Truyện Ngắn & Phóng Sự
Sự lừa dối hào nhoáng - Nguyễn Trọng Hoàn
MỘT:
NHÂN.
NGƯỜI EM:
Tôi có mỗi cây khế độ nhật. Chim ăn như thế này
!
CHIM PHƯỢNG: " Khổ, nhục, đói, nghèo, đó là cái nhân của viên giác, cái nôi của thiên tài, vực thẳm cho đứa ngu phu. Cuộc sống vốn vô thường. Nhân quần các người vẫn an ủi nhau bằng một câu sặc mùi thiền: “ Ðám tro tàn, còn lại sau đống rơm của bọn mục đồng hay sau một thành phố đã bốc cháy thì cũng là đống tro tàn, chóng hay chày thì gió cũng thổi tung đi hết mà thôi.”
NGƯỜI EM: " Chim hay nói chữ quá, lại dùng toàn dao to búa lớn. Triết lý vặt trên cái bụng đói của người khác. Nhà ta trước kia, dinh cơ như chốn cung đình, bây giờ một sớm một chiều, ta bị hất văng ra cái góc vườn này, người đạt đạo còn muốn cắn lưỡi mà chết, huống chi một kẻ phàm phu tục tử như ta.."
CHIM PHƯỢNG: Ta nghe nói: “Huynh đệ như thủ túc, phu phụ tự bố y!” Tình đồng bào sao nỡ đuổi nhau, điều này ta thực sự không hiểu? Nhân quần các người, mở miệng ra là nói đạo lý với nhân luân, mà lại đối xử với nhau không khác chó mèo. Ðiều này ta vẫn thấy trong lòng ray rứt.
NGƯỜI EM: Tất cả là do chị dâu tôi mà thôi, chị cố chấp và hay săm soi bản chất.
CHIM PHƯỢNG: Ồ đại trượng phu, đầu đội trời, chân đạp đất. Trách chi cái đám phụ nhân, cái loài đái không qua ngọn cỏ. Thôi, nhà ngươi hãy leo lên mình ta.
HAI:
QUẢ.
PHÁN
QUAN: Trước mắt người là quyển Thánh kinh, nhưng
người không cần phải đặt tay lên đấy. Vì trước Thiên
tòa, người không thể nói dối, người cho biết tên,
tuổi?
TRẢ LỜI: Tôi John Paul Vann, sinh năm 1924 . Tên Việt: Nguyễn Hữu Nhất.
PHÁN QUAN: Tại sao có tên Việt, tại sao lại là Nhất?
TRẢ LỜI: Tôi thành danh ở Việt Nam, tạo oan nghiệp ở Việt Nam. Tôi dùng tiền Mỹ, bom Mỹ, xương máu người Việt để làm anh hùng. Dùng xác thân phụ nữ Việt để giải trí hưởng lạc. Còn Nhất là Number One, tiếng Việt là anh Cả, là Số Dzách !
PHÁN QUAN: Các con số do Colby xác nhận: 28.000 hạ tầng cơ sở bị bắt. 20.000 bị giết. 17.000 bỏ ngũ, tính cho đến năm 1971. Con số ấy cao, thấp, đúng sai?
TRẢ LỜI: Con số ấy rất thấp so với kết quả có cái tên mỹ miều: “ Chiến dịch Phượng Hoàng.”
PHÁN QUAN: Có trung sĩ Trần Văn Thuận, hạ sĩ quan tiếp liệu thuộc Chi khu Trảng Bàng, thưa người cướp vợ của anh ta: Cô Lê Thị Rua, nữ giáo viên trường tiểu học Bào Trai. Nhà ở ấp Mới 1, xã Tân Phú Trung, quận Củ Chi. Ðúng, sai?
TRẢ LỜI: Tôi có cho cô ta quá giang về Sài Gòn. Tôi có cho cô ta dùng thuốc kích thích. Sau đó chụp hình cô ta trần truồng. Nhưng những lần sau cô ta tự tìm đến tôi. Cô tâm sự: “Của anh to, khỏe. Người Mỹ có cái đáng yêu là không bao giờ lục vấn quá khứ!”
PHÁN QUAN: Người cho biết về Quân đội Việt Nam Cộng hòa?
TRẢ LỜI: Tôi không có điều gì ca thán về lực lượng này. Họ hùng mạnh, có lý tưởng quốc gia, chống Cộng, nhưng chắp vá. Một người có chân tay khỏe mạnh nhưng không có cái đầu.
PHÁN QUAN: Người nói gì mà ta không hiểu?
TRẢ LỜI: Ong Diệm đã nói thẳng với người Mỹ, là ông ta chỉ cần tiền và vũ khí. Phần còn lại đã có cái đầu của Bào đệ ông ta. Vì tự ái, vì nóng vội. Người Mỹ đã lộ quá sớm bản chất thái thú của mình, bằng cách xua Lũ chó săn thích danh, hám lợi ra để “ cắn” chết hai anh em ông ta. Thế là chính nghĩa mất. Một Potted Tree Government, cùng với một Potted Tree Army được dựng lên với một bọn vô tài bất tướng.
PHÁN QUAN: Còn ông Hồ Chí Minh?
TRẢ LỜI: Ðó là một Nhạc Bất Quần của Lịch sử Cận đại Việt Nam.
PHÁN QUAN: Một câu hỏi chót: Người nghĩ gì về quyển: A Bright Shining Lie. John Paul Vann And America In Viet Nam. Tạm dịch Sự Lừa Dối Hào Nhoáng?
