Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
PHI VỤ GIÃ BIỆT PHAN RANG
Hoàng thầm nghỉ, nếu đã ra đi trốn chạy mà còn quay lại nhà, hậu quả khó lường được, ngày hôm sau tức 16 tháng 4 năm 1975, thành phố PhanRang đã bỏ ngõ và gia đình Hoàng chắc chắc phải lãnh hình phạt nặng nề
Kính thưa quý niên trưởng & các bạn cựu phi đoàn Tinh Long và gia đình,
Bài
viết “Phi vụ giả từ Phan Rang” chỉ là một kỷ niệm trong quá khứ được tác
giả hốt nhiên hồi tưởng! Thiết nghỉ, thời gian qua đã bào mòn phần
nào của trí nhớ nên câu chuyện ký ức thời chinh chiến trước năm 1975 cũng
không tránh những sơ suất, nhầm lẫn, nhất là những chi tiết, tên họ bạn
bè, đơn vị… Kính xin các bậc niên trưởng, bạn bè vui lòng tha thứ!
Sinh Tồn chuyển
Kính thưa quý niên trưởng & các bạn cựu phi đoàn Tinh Long và gia đình,
Tháng
3 năm 1975 cuộc chiến Việt Nam đã trở nên khốc liệt! Cộng Sản Bắc Việt
đã vi phạm hiệp định Paris, quân đội họ đã được Nga xô và Trung cộng
viện trợ tiếp liệu đầy đủ vũ khí tối tân, đạn dược, tiếp liệu dư thừa ,
tràn qua vĩ tuyến 17, mở ra nhiều mặt trận lớn hướng Tây, hướng Bắc...
tiến chiếm lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Trong khi đó quân đội Việt Nam
Cộng Hòa đã bị đồng minh Mỹ cắt gần hết viện trợ, quân viện. Chính phủ
Mỹ
đã thỏa thuận ngầm bỏ rơi phần đất miền Nam Việt cho Cộng Sản Hà Nội!
Do đó quân đội Việt Nam cộng Hòa đành phải tháo lui, di tản chiến
thuật về
phương Nam....
Bài viết PHI VỤ GIÃ BIỆT PHAN RANG, do DANNY TRÌNH, một trong
những câu chuyện thương tâm của quân dân cán chính miềm Nam Việt nam
trên bước đường máu và nước mắt bi thương lánh nạn Cộng Sản về phương
Nam tự do.
Kính mời quí niên trưởng và các chiến hữu Tinh Long và gia đình đọc lại nhân mùa đau thương THÁNG TƯ ĐEN 1975 sắp đến,
Xin một nén nhang lòng cho tất cả quân nhân cán chính VNCH đã tử nạn trên bước đường di tản, tìm tự do!
Tinh Long Trình Đế Đáng
PHI VỤ GIÃ BIỆT PHAN RANG
PHAN RANG, NGÀY 15 THÁNG 4 NĂM 1975
Đã
37 năm trôi qua, lịch sử đất nước Việt Nam đã sang trang, vết thương
quá khứ đã lui dần vào dĩ vãng theo những thăng trầm trong cuộc sống ly
hương của người Việt tị nạn Cộng Sản. Tuy nhiên mỗi năm khi tháng Tư về
trên đất tạm dung, tiểu bang California, Hoa Kỳ, tâm trí Hoàng không thể
quên được cảm giác chia tay vĩnh biệt người thân gia đình, thành phố
Phan Rang gió cát, đầy ắp kỷ niệm thời niên thiếu và vùng trời khói lửa
của một thời chinh chiến xa xưa.
Hồi tưởng những năm tháng trong chiến tranh, nhất là đầu tháng Tư năm
1975, biệt đội máy bay vận tải chiến đấu AC 119K của phi đoàn 821 từ phi
trường Đà Nẵng đã phải di tản rút lui về căn cứ Phù Cát, Qui Nhơn; sau
đó lại di tản về căn cứ Không quân Phan Rang để tiếp tục yểm trợ chiến
trường vùng II chiến thuật. Cứ mỗi lần rút lui, Hoàng lại phải chứng
kiến sự hỗn độn, chen lấn xô đẩy của các đồng đội thuộc nhiều binh chủng
Bộ binh và Không quân có sự vụ lệnh di tản hoặc không có, và thêm vào
đó gia đình các nhân viên, thân nhân bạn bè dân sự ùa nhau tràn lên máy
bay để mong được đưa về Sàigòn. Tại căn cứ không
quân Đà Nẳng, Hoàng đã chở gần 70- 80 người tràn lên thân tàu bao gồm
quân đội và già trẻ lớn bé dân sự chen chúc trong thân máy bay. Hoàng là
trưởng phi cơ (Aircraft Commander), người chịu trách nhiệm lái chuyến
bay này về Sàigòn. Loại máy bay vận tải quân sự chiến đấu không cho
phép chở hành khách, trên máy bay chỉ trang bị súng đạn vũ khí với trọng
lượng cho phép, nên không thể chở thêm người. Hoàng đã cẩn thận không
thông báo cho ai biết về phi vụ đem chiếc AC 119K trở về Sàigòn; thế mà
khi phi hành đoàn ra phi cơ để nổ máy, Hoàng ngẩn người thấy vô số hành
khách không giấy mời đã ngồi đầy hết trên máy bay. Mặc kệ những lời năn
nỉ, giải thích của Hoàng, các thân nhân già trẻ lớn bé dân sự, các
người lính chiến, bao
gồm binh chủng nhảy dù, thiết giáp... ngay cả những vị cấp bậc quân đội
cao hơn Hoàng, cũng im lặng thản nhiên không rời phi cơ khiến Hoàng
đành phải uống “thuốc liều.” Máy bay đã quá trọng lượng, Hoàng đạp chân
thắng, bật nút điện mở hết ga (full throttle) động cơ phản lực, rồi
buông chân thắng (brake), giữ cho máy bay lao thẳng về phía trước. Bình
thường, khi máy bay đạt đến 80 knots, (khoảng 140 miles) Hoàng bắt đầu
nâng hai cánh cao lên nhưng lần này Hoàng phải cho chạy dài hơn 2/3 phi
đạo với tốc độ 100 knots, rồi mới nhấc cánh lên khỏi mặt đất. Chiếc máy
bay gầm gừ, nặng nề chậm rì từ từ rời khỏi phi đạo, chầm chậm lấy cao
độ, vượt qua hàng rào vòng đai phi trường. Cất cánh chậm rì bất thường
của chiếc máy bay đã làm
nhân viên đài kiểm soát không lưu bên dưới nhắc nhở nhiều lần quay trở
lại đáp khẩn cấp. Vì không thể bay cao bình thường trên 8000 feet nên
Hoàng vội lao ra phía biển, bay dọc bờ biển với độ cao 4500 feet (vào
khoảng hơn 1 cây số chiều cao). Với độ cao này, không thể bay trong đất
liền vì có thể trúng đạn súng phòng không của địch bắn lên và máy bay
cũng không thể vượt qua những đỉnh núi cao của dãy Trường sơn. Trong
trường hợp phải hạ cánh đáp khẩn cấp, Hoàng cũng có thể cho phi cơ hạ
thấp dọc theo bãi biển bằng phẳng, an toàn hơn phải hạ cánh trên mặt
đường hay trên ngọn cây, đồi núi gồ ghề nguy hiểm. Nhưng bay thấp hao
xăng. Bay cao trên 9000 hay 10,000 feet có thể tiết kiệm được nhiều
nhiên liệu, bay lâu, kéo dài thời gian bay được 4- 5
giờ. Hoàng tính nhẩm khoảng cách và tốc độ đang bay, chỉ vừa đủ xăng
bay về đến Sàigòn hoặc có thể bay vòng vòng chờ đợi (vì gặp quá đông phi
cơ dân sự quốc tế cũng xin đáp xuống phi trường cùng một lúc) trên bầu
trời Tân Sơn Nhất thêm 30 phút để được cho phép đáp. Cũng may, Hoàng đã
chuẩn bị trước cho phi vụ di tản này, chỉ đổ đầy xăng, không mang theo
đạn dược trên máy bay, nhưng nếu gặp tình huống xấu (quá trọng lượng)
Hoàng cũng có thể phóng (eject) các giàn phóng hỏa châu nặng nề xuống
biển để giảm trọng lượng phi cơ mà cứu nguy cho tất cả mọi người. Vì bay
với tốc độ chậm, bay cao độ thấp nên phi cơ về đến Tân Sơn Nhất trễ gần
1 tiếng đồng hồ. Hoàng thật hú hồn vì ngoài vấn đề an toàn, anh còn có
thể
bị ngồi tù vì lý do đã vi phạm phi vụ hành quân, vi phạm luật An phi
(an toàn khi bay), cấp chỉ huy có thể ký giấy phạt vài chục ngày trọng
cấm. Rất may mắn, trong chuyến bay này có rất nhiều thân nhân của các
sĩ quan cao cấp trong quân đội, nên thay vào đó Hoàng không bị phạt mà
còn nhận được tiếng cảm ơn rối rít từ những người di tản thoát nạn.
Hoàng
nhớ lại những năm tháng phục vụ tại đơn vị hành quân, Phi đoàn 821 trực
thuộc Sư đoàn 5 Không quân, Tân Sơn Nhất Sàigòn, gồm 24 chiếc máy bay
vận tải chiến đấu lớn, được trang bị hỏa lực bom đạn đại bác rất hùng
hậu, thiết bị bằng Radar hồng ngoại tuyến để quan sát rất rõ về đêm từ
một độ cao trên không trung, chức năng vận chuyển và bắn yểm trợ cho
quân bạn về ban đêm. Vì phải yểm trợ cho bốn vùng chiến thuật của miền
Nam Việt Nam, nên phi đoàn phải biệt phái một số nhân viên và máy bay đi
nơi khác để thi hành nhiệm vụ. Bốn phi hành đoàn (gồm 4 chiếc máy bay
và 10 nhân viên phi hành cho mỗi chiếc) ra căn cứ Đà Nẵng để yểm trợ
cho vùng I chiến thuật và bốn phi hành đoàn khác ở tại căn cứ Phù Cát,
Qui Nhơn để yểm trợ cho vùng II chiến thuật. Số nhân viên phi hành và máy
bay còn lại trong phi đoàn, phải bay yểm trợ cho vùng III và vùng IV
mỗi đêm. Do phải yểm trợ cho 4 vùng chiến thuật, nhân viên trong phi đoàn
phải thay nhau, luân phiên hoán chuyển mỗi tháng, lúc ở Đà Nẵng, khi
vềSàigòn, rồi lại ra căn cứ Phù Cát... Xoay vần khắp 4 vùng chiến thuật,
nên hầu hết các mặt trận lớn nhỏ nào trên mặt đất của các đơn vị bộ binh
An Lộc, ChơnThành, Lai Khê, Tống Lê Chân, Bình Long, Buôn Mê Thuộc,
Komtum, An lão,Khe Sanh, Đại Lộc, Non Nước Ngũ Hành Sơn, Bình Trị
Thiên... đều có mặt các nhân viên phi hành của phi đoàn 821 tham dự.
Hoàng
giống như một loài chim cánh sắt khổng lồ bay đêm, rày đây mai đó, có
những lúc phải bay vào đám mây đen đầy sấm chớp vì phải giữ đúng độ cao
trên không trung, gầm thét bởi tiếng động cơ phản lực, hiên ngang bay
vào vùng hỏa tuyến, ném những bom hỏa châu chiếu sáng soi rọi một góc
trời, rồi dùng súng đại bác liên thanh sáu nòng nhả đạn vào quân địch
đang tấn công đơn vị bạn phía dưới. Hoàng hăng say nghiêng cánh trái
nhắm vào mục tiêu dưới mặt đất ấn vào nút màu đỏ (Fire) tác xạ trên cần
lái điều khiển, tiếng đạn nổ rền vang như tiếng con Bò rống lên ù ụ... đã
làm thân máy bay trôi dạt lên cao, 4 khẩu súng mini gun 7.62 ly sáu nòng
quay tròn và
hai khẩu súng đại bác 6 nòng 20 ly đỏ rực do sức nóng như muốn cháy tan
thành sắt vụn. Theo lý thuyết, mỗi phút tự động có 6000 viên đạn 20 ly
được bắn ra và 24,000 viên đạn 7.62 ly bay đến chạm mục tiêu dưới đất
lại tiếp tục nổ thêm một lần nữa, nhờ đó, người phi công có thể kiểm
soát chính xác được mục tiêu mình vừa tác xạ. Từ không trung, Hoàng bấm
nút bắn xuống mục tiêu dưới mặt đất thật hứng khởi, khoái chí, tuy
nhiên, có những lúc giật mình hãi sợ, co rút đôi chân lại như một sự
phản xạ né tránh vì súng phòng không cao xạ của địch quân bắn lên tua
tủa nổ trên không trung như những pháo bông rực sáng quay quanh thân máy
bay. Những viên đạn vun vút bay nhanh trong không khí, tạo thành những
vệt sáng dài hướng về phía máy
bay khiến Hoàng phải hoảng hốt, toát mồ hôi lạnh né tránh. Anh xác định
mục tiêu của quân địch báo cho đơn vị pháo binh bạn hoặc anh bắn trả
trở lại, có khi gặp hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 của địch quân bắn lên bay
nhanh với tốc độ âm thanh (hơn hẳn mấy lần tốc độ chiếc máy bay AC 119k)
đang bay phía sau dò tìm sức nóng của động cơ mà chui vào phá hũy máy
bay. Nhờ có phi hành đoàn thường xuyên quan sát vào ban đêm nên Hoàng rất
dễ phát hiện kịp thời ánh lửa của hỏa tiễn bay vút bám theo chiếc phi cơ
và anh đã kịp thời nghiêng cánh quẹo gắt (nghiêng cánh hơn 45 độ), chao
lạn né tránh, rồi phóng tiếp những trái hỏa châu nổ nhanh ở phía sau đuôi
máy bay để dụ hỏa tiễn tầm nhiệt lao vào.
