Tham Khảo
Nhật, Pháp đưa ra những bằng chứng công nhận Hoàng sa, Trường Sa của VN
Trong thế chiến thứ 2, Nhật có một thời gian khá lâu ở VN. Hai nước này có nhiều bằng chứng cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của VN.
Việt nam là thuộc địa của Pháp.
Trong thế chiến thứ 2, Nhật có một thời gian khá lâu ở VN. Hai nước này
có nhiều bằng chứng cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của
VN.
Về tính liên tục của sự chiếm hữu thực sự, Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra
một số mốc lịch sử hết sức cụ thể, có ý nghĩa: Với tư cách là đại diện
Nhà nước Việt Nam về đối ngoại trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của
Pháp, Cộng hòa Pháp đã tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo Hiệp ước Patenotre năm 1884, Chính quyền thuộc địa Pháp đã tiến
hành các hoạt động đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong việc tiếp tục
bảo vệ, quản lý và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cụ thể, sau một thời gian tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát tại thực
địa của các nhà khoa học và những cuộc trao đổi giữa những chính khách
Pháp có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, ngày
8/3/1925, Toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố khẳng định, quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận lãnh thổ thuộc địa của Pháp.
Ngày 19/3/1926, Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa cho Công ty Phosphat của Bắc Kỳ.
Ngày 13/4/1930, Thông báo hạm Malicieuse do thuyền trưởng De Lattre điều
khiển ra quần đảo Trường Sa theo chỉ thị của Toàn quyền Đông Dương dựng
bia chủ quyền, đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo, đá, bãi phụ thuộc.
Ngày 23/9/1930, Chính phủ Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường
quốc về sự kiện đóng giữ quần đảo Trường Sa theo đúng thủ tục.
Ngày 31/12/1930, Phòng Đối ngoại Phủ Toàn quyền Đông Dương gửi báo cáo
lên Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp về những hoạt động đóng giữ
đảo Trường Sa và các đảo phụ cận, cũng như các tư liệu khảo cứu về pháp
lý bảo vệ cho sự kiện đóng giữ này.
Ngày 4/1/1932, Chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công sứ Trung Quốc tại
Paris khẳng định chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và đề nghị giải
quyết tranh chấp thông qua đàm phán hữu nghị hoặc bằng phương thức trọng
tài quốc tế. Trung Quốc từ chối đề nghị này.
Ngày 18/2/1937, Pháp lại chính thức yêu cầu Trung Quốc áp dụng phương
thức trọng tài quốc tế để xác định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa; Trung
Quốc lại khước từ.
Ngày 26/11/1937, Pháp phái kỹ sư trưởng J. Gauthier ra Hoàng Sa để
nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ,
nghiên cứu các điều kiện định cư ở quần đảo này.
Năm 1938, Pháp phái các đơn vị Bảo an đến đồn trú trên các đảo và xây
dựng một hải đăng, một trạm khí tượng được Tổ chức Khí tượng Thế giới
cho đăng ký với số hiệu là 48859 ở đảo Phú Lâm, một trạm vô tuyến điện
TSF trên đảo Hoàng Sa.
Ngày 15/6/1938, Pháp xây xong trạm khí tượng ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa.
Ngày 30/3/1938, vua Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi trước đây.
Ngày 15/6/1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brevie ký Nghị định 156-S-V
thành lập đơn vị hành chính cho quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Tháng 6/1938, một đơn vị lính Bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại
quần đảo Hoàng Sa. Một bia chủ quyền đã được dựng tại đảo Hoàng Sa có
khắc dòng chữ: “Republique Francaise-Empire d’Annam-Achipel de Paracel
1816-Ile de Pattle 1938”.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản tuyên bố sáp nhập các
quần đảo trong Biển Đông vào các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng.
Ngày 4/4/1939, Chính phủ Pháp gửi Công hàm phản đối các quyết định nói
trên của Nhật và bảo lưu quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Ngày 15/8/1945, Nhật thua trận phải rút khỏi Đông Dương và
ngày 26/8/1945, quân đội Nhật phải rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Sau khi Nhật rút đi, mở ra một thời kỳ mới vô cùng phức tạp.