TRẢ LỜI: Nói và viết về một người chết. Dù bốc thơm hay phá thối thì ai mà viết chả được. Cho xuất bản cuốn sách này, người Mỹ đã lấy tay tự tát vào mặt mình. Họ đã ngồi xổm lên sự hy sinh cao cả của các tử sĩ Mỹ và Ðồng Minh. Cuốn sách không có tí giá trị gì về văn học. Lại càng không có giá trị gì về lịch sử. Ðó chỉ là một bản thống kê, với những con số bị bóp méo và những cuộc lang chạ xác thân được vo tròn.
BA:
THIÊN LA.
Buổi tối,
tôi đứng vịn song sắt nhìn ra ngoài, trời mênh mông
đầy sao, những mái nhà giam phía trước mòng mọng
sương đêm, ôm ấp một chút khí lạnh của tiết Tiểu
hàn. Chân tay, mình mảy tôi ê ẩm. Kết quả của trận
“ Chào phòng” sáng nay.
.. . Tôi lách mình vào phòng số 8, cười cầu
an. Toàn đại bàng! Tôi thảng thốt, những con chim
được xâm toàn màu đen, tung hai cánh dài ngoằng
đến tận hai cánh tay.
Tôi lảo đảo sau hai cú đấm như trời giáng. Máu từ
mồm mũi nhỏ xuống nền nhà. Tôi ôm mặt, thằng đại
bàng kéo dậy.
- Ðánh bỏ mẹ nó đi, thằng này vượt biên, lắm tiền
nhiều của. Mở mắt ra cho mày chọn hai thứ.
... Trước mặt tôi, một cái dùi dài hơn một gang
tay, đen rỉ và một bát nhựa đầy phân hôi thối, “
Ðời mình đã đến nông nỗi này sao?”. Tôi lưỡng lự,
đẩy bát phân ra, rồi cầm cái dùi đưa cho tên đại
bàng
- Tôi chọn cái này.
- A! có chí khí, lâu lắm chúng ta, giai cấp hạ dân,
mới gập một người chí khí. Ðáng phục, đáng phục.
Thôi nhắm mắt lại đi con!
Tôi nhắm mắt lại.. . Con chim đại bàng đang thả
người anh tội lỗi xuống biển.
- Thôi, đủ rồi, cho tao lãnh.
Tiếng nói trầm trầm, âm u như tiếng vọng từ âm phủ..
.
BỐN:
NGƯỜI MỸ.
Năm
1970, Chiến đoàn trừ 333, thuộc Quân đoàn III tràn
chiếm Svrayriêng, Tiểu đoàn 2/46 thuộc Sư đòan 25
BB, tiến quân từ ngả Ðức Huệ lên tây bắc. Chạm địch
tại Ba Thu. Tôi bị thương vì một viên đạn bắn sẻ.
Thay vì đưa về bệnh viện Cộng Hòa. Trực thăng tản
thương “ bỏ” tôi vào Bệnh viện 3 Dã chiến của Mỹ.
Tôi nằm cùng phòng với một viên Thiếu úy công binh
người Mỹ. Hai cái giường cách nhau chưa đầy 2 mét.
Viên dạn xuyên qua phần mềm, sau mấy lần “ Thông
nòng” xé thịt, vết thương đã bắt đầu khép miệng.
Buổi sáng Thu vào thăm, cô thảng thốt:
- Sao anh bơ phờ thế này?
- Cứ ngủ li bì. Tôi nói.
Ðầu lưỡi của cô sinh viên dược lướt nhẹ lên từng
viên thuốc. Cô nhíu mày.
- Chết thật, họ cho anh dùng quá nhiều thuốc ngủ
đây mà!
Cô chọn những viên thuốc màu xanh, ném qua cửa sổ.
Khoảng nửa đêm về sáng. Tôi
nghe thấy có tiếng rì rầm ở giường bên cạnh. Một
lúc sau, cái giường lại rung lên từng chập. Có tiếng
ú ớ, rên rỉ như tiếng kêu của con thú đến mùa..
Tôi cười một mình, “thằng Bob này gan thật, dám
đưa gái vào tận đây!” Nụ cười của tôi tắt ngấm khi
tôi nghe tiếng của Bob.
- Liệu “ Thằng Mọi” nó ngủ say chưa?
- Nó vẫn kêu đau, em cho nó uống nhiều thuốc ngủ.
Chắc nó “ đi xa” rồi. Anh có làm sập giường, nó
cũng không biết đâu.
Tôi nhận ra ngay tiếng của cô y tá có cái mông ngún
nguẩy.
- Anh thù ghét cái đất nước chó đẻ này. Ðánh tụi
Da Ðỏ dễ hơn tụi Da Vàng ( im lặng) Anh chỉ mê cái
“ Vùng đất” này mà thôi.
Có tiếng cười dâm dật, cái giường lại rung lên từng
chập.
Tiếng người đàn bà:
- Thế mà sáng nay, con bạn gái của “ Thằng Mọi”
này vào. Anh nhìn chằm chằm như muốn lột quần nó
ra vậy.
Tiếng Bob:
- Ồ chẳng qua cũng là con “ Mọi Cái”
Tôi co bàn chân không bị thương,
đạp mạnh vào bàn thuốc đầu giường, chai lọ đổ loảng
xoảng. Tôi ngồi bật dậy. Cầm cái nạng, chỉ vào hai
đứa đang vội vã lấy cái chăn che thân.
- Tổ sư cha chúng mày, đồ khốn kiếp
Cơn giận vẫn để dành một chút cho lý trí. Nó cười
tôi:
- Ong chửi bằng tiếng Việt, nó hiểu thế đếch nào
được.