Có
những đêm bầu trời quang đãng, chiến sự bên dưới mặt đất yên tỉnh,
những
chuyến bay đêm ấy trở nên êm đềm, thơ mộng và bình an trong một phi vụ 4
giờ đồng hồ! Anh bay vòng vòng trên thủ đô Sàigòn, Chợ Lớn, Nhà bè,
Phú
Lâm... bao vùng trời, canh phòng người thân yêu đang yên giấc ở một nơi
nào đó, rất thú vị! Hoàng ngắm nhìn ánh đèn điện rực sáng của thành phố
bên dưới, dò tìm tên những đại lộ thân quen nơi có người yêu bé nhỏ đang
ôm gối mộng suy tư lo lắng những phi vụ hành quân đêm của chàng. Nhờ có
thiết bị Tia Hồng Ngoại tối tân trang bị trên phi cơ, Hoàng rất dễ nhận
diện ra các vị trí dưới mặt đất như căn nhà, đường
phố của người thân yêu vào ban đêm trên màn ảnh truyền hình trước mặt.
Hoàng thả hồn mộng mơ theo tiếng nhạc tình của các đài truyền thanh Việt
Nam, tiếng nói trầm ấm vuốt ve, âu yếm của người xướng ngôn chương trình
Dạ Lan dành cho người lính chiến. Bay trên độ cao 1000 hay 2000mét, ngồi
trong phòng lái rộng lớn tiện nghi dành cho người hoa tiêu, quan sát và
cơ khí phi hành, cảm thấy gió bên ngoài luồn vào rất lạnh mặc dù có máy
sưởi nóng khắp nơi trên phi cơ. Vì máy bay quân sự AC119K chiến đấu, các
khẩu súng đều thiết kế chĩa nòng súng ra bên ngoài phía trái phi cơ, nên
một số cửa lớn luôn luôn để trống thoáng. Phi vụ đêm, được nhìn ánh
trăng
sao sáng tỏ, lấp lánh trên bầu trời cao, Hoàng cảm thấy khoảng cách
không gian thật gần với
Chị Hằng và dãy Ngân hà. Ánh đèn thành phố lấp lánh bên dưới cũng thật
gần, ánh sao đêm phản chiếu dưới mặt đất như một tấm gương khổng lồ, làm
cho nhiều người phi công có những ảo giác hoa mắt, không phân biệt được
sự tiếp giáp giữa trời và đất, mất tự chủ và dễ dàng xảy ra tai nạn.
Nhất là khi người hoa tiêu có sức khỏe kém, thiếu nghĩ ngơi điều độ,
thiếu ngủ, uống nhiều rượu mạnh, uống các chất có gas trước khi lái máy
bay, hậu quả sẽ gây buồn ngủ, không kiểm soát được giác quan, dễ gây
tai
nạn. Mặc khác, nếu phi cơ trúng hỏa tiễn tầm nhiệt, đạn phòng không 37
ly của địch, hoặc phi cơ gặp phải tai nạn, tất cả số phận nhân viên phi
hành ấy như trong bài nhạc Không Quân hành khúc, “Không quân ra đi cánh
bay ngợp trời ù u u ú... và ra đi... không ai tìm xác rơi“. Thật
vậy, làm gì còn có cái xác nguyên vẹn của các người phi hành về với gia
đình, người thân, khi máy bay của họ đã nổ tung trên bầu trời khói lửa!
Mỗi lần thi hành phi vụ hành quân,Hoàng có cảm tưởng như đang ngồi trong
một chiếc quan tài, kề cận tử thần, 10nhân viên phi hành đoàn mà Hoàng
phải có trách nhiệm bảo vệ an toàn tính mạng của họ cho gia đình và người
thân. Ôi! Cùng bay chung với nhau trong một phi vụ hành quân, có lẽ họ
sẽ có chung định mệnh sống chết như nhau!
Hòang
đã chứng kiến những cảnh hỗn loạn của thành phố Đà Nẳng và căn cứ quân
sự một ngày trước khi thành phố Đà Nẳng hoàn toàn bỏ ngõ nên cũng biết
được phần nào sự tồi tệ ấy; nhưng khi xem truyền hình, đọc tin tức
tường thuật cảnh chạy loạn trên đường di tản, Hoàng không thể nào tưởng
tượng ra đượcvà cũng không cầm được nước mắt xót thương, trong đó có
bao nhiêu người thân, bạn bè cùng binh chủng, cùng khóa lái, những chiếc
trực thăng bé nhỏ còn kẹt lại căn cứ hay đã bỏ thây trên con đường di
tản. So với chuyện di tản thảm họa khỏi thành phố Đà Nẳng, Hòang còn cảm
giác thấm thía nhất vào ngày 15 tháng 4 năm 1975, ngày cuối
cùng di tản tại thành phố Phan Rang, chia tay người thân, bạn bè, rời
khỏi nơi chôn nhau cắt rún của mình, những quyết định dại khờ của tuổi
trẻ thiếu nhiều kinh nghiệm sống, tình cảm và lý trí đột phá, không am
tường chính trị... cảm giác ấy vẫn còn sâu đậm trong tâm trí dù đã hơn 37
năm lịch sử đất nước Việt Nam đã sang trang.
Tin
tức xấu về chiến sự cứ dồn dập mỗi ngày trong tháng 3 và 4, tin đồn tràn
lan gây hoang mang cho quần chúng đồng bào, nào là đã thỏa thuận nhừơng
đất cho Mặt Trận giải phóng Miền Nam từ vùng I đến vĩ tuyến thành phố Cam
Ranh, nên quân đội miền Nam phải kéo về án ngữ phòng tuyến Phan Rang.
Mấy tuần lễ qua, Hoàng bồn chồn lo lắng cho gia đình, tìm phương tiện di
tản gia đình về Sàigòn! Hằng ngày nhìn thấy nhiều chuyến bay phi cơ vận
tải của không đoàn 53 chở rất nhiều quân nhân và gia đình của họ từ Phù
Cát, Nha Trang về, làm cho Hoàng càng thêm hoang mang lolắng cho gia
đình mình. Đột nhiên, tại Tân Sơn Nhất, Hoàng thấy một số quân sĩ binh
chủng Nhảy dù
được phi cơ C130 chuyển ra để giữ lại thành phố thân yêu, nơi quê hương
Tổng Thống Thiệu. Nhiều người suy đoán Phan Rang không thể mất, hoặc dùng
để trao đổi với Công Sản miền Bắc, phòng tuyến Phan Rang phải được tập
trung nhiều hỏa lực để bảo vệ như bảo vệ chế độ chánh phủ Miền Nam hiện
tại. Nào ngờ, căn cứ Phan Rang bị pháo kích ngay trong đêm trước, biệt đội
AC 119K đã cất cánh truy tìm hỏa lực của địch, nhưng không may, trong
lúc vội vàng, hoảng hốt vì hỏa lực đạn pháo kích của Cộng quân rơi khắp
nơi trong căn cứ đã làm cho hai chiếc phi cơ AC119K trên đường di chuyển
va chạm nhau tạo một lỗ hổng rất lớn bên cánh trái, không còn cất
cánh yểm trợ được. Một trong 2 chiếc bị thiệt hại nặng không thể sửa chữa
được! Ngày
hôm sau, lệnh hành quân từ Sư đoàn 5 KQ, Không đoàn 53 chiến thuật bắt
buộc phi đoàn 821 phải đem chiếc máy bay hư hại nhẹ về lại Sàigòn, muốn
vậy, tại phi đoàn phải cử một toán phi hành ra sửa chữa, vá lại lỗ hổng
trên cánh trái máy bay, rồi lái về căn cứ Tân Sơn Nhất. Nghe nói ra
Phan Rang, sửa chữa chiếc máy bay hư và lái về lại Sài gòn, nhiều nhân viên
hoa tiêu phi hành trong phi đoànđã lẩn tránh và tìm cách từ chối vì có
nhiều nguyên do. Thứ nhất không an toàn khi lái, thứ hai dễ bị kẹt lại ở
Phan Rang và không còn phương tiện trở về Tân Sơn Nhất, kế đến tin đồn là
thành phố PhanRang đang hỗn loạn, sắp sửa có lệnh di tản nên không có
máy bay nào dám đáp xuống phi trường Phan Rang nữa. Tại căn cứ, Hoàng lại
thấy nhiều máy bay vận
tải C130 của Sư đoàn 5 Không quân trước đây còn chuyển nhiều tiểu đoàn
nhảy dù ra để bảo vệ Phan Rang, nay lại rút về Saigòn bảo vệ quân khu 3 và
thay vào đó, chở Biệt động quân ra thay thế. Tâm lý quần chúng hoang
mang và họ cho rằng binh chủng Nhảy dù thiện chiến hơn, còn Biệt động
quân làm sao sánh bằng, với lại thành phần tiểu đoàn Biệt động quân hỗn
tạp này lại mới được thành lập do các đơn vị di tản tan rã Biệt động tập
họp lại, nên không thể là thiện chiến. “Thôi rồi, không xong rồi,
Phan Rang lại thất thủ, bỏ ngõ, di tản nữa thôi,” Hoàng than thầm!
Phi đoàn 821 không có hoa tiêu chánh, trưởng phi cơ nào chịu ra Phan Rang
lái chiếc máy bay hư hại về lại nên đích thân trung tá phi đoàn trưởng
H.N. phải chọn phi hành đoàn. Ông chỉ đích danh Hoàng, quê quán PhanRang,
làm hoa tiêu phụ cho ông ta (Co-Pilot) và ông, Air Craft Commander phi
vụ này; tiếp đó, ông ta chọn thêm một cơ phi hạ sĩ quan giỏi về cơ khí
cận với ông và một trung sĩ áp tải lão luyện thâm niên (người phụ giúp
phía sau phòng lái). Hoàng rất vui mừng vì đây là cơ hội tốt, có dịp về
quê nhà để đón gia đình người thân vào Sàigòn vì nếu thành phố Phan Rang
bị thất thủ, rơi vào tay của Cộng Sản, cũng giống như vĩ tuyến 17 đã ngăn
chia
Miền Bắc và Nam mấy mươi năm, biết đến bao giờ gặp lại các người thân.
Phi hành đoàn gồm 4 người tháp tùng chuyến bay C 130 của phi đoàn vận tải
423, Không đoàn 53 chiến thuật Tân Sơn Nhất ra Phan Rang và nếu không thể
lái chiếc AC119k về được sẽ có các chuyến bay khác để chở họ về lại
Sàigòn cùng ngày. Vừa đáp xuống phi trường Phan Rang, Hoàng nói với trung
tá phi đoàn trưởng cho phép về thăm nhà để di tản gia đình vào Sàigòn,
ông trung tá vui vẻ bảo đi nhanh và hẹn giờ cất cánh vào 2 giờ chiều cùng
ngày. Nhìn chung quanh Hoàng thấy có rất nhiều sĩ quan và quân lính đủ
mọi binh chủng bu quanh chuyến máy bay vận tải quân sự sắp cất cánh và
ngạc nhiên khi nhìn thấy nhiều loại xe gắn máy ngã nghiêng bên bãi đất
trống cạnh các ụ máy bay (nơi có
mái che cho phi cơ). Hoàng đang loay hoay tìm phương tiện ra cổng chính
chợt thấy một lính không quân cơ hữu tại phi trưởng đến nói;
- Chào trung úy, em có chiếc Honda này đã đổ đầy xăng và trung úy muốn lấy chiếc nào cũng được, của thiên hạ bỏ lại naynhiều lắm!
- À, mà trung úy đi đâu?
- Tôi ra ngoài phố có chút việc rồi vào lái chiếc AC này về Sàigòn.
-
À! Trung úy đi cẩn thận, mấy hôm nay lộn xộn trong và ngoài căn cứ, do
nhiều người, dân sự và binh lính của các binh chủng từ ngoài vùng I, II
tràn vào căn cứ xin phương tiện về Sàigòn quá đông, nên không giải quyết
hết. Họ nổi loạn, nổ súng. Còn ngoài phố, cướp bóc tùm lum và nghe nói
quân đội đã tái lập trật tự được! Nhà em ở Sàigòn, khi nào trung úy vào
lại, cho em xin một chỗ về Sàigòn nhen!
