Doãn Quốc Sỹ, Hoàng
Hải Thủy, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Trần Ngọc Tự, Lý Thụy Ý, v.v. và bị cáo
buộc tội gián điệp, “những tên biệt kích cầm bút”, vì đã viết và gởi
bài ra nước ngoài.
Dương Hùng Cường qua đời trong nhà giam Phạm Đăng Lưu ở Gia Định năm ngày 22/01/1988.
oo0oo
Anh thân,
Trong
những cái lo hàng ngày như chuyện cơm áo, chuyện thường trú, tạm trú,
chuyện hộ khẩu, chuyện hồi hương lập nghiệp, đi xây dựng vùng kinh tế
mới,
tôi lại thêm một cái lo nữa. Nhưng không sao, tôi sẽ viết, vì từ lâu
tôi cũng muốn viết. Có nhiều thứ chất chứa trong đầu quá rồi!
Tôi bắt đầu bằng một truyện ký.
Khi
anh biết tôi viết “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” anh cũng đã gửi trong
thư vài hàng góp ý. Cảm ơn anh nhiều lắm. Tôi cũng định hạn chế cho
mình là cái
truyện ký này, chỉ nên viết từ hai trăm tới ba trăm trang.
Kéo
dài, dài mãi thì cũng được đấy, vì tới bây giờ chàng vô sản Trương Chi
vẫn còn quản lý cái tài sản của nàng “Tư sản phong kiến” Mị Nương, và cứ
mỗi ngày lại lòi ra một cái xấu mới. Thành ra khó lòng mà làm một phát
chấm hết truyện ký “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai”.
Khi
bắt đầu vào truyện tôi
nghĩ ngay tới ngày đầu mà ông Thừa tướng cho gọi Trương Chi vào để gặp
Mị Nương. Tôi dám chắc rằng ông Thừa tướng không để cho chàng kịp sửa
sang lại nhan sắc. Có thể lúc đó chàng đang mặc một bộ quần áo bẩn nhất,
rách nhất. Có thể lúc đó, chàng vừa chèo xong một chuyến đò dọc đưa
“khứa” vất vả, chưa kịp tắm rửa nên đen đủi hôi hám.
Ông
Thừa tướng cáo già phải lựa lúc nào chàng bẩn nhất, xấu nhất, hôi nhất,
tuy rằng lúc bình thường chàng đã bẩn, đã xấu, đã hôi.
Đúng cái lúc đó cho chàng gặp Mị Nương. Người viết truyện là tôi thì
cho cái ngày mà chàng vô sản Trương Chi gặp nàng Tiểu thư tư sản phong
kiến Mị Nương là ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Bắt đầu câu chuyện là thế đấy, anh ạ.
Vậy tại sao ta lại gọi ngày 30 tháng Tư 1975 là ngày bại trận?
Ngày
Thừa tướng cho Mị Nương gặp Trương Chi để được thấy hết cái xấu của
chàng vô sản để rồi chê anh chàng hơi kỹ, là ngày thua của ông Thừa
tướng cáo già hay sao?
Không,
ngày đó ông ta thắng chứ, mà lại thắng lớn. Tiếng hát của chàng vô sản
Trương Chi, từ đây không còn “ép phê” với cô Mị Nương nữa rồi.
Tôi đã được nghe một bà già ở Bến Tre nói
những câu làm mình mát lòng, mát dạ. Bến Tre, quê hương Đồng Khởi đấy nhé. Bà ta nói oang oang không một chút sợ sệt tránh né:
“Các
ông có biết không, ngày xưa tôi nuôi nhiều đứa lắm. Tôi rút nõ trái
mít, khoét hết ruột rồi đổ gạo vô cho đầy, đậy cái nõ lại mang gạo đi
nuôi chúng nó. Tôi dấu chúng nó dưới hầm kín. Nếu mà
biết như thế này thì hồi trước gạo có dư tôi nuôi thêm vài ba con chó.
Bây giờ có chuyện gì chúng nó trốn vào trong quần tôi, tôi cũng vén cái
quần lên cho nó lộ cái mặt ra!”
Đại khái bà già Bến Tre nói những câu như vậy.