Tiến sĩ Trục cho biết, trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946, đầu năm
1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2/9/1945, không còn ràng
buộc vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp cho rằng, theo Hiệp định Sơ
bộ ngày 6/3/1946, Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn nằm trong khối Liên
hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp nên Pháp có nhiệm vụ thực thi
quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền
của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Hiệp định ngày 8/3/1949, Pháp dựng lên chính quyền thân Pháp, gọi
là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu. Tuy nhiên, trong
thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, trong đó có hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng trong năm 1949, Tổ chức Khí tượng Thế giới đã chấp nhận đơn xin
đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới:
Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860, Trạm Ba Bình số
48419.
Ngày 14/10/1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn
giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.
Từ ngày 5/9 đến ngày 8/9/1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51
nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng
ngày 5/9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận, hội nghị đã bác bỏ đề nghị
của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự
thảo Hòa ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND
Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam.
Ngày 7/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt
Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị này
có bình luận gì về tuyên bố này.
Ngày 8/9/1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước
đã ghi rõ: “Nhật Bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với
các quần đảo Paracel và Sprathly” (khoản f).
FFNgày 20/7/1954, Hiệp định Geneve được ký kết đã công nhận một nước có
nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Điều 1 của Hiệp
định đã quy định lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến tạm thời
để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam.
Giới tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ
biển ra ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm
dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt
Nam.
Tháng 4/1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội
Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, đã ra tiếp quản nhóm
phía Tây quần đảo Hoàng Sa.Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc tiến hành vào thời điểm
giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối.
Ngày 24/5 và 8/6/1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn
mạnh, quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một
phần của Việt Nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt
Nam.
Ngày 13/7/1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Từ ngày 17/1 đến 20/1/1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đánh
chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Trên mặt trận ngoại giao, Việt
Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liên hợp quốc và cộng
đồng quốc tế.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiện này.
(Nguyen Van Mui’s blog)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Nhật, Pháp đưa ra những bằng chứng công nhận Hoàng sa, Trường Sa của VN
Trong thế chiến thứ 2, Nhật có một thời gian khá lâu ở VN. Hai nước này có nhiều bằng chứng cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của VN.
Việt nam là thuộc địa của Pháp.
Trong thế chiến thứ 2, Nhật có một thời gian khá lâu ở VN. Hai nước này
có nhiều bằng chứng cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của
VN.
Về tính liên tục của sự chiếm hữu thực sự, Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra
một số mốc lịch sử hết sức cụ thể, có ý nghĩa: Với tư cách là đại diện
Nhà nước Việt Nam về đối ngoại trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của
Pháp, Cộng hòa Pháp đã tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo Hiệp ước Patenotre năm 1884, Chính quyền thuộc địa Pháp đã tiến
hành các hoạt động đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong việc tiếp tục
bảo vệ, quản lý và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cụ thể, sau một thời gian tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát tại thực
địa của các nhà khoa học và những cuộc trao đổi giữa những chính khách
Pháp có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, ngày
8/3/1925, Toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố khẳng định, quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận lãnh thổ thuộc địa của Pháp.
Ngày 19/3/1926, Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa cho Công ty Phosphat của Bắc Kỳ.
Ngày 13/4/1930, Thông báo hạm Malicieuse do thuyền trưởng De Lattre điều
khiển ra quần đảo Trường Sa theo chỉ thị của Toàn quyền Đông Dương dựng
bia chủ quyền, đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo, đá, bãi phụ thuộc.
Ngày 23/9/1930, Chính phủ Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường
quốc về sự kiện đóng giữ quần đảo Trường Sa theo đúng thủ tục.
Ngày 31/12/1930, Phòng Đối ngoại Phủ Toàn quyền Đông Dương gửi báo cáo
lên Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp về những hoạt động đóng giữ
đảo Trường Sa và các đảo phụ cận, cũng như các tư liệu khảo cứu về pháp
lý bảo vệ cho sự kiện đóng giữ này.