- OK, cảm ơn, em cứ chờ đó!
Hoàng
leo lên chiếc Honda 67 màu đỏ còn mới mẻ, kiểm tra xăng nhớt đầy đủ, rú
ga phóng xe nhanh ra cổng chính. Cổng phi trường đóng kín và bên ngoài
một xe thiết giáp đang chĩa mũi súng về phía trước đường từ Tháp Chàm di
thẳng vào cổng. Họ sẵn sàng nổ súng nếu có lực lượng Cộng quân tràn vào
hay bất cứ một đơn vị loạn quân nào tràn vào phi trường. Hoàng được nhân
viên gác cổng hỏi han và dặn dò cẩn thận khi đi đường ra phố thị xã Tháp
Chàm và Phan Rang. Trước khi đáp xuống phi trường Phan Rang, Hoàng đã ghé
mắt qua cửa sổ nhìn xuống thành phố, làng mạc chung quanh, nhất là quê
nhà Dư Khánh. Một vài nơi vẫn còn khói bốc do các đám cháy, bầu không
khí
mù mù như sương mai chưa kịp tan biến, nơi đây vừa dập tắt được ngọn lửa
loạn lạc, hôi của, đốt nhà,cướp bóc của nhiều người tù thoát ngục, kẻ
xấu lợi dụng thời cơ, những người đồng đội thất chí, bất mãn trên đường
di tản, đám người nằm vùng thân Cộng Sản đang chuẩn bị cướp chánh
quyền... Hoàng lái xe vào thị xã Tháp Chàm và thấy hai bên phố nhiều nhà
cửa nẻo vẫn còn đóng kín, đường xá vắng vẻ, khuôn mặt những người đi
đường trông lo âu, sợ sệt, hấp tấp, vội vàng. Hoàng mặc bộ đồ bay màu
đen lái xe Honda trông có vẻ lạ lùng đối với người đi đường tò mò, sự
thật họ đang ái ngại cho Hoàng về số phận không may có thể xảy ra bất lúc
nào trên đường phố. Hoàng như người điếc không sợ súng, bất chấp nguy
hiểm đang rình rập, có thể gặp vài anh du kích phục kích dọc đường, có
thể gặp đơn vị Cộng Sản đã có mặt trên đường phố mà Hoàng không thể phân
biệt được. Hoàng ghé nhà người cậu ruột thứ Chín ở ngã ba khu Tam Giác
Phan Rang hỏi thăm tình hình dưới làng và thay đổi bộ đồ dân sự ngụy trang
đã mang theo trong túi xách để lái xe về dưới Nại. Vừa qua ngã ba Xóm
Bánh, gặp một toán Địa phương quân đang đứng nút chặn kiểm soát xe và
người qua lại. Hoàng dừng xe lại, xuất trình giấy tờ chứng minh, kéo túi
xách để họ nhìn thấy khẩu súng P-38 của Hoàngđang nằm đó, quân đội đang
về thăm nhà mà, không phải là Cộng Sản trá hình, giả mạo đâu. Hoàng
cũng không quên thăm hỏi đoạn đường từ làng Văn Sơn và Nại phía trước an
ninh ra
sao. Người lính địa phương kiểm soát ái ngại khuyên Hoàng cẩn thận trên
đường đi và cũng cho biết mấy ngày vừa qua, loạn lạc, cướp bóc đã xảy ra
nhiều nơi, và có thể gặp du kích CS phục kích dọc đường... Đường xá
Phan Rang - Nại vắng hoe, thỉnh thoảng có một hai chiếc xe Honda chạy nhanh
ngược chiều như vội vã về với gia đình. Hoàng về đến nhà khoảng 11 giờ
trưa, vừa thấy bóng dáng chàng, các người thân láng giềng chạy lại vồn vã
hỏi han tình hình chiến sự tới đâu rồi, có thỏa thuận, hiệp ước nào
không,Phan Rang có bị di tản không…... Đầu óc rối bời, thật ra Hoàng cũng
chẳng biết nhiều, chỉ mong họ đừng có hỏi nữa và tránh xa để Hoàng có
thể thưa chuyện quan trọng riêng tư này cùng cha mẹ, em út của mình. Ông
anh
họ, con người bác nhà phía trên cũng ngồi gần và hỏi han,
- Sao em không liên lạc với gia đình Tông Tông, nhất là các chú N., chú T., chú Tr. để biết rõ hơn.
- Trời đất, hồi giờ em có biết họ ở đâu mà hỏi.
Vì
thấy thời gian không còn nhiều, mà người thân cứ xúm xít hỏi han làm
Hoàng thêm lúng túng vội vã và xin lỗi để nói chuyệnriêng cùng gia đình.
Ba Hoàng nói,”Ba
má không thể đi đâu được, con biết đó, bà con họ hàng mình cả trăm người
làm sao ba có thể rời họ được, và mồ mả ông bà không ai trông coi. Thôi
con,có đi thì dẫn mấy đứa em của con theo!” Hoàng lưỡng lự nhìn
năm đứa em nhỏ của mình và tự hỏi,”Dẫn hết mấy đứa em nhỏ thì ba mẹ sống
với ai, dẫn theo một hai đưá em ai đi, ai ở lại,” Thắng, đứa em út năn
nỉ,
- Anh Tư cho em đi theo anh.
- Hổng được, mầy đi rồi còn mấy anh chị của mầy ra sao...
Hoàng
đang suy nghĩ đến Thiện, đứa em trai cũng là cơ khí Không Quân đang đóng
tại căn cứ Biên Hòa, hay là mình đem Thắng vào ở tại cư xá rồi ba anh em
mình nếu có gì bất trắc sẽ di tản dễ dàng. Nhưng Hòang chợt nghĩ nếu
để đứa em út nhỏ dại vào ở tại cư xá độc thân Tân Sơn Nhất và mình bận đi
bay, công tác không có ai bên cạnh, nếu nhỡ bị C.S. pháo kích vào căn cứ
thì mình biết làm sao lo. Thấy Hoàng còn đang lưỡng lự suynghĩ, ba
Hoàng nói tiếp:
-Thôi
con à, con lo cho hai anh em của con đi! Con lo cho thằng Thiện đang ở
trong đó, hai anh em con có gì thì đùm bọc nhau. Ba má và các em cùng ở
lại nơi đây thôi!
Nhìn Thắng rươm rướm nước mắt đòi theo mình, Hoàng không khỏi chạnh
lòng, nhưng chợt nghĩ thân mình còn lo chưa được, huống chi, lỡ có chuyện
gì nữa ba mẹ mình sẽ buồn lắm. Hoàng ôm hôn ba mẹ và các em từ giã các
người thân, chạy qua nhà người bạn thân lối xóm, nhìn thấy bạn B đang
ngồi ăn cơm cùng với mẹ. Hoàng thật sự ái ngại, vì thấy bạn mình rất
thản nhiên như chưa có quyết định gì trước một biến cố lớn sắp xảy ra!
Bạn B. là một sĩ quan an ninh tại địa phương, nếu Cộng Sản có về, chắc
chắn không thể tha thứ người của chính quyền. Hoàng vội nhắn bạn: “Ê, nếu có di tản thì ráng tìm kiếm
phương tiện tàu bè nơi bến Nại của mình mà “dzọt” sớm nhé!” Hoàng vừa bước đi thêm vài bước, người cô ruột thứ Tư chạy ra ôm lấy Hoàng khóc, “Thôi con ạ, đừng đi đâu hết, hãy ở lại cùng bà con dòng họ mình nơi đây.”
Hoàng rất ngạc nhiên và cảm động vì từ nhỏ đến bây giờ cô mình chưa bao
giờ ôm mình vào lòng và khuyên nhủ âu yếm như vậy! Hoàng lái xe mà đầu
óc miên man, phân vân những điều dự tính của Hoàng không thực hiện được.
Trước khi về nhà, Hoàng đã quyết định đem cả gia đình di tản và nếu
không ai chịu đi, Hoàng phài quì gối bái lạy công ơn sinh dưỡng với cha
mẹ rồi ra đi hoặc là phải dẫn theo một đứa em trai theo, cuối cùng Hoàng
bước ra đi mà cũng không thực hiện được chuyện gì, tâm
trí Hoàng còn rất lưu luyến quê hương, chưa dứt khoát chuyện di tản.
Nghĩ đến thảm họa Tết Mậu Thân, mùa hè 1972 tại Huế, Hoàng khẽ rùng
mình!
Hoàng đang nghĩ cách khác, khi về Sàigòn, anh sẽ làm danh sách các
người thân và trình xin với thượng cấp một chuyến bay riêng về Phan Rang
để di tản tất cả càng sớm càng tốt. Hoàng lái xe lên Phan Rang ngang qua
đoạn đường ngã ba Xóm Bánh mà lúc nãy có trạm kiểm soát và bây giờ
vắng tanh, không còn thấy bóng người lính Cộng Hòa nào kiểm soát nữa.
Không gian rờn rợn, thiếu an ninh trên đường phố, làm như trinh sát Cộng
quân đã có mặt nơi này, Hoàng cảm nhận!
Về lại căn nhà người cậu để thay đổi bộ đồ bay lên phi trường, Hoàng gặp
lại dì dượng Ch. đang chủ tiệm thuốc tây Minh Trung ngoài xóm động, họ
muốn Hoàng đưa gia đình họ về Sàigòn bằng máy bay. Hoàng vội nói, “không
kịp rồi, vì cháu phải lên phi trường ngay bây giờ và cháu không thể chậm
hơn 1 giờ nữa, dì dượng đưa danh sách gia đình, cháu sẽ xin phương tiện
máy bay về lại Phan Rang đón sau.” Hoàng lái xe phóng nhanh lên Phi
trường, đi ngang cống ngã ba Tháp Chàm chợt nhớ căn nhà M. Hồng, cô
bạn quen thân từ khi Hoàng đi nhập ngũ khóa sĩ quan Thủ Đức. Lúc ấy Hoàng
và số người bạn cùng tuổi cùng lớp Đệ Nhất B khi
xưa tại trường trung học Duy Tân như Ba Chê, Phong, Hiệp, L... đi trình
diện ngập ngũ tại trung tâm nhập ngũ Tháp Chàm, người bạn L. có đưa Hoàng
đến nhà M. Hồng ở gần đó để chia tay chào từ giã với gia đình (vì có bà
con.) M. Hồng lúc ấy rất e thẹn, ngập ngừng ít nói trong giây phút làm
quen ban đầu, ánh mắt hiền lành ngây thơ chen lẫn với mộng mơ buồn
buồn... và đôi mắt ấy đã phát ra một một tình thương, một cảm giác rất
thân thương (có lẽ sự thương hại thì đúng hơn!) cho số phận các anh trai
thời chinh chiến... Xưa nay, chinh chiến mấy ai về lại! Ngày đầu làm
quen cũng là ngày biệt ly trong niềm hy vọng tái ngộ sau này! M. Hồng,
con gái ông N.K.Kh.., một dân biểu quốc hội, nhà sát cạnh đường phố Tháp
Chàm, nhỏ hơn Hoàng vài tuổi, nữ
sinh trung học Duy Tân, Hoàng học Đệ Nhất B và nàng đang học Đệ Nhị,
nước da ngăm ngăm nhưng rất duyên dáng, tóc đen huyền xõa dài, hàm răng
trắng và đều, rất tự nhiên trong cách nói, mỗi khi cười để lộ hết hàm
răng như hạt bắp non, xinh xắn. M. Hồng thường viết thư thăm hỏi
Hoàng lúc còn sinh viên sĩ quan trường bộ binh Thủ Đức và trung tâm huấn
luyện Không quân Nha Trang. Hoàng rất vui vẻ và xem nàng như người em gái
hậu phương thân thương tâm sự và liên lạc thư từ trong thời gian huấn
luyện quân sự. Hoàng cũng viết thư kể chuyện luyện tập quân sự nhọc nhằn
nơi quân trường, những tuần lễ đầy gian khổ huấn nhục quân sự tại TTHLKQ
Nha Trang và vui sướng mỗi khi nhận được thư an ủi của người em gái
hậu phương. Mỗi lần nhận được
thư của M.Hồng đều bị các cán bộ niên trưởng tại quân trường phạt dã
chiến, thân xác rã rời vì phải nhảy xổm hay hít đất vài trăm cái trước
khi nhận thư. M. Hồng kể chuyện học hành nơi trường trung học Duy Tân,
chuyện bạn bè, thầy cô giáo làm cho Hoàng nhớ lại khung trời học đường
Duy Tân kỷ niệm mà Hoàng vừa rời xa để thi hành nghĩa vụ người trai
thời chiến.