Ấy
đấy, cái ngày 30/04/1975 đã làm thay đổi cả một hệ thống tư tưởng, suy
nghĩ, hành động của một
giai cấp được đặt lên đỉnh cao trung kiên, thì dù ai muốn nói thế nào
cũng mặc, tôi vẫn cho ngày 30/04/1975 là ngày chúng ta đại thắng.
Chàng
vô sản Trương Chi mọi người đều biết là giỏi về nghề hót. Chàng đã hót
rất kỹ về ba cái chiến thắng. Chiến thắng Điện Biên. Chiến thắng Tết Mậu
thân. Chiến tháng 30/04/1975. Một cái thực và hai cái hư, tạo nên cái
hư hư thực thực để người ta dễ lầm, thật giả khó phân. Chiến thắng Điện
biên là thực, vì dù sao, chín năm kháng chiến đánh Tây chưa lòi cái bộ
mặt Quốc tế vô sản ra, chúng
nó còn có được chính nghĩa. Như vậy thì chiến thắng Điện biên của 1954
không phải là của riêng giai cấp vô sản mà của toàn dân. Ai là người
Việt Nam cũng có quyền chia phần hãnh diện. Nhưng hai cái chiến thắng
giả tạo là chiến thắng Tết Mậu Thân và chiến thăn 30/04/1975.
Ôi
cái Tết Mậu thân bỉ ổi đê hèn mà chúng mình đã chứng kiến, cái chiến
thắng ấy mới thê thảm làm sao. Chúng nó đã lùa vào thành phố một đám con
nít ngớ ngẩn, đường lối trong thành phố còn mù tịt, dù có cho phép đi
thong thả dạo chơi thì cũng lạc đường như
một lũ mán về thành, còn đánh đấm cái gì? Ông Tướng Trưởng đã gọi là
nhử cọp vào nhà, đóng cửa lại mà thọi. Ấy thế mà cũng huyênh hoang là
chiến thắng!
Tôi
nhớ là phải ngoảnh mặt đi, ói mửa khi thấy xe xúc đất, xúc từng tảng
xác chết đó đổ xuống một cái hố chôn tập thể ở đầu đường bay Tân Sơn
Nhất. Vài ba tháng sau còn có những các chết thối rữa trên trần nhà. Cứ
nghĩ tới là nguyền rủa. Thế mà là chiến thắng đấy. Anh Trương Chi đã hát
sai điệu.
Rồi
tới chiến thắng 30/04/1975. Đến bài hát này anh Trương Chi đã trình bày
giọng ca vô sản lên tới cái mức trơ trẽn và trâng tráo nhất. Trong một
bài Hồi ký kềnh càng của tên Đại úy Bùi Đức Nhung, tả chiến công tiến
chiếm dinh Độc Lập, đã tả rằng trên đường đi hắn đã mấy lần nhảy từ xe
Thiết giáp xuống hỏi thăm dân Sài Gòn đường đi tới dinh Độc Lập. Mẹ
kiếp, đường đi còn chưa rõ thế mà vẫn khoác lác là sửa soạn kỹ, nào là
tập lâu ngày bằng bản đồ với sa bàn. Chưa thấy đứa nào dối trá, láo xược
bằng cái thằng vô sản Trương Chi.
Có
chiến thắng là phải có xác chết. Bài ca mà chàng vô sản Trương Chi coi
là sở trường của chàng “Nghề của chàng” là bài ca Buôn Xác Chết. Cái gì
chứ xác chết mang đi buôn lời là cái chắc. Người ta đi buôn chỉ mong một
vốn bốn lời, nhưng đi buôn xác chết thì chẳng mất vốn, mà lời lại quá
kỹ, vậy thì muôn năm Bài Ca Xác Chết.
Chiến
thắng Điện Biên… Ôi nhiều
xác chết quá, tha hồ mà buôn. Kéo pháo qua núi qua đèo, một xu cơ giới
không có thì ta ca lên “Dốc núi cao nhưng lòng người quyết tâm của ta
còn cao hơn núi”. Một đám kéo pháo, một đám đun đít pháo một kéo một
đẩy. Cứ thế mà nhúc nhích. Nhưng đến lưng chừng dốc thì phựt một phát,
dây kéo pháo đứt. Chết mẹ mấy thằng đun đít pháo. Pháo thụt lùi. Mấy
thằng ở hai bên, trong lúc phản ứng cấp thời, nhảy vội sang bên cạnh để
cứu lấy mạng. Những thằng đứng giữa, nhảy về bên nào cũng kẹt, lại vướng
mấy thằng đứng ngoài. Lúc nhảy được thì lại đụng vào bánh xe pháo nên
bị cán lòi phèo, chì còn ngáp vài cái là thành ngay cái xác chết. A, có
xác chết rồi! Phải ca lên bản “Bài ca buôn xác chết”.