Ngày 4/1/1932, Chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công sứ Trung Quốc tại
Paris khẳng định chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và đề nghị giải
quyết tranh chấp thông qua đàm phán hữu nghị hoặc bằng phương thức trọng
tài quốc tế. Trung Quốc từ chối đề nghị này.
Ngày 18/2/1937, Pháp lại chính thức yêu cầu Trung Quốc áp dụng phương
thức trọng tài quốc tế để xác định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa; Trung
Quốc lại khước từ.
Ngày 26/11/1937, Pháp phái kỹ sư trưởng J. Gauthier ra Hoàng Sa để
nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ,
nghiên cứu các điều kiện định cư ở quần đảo này.
Năm 1938, Pháp phái các đơn vị Bảo an đến đồn trú trên các đảo và xây
dựng một hải đăng, một trạm khí tượng được Tổ chức Khí tượng Thế giới
cho đăng ký với số hiệu là 48859 ở đảo Phú Lâm, một trạm vô tuyến điện
TSF trên đảo Hoàng Sa.
Ngày 15/6/1938, Pháp xây xong trạm khí tượng ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa.
Ngày 30/3/1938, vua Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi trước đây.
Ngày 15/6/1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brevie ký Nghị định 156-S-V
thành lập đơn vị hành chính cho quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Tháng 6/1938, một đơn vị lính Bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại
quần đảo Hoàng Sa. Một bia chủ quyền đã được dựng tại đảo Hoàng Sa có
khắc dòng chữ: “Republique Francaise-Empire d’Annam-Achipel de Paracel
1816-Ile de Pattle 1938”.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản tuyên bố sáp nhập các
quần đảo trong Biển Đông vào các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng.
Ngày 4/4/1939, Chính phủ Pháp gửi Công hàm phản đối các quyết định nói
trên của Nhật và bảo lưu quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Ngày 15/8/1945, Nhật thua trận phải rút khỏi Đông Dương và
ngày 26/8/1945, quân đội Nhật phải rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Sau khi Nhật rút đi, mở ra một thời kỳ mới vô cùng phức tạp.
Tiến sĩ Trục cho biết, trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946, đầu năm
1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2/9/1945, không còn ràng
buộc vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp cho rằng, theo Hiệp định Sơ
bộ ngày 6/3/1946, Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn nằm trong khối Liên
hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp nên Pháp có nhiệm vụ thực thi
quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền
của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Hiệp định ngày 8/3/1949, Pháp dựng lên chính quyền thân Pháp, gọi
là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu. Tuy nhiên, trong
thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, trong đó có hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng trong năm 1949, Tổ chức Khí tượng Thế giới đã chấp nhận đơn xin
đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới:
Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860, Trạm Ba Bình số
48419.
Ngày 14/10/1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn
giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.
Từ ngày 5/9 đến ngày 8/9/1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51
nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng
ngày 5/9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận, hội nghị đã bác bỏ đề nghị
của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự
thảo Hòa ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND
Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam.
Ngày 7/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt
Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị này
có bình luận gì về tuyên bố này.
Ngày 8/9/1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước
đã ghi rõ: “Nhật Bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với
các quần đảo Paracel và Sprathly” (khoản f).
FFNgày 20/7/1954, Hiệp định Geneve được ký kết đã công nhận một nước có
nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Điều 1 của Hiệp
định đã quy định lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến tạm thời
để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam.
Giới tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ
biển ra ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm
dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt
Nam.
Tháng 4/1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội
Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, đã ra tiếp quản nhóm
phía Tây quần đảo Hoàng Sa.Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc tiến hành vào thời điểm
giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối.
Ngày 24/5 và 8/6/1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn
mạnh, quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một
phần của Việt Nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt
Nam.
Ngày 13/7/1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Từ ngày 17/1 đến 20/1/1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đánh
chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Trên mặt trận ngoại giao, Việt
Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liên hợp quốc và cộng
đồng quốc tế.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiện này.
(Nguyen Van Mui’s blog)