Thời
gian qua mau, sau khi tốt nghiệp trường bay tại Hoa Kỳ, Hoàng như cánh
chim tung bay trên vùng trời khói lửa, khắp bốn vùng chiến thuật của quê
hương miền Nam Việt Nam nên ít có dịp về quê thăm gia đình và người em
gái nhỏ. Sau đó, Hoàng được biết M. Hồng đang làm việc tại Tòa Hành Chánh
Phan Rang, cơ quan quân sự của Hoa Kỳ và lập gia đình với một anh chàng
cán bộ xây dựng nông thôn; vì vậy, Hoàng cũng đã có dịp thăm hỏi, tìm đến
nơi làm việc và được nàng chiêu đãi ly chè đậu ván nước dừa, chuyện trò
ôn lại chuyện ngày xưa hồn nhiên và thầm trách nhau trong tiếc nuốt những
kỷ niệm, muộn màng... Hoàng vẫn còn độc thân, bay bướm, lả lướt trên
đường tình cảm và vướng bận nhiều mối tình học trò... nên nào có để ý
đến người em gái yêu thương bé nhỏ cùng quê hương, tuy nhiên mỗi lần theo
phi cơ về phi trường Phan Rang, Hoàngđều có ghé thăm gia đình của M.
Hồng. Má của nàng rất yêu quí Hoàng, xem Hoàng như con ruột, và em gái
của nàng cũng xưng hô với Hoàng như một người anh kính yêu. Hoàng dựng xe
và bước vào nhà thăm hỏi, cả nhà đi vắng chỉ còn má của nàng đang trông
nhà. Bà rất vui mừng thăm hỏi, tương thuật lại chuyện lộn xộn tan rã
quân lính, bọn tù thoát ngục cướp giựt vừa xảy ra mấy ngày nay trong thị
xã Phan Rang và Tháp Chàm, chuyện gia đình M. Hồng cũng dự định di tản vào
Sàigòn. Hoàng thưa,
- “Gia đình bác có định di tản không?”
Bà
phân vân vì nghĩ rằng bà ở lại rồi sẽ ra sao, con cái bà có làm việc
dính líu đến trong chính quyền miền Nam nên phải vượt thoát... Bà thở dài
và không có quyết định nào về việc đi ở trong giờ phút nghiêm trọng này!
Hoàng vào phi trường kịp lúc chiếc máy bay vừa sửa chữa xong. Hai người
hạ sĩ quan cơ phi và áp tải đã trèo lên cánh trái phi cơ, dùng một loại
tape đặc biệt che phủ kín nơi lỗ hỏng móp méo do tai nạn hai chiếc máy
bay va chạm. Lớp tape được bao bọc nhiều lớp trông cũng chắc chắn giống
như một người bị gãy chân nay được băng bột để có thể chống nạn bước đi
khập khểnh. Phi hành đoàn của Hoàng có bốn người và khi bước lên phòng
lái thì đã thấy vài chục quân nhân thuộc nhiều binh chủng đã sắp hàng xin
cho họ quá giang di tản về Sàigòn, Trung tá phi đoàn trưởng của
Hoàngnói,
- Đây
là chiếc máy bay hư hỏng, chúng tôi mang về Sàigòn để sửa chữa. Chuyến
bay nàychưa biết an toàn thế nào nên tôi không thể chở quí vị. Chúng
tôi có mang dù, nếu nguy hiểm chúng tôi có thể thoát thân, còn quí vị tôi
không bảo đảm. Quí vị nên suy nghĩ và tìm phương tiện khác an toàn hơn!
Tất cả “hành khách không mời” im lặng lúngtúng! Suy nghĩ giây lát rồi họ cùng buộtmiệng nói,
- “Không sao đâu trung tá,.. nếu có gì …chúngtôi cam chịu!”
Ông trung tá N,
- “Nếu quí vị không sợ thì xin mời lên, OK!”
Những quân
nhân đã từng đứng trước cái chết khi đối diện với quân thù nơi chiến
trận, giờ này sá gì chuyện mạo hiểm này họ lại lo sợ... Không có sự chọn
lựa nào khác, tất cả chuyến bay vận tải trong ngày hôm nay đã chấm dứt
nên họ phải bám lấy chuyến bay nguy hiểm này.
Hoàng lật trang “Checklist” (Pre-flight) để kiểm tra (check) lại các
từng mục chi tiết thứ tự theo sự chỉ dẫn trước khi nổ máy. Hoàng ngồi ghế
phải dành cho người phi công phụ và Trung tá N. ngồi ghế trái điều kiển
di chuyển máy bay ravị trí cất cánh. Hoàng liên lạc vớiphòng kiểm soát
không lưu xin cất cánh:
- Tower, Tinh long 2 ready for takeoff
- Roger, Tinh long 2, number 1 for takeoff
Hoàng
phụ kềm cần lái, trong khi đó trung tá N. đẩy hết cần ga (full throtle)
về phiá trước, ấn nút mở máy hai động cơ phản lực, chân đạp thắng giữ cho
chiếc máy bay đứng yên. Tiếng động cơ phản lực rít lên ầm ầm điếc tai,
hai cánh bay của chiếc AC 119K lắc lư và phóng nhanh về phía trước khi
ông trung tá N. buông hai chân thắng ra. Ông điều khiển chiếc máy bay
chạy thẳng trên phi đạo, mọi người trên tàu theo dõi chiếc máy bay đang
lướt nhanh trên đường vạch thẳng màu vàng, một số dõi mắt nhìn vào nơi
cánh trái đã được băng bó bằng loại tape đặt biệt. Tay lái vẫn thăng
bằng khi ông nhấc hỏng khỏi mặt đất, vượt qua ngọn Tháp Chàm bay cao lên,
khi đến 1000
bộ(feet), ông quẹotrái bay vòng trên vòng đai phi trường để lấy thêm
cao độ. Gió mạnh thổi bật các lớp tape đã dán trênchỗ hỏng tạo nên âm
thanh lập bặp... bên ngoài không gian, và sức gió cản quá mạnh không cân
bằng hai bên cánh làm chiếc máy bay bắt đầu nghiêng xuống về phía trái,
Hoàng và ông trung tá, hai người cố gắng gồng mình bẻ cần lái cho lên cao
bay thẳng. Chân phải Hoàng đạp mạnh thêm vào bàn đạp (right pedal)
để cái đuôi máy bay dạt về bên phải trong khi đó bẻ mạnh cần lái hơn 45
độ về bên phải để có thể điều khiển máy bay bay đúng hứơng. Gió mạnh thổi
qua lỗ hỏng trên cánh trái đã làm cho tòan thân chiếc máy bay rung mạnh
kêu sành sạch...hành khách trên tàu có cảm giác, cánh trái chiếc máy bay
không thể chịu đựngđược lâu và
có thể sắp bị rách lìa ra khỏi thân máy bay, sự việc đang xảy ra giống
như những đoạn phim ảnh nguy hiểm, hồi hộp, nghẹt thở, gây cấn của
các tài tử danh tiếng Hollywood thủ vai chánh mà Hoàng đã từng xem trong
các rạp chiếu bóng. Hiện tại Hoàng và các hành khách là những nhân vật
chính thật sự trong một phi vụ ác liệt của giờ thứ 25 trở về căn cứ. Họ
đang chiến đấu để sống còn trong những giây phút định mệnh trên không
trung mây trời này! Hoàng cũng không biết trong số hành khách trên
chuyến bay có người bị yếu tim, có người già, con nít hay có phụ nữ đang
mang thai không? Họ đang lo lắng, sợ hãi ra sao?.. Ngồi phía sau trong
phòng lái, có một vị Đại tá phòng tổng tham mưu xin đi quá giang về
Sàigòn đã chứng kiến thấy Hoàng vật lộn với
cần lái máy bay mà lòng lo lắng, ái ngại, sắc mặt thay đổi. Mọi người
trên máy bay cầu nguyện thầm, mắt thì dõi mắt nhìn vào cánh trái máy bay
đề xem sức gió đang tiếp tục phá rộng chỗ bị móp méo. Hoàng lên tiếng
nói, “Trung tá ơi, chắc không thể điều khiển bay xa được, mình đang ở trênSông- Pha, với độ cao 3500 feet.” Mây
mù che phủ lác đác phía dưới nên ông không nhận diện nơi nào, nhưng với
Hoàng đã là thổ địa vùng này, nhìn xuyên qua lỗ hổng của đám mây che phủ
ở cao độ thấp bên dưới các địa danh như núi cà Đú, cầu Tri Thủy, Đầm
Nại, Hộ Diêm, Cửa, ống trắng dẫn nước lấp lánh trên đập Đa Nhim lúc ẩn
lúc hiện rất quen thuộc, Hoàng có thể xác định vị trí mình đang ở đâu. Trung tá N. đồng ý, tay
phải ông giảm tốc độ, tay trái hạ cần lái về phía trước để máy bay hạ
thấp cao độ và tìm chỗ hổng của đám mây mù phía dưới. Ông điều
khiển chiếc AC 119K ra khỏi đám mây mù đang ở cao độ 3000bộ (ft) xuống
thấp dần và bình phi (giữ độ cao) 1500 ft, lúc ấy mọi người cảm thấy nhẹ
nhàng trong lòng khi trông thấy rõ ràng khung cảnh phi trường Phan Rang
phiá trước và các dãy núi cao chung quanh. Hoàng phụ giúp giữ tay lái bay
thẳng và bấm nút liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát không lưu
phi trường xin đáp khẩn cấp. Dưới mặt đất, có hai chiếc xe chữa lửa chớp
đèn đỏ Emergency đang túc trực chạy dọc theo phi đạo theo hướng chiếc phi
cơ lâm nạn đang đáp xuống đề kịp thời dập tắt ngọn lửa nếu xảy ra tình
huống xấu. Hoàng tiếp tục liên
lạc vô tuyến với đài kiểm soát để xin phương tiện chở phi hành đoàn trở
về Sàigòn gấp và được một chiếc vận tải C130 cùng không đoàn 53
Chiếnthuật đang sắp cất cánh chờ sẵn chở về Sàigòn. Khi máy bay xuống
thấp và tốc độ bay chậm dần nên chiếc phi cơ bớt lắc lư, hai người hoa
tiêu chánh phó có thể điều khiển dễ dàng đáp xuống phi đạo một cách nhẹ
nhàng.
Hoàng thở phào nhẹ nhổm, thoát nạn vì rất may không có gia đình của
Hoàng tháp tùng chuyến bay này về Sàigòn, nếu không, Hoàng cũng chẳng
biết xử trí làm sao. Ba má Hoàng mà thấy cảnh này chắc không dám ngồi
trên máy bay thêm một lần nữa. Thêm vào đó, nếu có thân nhân gia
đình Hoàng ở đây, làm thế nào Hoàng có thể đưa gia đình di tản vào Sàigòn
ngay hôm nay; vì chốc nữa đây ngay chính bản thân Hoàng không biết có
được một chỗ ngồi trên chiếc C130 để trở Tân Sơn Nhất hay không, huống hồ
có người thân bên cạnh. Nếu gia đình Hoàng không đi vào Sàigòn được mà
phải trở về làng Nại, họ phải dùng phương tiện nào, Hoàng
thật vô cùng bối rối, đầu óc như muốn nổ tung! Lúc bình thường chàng còn
có thể xoay trở gỉai quyết được, nhưng trong giờ phút thứ 25... này tìm
đâu ra phương tiện chuyên chở, một vấn đề nan giải, Hoàng không có phải
nhân viên cơ hữu tại phi trường, chẳng có quyền hạn gì để xin phương tiện
riêng, chẳng có ai quen thân để được giúp đỡ. Từ trạm hàng không quân sự
ra cổng chánh quãng đường rất xa, không có phương tiện di chuyển và khi
ra đến cổng rồi, không có chiếc xe hàng nào về lại làng Nại, không lẽ ở
lại trong phi trường để lãnh đạn pháo kích của địch quân hay sao!?
May
quá! Hoàng chỉ có một mình, một thân mà thôi! Chiếc phi cơ vận tải C130
đang nổ máy chờ đợi, cánh cửa phía sau khép hờ để ngăn cản những “hành
khách không mời” cũng muốn chạy theo để lên tàu, ông trung tá, Hoàng và
hai người hạ sĩ quan chạy theo nhanh và phóng vù vù… lên tàunhư việc
“mưu sinh thoát hiểm”. Tất cả, định mệnh xếp đặt, gia đình và người thân
của Hoàng không có mặt trên chuyến bay này! Hoàng thầm nghỉ, nếu đã ra
đi trốn chạy mà còn quay lại nhà, hậu quả khó lường được, ngày hôm sau
tức 16 tháng 4 năm 1975, thành phố PhanRang đã bỏ ngõ và gia đình Hoàng
chắc chắc phải lãnh hình phạt nặng nề của chính quyền chế độ mới nơi thôn
quê hẻo
lánh, nhiều thủ đoạn trả thù hèn hạ trong lúc giao thời. Cầu mong Phật
trời che chở gia đình Hoàng, xin đừng có xãy ra những thảm hoạ trả thù
như Tết Mậu Thân tại Huế, mùa hè đỏ lửa 1972!
Vĩnh biệt thành phố PhanRang!
Vĩnh biệt người thân, bạn bè, vĩnh biệt...!
Xin tạ ơn Trời Phật… đã che chở Hoàng qua tainạn khủng khiếp này!