Đồng
chí nào đấy? A, đồng chí Tô Vĩnh Điện. Mấy anh nhà báo, nhà văn đâu?
Làm ngay bài ca tụng người anh hùng “Lấy thân chèn pháo”. Phổ biến ngay
tới các đơn vị, hành động anh hùng lấy thân chèn pháo, các đơn vị đang
làm nhiệm vụ kéo pháo phải học tập ngay buổi tối hôm nay. Đồng chi Tô
Vĩnh Điện, nhờ thành xác chết mà được bốc thơm hơi kỹ. Xong một Bài Ca
Buôn Xác Chết.
Ô
hô, bài ca buôn xác
chết ấy, một phát tên mà bắn trúng tới vài ba con chim. Đồng chí Tô
Vĩnh Điện có thành xác chết thì cũng khoái đến phải gật gù cái đầu. Các
đồng chí lãnh tụ cũng khoái, vì đã che lấp được cái bất cẩn của mình.
Chỉ cần một khúc gỗ chèn, nhích được tới đâu chèn ngay tới đó, thì dù
cho dây có đứt cũng chẳng đến nỗi. Hơn nữa, dây nhợ ra sao phải kiểm
soát chứ, để cho nửa chừng đứt gánh, trách nhiệm đó về ai?
Xác
chết mà buôn được thì một phần thân thể mà chết đi cũng có thể mà
buôn được. Đồng chí La Văn Cầu trong lúc xung phong, bị đạn, gãy một
cánh tay, thấy cánh tay gãy lủng lẳng vướng víu, đồng chí vừa rút mã
tấu, chặt phăng cái tay gẫy rồi tiếp tục xung phong. Bài ca Buôn Cánh
Tay Chết ca lên nghe cũng hay hay. Đồng chí La Văn Cầu được yết kiến Hồ
Chủ Tịch và được Bác tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Bài
ca này khi được mang ra học tập tại lớp Học Tập Ba Ngày, mở ra sau này,
đã được một anh đội Ngụy bổ túc thêm cho một đoạn.
Khi
được yết kiến Bác, đồng chí La Văn Cầu cứ thắc mắc về cái Huân chương
Kháng chiến hạng nhì. Đồng chí nói với Bác là nếu đồng chí chặt cả hai
cánh tay thì đồng chí có bắt được cái hạng nhất không? Bác gật đầu. Ấy
thế là đồng chí đã dũng cảm xuống ngay dưới bếp của Bác, vớ con dao phay
chặt phăng cánh tay còn lại Cả lớp học tập ấy đã vỗ tay hoan hô đồng
chí La Văn Cầu quá xá cỡ.
Nhưng
khi ra khỏi lớp học anh Cai Dù Ngụy hỏi anh Đội Ngụy rằng làm sao mà
đồng chí La Văn Cầu lại tự chặt được cánh tay còn lại, thì được trả lời
bằng những tiếng cười hì hì xỏ lá…
Chiến
thắng Tết Mậu Thân. Cái chiến thắng này thì nhiều xác chết thật đấy
nhưng vì nó gấp quá, quen thuộc quá với dân Thành phố miền Nam, nên
chàng vô sản Trương Chi không
đủ can đảm trâng tráo trơ trẽn để mà ngồi xổm bài tiết ra những bài ca
Buôn Xác Chết. Đành phải nhai lại cái xác chết Nguyễn Văn Trỗi. Nhưng
cái xác chết này đã từng ngâm mình ở con sông dưới cầu Công Lý, tục gọi
là Bến Tắm Ngựa, nên có vẻ hơi nặng mùi. Chiến thắng Tết Mậu Thân thành
ra vắng Bài Ca Buôn Xác Chết.