Các bác sĩ và y tá kéo đến. Tôi nói:
- Các ông có hai công dân mất dạy.
Tôi khập khễnh bước ra khuôn viên, ghế đá ướt lạnh
sương đêm. Tôi gõ nhè nhẹ vào vết thương tìm cái
đau nhục thể. Tiếng nhạc đồng quê “ Corn Is The
Staff Of Life” dập dìu đuổi nhau trên thảm cỏ thẫm
đậm. “ Cơm Tẻ Là Mẹ Ruột”. Tôi bỗng nhớ mà thương
con đò chiều cô lẻ, mang mang câu hò đồng vọng.
Hạt mưa xuân lấp lánh, nhí nhảnh trên ngọn xoan
đào, khói lam chiều bềnh bồng ôm ấp mái tranh quê.
Tiếng hát ru, hòa với tiếng võng đưa kẽo kẹt dưới
ánh trăng non vắt vẻo cành tre.. .
- Ồ Mẹ đẹp quá, đẹp hơn cả thiên thần. Con của Mẹ
lẽ nào lại là cú, là quạ, là mọi cơ chứ? Chỉ tội
nhà mình nghèo quá. Quân Dữ lại hoành hành, nên
chúng nó mới lên mặt dạy đời, khi dễ.
Tôi gục đầu vào cây nạng: Mẹ, Mẹ ơi.
NĂM:
VIỆT CỘNG.
Người đàn
bà ngồi trước mặt tôi là vợ của một Huyện ủy Việt
cộng. Ðầu chít khăn tang, mắt sưng đỏ, gầy guộc.
Tôi ngạc nhiên:
- UƯa, anh Sáu?
- Không, thưa ông Quận, ông thân sinh nhà tôi vừa
qua đời.
- Thế, tôi giúp gì được chị?
- Thưa ông, xã Mỹ Lộc không cho làm đám tang, tôi
đến để xin ông
- Chị nói sao? xã không cho làm đám tang? Tôi ngạc
nhiên hỏi.
- Vâng thưa ông, xã chỉ cho chôn thôi. Tôi lên xin
thẳng ông. Nghĩa tử, nghĩa tận.
Lời van xin làm tôi xấu hổ. Tôi nhớ ngay đến cuộc
điện đàm với Trưởng phòng An ninh Sư đoàn sáng nay.
Tôi nói:
- Chắc chị cũng biết, tôi và anh Sáu đã tìm cách
“ Khử” nhau nhiều lần mà không được. Nhưng đấy là
việc của chúng tôi. Tôi cho phép chị về lo hậu sự
cho cụ. Muốn làm đám mấy ngày tùy chị. Chị cho tôi
gửi lời chia buồn tới anh Sáu. Chị nhắn ảnh, cứ
về..
Tôi dẫn chị qua văn phòng phó quận, rồi đi thẳng
xuống trung tâm hành quân chi khu, vừa thấy tôi
bước vào, viên sĩ quan trực đưa cho tôi một phong
bì màu vàng, bên góc phải có hàng chữ “ Tối mật”.
- Thư của Trung tá Ng. Bên an ninh Sư đoàn có dặn
tôi đưa tận tay Thiếu tá.
Tôi
mở ra đọc. Xong bỏ vào túi áo. Tôi viết vào sổ trực:
- Thiếu tá Thận, từ nay đến khi có lệnh tôi, không
tổ chức hành quân: Quân sự, bán quân sự, cảnh sát
trong toàn khu vực ấp Xóm Riềng, thuộc xã Mỹ Lộc.
Ban 3 nhớ báo cho Xã trưởng và Trung đội 23 Nghĩa
quân.
Tôi buông bút, thanh thản như một hiệp sĩ háo thắng.
Một giờ đêm, tôi bật dậy “
Chuông điện thoại giờ này?”. Tôi không còn tin vào
tai mình nữa, cái ông nghe hờ hững rơi xuống. Tôi
lao xuống phòng hành quân. Thiếu tá Thận đang rên
rỉ:
- Ngừng bắn, ngừng bắn ngay đi.
Quay lại phía tôi, người sĩ quan trưởng ban 3 phân
trần:
- Thưa Thiếu tá, tôi đã gửi công điện xuống xã từ
12 giờ trưa nay, đã nhắc ông Xã trưởng. Ðại úy Lân
hôm nay, không về Chi khu. Ong ấy từ Trung Lập,
kéo thằng Thám báo về thẳng Mỹ Lộc. Hình như ông
ấy say..
Tôi run lên như người lên cơn sốt. Chiếc jeep phóng
vùn vụt trong đêm, mà tôi vẫn cảm thấy chậm. Quốc
lộ 1 vắng tanh.
.. . Nắp ván thiên muốn bật tung lên.. quan tài
lỗ chỗ những vết đạn như tổ ong bầu. Chị Sáu thất
thần, ôm hai con đang run rẩy, quỳ xuống trước mặt
tôi:
- Ong làm lớn mà ông lừa chúng tôi.
Mặt tôi nóng bừng, tôi vuốt mặt như cố lau những
giọt nước mắt khinh bỉ đang tới tấp nhổ vào mặt
mình. Tôi cho chở tới một cỗ quan khác, và phải
quay mặt đi khi tang gia liệm xác một lần nữa..