Hoàng
thì thầm khấn vái, nguyện cầu khi ngồi trên chuyến bay thoát hiểm trở
về Sàigòn lúc 4 giờ 30 chiều, ngày15 tháng 4 năm1975!
Mùa Xuân California, ngày 15 tháng 4 năm 20..
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
PHI VỤ GIÃ BIỆT PHAN RANG
Hoàng thầm nghỉ, nếu đã ra đi trốn chạy mà còn quay lại nhà, hậu quả khó lường được, ngày hôm sau tức 16 tháng 4 năm 1975, thành phố PhanRang đã bỏ ngõ và gia đình Hoàng chắc chắc phải lãnh hình phạt nặng nề
Kính thưa quý niên trưởng & các bạn cựu phi đoàn Tinh Long và gia đình,
Tháng
3 năm 1975 cuộc chiến Việt Nam đã trở nên khốc liệt! Cộng Sản Bắc Việt
đã vi phạm hiệp định Paris, quân đội họ đã được Nga xô và Trung cộng
viện trợ tiếp liệu đầy đủ vũ khí tối tân, đạn dược, tiếp liệu dư thừa ,
tràn qua vĩ tuyến 17, mở ra nhiều mặt trận lớn hướng Tây, hướng Bắc...
tiến chiếm lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Trong khi đó quân đội Việt Nam
Cộng Hòa đã bị đồng minh Mỹ cắt gần hết viện trợ, quân viện. Chính phủ
Mỹ
đã thỏa thuận ngầm bỏ rơi phần đất miền Nam Việt cho Cộng Sản Hà Nội!
Do đó quân đội Việt Nam cộng Hòa đành phải tháo lui, di tản chiến
thuật về
phương Nam....
Bài viết PHI VỤ GIÃ BIỆT PHAN RANG, do DANNY TRÌNH, một trong
những câu chuyện thương tâm của quân dân cán chính miềm Nam Việt nam
trên bước đường máu và nước mắt bi thương lánh nạn Cộng Sản về phương
Nam tự do.
Kính mời quí niên trưởng và các chiến hữu Tinh Long và gia đình đọc lại nhân mùa đau thương THÁNG TƯ ĐEN 1975 sắp đến,
Xin một nén nhang lòng cho tất cả quân nhân cán chính VNCH đã tử nạn trên bước đường di tản, tìm tự do!
Tinh Long Trình Đế Đáng
PHI VỤ GIÃ BIỆT PHAN RANG
PHAN RANG, NGÀY 15 THÁNG 4 NĂM 1975
Đã
37 năm trôi qua, lịch sử đất nước Việt Nam đã sang trang, vết thương
quá khứ đã lui dần vào dĩ vãng theo những thăng trầm trong cuộc sống ly
hương của người Việt tị nạn Cộng Sản. Tuy nhiên mỗi năm khi tháng Tư về
trên đất tạm dung, tiểu bang California, Hoa Kỳ, tâm trí Hoàng không thể
quên được cảm giác chia tay vĩnh biệt người thân gia đình, thành phố
Phan Rang gió cát, đầy ắp kỷ niệm thời niên thiếu và vùng trời khói lửa
của một thời chinh chiến xa xưa.
Hồi tưởng những năm tháng trong chiến tranh, nhất là đầu tháng Tư năm
1975, biệt đội máy bay vận tải chiến đấu AC 119K của phi đoàn 821 từ phi
trường Đà Nẵng đã phải di tản rút lui về căn cứ Phù Cát, Qui Nhơn; sau
đó lại di tản về căn cứ Không quân Phan Rang để tiếp tục yểm trợ chiến
trường vùng II chiến thuật. Cứ mỗi lần rút lui, Hoàng lại phải chứng
kiến sự hỗn độn, chen lấn xô đẩy của các đồng đội thuộc nhiều binh chủng
Bộ binh và Không quân có sự vụ lệnh di tản hoặc không có, và thêm vào
đó gia đình các nhân viên, thân nhân bạn bè dân sự ùa nhau tràn lên máy
bay để mong được đưa về Sàigòn. Tại căn cứ không
quân Đà Nẳng, Hoàng đã chở gần 70- 80 người tràn lên thân tàu bao gồm
quân đội và già trẻ lớn bé dân sự chen chúc trong thân máy bay. Hoàng là
trưởng phi cơ (Aircraft Commander), người chịu trách nhiệm lái chuyến
bay này về Sàigòn. Loại máy bay vận tải quân sự chiến đấu không cho
phép chở hành khách, trên máy bay chỉ trang bị súng đạn vũ khí với trọng
lượng cho phép, nên không thể chở thêm người. Hoàng đã cẩn thận không
thông báo cho ai biết về phi vụ đem chiếc AC 119K trở về Sàigòn; thế mà
khi phi hành đoàn ra phi cơ để nổ máy, Hoàng ngẩn người thấy vô số hành
khách không giấy mời đã ngồi đầy hết trên máy bay. Mặc kệ những lời năn
nỉ, giải thích của Hoàng, các thân nhân già trẻ lớn bé dân sự, các
người lính chiến, bao
gồm binh chủng nhảy dù, thiết giáp... ngay cả những vị cấp bậc quân đội
cao hơn Hoàng, cũng im lặng thản nhiên không rời phi cơ khiến Hoàng
đành phải uống “thuốc liều.” Máy bay đã quá trọng lượng, Hoàng đạp chân
thắng, bật nút điện mở hết ga (full throttle) động cơ phản lực, rồi
buông chân thắng (brake), giữ cho máy bay lao thẳng về phía trước. Bình
thường, khi máy bay đạt đến 80 knots, (khoảng 140 miles) Hoàng bắt đầu
nâng hai cánh cao lên nhưng lần này Hoàng phải cho chạy dài hơn 2/3 phi
đạo với tốc độ 100 knots, rồi mới nhấc cánh lên khỏi mặt đất. Chiếc máy
bay gầm gừ, nặng nề chậm rì từ từ rời khỏi phi đạo, chầm chậm lấy cao
độ, vượt qua hàng rào vòng đai phi trường. Cất cánh chậm rì bất thường
của chiếc máy bay đã làm
nhân viên đài kiểm soát không lưu bên dưới nhắc nhở nhiều lần quay trở
lại đáp khẩn cấp. Vì không thể bay cao bình thường trên 8000 feet nên
Hoàng vội lao ra phía biển, bay dọc bờ biển với độ cao 4500 feet (vào
khoảng hơn 1 cây số chiều cao). Với độ cao này, không thể bay trong đất
liền vì có thể trúng đạn súng phòng không của địch bắn lên và máy bay
cũng không thể vượt qua những đỉnh núi cao của dãy Trường sơn. Trong
trường hợp phải hạ cánh đáp khẩn cấp, Hoàng cũng có thể cho phi cơ hạ
thấp dọc theo bãi biển bằng phẳng, an toàn hơn phải hạ cánh trên mặt
đường hay trên ngọn cây, đồi núi gồ ghề nguy hiểm. Nhưng bay thấp hao
xăng. Bay cao trên 9000 hay 10,000 feet có thể tiết kiệm được nhiều
nhiên liệu, bay lâu, kéo dài thời gian bay được 4- 5
giờ. Hoàng tính nhẩm khoảng cách và tốc độ đang bay, chỉ vừa đủ xăng
bay về đến Sàigòn hoặc có thể bay vòng vòng chờ đợi (vì gặp quá đông phi
cơ dân sự quốc tế cũng xin đáp xuống phi trường cùng một lúc) trên bầu
trời Tân Sơn Nhất thêm 30 phút để được cho phép đáp. Cũng may, Hoàng đã
chuẩn bị trước cho phi vụ di tản này, chỉ đổ đầy xăng, không mang theo
đạn dược trên máy bay, nhưng nếu gặp tình huống xấu (quá trọng lượng)
Hoàng cũng có thể phóng (eject) các giàn phóng hỏa châu nặng nề xuống
biển để giảm trọng lượng phi cơ mà cứu nguy cho tất cả mọi người. Vì bay
với tốc độ chậm, bay cao độ thấp nên phi cơ về đến Tân Sơn Nhất trễ gần
1 tiếng đồng hồ. Hoàng thật hú hồn vì ngoài vấn đề an toàn, anh còn có
thể
bị ngồi tù vì lý do đã vi phạm phi vụ hành quân, vi phạm luật An phi
(an toàn khi bay), cấp chỉ huy có thể ký giấy phạt vài chục ngày trọng
cấm. Rất may mắn, trong chuyến bay này có rất nhiều thân nhân của các
sĩ quan cao cấp trong quân đội, nên thay vào đó Hoàng không bị phạt mà
còn nhận được tiếng cảm ơn rối rít từ những người di tản thoát nạn.
Hoàng
nhớ lại những năm tháng phục vụ tại đơn vị hành quân, Phi đoàn 821 trực
thuộc Sư đoàn 5 Không quân, Tân Sơn Nhất Sàigòn, gồm 24 chiếc máy bay
vận tải chiến đấu lớn, được trang bị hỏa lực bom đạn đại bác rất hùng
hậu, thiết bị bằng Radar hồng ngoại tuyến để quan sát rất rõ về đêm từ
một độ cao trên không trung, chức năng vận chuyển và bắn yểm trợ cho
quân bạn về ban đêm. Vì phải yểm trợ cho bốn vùng chiến thuật của miền
Nam Việt Nam, nên phi đoàn phải biệt phái một số nhân viên và máy bay đi
nơi khác để thi hành nhiệm vụ. Bốn phi hành đoàn (gồm 4 chiếc máy bay
và 10 nhân viên phi hành cho mỗi chiếc) ra căn cứ Đà Nẵng để yểm trợ
cho vùng I chiến thuật và bốn phi hành đoàn khác ở tại căn cứ Phù Cát,
Qui Nhơn để yểm trợ cho vùng II chiến thuật. Số nhân viên phi hành và máy
bay còn lại trong phi đoàn, phải bay yểm trợ cho vùng III và vùng IV
mỗi đêm. Do phải yểm trợ cho 4 vùng chiến thuật, nhân viên trong phi đoàn
phải thay nhau, luân phiên hoán chuyển mỗi tháng, lúc ở Đà Nẵng, khi
vềSàigòn, rồi lại ra căn cứ Phù Cát... Xoay vần khắp 4 vùng chiến thuật,
nên hầu hết các mặt trận lớn nhỏ nào trên mặt đất của các đơn vị bộ binh
An Lộc, ChơnThành, Lai Khê, Tống Lê Chân, Bình Long, Buôn Mê Thuộc,
Komtum, An lão,Khe Sanh, Đại Lộc, Non Nước Ngũ Hành Sơn, Bình Trị
Thiên... đều có mặt các nhân viên phi hành của phi đoàn 821 tham dự.
Hoàng
giống như một loài chim cánh sắt khổng lồ bay đêm, rày đây mai đó, có
những lúc phải bay vào đám mây đen đầy sấm chớp vì phải giữ đúng độ cao
trên không trung, gầm thét bởi tiếng động cơ phản lực, hiên ngang bay
vào vùng hỏa tuyến, ném những bom hỏa châu chiếu sáng soi rọi một góc
trời, rồi dùng súng đại bác liên thanh sáu nòng nhả đạn vào quân địch
đang tấn công đơn vị bạn phía dưới. Hoàng hăng say nghiêng cánh trái
nhắm vào mục tiêu dưới mặt đất ấn vào nút màu đỏ (Fire) tác xạ trên cần
lái điều khiển, tiếng đạn nổ rền vang như tiếng con Bò rống lên ù ụ... đã
làm thân máy bay trôi dạt lên cao, 4 khẩu súng mini gun 7.62 ly sáu nòng
quay tròn và
hai khẩu súng đại bác 6 nòng 20 ly đỏ rực do sức nóng như muốn cháy tan
thành sắt vụn. Theo lý thuyết, mỗi phút tự động có 6000 viên đạn 20 ly
được bắn ra và 24,000 viên đạn 7.62 ly bay đến chạm mục tiêu dưới đất
lại tiếp tục nổ thêm một lần nữa, nhờ đó, người phi công có thể kiểm
soát chính xác được mục tiêu mình vừa tác xạ. Từ không trung, Hoàng bấm
nút bắn xuống mục tiêu dưới mặt đất thật hứng khởi, khoái chí, tuy
nhiên, có những lúc giật mình hãi sợ, co rút đôi chân lại như một sự
phản xạ né tránh vì súng phòng không cao xạ của địch quân bắn lên tua
tủa nổ trên không trung như những pháo bông rực sáng quay quanh thân máy
bay. Những viên đạn vun vút bay nhanh trong không khí, tạo thành những
vệt sáng dài hướng về phía máy
bay khiến Hoàng phải hoảng hốt, toát mồ hôi lạnh né tránh. Anh xác định
mục tiêu của quân địch báo cho đơn vị pháo binh bạn hoặc anh bắn trả
trở lại, có khi gặp hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 của địch quân bắn lên bay
nhanh với tốc độ âm thanh (hơn hẳn mấy lần tốc độ chiếc máy bay AC 119k)
đang bay phía sau dò tìm sức nóng của động cơ mà chui vào phá hũy máy
bay. Nhờ có phi hành đoàn thường xuyên quan sát vào ban đêm nên Hoàng rất
dễ phát hiện kịp thời ánh lửa của hỏa tiễn bay vút bám theo chiếc phi cơ
và anh đã kịp thời nghiêng cánh quẹo gắt (nghiêng cánh hơn 45 độ), chao
lạn né tránh, rồi phóng tiếp những trái hỏa châu nổ nhanh ở phía sau đuôi
máy bay để dụ hỏa tiễn tầm nhiệt lao vào.