Rồi
tới chiến thắng 30/04/1975. Cái chiến thắng này thì lại khác hẳn, vì
không có xác chết. Thì nào có đánh đấm cái mẹ gì đâu mà có xác chết? Ở
cái chỗ nào cũng vậy, thường là sau khi kết thúc một trận chiến,
lại bày ra một cảnh đổ vỡ tan hoang, nhiều khi không còn viên gạch nào
nguyên vẹn. Nhưng mà ở đây không sứt mẻ, không sây sứt môt tí tẹo nào.
Như vậy thì sao gọi là cuộc chiến đã kết thúc?
Đường
số 1 không gãy một cây cầu! Mấy con đường xe cộ vẫn chạy phom phom,
không môt khúc nào bị cắt đứt. Cả một thành phố Sàigòn chỉ đổ có cái
cổng dinh Độc lập vì cái thằng lái xe thiết giáp loạng quạng, ra cái
điều hách dịch phách lối, húc đánh rầm một phát. Nếu nó ngừng tại chỗ
cho người ta mở cổng, rồi đi vào thơ thới hân hoan,
thì Sài Gòn sẽ được tiếng là còn nguyên si, chưa rụng một cái sợi lông
sợi tóc.
Ấy
cũng chỉ vì không có xác chết mà Đại thắng mùa Xuân đâm ra táo bón bài
ca Buôn Xác Chết. Nhưng chàng vô sản Trương Chi nổi danh về tài hót, đâu
có chịu? Thì vẫn có cái xác chết nằm chình ình ra đấy thôi? Không còn
xác chết nào để buôn, thì chúng buôn xác ông già. Nào, một, hai, ba, ta
đồng ca:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng,
Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng (…)
Ngày
chiến thắng ấy có huy hoàng hay
không, thỉ tôi sẽ viết trong truyện ký “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai”.
Tôi viết đã được một trăm trang. Có một điều lạ là càng viết thì đầu óc
lại càng sáng tỏ ra nhiều vấn đề. Những ngày đầu tháng 5 của năm 1975,
tôi cực kỳ oán hận những kẻ đã để tôi ở lại đây. Phương tiện của Cờ Hoa
năm 1975, có thể nói gấp ngàn lần phương tiện của Tây năm 1954. Năm
1954, Tây còn mang đi được môt triệu người. Ấy vậy mà năm 1975… đạp lên
nhau mà đi, bước lên xác nhau mà đi, con số chắc cũng chỉ tới trăm ngàn.
Trong một lúc quá chán nản, tôi làm một bài thơ thân phận:
Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh
Một vàn cờ thua ngã chổng kềnh
Bạn đỏ thiết tha mà dứt bạn
Tình vàng phụ bạc vẫn theo tình.
Tương lai trước mặt sao mù mịt
Dĩ vãng sau lưng lại bấp bênh
Trở giấc sao mình thao thức mãi
Quanh mình
bóng tối cứ mông mênh.
Rồi
tiếp theo là mấy năm đi học cải tạo. Trong nhiều lúc chán đời chỉ muốn
chết. Nhìn gần thì nhìn thấy mình và người chung quanh cứ mòn mỏi, cùn
rỉ để rồi dần dần gục xuống. Nhìn xa thì thấy tương lai miền Nam đi tới
chỗ diệt chủng. Những thằng đàn ông có khả năng đẻ đái thì bị nhốt hết
trong trại học tập cải tạo, còn sót lại thằng nào ở bên ngoài, thì lại
được khuyến khích bằng sự hạn chế sinh đẻ. Hơn nữa cái chính sách lương
bổng thật tồi tệ. Cha mẹ không nuôi nổi con cái, con cái
không nuôi nổi cha mẹ, anh em không nâng đỡ nổi nhau thì đẻ thêm làm
cái gì?
Khi ra khỏi trại học tập cải tạo, gặp thằng Công tử con bà Cả Đọi. Hắn tả cảnh cực khổ của hắn và đọc cho tôi nghe bài Cực Tả:
Cửa đóng màn che đã mấy thu
Đời tàn ngõ hẹp sống như tù
Quẩn quanh họp lại thiền Đông Độ
Vào ra luyện mãi phép Tây Du
Rầu rĩ Giáng Tiên ngồi gãi háng
Nẫu nà Từ Thức đúng xoa khu
Ăn chỉ tương cà, chê thịt cá
Sống chẳng tu hành cũng quá tu.