Thời kỳ ấy, Sư đoàn 25BB,
trách nhiệm lãnh thổ ba tỉnh Hậu Nghĩa, Long An,
Tây Ninh, và được gọi là Khu 31 Chiến thuật. Trung
tá Ngh., Trưởng phòng, người miền Nam, lại có bà
con xa với Sáu Bay. Ngh. đang tìm cách chiêu dụ
Sáu Bay ra hồi chánh. Cuộc điện đàm của tôi nói
ở trên với Ngh. Ngh. xin tôi cho Sáu Bay về làm
đám. Ngh. còn rất thân với một Linh mục, Phao Lô
Nguyễn Văn Phán, Chánh xứ đạo Tha La.
SÁU:
THA LA.
Tha la, địa danh thơ mộng,
cái gạch nối giữa Hố Bò, Bời Lời, Ba Thu. Ðiểm yết
hầu của đường giao liên chiến lược, được nhiều người
biết đến, qua một bài thơ được phổ nhạc. Một nhánh
sông Vàm Cỏ, nước xanh xanh lúc nào cũng rưng rưng
tiếng chuông xóm đạo. Có Cầu Quan soi bóng văn nhân
sĩ tử một thời. Có áo trắng ca đoàn thả gió những
chiều tan lễ. Có chiến tranh về để trái ngọt cây
lành, nhà Chúa, nhà dân hứng chịu bom đạn của những
kẻ vô thần.
Tiếng em hát giữa giáo đường.
Chúa về trên những Thánh chương bàng hoàng.
Nhưng Tha La vẫn giầu nhất trong sáu họ đạo của
quận, dân Ninh Bình di cư. Toàn tòng, cha chánh
xứ lại giao thiệp rộng. Ðạo đời tịnh tiến, lại là
cha Linh hướng cho đại tá Tỉnh trưởng. Do vậy cha
nghiễm nhiên trở thành một Capo Di Capi ( Cha của
các Cha)
Cha đến chào xã giao khi tôi
về nhậm chức được hai ngày. Cha reo lên khi nhìn
trên bàn làm việc của tôi có quyển Khải huyền.
- Ồ, Thật là quý hóa, ông Quận không phải là người
nước Chúa mà lại có lòng tin Chúa.
Tôi nói:
- Tôi đọc Thánh kinh để tìm căn cốt của sự lý chứ
không phải tìm niềm tin cha ạ!
Cha khôn khéo đổi giọng:
- Ồ! Vô tri bất mộ, như vậy cũng quý hóa lắm rồi.
Cha ghét tôi từ cái ngày sơ giao ấy. Lần này, cha
đến với một người Mỹ, có cái danh thiếp in nổi:
JOHN PAUL VANN
( Nguyễn Hữu Nhất)
Dep.Corp.Biên Hòa
Tôi bắt tay Vann:
- Cố nhân!
Quay lại cha Phán , tôi chắp tay trước ngực, thay
lời chào.
Cha Phán híp mắt, môi nhếch qua một bên, hé lộ con
chủ bài:
- Ông Vann rủ tôi đến thăm Thiếu tá. Chúng tôi rất
tiếc vụ xẩy ra ở Mỹ Lộc.
Tôi nghiêm sắc mặt:
- Hôm nay Chủ nhật, các vị đến thăm tôi. Công hay
tư? Tư thì mời vào tư thất. Công thì mời lên phòng
thuyết trình.
Vann ỡm ờ:
- Ở đây thì: Quan trên trông xuống, người ta
trông vào!
Tôi nhìn kỹ Vann. Ðôi mắt
xanh thăm thẳm, Vừa lạnh lẽo, vừa soi mói, vừa là
bãi chiến trường của một trận ác đấu triền miên,
với một bên là tính tự tin quá mức của người miền
nam Virginia, một bên là vẻ trai lơ để cáng của
dân tứ chiếng Norfox.
Yên vị, Vann lấp lửng:
- Mình khai vị món nem công chả phượng đi!
- Á, ra quý vị muốn đến thanh tra tôi về kế hoạch
Phượng hoàng đây, lẽ ra thì cha Phán phải ra ngoài,
nhưng hai ông cũng một đồng, một cốt với nhau.
Câu cuối cùng, vừa bật ra khỏi mệng, tôi biết mình
lỡ lời. Vann tuy có thể đọc ngược toàn bộ Kim Vân
Kiều Truyện, nhưng hình như hắn không hiểu, chỉ
có cha Phán nét mặt đanh lại.
Tôi với tay lấy bản lượng
giá ấp và bản đồ trận liệt. Trên góc phải có vẽ
một con chim Phượng, hai cánh dang rộng, miệng đỏ
lòm màu máu. Ðôi mắt hừng hực, khác hẳn với con
chim thánh tượng trong ký ức ngọt ngào mùi khế chín,
âu yếm quắp lấy người em đang ôm cái túi ba gang,
đầy ắp vàng tình nghĩa, bay là đà trở lại mảnh vườn
có gió mùa đông bắc, quyện với sương chiều.
Vann nói:
- Tôi ghé thăm Thiếu tá, nhân tiện ghé thăm cha
chánh xứ. Có vài việc nhờ cha giúp đỡ. Tôi rất buồn
vì trong lãnh thổ của Thiếu tá có ba ấp tụt xuống
hạng B.
Tôi mở cuốn sổ tay: “Ðêm 11 tháng 12 Việt cộng đột
nhập ấp An Thới thu thuế gần 50 lò giò, chả, Vào
cả nhà chung và nhà ông Chánh Trương của cha xứ
đây.”
Cha Phán tái mặt, Vann vẫn giọng âm u:
- Thưa Thiếu tá, đây mới là lý do chúng tôi đến
đây: Có điều đến giờ mà tôi vẫn không hiểu. . .Việc
đối tượng Sáu Bay, Khu 31 Chiến Thuật sắp thành
công,Trung Tá Ngh. đã viết thư riêng cho ông, xin
cho nó về làm đám. Tại sao ông lại nóng vội phục
kích hắn?