Có
những đêm bầu trời quang đãng, chiến sự bên dưới mặt đất yên tỉnh,
những
chuyến bay đêm ấy trở nên êm đềm, thơ mộng và bình an trong một phi vụ 4
giờ đồng hồ! Anh bay vòng vòng trên thủ đô Sàigòn, Chợ Lớn, Nhà bè,
Phú
Lâm... bao vùng trời, canh phòng người thân yêu đang yên giấc ở một nơi
nào đó, rất thú vị! Hoàng ngắm nhìn ánh đèn điện rực sáng của thành phố
bên dưới, dò tìm tên những đại lộ thân quen nơi có người yêu bé nhỏ đang
ôm gối mộng suy tư lo lắng những phi vụ hành quân đêm của chàng. Nhờ có
thiết bị Tia Hồng Ngoại tối tân trang bị trên phi cơ, Hoàng rất dễ nhận
diện ra các vị trí dưới mặt đất như căn nhà, đường
phố của người thân yêu vào ban đêm trên màn ảnh truyền hình trước mặt.
Hoàng thả hồn mộng mơ theo tiếng nhạc tình của các đài truyền thanh Việt
Nam, tiếng nói trầm ấm vuốt ve, âu yếm của người xướng ngôn chương trình
Dạ Lan dành cho người lính chiến. Bay trên độ cao 1000 hay 2000mét, ngồi
trong phòng lái rộng lớn tiện nghi dành cho người hoa tiêu, quan sát và
cơ khí phi hành, cảm thấy gió bên ngoài luồn vào rất lạnh mặc dù có máy
sưởi nóng khắp nơi trên phi cơ. Vì máy bay quân sự AC119K chiến đấu, các
khẩu súng đều thiết kế chĩa nòng súng ra bên ngoài phía trái phi cơ, nên
một số cửa lớn luôn luôn để trống thoáng. Phi vụ đêm, được nhìn ánh
trăng
sao sáng tỏ, lấp lánh trên bầu trời cao, Hoàng cảm thấy khoảng cách
không gian thật gần với
Chị Hằng và dãy Ngân hà. Ánh đèn thành phố lấp lánh bên dưới cũng thật
gần, ánh sao đêm phản chiếu dưới mặt đất như một tấm gương khổng lồ, làm
cho nhiều người phi công có những ảo giác hoa mắt, không phân biệt được
sự tiếp giáp giữa trời và đất, mất tự chủ và dễ dàng xảy ra tai nạn.
Nhất là khi người hoa tiêu có sức khỏe kém, thiếu nghĩ ngơi điều độ,
thiếu ngủ, uống nhiều rượu mạnh, uống các chất có gas trước khi lái máy
bay, hậu quả sẽ gây buồn ngủ, không kiểm soát được giác quan, dễ gây
tai
nạn. Mặc khác, nếu phi cơ trúng hỏa tiễn tầm nhiệt, đạn phòng không 37
ly của địch, hoặc phi cơ gặp phải tai nạn, tất cả số phận nhân viên phi
hành ấy như trong bài nhạc Không Quân hành khúc, “Không quân ra đi cánh
bay ngợp trời ù u u ú... và ra đi... không ai tìm xác rơi“. Thật
vậy, làm gì còn có cái xác nguyên vẹn của các người phi hành về với gia
đình, người thân, khi máy bay của họ đã nổ tung trên bầu trời khói lửa!
Mỗi lần thi hành phi vụ hành quân,Hoàng có cảm tưởng như đang ngồi trong
một chiếc quan tài, kề cận tử thần, 10nhân viên phi hành đoàn mà Hoàng
phải có trách nhiệm bảo vệ an toàn tính mạng của họ cho gia đình và người
thân. Ôi! Cùng bay chung với nhau trong một phi vụ hành quân, có lẽ họ
sẽ có chung định mệnh sống chết như nhau!
Hòang
đã chứng kiến những cảnh hỗn loạn của thành phố Đà Nẳng và căn cứ quân
sự một ngày trước khi thành phố Đà Nẳng hoàn toàn bỏ ngõ nên cũng biết
được phần nào sự tồi tệ ấy; nhưng khi xem truyền hình, đọc tin tức
tường thuật cảnh chạy loạn trên đường di tản, Hoàng không thể nào tưởng
tượng ra đượcvà cũng không cầm được nước mắt xót thương, trong đó có
bao nhiêu người thân, bạn bè cùng binh chủng, cùng khóa lái, những chiếc
trực thăng bé nhỏ còn kẹt lại căn cứ hay đã bỏ thây trên con đường di
tản. So với chuyện di tản thảm họa khỏi thành phố Đà Nẳng, Hòang còn cảm
giác thấm thía nhất vào ngày 15 tháng 4 năm 1975, ngày cuối
cùng di tản tại thành phố Phan Rang, chia tay người thân, bạn bè, rời
khỏi nơi chôn nhau cắt rún của mình, những quyết định dại khờ của tuổi
trẻ thiếu nhiều kinh nghiệm sống, tình cảm và lý trí đột phá, không am
tường chính trị... cảm giác ấy vẫn còn sâu đậm trong tâm trí dù đã hơn 37
năm lịch sử đất nước Việt Nam đã sang trang.
Tin
tức xấu về chiến sự cứ dồn dập mỗi ngày trong tháng 3 và 4, tin đồn tràn
lan gây hoang mang cho quần chúng đồng bào, nào là đã thỏa thuận nhừơng
đất cho Mặt Trận giải phóng Miền Nam từ vùng I đến vĩ tuyến thành phố Cam
Ranh, nên quân đội miền Nam phải kéo về án ngữ phòng tuyến Phan Rang.
Mấy tuần lễ qua, Hoàng bồn chồn lo lắng cho gia đình, tìm phương tiện di
tản gia đình về Sàigòn! Hằng ngày nhìn thấy nhiều chuyến bay phi cơ vận
tải của không đoàn 53 chở rất nhiều quân nhân và gia đình của họ từ Phù
Cát, Nha Trang về, làm cho Hoàng càng thêm hoang mang lolắng cho gia
đình mình. Đột nhiên, tại Tân Sơn Nhất, Hoàng thấy một số quân sĩ binh
chủng Nhảy dù
được phi cơ C130 chuyển ra để giữ lại thành phố thân yêu, nơi quê hương
Tổng Thống Thiệu. Nhiều người suy đoán Phan Rang không thể mất, hoặc dùng
để trao đổi với Công Sản miền Bắc, phòng tuyến Phan Rang phải được tập
trung nhiều hỏa lực để bảo vệ như bảo vệ chế độ chánh phủ Miền Nam hiện
tại. Nào ngờ, căn cứ Phan Rang bị pháo kích ngay trong đêm trước, biệt đội
AC 119K đã cất cánh truy tìm hỏa lực của địch, nhưng không may, trong
lúc vội vàng, hoảng hốt vì hỏa lực đạn pháo kích của Cộng quân rơi khắp
nơi trong căn cứ đã làm cho hai chiếc phi cơ AC119K trên đường di chuyển
va chạm nhau tạo một lỗ hổng rất lớn bên cánh trái, không còn cất
cánh yểm trợ được. Một trong 2 chiếc bị thiệt hại nặng không thể sửa chữa
được! Ngày
hôm sau, lệnh hành quân từ Sư đoàn 5 KQ, Không đoàn 53 chiến thuật bắt
buộc phi đoàn 821 phải đem chiếc máy bay hư hại nhẹ về lại Sàigòn, muốn
vậy, tại phi đoàn phải cử một toán phi hành ra sửa chữa, vá lại lỗ hổng
trên cánh trái máy bay, rồi lái về căn cứ Tân Sơn Nhất. Nghe nói ra
Phan Rang, sửa chữa chiếc máy bay hư và lái về lại Sài gòn, nhiều nhân viên
hoa tiêu phi hành trong phi đoànđã lẩn tránh và tìm cách từ chối vì có
nhiều nguyên do. Thứ nhất không an toàn khi lái, thứ hai dễ bị kẹt lại ở
Phan Rang và không còn phương tiện trở về Tân Sơn Nhất, kế đến tin đồn là
thành phố PhanRang đang hỗn loạn, sắp sửa có lệnh di tản nên không có
máy bay nào dám đáp xuống phi trường Phan Rang nữa. Tại căn cứ, Hoàng lại
thấy nhiều máy bay vận
tải C130 của Sư đoàn 5 Không quân trước đây còn chuyển nhiều tiểu đoàn
nhảy dù ra để bảo vệ Phan Rang, nay lại rút về Saigòn bảo vệ quân khu 3 và
thay vào đó, chở Biệt động quân ra thay thế. Tâm lý quần chúng hoang
mang và họ cho rằng binh chủng Nhảy dù thiện chiến hơn, còn Biệt động
quân làm sao sánh bằng, với lại thành phần tiểu đoàn Biệt động quân hỗn
tạp này lại mới được thành lập do các đơn vị di tản tan rã Biệt động tập
họp lại, nên không thể là thiện chiến. “Thôi rồi, không xong rồi,
Phan Rang lại thất thủ, bỏ ngõ, di tản nữa thôi,” Hoàng than thầm!
Phi đoàn 821 không có hoa tiêu chánh, trưởng phi cơ nào chịu ra Phan Rang
lái chiếc máy bay hư hại về lại nên đích thân trung tá phi đoàn trưởng
H.N. phải chọn phi hành đoàn. Ông chỉ đích danh Hoàng, quê quán PhanRang,
làm hoa tiêu phụ cho ông ta (Co-Pilot) và ông, Air Craft Commander phi
vụ này; tiếp đó, ông ta chọn thêm một cơ phi hạ sĩ quan giỏi về cơ khí
cận với ông và một trung sĩ áp tải lão luyện thâm niên (người phụ giúp
phía sau phòng lái). Hoàng rất vui mừng vì đây là cơ hội tốt, có dịp về
quê nhà để đón gia đình người thân vào Sàigòn vì nếu thành phố Phan Rang
bị thất thủ, rơi vào tay của Cộng Sản, cũng giống như vĩ tuyến 17 đã ngăn
chia
Miền Bắc và Nam mấy mươi năm, biết đến bao giờ gặp lại các người thân.
Phi hành đoàn gồm 4 người tháp tùng chuyến bay C 130 của phi đoàn vận tải
423, Không đoàn 53 chiến thuật Tân Sơn Nhất ra Phan Rang và nếu không thể
lái chiếc AC119k về được sẽ có các chuyến bay khác để chở họ về lại
Sàigòn cùng ngày. Vừa đáp xuống phi trường Phan Rang, Hoàng nói với trung
tá phi đoàn trưởng cho phép về thăm nhà để di tản gia đình vào Sàigòn,
ông trung tá vui vẻ bảo đi nhanh và hẹn giờ cất cánh vào 2 giờ chiều cùng
ngày. Nhìn chung quanh Hoàng thấy có rất nhiều sĩ quan và quân lính đủ
mọi binh chủng bu quanh chuyến máy bay vận tải quân sự sắp cất cánh và
ngạc nhiên khi nhìn thấy nhiều loại xe gắn máy ngã nghiêng bên bãi đất
trống cạnh các ụ máy bay (nơi có
mái che cho phi cơ). Hoàng đang loay hoay tìm phương tiện ra cổng chính
chợt thấy một lính không quân cơ hữu tại phi trưởng đến nói;
- Chào trung úy, em có chiếc Honda này đã đổ đầy xăng và trung úy muốn lấy chiếc nào cũng được, của thiên hạ bỏ lại naynhiều lắm!
- À, mà trung úy đi đâu?
- Tôi ra ngoài phố có chút việc rồi vào lái chiếc AC này về Sàigòn.
-
À! Trung úy đi cẩn thận, mấy hôm nay lộn xộn trong và ngoài căn cứ, do
nhiều người, dân sự và binh lính của các binh chủng từ ngoài vùng I, II
tràn vào căn cứ xin phương tiện về Sàigòn quá đông, nên không giải quyết
hết. Họ nổi loạn, nổ súng. Còn ngoài phố, cướp bóc tùm lum và nghe nói
quân đội đã tái lập trật tự được! Nhà em ở Sàigòn, khi nào trung úy vào
lại, cho em xin một chỗ về Sàigòn nhen!
- OK, cảm ơn, em cứ chờ đó!