Tôi
lại càng buồn, mẹ kiếp! Đông độ với Tây du. Nước Mỹ với nước Tây thì
cũng chán mớ đời. Tôi hoạ lại bài thơ ấy bằng bài Quân Tán, nghĩa là Tan
hàng:
Quân tán còn chi xuất với thu
Thong dong thì cũng xác thân tù
Hữu tật cam đành câu bất dụng
Vô tài nên chịu tiếng nan du.
Những tuởng khoan hồng anh hạ bộ
Nào ngờ mắc bẫy chú Xuân Khu
Chung cuộc vài năm cầm cán cuốc.
Tu đọi, tu huyền ấy cũng tu.
oo0oo
Anh cứ nhớ rằng lúc nào anh em chúng mình làm thơ Đường, ấy là lúc buồn
và cũng rất chán đời.
Nhưng
từ lúc viết bài “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” thì tôi phấn khởi hẳn
lên. Nghĩ tới ngày đầu tiên Mị Nương gặp Trương Chi là tôi nhớ tới cả
một cuốn phim dĩ vãng của những ngày đầu tháng Năm lịch sử. Nàng Mị
Nương và chàng Truơng Chi hẳn
cũng đã xảy ra chuyện “Ngôn ngữ bất đồng”. Tôi cười một mình, nhớ tới
mẩu đối thoại
giữa cô bán thuốc lá ở trước cửa nhà và một anh bộ đội
- Bán cho tôi bao thuốc ná.
- Dạ anh mua thuốc nào?
- Không
bán cho tôi bao thuốc ná?
- Dạ anh mua thuốc nào?
Tiếng gắt gỏng:
- Cái cô này nạ chửa. Người ta mua thuốc ná mà nại
cứ hỏi người ta mua thuốc nào.
Giọng trả lời vẫn dịu dàng:
- Dạ thì tôi hỏi anh mua thuốc nào? Thuốc Ru by, thuốc Cáp tăng hay thuốc Bát tô?
Ngôn
ngữ bất đồng là thế đấy. Khu nhà
tôi ở bên kia cầu chữ Y, nên sau ngày 30/04/1975, quanh nhà thật đông
bộ đội. Cô nhỏ người làm nhà tôi đã biểu diễn một bộ mặt ngớ ngẩn khi
một anh bộ đội tới hỏi mượn một cái bàn nà hay mượn một cái phễu. Tôi
phải nhắc nó đưa anh ta mượn cái bàn ủi hay cái quặng, lúc đó nó mới à
lên một tiếng tự nhiên.

Vẫn ngồi xổm (Việt Nam, thế kỷ XXI)
Buổi
sáng buổi chiều là những lúc nhàn rỗi của mấy anh bộ đội. Những anh
chàng này ít đi chơi vì Sài Gòn đối với mấy chàng chẳng có gì hấp dẫn.
Đường phố thì dài dằng dặc. Đi bộ thì mỏi chân. Vượt Trường Sơn thì được
nhưng đi bộ trên đường phố Sài Gòn thì các chàng lại chê. Vài chàng may
mắn gặp được người quen hay bà con họ hàng Di cư vào đây năm 1954 nhưng
họ cũng chỉ cho ăn vài bữa cơm rồi cũng lơ là. Bởi vậy các chàng không
còn thú
vui gì chỉ ngồi xúm lại với nhau tán gẫu. Cái lối ngồi của mấy chàng
cũng lạ. Chúng mình
thì ngồi bệt xuống, đặt cái mông xuống hè cho nó thoải máì, thằng nào
muốn sạch thì lót cái khăn mùi xoa hay tờ giấy báo. Nhưng mấy chàng thì
ngồi ở cái thế mà chúng ta hay biểu diễn ở những lúc ta ở trong cầu
tiêu. Cứ ngồi xổm như thế mà nói chuyện râm ran, cả mấy giờ đồng hồ.
Sáng, trưa chiều lúc nào cũng có vài ba chàng hay đông hơn nữa ngồi ở
đầu hè nói chuyện với nhau. Cứ ở tư thế “Ngồi nước lụt”. Đứa cháu gái
lớn một hôm ngồi ngắm các anh chàng rồi bảo tôi:
- Sấm, sấm rồi bố ạ!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Thế nào mà lại là sấm?
Thì bố vẫn giảng cho con nghe những bài thơ, những câu phong dao tục ngữ không có tác giả
đọc lên tối nghĩa một chút, không chừng là sấm. Như câu “Hết quan tàn dân, thu quân bán ruộng”. Như câu …
- Rồi, rồi, nhưng cô định cho câu nào là sấm đây?