BẨY:
TRÁI CỦ CHI.
- Thôi mà, cho tao lãnh.
Sau tiếng nói ấy, tôi biết mình thoát nạn, khi tên
đại bàng quay ngược cán dùi, gõ nhịp nhàng đều đều
vào đầu tôi, giọng ê a:
- Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát.
Cả phòng cười ầm lên, cho đến khi một bàn tay khô
nhám, ấm áp kéo tôi về góc phòng. Người đàn ông
tóc muối tiêu, vừa đưa cho tôi ly nước, vừa nhìn
tôi đăm đăm:
- Vừa rồi quản giáo đọc tên anh là Nguyễn Xuân Quý
phải không?
Tôi gật.
- Trước kia anh làm việc ở Củ Chi?
Tôi giật mình, nhìn anh. Ký ức của tôi lướt nhanh
về những tấm hình tình báo của Cảnh sát Ðặc biệt:
Nếu ai bảo Sài Gòn có tuyết phủ, có thể tôi sẽ tin
hơn là bắt gập nụ cười nhạo báng của định mệnh:
Người đang ngồi trước mặt tôi là anh Sáu Bay!
... Sau năm 1975, sau nhiều đợt rèn cán, chỉnh
quân và nhiều lần đại hội đảng bộ, Tôi liên tiếp
bị kiểm điểm vì chưa thực sự giác ngộ cách mạng,
lơ mơ về quan điểm giai cấp, có nhiều biểu hiện
hữu khuynh... Cho đến khi bàn tay của An Ninh Nội
Chính sục vào hồ sơ cũ của Khu 31 Chiến thuật thì
tôi bị bắt. Lúc ấy tôi đang làm Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Huyện Củ Chi... giọng của anh mệt
mỏi.
Tên đại bàng đến, xoa hai bàn tay vào nhau, phân
bua:
- Tụi em thực không biết chú đây là bạn chú Sáu,
- Tử vi anh chắc có cung quan lộc, vào tù mà vẫn
được làm thủ trưởng. Tôi nói đùa.
- Tụi này mang tiếng là du thủ du thực, nhưng hắc
bạch phân minh lắm. Tôi tởm các phòng giam cán bộ
lắm chú ạ. Chúng nó huênh hoang sa đọa, một bọn
công thần bị thất sủng, dốt nát. Nhà nước đã biến
các phòng giam 1,2,5,6 của khu ED này thành sào
huyệt cho bọn Tư sản đỏ, và Tân phong kiến.
Tôi và anh ngủ chung trên một chiếc chiếu có chiều
ngang không đầy một thước.
.... Chú biết cây Củ Chi, trái Củ Chi là gì
không? Ðó là một loại cây tương cận với cây mã tiền,
trái có dược chất, dùng ít thì chữa được những bệnh
thông thường, nhưng dùng quá liều lại là một loại
thuốc độc cực mạnh. Nó từng là con đò chuyên trở
các bi kịch đến bến vĩnh hằng.
Bố tôi khi sinh tiền. Lúc lâm chung, để lại cho
tôi câu nói vắt vai: “ Con phải nhìn bác Năm, chị
Hai nhà mình. Chung chăn với người Cộng sản không
khác gì dùng trái Củ Chi!
TÁM:
SỰ LỪA DỐI HÀO NHOÁNG.
Tôi
nhận được giỏ thăm nuôi đầu tiên, tên đại bàng đưa
thẳng giỏ ấy cho anh Sáu mà không qua khâu “ chặt
chém”. Anh lúi húi xếp những keo đồ ăn, mì gói bên
cạnh chiếu nằm.
- Còn gì nữa đây, chữ này thì tôi chào thua, hình
vẽ ai mà mặt đen như lọ chảo vậy chú?
Anh Sáu hỏi liên hồi.
- Ðây là cuốn Ðông Châu Liệt Quốc. Hình bìa vẽ Dư
Nhượng đang đánh vào áo bào của Triệu Vô Tuất.
- Làm sao lại đánh vào áo bào?
- Cổ nhân ái mộ lòng trung nghĩa, kể cả lòng trung
nghĩa đặt không đúng chỗ. Do vậy, Triệu Tương Tử
đã hào hiệp cởi phăng áo mình cho Dư Nhượng đánh,
để cho y trả xong mối thù cho chủ cũ. Thời cận kim,
cho phù hợp với tính mâu thuẫn trong chủ nghĩa Mác.
Người Trung Hoa đã nâng cấp lòng hận thù. Họ phê
Khổng, dương Tần để đay nghiến cả lịch sử. Còn thế
hệ này, nghiền nát thế hệ kia bằng khẩu hiệu chữ
to: “Ðánh cho chết những con chó đã rơi xuống nước!”
Anh Sáu dằn từng tiếng: “Tôi căm ghét sự trả thù.
Kể cả sự trả thù đã được mặc áo!”
Buổi chiều
hôm đó, đến phiên anh Sáu lãnh đồ thăm nuôi. Y như
một chi tiết, mà người viết muốn bịa ra cho tròn
trĩnh câu chuyện. Tôi gập lại Cố nhân của tôi, trong
giỏ thăm nuôi của anh Sáu... “ Cái kính này của
chị gửi cho chú, cả quyển sách này nữa”
Tôi mở ra, cả anh và tôi cùng reo lên: “ A ! Lại
John Paul Vann!”
Tờ giấy trắng bên trái, chữ của Mỹ Lộc con gái lớn
của anh: “ Hai cháu Thạnh Lộc kính tặng chú Quý.”