Hoàng
leo lên chiếc Honda 67 màu đỏ còn mới mẻ, kiểm tra xăng nhớt đầy đủ, rú
ga phóng xe nhanh ra cổng chính. Cổng phi trường đóng kín và bên ngoài
một xe thiết giáp đang chĩa mũi súng về phía trước đường từ Tháp Chàm di
thẳng vào cổng. Họ sẵn sàng nổ súng nếu có lực lượng Cộng quân tràn vào
hay bất cứ một đơn vị loạn quân nào tràn vào phi trường. Hoàng được nhân
viên gác cổng hỏi han và dặn dò cẩn thận khi đi đường ra phố thị xã Tháp
Chàm và Phan Rang. Trước khi đáp xuống phi trường Phan Rang, Hoàng đã ghé
mắt qua cửa sổ nhìn xuống thành phố, làng mạc chung quanh, nhất là quê
nhà Dư Khánh. Một vài nơi vẫn còn khói bốc do các đám cháy, bầu không
khí
mù mù như sương mai chưa kịp tan biến, nơi đây vừa dập tắt được ngọn lửa
loạn lạc, hôi của, đốt nhà,cướp bóc của nhiều người tù thoát ngục, kẻ
xấu lợi dụng thời cơ, những người đồng đội thất chí, bất mãn trên đường
di tản, đám người nằm vùng thân Cộng Sản đang chuẩn bị cướp chánh
quyền... Hoàng lái xe vào thị xã Tháp Chàm và thấy hai bên phố nhiều nhà
cửa nẻo vẫn còn đóng kín, đường xá vắng vẻ, khuôn mặt những người đi
đường trông lo âu, sợ sệt, hấp tấp, vội vàng. Hoàng mặc bộ đồ bay màu
đen lái xe Honda trông có vẻ lạ lùng đối với người đi đường tò mò, sự
thật họ đang ái ngại cho Hoàng về số phận không may có thể xảy ra bất lúc
nào trên đường phố. Hoàng như người điếc không sợ súng, bất chấp nguy
hiểm đang rình rập, có thể gặp vài anh du kích phục kích dọc đường, có
thể gặp đơn vị Cộng Sản đã có mặt trên đường phố mà Hoàng không thể phân
biệt được. Hoàng ghé nhà người cậu ruột thứ Chín ở ngã ba khu Tam Giác
Phan Rang hỏi thăm tình hình dưới làng và thay đổi bộ đồ dân sự ngụy trang
đã mang theo trong túi xách để lái xe về dưới Nại. Vừa qua ngã ba Xóm
Bánh, gặp một toán Địa phương quân đang đứng nút chặn kiểm soát xe và
người qua lại. Hoàng dừng xe lại, xuất trình giấy tờ chứng minh, kéo túi
xách để họ nhìn thấy khẩu súng P-38 của Hoàngđang nằm đó, quân đội đang
về thăm nhà mà, không phải là Cộng Sản trá hình, giả mạo đâu. Hoàng
cũng không quên thăm hỏi đoạn đường từ làng Văn Sơn và Nại phía trước an
ninh ra
sao. Người lính địa phương kiểm soát ái ngại khuyên Hoàng cẩn thận trên
đường đi và cũng cho biết mấy ngày vừa qua, loạn lạc, cướp bóc đã xảy ra
nhiều nơi, và có thể gặp du kích CS phục kích dọc đường... Đường xá
Phan Rang - Nại vắng hoe, thỉnh thoảng có một hai chiếc xe Honda chạy nhanh
ngược chiều như vội vã về với gia đình. Hoàng về đến nhà khoảng 11 giờ
trưa, vừa thấy bóng dáng chàng, các người thân láng giềng chạy lại vồn vã
hỏi han tình hình chiến sự tới đâu rồi, có thỏa thuận, hiệp ước nào
không,Phan Rang có bị di tản không…... Đầu óc rối bời, thật ra Hoàng cũng
chẳng biết nhiều, chỉ mong họ đừng có hỏi nữa và tránh xa để Hoàng có
thể thưa chuyện quan trọng riêng tư này cùng cha mẹ, em út của mình. Ông
anh
họ, con người bác nhà phía trên cũng ngồi gần và hỏi han,
- Sao em không liên lạc với gia đình Tông Tông, nhất là các chú N., chú T., chú Tr. để biết rõ hơn.
- Trời đất, hồi giờ em có biết họ ở đâu mà hỏi.
Vì
thấy thời gian không còn nhiều, mà người thân cứ xúm xít hỏi han làm
Hoàng thêm lúng túng vội vã và xin lỗi để nói chuyệnriêng cùng gia đình.
Ba Hoàng nói,”Ba
má không thể đi đâu được, con biết đó, bà con họ hàng mình cả trăm người
làm sao ba có thể rời họ được, và mồ mả ông bà không ai trông coi. Thôi
con,có đi thì dẫn mấy đứa em của con theo!” Hoàng lưỡng lự nhìn
năm đứa em nhỏ của mình và tự hỏi,”Dẫn hết mấy đứa em nhỏ thì ba mẹ sống
với ai, dẫn theo một hai đưá em ai đi, ai ở lại,” Thắng, đứa em út năn
nỉ,
- Anh Tư cho em đi theo anh.
- Hổng được, mầy đi rồi còn mấy anh chị của mầy ra sao...
Hoàng
đang suy nghĩ đến Thiện, đứa em trai cũng là cơ khí Không Quân đang đóng
tại căn cứ Biên Hòa, hay là mình đem Thắng vào ở tại cư xá rồi ba anh em
mình nếu có gì bất trắc sẽ di tản dễ dàng. Nhưng Hòang chợt nghĩ nếu
để đứa em út nhỏ dại vào ở tại cư xá độc thân Tân Sơn Nhất và mình bận đi
bay, công tác không có ai bên cạnh, nếu nhỡ bị C.S. pháo kích vào căn cứ
thì mình biết làm sao lo. Thấy Hoàng còn đang lưỡng lự suynghĩ, ba
Hoàng nói tiếp:
-Thôi
con à, con lo cho hai anh em của con đi! Con lo cho thằng Thiện đang ở
trong đó, hai anh em con có gì thì đùm bọc nhau. Ba má và các em cùng ở
lại nơi đây thôi!
Nhìn Thắng rươm rướm nước mắt đòi theo mình, Hoàng không khỏi chạnh
lòng, nhưng chợt nghĩ thân mình còn lo chưa được, huống chi, lỡ có chuyện
gì nữa ba mẹ mình sẽ buồn lắm. Hoàng ôm hôn ba mẹ và các em từ giã các
người thân, chạy qua nhà người bạn thân lối xóm, nhìn thấy bạn B đang
ngồi ăn cơm cùng với mẹ. Hoàng thật sự ái ngại, vì thấy bạn mình rất
thản nhiên như chưa có quyết định gì trước một biến cố lớn sắp xảy ra!
Bạn B. là một sĩ quan an ninh tại địa phương, nếu Cộng Sản có về, chắc
chắn không thể tha thứ người của chính quyền. Hoàng vội nhắn bạn: “Ê, nếu có di tản thì ráng tìm kiếm
phương tiện tàu bè nơi bến Nại của mình mà “dzọt” sớm nhé!” Hoàng vừa bước đi thêm vài bước, người cô ruột thứ Tư chạy ra ôm lấy Hoàng khóc, “Thôi con ạ, đừng đi đâu hết, hãy ở lại cùng bà con dòng họ mình nơi đây.”
Hoàng rất ngạc nhiên và cảm động vì từ nhỏ đến bây giờ cô mình chưa bao
giờ ôm mình vào lòng và khuyên nhủ âu yếm như vậy! Hoàng lái xe mà đầu
óc miên man, phân vân những điều dự tính của Hoàng không thực hiện được.
Trước khi về nhà, Hoàng đã quyết định đem cả gia đình di tản và nếu
không ai chịu đi, Hoàng phài quì gối bái lạy công ơn sinh dưỡng với cha
mẹ rồi ra đi hoặc là phải dẫn theo một đứa em trai theo, cuối cùng Hoàng
bước ra đi mà cũng không thực hiện được chuyện gì, tâm
trí Hoàng còn rất lưu luyến quê hương, chưa dứt khoát chuyện di tản.
Nghĩ đến thảm họa Tết Mậu Thân, mùa hè 1972 tại Huế, Hoàng khẽ rùng
mình!
Hoàng đang nghĩ cách khác, khi về Sàigòn, anh sẽ làm danh sách các
người thân và trình xin với thượng cấp một chuyến bay riêng về Phan Rang
để di tản tất cả càng sớm càng tốt. Hoàng lái xe lên Phan Rang ngang qua
đoạn đường ngã ba Xóm Bánh mà lúc nãy có trạm kiểm soát và bây giờ
vắng tanh, không còn thấy bóng người lính Cộng Hòa nào kiểm soát nữa.
Không gian rờn rợn, thiếu an ninh trên đường phố, làm như trinh sát Cộng
quân đã có mặt nơi này, Hoàng cảm nhận!
Về lại căn nhà người cậu để thay đổi bộ đồ bay lên phi trường, Hoàng gặp
lại dì dượng Ch. đang chủ tiệm thuốc tây Minh Trung ngoài xóm động, họ
muốn Hoàng đưa gia đình họ về Sàigòn bằng máy bay. Hoàng vội nói, “không
kịp rồi, vì cháu phải lên phi trường ngay bây giờ và cháu không thể chậm
hơn 1 giờ nữa, dì dượng đưa danh sách gia đình, cháu sẽ xin phương tiện
máy bay về lại Phan Rang đón sau.” Hoàng lái xe phóng nhanh lên Phi
trường, đi ngang cống ngã ba Tháp Chàm chợt nhớ căn nhà M. Hồng, cô
bạn quen thân từ khi Hoàng đi nhập ngũ khóa sĩ quan Thủ Đức. Lúc ấy Hoàng
và số người bạn cùng tuổi cùng lớp Đệ Nhất B khi
xưa tại trường trung học Duy Tân như Ba Chê, Phong, Hiệp, L... đi trình
diện ngập ngũ tại trung tâm nhập ngũ Tháp Chàm, người bạn L. có đưa Hoàng
đến nhà M. Hồng ở gần đó để chia tay chào từ giã với gia đình (vì có bà
con.) M. Hồng lúc ấy rất e thẹn, ngập ngừng ít nói trong giây phút làm
quen ban đầu, ánh mắt hiền lành ngây thơ chen lẫn với mộng mơ buồn
buồn... và đôi mắt ấy đã phát ra một một tình thương, một cảm giác rất
thân thương (có lẽ sự thương hại thì đúng hơn!) cho số phận các anh trai
thời chinh chiến... Xưa nay, chinh chiến mấy ai về lại! Ngày đầu làm
quen cũng là ngày biệt ly trong niềm hy vọng tái ngộ sau này! M. Hồng,
con gái ông N.K.Kh.., một dân biểu quốc hội, nhà sát cạnh đường phố Tháp
Chàm, nhỏ hơn Hoàng vài tuổi, nữ
sinh trung học Duy Tân, Hoàng học Đệ Nhất B và nàng đang học Đệ Nhị,
nước da ngăm ngăm nhưng rất duyên dáng, tóc đen huyền xõa dài, hàm răng
trắng và đều, rất tự nhiên trong cách nói, mỗi khi cười để lộ hết hàm
răng như hạt bắp non, xinh xắn. M. Hồng thường viết thư thăm hỏi
Hoàng lúc còn sinh viên sĩ quan trường bộ binh Thủ Đức và trung tâm huấn
luyện Không quân Nha Trang. Hoàng rất vui vẻ và xem nàng như người em gái
hậu phương thân thương tâm sự và liên lạc thư từ trong thời gian huấn
luyện quân sự. Hoàng cũng viết thư kể chuyện luyện tập quân sự nhọc nhằn
nơi quân trường, những tuần lễ đầy gian khổ huấn nhục quân sự tại TTHLKQ
Nha Trang và vui sướng mỗi khi nhận được thư an ủi của người em gái
hậu phương. Mỗi lần nhận được
thư của M.Hồng đều bị các cán bộ niên trưởng tại quân trường phạt dã
chiến, thân xác rã rời vì phải nhảy xổm hay hít đất vài trăm cái trước
khi nhận thư. M. Hồng kể chuyện học hành nơi trường trung học Duy Tân,
chuyện bạn bè, thầy cô giáo làm cho Hoàng nhớ lại khung trời học đường
Duy Tân kỷ niệm mà Hoàng vừa rời xa để thi hành nghĩa vụ người trai
thời chiến.
Thời
gian qua mau, sau khi tốt nghiệp trường bay tại Hoa Kỳ, Hoàng như cánh
chim tung bay trên vùng trời khói lửa, khắp bốn vùng chiến thuật của quê
hương miền Nam Việt Nam nên ít có dịp về quê thăm gia đình và người em
gái nhỏ. Sau đó, Hoàng được biết M. Hồng đang làm việc tại Tòa Hành Chánh
Phan Rang, cơ quan quân sự của Hoa Kỳ và lập gia đình với một anh chàng
cán bộ xây dựng nông thôn; vì vậy, Hoàng cũng đã có dịp thăm hỏi, tìm đến
nơi làm việc và được nàng chiêu đãi ly chè đậu ván nước dừa, chuyện trò
ôn lại chuyện ngày xưa hồn nhiên và thầm trách nhau trong tiếc nuốt những
kỷ niệm, muộn màng... Hoàng vẫn còn độc thân, bay bướm, lả lướt trên
đường tình cảm và vướng bận nhiều mối tình học trò... nên nào có để ý
đến người em gái yêu thương bé nhỏ cùng quê hương, tuy nhiên mỗi lần theo
phi cơ về phi trường Phan Rang, Hoàngđều có ghé thăm gia đình của M.