Con bé ra mặt nghiêm trang:
- Con nghĩ tới bài thơ con cóc “Con cóc trong hang, con cóc nhảy
ra. Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó. Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi”.
Mới
đầu con cứ thắc mắc mãi về con cóc, không hiểu rằng con cóc ám chỉ cái
gì. Bây giờ nhìn mấy đứa kia nó ngồi chồm hổm, mới thấy y như hệt con
cóc. Bố thấy chúng nó có giống con cóc hay không?
Tôi
không trả lời đứa con gái
nhưng trong lòng như ngầm đồng ý. Cũng như tôi đã mắng chúng nó khi
chúng nó trả lời những câu trêu chọc mấy chàng bộ đội bằng câu ca dao:
Khoai lang chấm muối ăn bùi
Lấy chồng bộ đội lấy cùi sướng
hơn.
Tôi
mắng nhưng trong lòng hả hê. Ừ, có thể là sấm thật đấy. Và bây giờ khi
viết truyện ký “Khi chàng Trương Chi đẹp trai” tôi đã gọi ngày
30/04/1975 là ngày đại thắng.
Đã
là ngày
đại thắng
thì chỉ nên luận công mà không luận tội. Người Mỹ đã tạo nên ngày
30/04/1975, cũng như ông Thừa tướng đã tạo nên ngày Mị nương gặp Trương
Chi. Ôi, cả công lao tuyên truyền, cả một hệ thống tư tưởng từ Nam chí
Bắc, xụp đổ thảm thương. Đi xe đò từ Bắc vào Nam, cứ tới Quảng Trị người
dân miền Bắc yên trí là cái mông đít không còn bị hành hạ. Vào tới
trong Sài Gòn nhiều kẻ đã ở lại, không muốn về, đấy là bây giờ còn kém
trước quá xa.
Công
của ông Thiệu sửa soạn cho ngày 30/04/1975
cũng quá
lớn. Nhất là cái chương trình “Người cày có ruộng”. Mua lại ruộng đất
của điền chủ, rồi phát không cho Nông dân mỗi người ba mẫu với bằng
khoán cẩn thận, ông Thiệu đã bẻ gãy cái liềm trên lá cờ có cái liềm cây
búa. Lại còn Ngân hàng Quốc gia Nông tín Cuộc cho nông dân vay tiền mua
máy cày, máy bơm nước tới mùa thì trả. Không trả được thì khất lại. Cả
một chính sách cải cách ruộng đất mà những anh chàng vô sản rất lấy làm
hãnh diện, ấy thế là… đi đoong. Thâm độc hơn nữa là cái vụ cấy lúa Thần
Nông. Cái thứ lúa ngắn này phải cần bón phân cho nhiều. Mà lại phải là
phân hóa học nhập cảng. Thì có chi lạ. Muốn chóng lớn thì phải ăn nhiều.
Thấy lúa ngắn ngày, mấy chàng “Cứ tưởng bở “mang ngay về Bắc làm giống,
huênh
hoang khoác lác quá xá, để rồi mấy năm mất mùa và cho tới nay phải trở
lại cày cấy hai vụ Chiêm mùa…Thật là thâm quá mà độc cũng quá là độc.
Lại sắp tới ngày 30 tháng Tư.
Từ 1975 đến 1982, đối với mọi người kể cả tôi, cũng đã gọi là quá
dài.
Mấy
thằng Tây thất bại vì đã trở lại sớm quá. Chín năm kháng chiến chống
Tây, chúng nó đã có thật đông chính nghĩa. Nhưng rồi sau chín năm? Và
tới bây giờ Trương Chi đã thật sự xấu xí. Mặt nạ chính nghĩa rơi rớt tơi
tả.
Anh
nói với bằng hữu, làm gì đi chứ? Chia rẽ làm chi, tội
nghiệp quá đi thôi!
Đoàn kết không phải là tôi đi theo anh hay là anh đi theo tôi. Đoàn kết
là phải dẹp bỏ hết mọi tị hiềm, xung khắc để cùng chung lo việc cấp
bách trước mặt là … Phục Quốc.
Rất thân chào Anh
Lão
Húc
VHP chuyển