Bên dưới là bức vẽ nguệch ngoạc: Hai đấu sĩ nằm
chết, cánh tay gối lên nhau, hai cây kiếm văng ra
xa. Trên bụng người thứ nhất ghi: “ Ba Sáu.” Người
thứ hai ghi chữ: “ Chú Quý.” Anh sáu cười ngặt nghẽo:
- Còn người thứ ba đứng vỗ tay sao nó không ghi
là ai vậy?
Tôi nói: Là Vann, là Tư sản đỏ, hay Tân phong kiến.
Có khi cả ba !
Tôi
đọc ngấu nghiến một lần rồi đọc lại cho anh Sáu
nghe. Tựa đề cuốn sách làm anh thắc mắc: Sự Lừa
Dối Hào Nhoáng. Ai lừa dối ai?
Tôi nói: Cả một hệ thống lừa dối chằng chéo.
Vann nói dối chính anh ta. Nói dối vợ. Nói dối nhân
tình. Nói dối cấp trên. Nói dối tác giả. Cao hơn:
Thế hệ này, lừa dối thế hệ kia. Mỹ lừa dối người
Mỹ và lừa dối Ðồng minh. Và sau cùng nhưng không
kém quan trọng: Tác giả xử dụng ngòi bút lươn lẹo
của mình để nói dối người đọc!
CHÍN:
CỐ NHÂN.
... Tôi đi họp tại Bộ tư lệnh
Sư đoàn về, chiếc jeep vừa quẹo quá dốc Mũi Lớn.
Bỗng người tài xế la lên:
- Phía trước có xe bị phục kích!
Một chiếc xe Ford F. màu vàng xoay ngang mặt đường.
Khẩu trung liên nồi đặt trên gò cao đang yểm trợ
cho cả chục người mặc toàn đồ đen đang tìm cách
chiếm bờ lộ. Tiếng bắn trả rời rạc, yếu ớt. Tôi
ra lệnh lấy khẩu M10 vừa lãnh bắn dọc mặt lộ bên
phải, và những trái M 79 bắn cầu vồng đã cứu được
Vann. Vann đưa tôi xem khẩu súng còn đúng một viên
đạn. Vừa phủi quần áo, vừa nói: “Tôi để dành viên
đạn này cho tôi!”
Ðêm ấy,Vann ở lại đồn Bình
Tả với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn tôi. Vann thâm nhập
rất nhanh vào ban sĩ quan tham mưu, bằng những chuyện
tiếu lân dân gian, bằng những câu thơ âm thanh ý
tục của Hồ Xuân Hương. Tôi đứng nhìn tấm tắc: “
Hết xẩy, điệp viên tứ thiệt” Tôi chợt nghĩ đến Bob
khi ngồi đối diện với Vann trong hầm chỉ huy.
- Nghe sĩ quan của Thiếu tá nói,ông biết nhiều về
dịch lý và biết cả bốc dịch?
May quá, Vann giúp tôi có cơ hội để đưa câu chuyện
đến một đề tài vô thưởng vô phạt.
- Tôi chỉ đang nghiên cứu thôi, nhưng y như người
đi trong đêm, càng đi càng muốn lạc...
Vann nói:
- Ở Mỹ, các trường đại học đang nghiên cứu môn học
vừa kỳ bí, vừa rất khoa học này. Tiếc rằng người
Trung Hoa mải mê chũ nghĩa giáo điều. Họ đã bỏ hoang
con đường có thể dẫn đến một giải Nobel y học. Ðó
là Y Dịch!
Tôi phụ họa: “ Bất tri dịch bất khả ngôn y”. Vann
vỗ tay tán thưởng.
Tôi moi trong đáy balô ba đồng tiền Minh Mạng đưa
cho Vann: “ Ông gieo cho tôi ba lần, bằng tay trái,
tránh tạp niệm, khỏi cầu đảo gì cả.”
Tôi vừa lẩm bẩm tính, rồi nói với Vann:
- Ông Giáp Tí, bà ấy ở Mỹ Ðinh Mão. Quẻ bốc Tốn
Ngộ Khôn. Ông vinh hạnh được ngâm câu: “ Cổ lai
chinh chiến, kỷ nhân hồi”
Tôi vẽ và giải thích trong quyển sổ tay của hắn.
Hắn trầm ngâm rồi bước ra ngoài. Có một miếng giấy
nhỏ rớt ra: “Ðại Tá Nguyễn Văn Thiện, Tỉnh Trưởng
Tây Ninh đang ra sức mua chuộc các chức sắc trong
Hiệp thiên đài của Tòa thánh Tây Ninh……...”
. . . Có tiếng chân. Tôi vội gấp tờ giấy bỏ lại
vào quyển sổ.
Vann ôm vào chai Whisky, tôi khui hộp thịt “ ba
lát” làm mồi.Vann nâng ly hào sảng: “ Túy ngọa sa
trường quân mặc tiếu”
- Thế
còn việc Vann tìm cách chuộc Ramsey thông qua một
vị linh mục. Cha nào vậy Anh Sáu hỏi:
- Vẫn là cha chánh xứ Tha La. Hai người này là một
cặp bài trùng. Họ đều mắc bệnh hoang tưởng. Nửa
thiên tài, nửa đồng bóng. Có điều Vann dùng sự xảo
quyệt của mình vừa để tạo công danh cho mình, vừa
để phụng sự chính nghĩa. Còn cha, dùng bá đạo của
cha để giúp đỡ bổn đạo. Aãy vậy mà Vann cũng bị
mắc lỡm đấy. Ngôi thánh đường Tha La được tái tạo
tráng lệ, nghe nói đó là tiền chuộc Ramsey!