Hồng. Má của nàng rất yêu quí Hoàng, xem Hoàng như con ruột, và em gái
của nàng cũng xưng hô với Hoàng như một người anh kính yêu. Hoàng dựng xe
và bước vào nhà thăm hỏi, cả nhà đi vắng chỉ còn má của nàng đang trông
nhà. Bà rất vui mừng thăm hỏi, tương thuật lại chuyện lộn xộn tan rã
quân lính, bọn tù thoát ngục cướp giựt vừa xảy ra mấy ngày nay trong thị
xã Phan Rang và Tháp Chàm, chuyện gia đình M. Hồng cũng dự định di tản vào
Sàigòn. Hoàng thưa,
- “Gia đình bác có định di tản không?”
Bà
phân vân vì nghĩ rằng bà ở lại rồi sẽ ra sao, con cái bà có làm việc
dính líu đến trong chính quyền miền Nam nên phải vượt thoát... Bà thở dài
và không có quyết định nào về việc đi ở trong giờ phút nghiêm trọng này!
Hoàng vào phi trường kịp lúc chiếc máy bay vừa sửa chữa xong. Hai người
hạ sĩ quan cơ phi và áp tải đã trèo lên cánh trái phi cơ, dùng một loại
tape đặc biệt che phủ kín nơi lỗ hỏng móp méo do tai nạn hai chiếc máy
bay va chạm. Lớp tape được bao bọc nhiều lớp trông cũng chắc chắn giống
như một người bị gãy chân nay được băng bột để có thể chống nạn bước đi
khập khểnh. Phi hành đoàn của Hoàng có bốn người và khi bước lên phòng
lái thì đã thấy vài chục quân nhân thuộc nhiều binh chủng đã sắp hàng xin
cho họ quá giang di tản về Sàigòn, Trung tá phi đoàn trưởng của
Hoàngnói,
- Đây
là chiếc máy bay hư hỏng, chúng tôi mang về Sàigòn để sửa chữa. Chuyến
bay nàychưa biết an toàn thế nào nên tôi không thể chở quí vị. Chúng
tôi có mang dù, nếu nguy hiểm chúng tôi có thể thoát thân, còn quí vị tôi
không bảo đảm. Quí vị nên suy nghĩ và tìm phương tiện khác an toàn hơn!
Tất cả “hành khách không mời” im lặng lúngtúng! Suy nghĩ giây lát rồi họ cùng buộtmiệng nói,
- “Không sao đâu trung tá,.. nếu có gì …chúngtôi cam chịu!”
Ông trung tá N,
- “Nếu quí vị không sợ thì xin mời lên, OK!”
Những quân
nhân đã từng đứng trước cái chết khi đối diện với quân thù nơi chiến
trận, giờ này sá gì chuyện mạo hiểm này họ lại lo sợ... Không có sự chọn
lựa nào khác, tất cả chuyến bay vận tải trong ngày hôm nay đã chấm dứt
nên họ phải bám lấy chuyến bay nguy hiểm này.
Hoàng lật trang “Checklist” (Pre-flight) để kiểm tra (check) lại các
từng mục chi tiết thứ tự theo sự chỉ dẫn trước khi nổ máy. Hoàng ngồi ghế
phải dành cho người phi công phụ và Trung tá N. ngồi ghế trái điều kiển
di chuyển máy bay ravị trí cất cánh. Hoàng liên lạc vớiphòng kiểm soát
không lưu xin cất cánh:
- Tower, Tinh long 2 ready for takeoff
- Roger, Tinh long 2, number 1 for takeoff
Hoàng
phụ kềm cần lái, trong khi đó trung tá N. đẩy hết cần ga (full throtle)
về phiá trước, ấn nút mở máy hai động cơ phản lực, chân đạp thắng giữ cho
chiếc máy bay đứng yên. Tiếng động cơ phản lực rít lên ầm ầm điếc tai,
hai cánh bay của chiếc AC 119K lắc lư và phóng nhanh về phía trước khi
ông trung tá N. buông hai chân thắng ra. Ông điều khiển chiếc máy bay
chạy thẳng trên phi đạo, mọi người trên tàu theo dõi chiếc máy bay đang
lướt nhanh trên đường vạch thẳng màu vàng, một số dõi mắt nhìn vào nơi
cánh trái đã được băng bó bằng loại tape đặt biệt. Tay lái vẫn thăng
bằng khi ông nhấc hỏng khỏi mặt đất, vượt qua ngọn Tháp Chàm bay cao lên,
khi đến 1000
bộ(feet), ông quẹotrái bay vòng trên vòng đai phi trường để lấy thêm
cao độ. Gió mạnh thổi bật các lớp tape đã dán trênchỗ hỏng tạo nên âm
thanh lập bặp... bên ngoài không gian, và sức gió cản quá mạnh không cân
bằng hai bên cánh làm chiếc máy bay bắt đầu nghiêng xuống về phía trái,
Hoàng và ông trung tá, hai người cố gắng gồng mình bẻ cần lái cho lên cao
bay thẳng. Chân phải Hoàng đạp mạnh thêm vào bàn đạp (right pedal)
để cái đuôi máy bay dạt về bên phải trong khi đó bẻ mạnh cần lái hơn 45
độ về bên phải để có thể điều khiển máy bay bay đúng hứơng. Gió mạnh thổi
qua lỗ hỏng trên cánh trái đã làm cho tòan thân chiếc máy bay rung mạnh
kêu sành sạch...hành khách trên tàu có cảm giác, cánh trái chiếc máy bay
không thể chịu đựngđược lâu và
có thể sắp bị rách lìa ra khỏi thân máy bay, sự việc đang xảy ra giống
như những đoạn phim ảnh nguy hiểm, hồi hộp, nghẹt thở, gây cấn của
các tài tử danh tiếng Hollywood thủ vai chánh mà Hoàng đã từng xem trong
các rạp chiếu bóng. Hiện tại Hoàng và các hành khách là những nhân vật
chính thật sự trong một phi vụ ác liệt của giờ thứ 25 trở về căn cứ. Họ
đang chiến đấu để sống còn trong những giây phút định mệnh trên không
trung mây trời này! Hoàng cũng không biết trong số hành khách trên
chuyến bay có người bị yếu tim, có người già, con nít hay có phụ nữ đang
mang thai không? Họ đang lo lắng, sợ hãi ra sao?.. Ngồi phía sau trong
phòng lái, có một vị Đại tá phòng tổng tham mưu xin đi quá giang về
Sàigòn đã chứng kiến thấy Hoàng vật lộn với
cần lái máy bay mà lòng lo lắng, ái ngại, sắc mặt thay đổi. Mọi người
trên máy bay cầu nguyện thầm, mắt thì dõi mắt nhìn vào cánh trái máy bay
đề xem sức gió đang tiếp tục phá rộng chỗ bị móp méo. Hoàng lên tiếng
nói, “Trung tá ơi, chắc không thể điều khiển bay xa được, mình đang ở trênSông- Pha, với độ cao 3500 feet.” Mây
mù che phủ lác đác phía dưới nên ông không nhận diện nơi nào, nhưng với
Hoàng đã là thổ địa vùng này, nhìn xuyên qua lỗ hổng của đám mây che phủ
ở cao độ thấp bên dưới các địa danh như núi cà Đú, cầu Tri Thủy, Đầm
Nại, Hộ Diêm, Cửa, ống trắng dẫn nước lấp lánh trên đập Đa Nhim lúc ẩn
lúc hiện rất quen thuộc, Hoàng có thể xác định vị trí mình đang ở đâu. Trung tá N. đồng ý, tay
phải ông giảm tốc độ, tay trái hạ cần lái về phía trước để máy bay hạ
thấp cao độ và tìm chỗ hổng của đám mây mù phía dưới. Ông điều
khiển chiếc AC 119K ra khỏi đám mây mù đang ở cao độ 3000bộ (ft) xuống
thấp dần và bình phi (giữ độ cao) 1500 ft, lúc ấy mọi người cảm thấy nhẹ
nhàng trong lòng khi trông thấy rõ ràng khung cảnh phi trường Phan Rang
phiá trước và các dãy núi cao chung quanh. Hoàng phụ giúp giữ tay lái bay
thẳng và bấm nút liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát không lưu
phi trường xin đáp khẩn cấp. Dưới mặt đất, có hai chiếc xe chữa lửa chớp
đèn đỏ Emergency đang túc trực chạy dọc theo phi đạo theo hướng chiếc phi
cơ lâm nạn đang đáp xuống đề kịp thời dập tắt ngọn lửa nếu xảy ra tình
huống xấu. Hoàng tiếp tục liên
lạc vô tuyến với đài kiểm soát để xin phương tiện chở phi hành đoàn trở
về Sàigòn gấp và được một chiếc vận tải C130 cùng không đoàn 53
Chiếnthuật đang sắp cất cánh chờ sẵn chở về Sàigòn. Khi máy bay xuống
thấp và tốc độ bay chậm dần nên chiếc phi cơ bớt lắc lư, hai người hoa
tiêu chánh phó có thể điều khiển dễ dàng đáp xuống phi đạo một cách nhẹ
nhàng.
Hoàng thở phào nhẹ nhổm, thoát nạn vì rất may không có gia đình của
Hoàng tháp tùng chuyến bay này về Sàigòn, nếu không, Hoàng cũng chẳng
biết xử trí làm sao. Ba má Hoàng mà thấy cảnh này chắc không dám ngồi
trên máy bay thêm một lần nữa. Thêm vào đó, nếu có thân nhân gia
đình Hoàng ở đây, làm thế nào Hoàng có thể đưa gia đình di tản vào Sàigòn
ngay hôm nay; vì chốc nữa đây ngay chính bản thân Hoàng không biết có
được một chỗ ngồi trên chiếc C130 để trở Tân Sơn Nhất hay không, huống hồ
có người thân bên cạnh. Nếu gia đình Hoàng không đi vào Sàigòn được mà
phải trở về làng Nại, họ phải dùng phương tiện nào, Hoàng
thật vô cùng bối rối, đầu óc như muốn nổ tung! Lúc bình thường chàng còn
có thể xoay trở gỉai quyết được, nhưng trong giờ phút thứ 25... này tìm
đâu ra phương tiện chuyên chở, một vấn đề nan giải, Hoàng không có phải
nhân viên cơ hữu tại phi trường, chẳng có quyền hạn gì để xin phương tiện
riêng, chẳng có ai quen thân để được giúp đỡ. Từ trạm hàng không quân sự
ra cổng chánh quãng đường rất xa, không có phương tiện di chuyển và khi
ra đến cổng rồi, không có chiếc xe hàng nào về lại làng Nại, không lẽ ở
lại trong phi trường để lãnh đạn pháo kích của địch quân hay sao!?
May
quá! Hoàng chỉ có một mình, một thân mà thôi! Chiếc phi cơ vận tải C130
đang nổ máy chờ đợi, cánh cửa phía sau khép hờ để ngăn cản những “hành
khách không mời” cũng muốn chạy theo để lên tàu, ông trung tá, Hoàng và
hai người hạ sĩ quan chạy theo nhanh và phóng vù vù… lên tàunhư việc
“mưu sinh thoát hiểm”. Tất cả, định mệnh xếp đặt, gia đình và người thân
của Hoàng không có mặt trên chuyến bay này! Hoàng thầm nghỉ, nếu đã ra
đi trốn chạy mà còn quay lại nhà, hậu quả khó lường được, ngày hôm sau
tức 16 tháng 4 năm 1975, thành phố PhanRang đã bỏ ngõ và gia đình Hoàng
chắc chắc phải lãnh hình phạt nặng nề của chính quyền chế độ mới nơi thôn
quê hẻo
lánh, nhiều thủ đoạn trả thù hèn hạ trong lúc giao thời. Cầu mong Phật
trời che chở gia đình Hoàng, xin đừng có xãy ra những thảm hoạ trả thù
như Tết Mậu Thân tại Huế, mùa hè đỏ lửa 1972!
Vĩnh biệt thành phố PhanRang!
Vĩnh biệt người thân, bạn bè, vĩnh biệt...!
Xin tạ ơn Trời Phật… đã che chở Hoàng qua tainạn khủng khiếp này!
Hoàng
thì thầm khấn vái, nguyện cầu khi ngồi trên chuyến bay thoát hiểm trở
về Sàigòn lúc 4 giờ 30 chiều, ngày15 tháng 4 năm1975!
Mùa Xuân California, ngày 15 tháng 4 năm 20..
Sinh Tồn chuyển