- Nhưng thời điểm ấy, tôi biết huyện đội Củ Chi
đã chuyển Ramsey lên Miền để chuyển ra Bắc. Anh
Sáu nói..
- Thì chỉ có Chúa Trời mới biết cha có liên lạc
với Việt cộng hay không!
MƯỜI:
NHỮNG NHÂN VẬT CHẾT.
Ðọc hết cuốn
sách Sáu Bay bực tức ra mặt:
- Khốn nạn! Thật khốn nạn
Tôi hỏi: “ Anh nói ai khốn nạn vậy?”
Anh dằn từng tiếng một:
- Cả hai thằng, mà tôi và chú phục vụ cho chúng
nó.
Tôi cãi: “ Chỉ có anh mới phục vụ, còn tôi, thằng
Mỹ có lúc là Ðồng minh”.
Giọng anh Sáu như khóc:
- Cái quân đội mà tôi phục vụ,cái chế độ mà tôi
vừa bước ra, có hạn chế vì ít học quá chú ạ. Trước
khi tôi về Củ Chi. Tôi là cán bộ trụ cột của Ban
tuyên huấn miền. Tôi có bằng thành chung kia đấy.
Nhưng so với quân đội của chú, vốn học của một cán
bộ như tôi, chẳng đi đến đâu... Sau nhiều lần bị
kiểm điểm liên tục, biết rằng: “ Thỏ chết thì chó
săn tất bị luộc”. Tôi nói thẳng:
“...Bốn là, anh Bẩy Trọng phê bình ba điểm của
tôi ở trên, đều dẫn chứng bằng kinh điển của Mác,
Về phần này, tôi xin nói rõ: Ðọc Mác, hiểu Mác không
phải dễ đâu, chưa hẳn đã đúng đâu. Người đọc Mác
phải có kiến thức ở nhà trường, ở sách vở, ở ngay
cả ngoài đường nữa. Tóm lại phải có kiến thức của
loài người, và cái tâm của con quỷ. Mác viết Tư
bản luận, tác phẩm đắc ý nhất của ông ta, đặc biệt
là chương đầu, mang văn phong na ná như Thánh kinh.
Lê Nin trong Bút Ký Triết Học phải thốt lên:
“ Vậy là sau Mác hàng thế kỷ, không ai hiểu Mác
cả”.
. . . Còn các đồng chí, cứ “nghe hơi nổ chõ” nắm
bắt vội vàng được vài ý, cóp nhặt được vài câu,
rồi xem đó như kinh nhật tụng, làm khuôn vàng thước
ngọc để ấn nhét vào các bài diễn văn, để nói năng,
để làm dáng trí thức, thêm vào một lô từ hoa mỹ,
khó hiểu, biến lý luận ngụy tín thành chân lý bất
biến, Với ý đồ lòe bịp và trù dập người khác!
... Ngày xưa, bọn hủ nho mở miệng ra là: “chi, hồ,
giả, dã”, là: “ Khổng Tử viết, Mạnh Tử viết”. Ðến
bây giờ, Than ôi! Bài bản chân truyền của bọn thất
học, lại dẫn nhau đi theo con đường cũ. Lại “ Mác
nói, Lê Nin nói” ( Có tiếng đập bàn). Tôi dùng hai
chữ “ đồng chí” có còn thích hợp không nhỉ? Tôi
xin hết, tôi xin ra ngoài để các anh làm việc!”
“ Chó săn bị luộc” Hai tiếng
Ðồng minh ngạo nghễ nhìn tôi. Chữ “ Minh” gồm Minh
là sáng. Bên dưới, chữ “Mãnh” là cái chén. Thuở
xa xưa, khi con người còn tin nhau, conợ tin vào
lời thề. Tể tướng dâng bát máu trâu cho vua. Vua
lấy máu bôi vào môi, tượng trưng cho lời thề son
sắt
Các bạn đọc đến đây, chắc
là sốt ruột, muốn biết số phận các nhân vật tôi
đã dàn dựng quá nhiều ở trên.
Tôi xin tóm tắt:
- JOHN PAUL VANN ( Chết) Sau khi dời chức giám đốc
CORP, Vann lên Quân đoàn II, chết trận.
- LINH MỤC PHÁN: ( Chết). Sau năm 1975, cha giữ
chức chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc huyện Củ Chi,
năm 1995 chết già,
- CHIM PHƯỢNG: Sau năm 1975, giống chim này tuyệt
chủng, người ta chỉ thấy hậu duệ của loài lông vũ
này bay từng đàn. Người ta gọi chúng là diều hâu,
kên kên.
Tôi, NGUYỄN XUÂN QUÝ, tuy được hít thở không khí
tự do, nhưng sức khỏe càng ngày càng xuống dốc.
Chờ chết.
Còn anh Sáu Bay, xin quý bạn,
theo bóng tôi trở lại phòng giam số 8, khu ED, trại
giam Chí Hòa.
... Khoảng một tuần sau, anh đang ngồi vá áo cho
tôi. Thì anh được lệnh tha. Anh bỏ cái áo đang vá
vào bịch nilon,
Tôi gàn: “ Người ta kiêng mang đồ của tù về nhà”
Anh ôm tôi: “ Quẻ dịch của chú đúng quá. Tội nghiệp
chú. Tuần sau anh chị sẽ vào thăm chú”
Tôi ôm anh, nói nhỏ: “ Anh về, ít nói thôi, tốt
nhất anh chị và các cháu nên dời khỏi Củ Chi.
Anh lấy tay lau nước mắt, rồi theo người quản giáo
ra cửa.
Tuần sau, khung cửa thăm nuôi,
có một mình vợ tôi, nàng khóc:
- Em vừa lên Củ Chi đưa đám anh Sáu. Em có hỏi lý
do, chị chỉ im lặng. Nghe người ta đồn, anh bị một
tên đi xe Honda “cố tình đâm vào” Chị ấy nói tuần
sau sẽ vào thăm anh..
Tôi trở về phòng giam. Ngồi
bó gối trong góc phòng với một nỗi cô đơn vô cùng
tận. Lần trước tôi đoán tào lao Vann chết thật.
Lần này thấy anh xuống sắc, tôi an ủi: “ Anh mậu
dần, tháng này, cấn vào hẳn chấn. Anh về là cái
chắc.
“ Anh về là cái chắc”. Mà anh về đâu? Trên con đường
đi không bao giờ tới, lấp lánh đủ tia ngũ sắc cầu
vồng, gương mặt Lịch Sử cau lại, Anh và không biết
bao nhiêu đồng chí của anh, đang lầm lũi đi về một
Hậu thiên đường, với chiếc thuyền hoa kết toàn bằng
cỏ, đang từ từ chìm xuống giòng sông Ðào thải..
... Vốn
dịch lý, cùng với những dự cảm vừa thần bí, vừa
bông lơn của tôi đã hoàn toàn phá sản. năm ngày
sau đó, tôi nhận được cáo trạng của Viện kiểm sát:
“ Mặc dù được Cách mạng giáo dục nhiều năm.
Tên Nguyễn Xuân Quý vẫn không gột rửa được bản chất
phản động , nguy hiểm. Ðiều 1, khoản 2.
Tôi lẩm bẩm: “ Từ 5 đến 12 năm..”. Mắt tôi nhòa
đi. Tôi nghĩ ngay đến vợ con tôi, đến ngày về xa
lắc..
Con
chim Phượng hoàng lại bay đến, nó nhẩn nha ăn khế.
Ðôi mắt hiền từ như đang chờ đợi một giọng trách
cứ dịu dàng. Nó chờ hoài không thấy. Nó ngơ ngác
nhìn khắp mảnh vườn. Chỉ có gió thu và nắng vàng
hiu hắt, Chim chẩy nước mắt, rồi tung cánh, bay
vút lên cao...
Có tiếng đồng dao:
Diều hâu mày lượn cho tròn
Ðến mai tao gả gà con cho mày
Gà con tao để tao nuôi
Tao gả con chó cụt đuôi cho mày.
( Phòng giam số 8, khu ED,
Chí Hoà 1991 )
Nguyễn
Trọng Hoàn
Sự lừa dối hào nhoáng - Nguyễn Trọng Hoàn
MỘT:
NHÂN.
NGƯỜI EM:
Tôi có mỗi cây khế độ nhật. Chim ăn như thế này
!
CHIM PHƯỢNG: " Khổ, nhục, đói, nghèo, đó là cái nhân của viên giác, cái nôi của thiên tài, vực thẳm cho đứa ngu phu. Cuộc sống vốn vô thường. Nhân quần các người vẫn an ủi nhau bằng một câu sặc mùi thiền: “ Ðám tro tàn, còn lại sau đống rơm của bọn mục đồng hay sau một thành phố đã bốc cháy thì cũng là đống tro tàn, chóng hay chày thì gió cũng thổi tung đi hết mà thôi.”
NGƯỜI EM: " Chim hay nói chữ quá, lại dùng toàn dao to búa lớn. Triết lý vặt trên cái bụng đói của người khác. Nhà ta trước kia, dinh cơ như chốn cung đình, bây giờ một sớm một chiều, ta bị hất văng ra cái góc vườn này, người đạt đạo còn muốn cắn lưỡi mà chết, huống chi một kẻ phàm phu tục tử như ta.."
CHIM PHƯỢNG: Ta nghe nói: “Huynh đệ như thủ túc, phu phụ tự bố y!” Tình đồng bào sao nỡ đuổi nhau, điều này ta thực sự không hiểu? Nhân quần các người, mở miệng ra là nói đạo lý với nhân luân, mà lại đối xử với nhau không khác chó mèo. Ðiều này ta vẫn thấy trong lòng ray rứt.
NGƯỜI EM: Tất cả là do chị dâu tôi mà thôi, chị cố chấp và hay săm soi bản chất.
CHIM PHƯỢNG: Ồ đại trượng phu, đầu đội trời, chân đạp đất. Trách chi cái đám phụ nhân, cái loài đái không qua ngọn cỏ. Thôi, nhà ngươi hãy leo lên mình ta.
HAI:
QUẢ.
PHÁN
QUAN: Trước mắt người là quyển Thánh kinh, nhưng
người không cần phải đặt tay lên đấy. Vì trước Thiên
tòa, người không thể nói dối, người cho biết tên,
tuổi?
TRẢ LỜI: Tôi John Paul Vann, sinh năm 1924 . Tên Việt: Nguyễn Hữu Nhất.
PHÁN QUAN: Tại sao có tên Việt, tại sao lại là Nhất?
TRẢ LỜI: Tôi thành danh ở Việt Nam, tạo oan nghiệp ở Việt Nam. Tôi dùng tiền Mỹ, bom Mỹ, xương máu người Việt để làm anh hùng. Dùng xác thân phụ nữ Việt để giải trí hưởng lạc. Còn Nhất là Number One, tiếng Việt là anh Cả, là Số Dzách !
PHÁN QUAN: Các con số do Colby xác nhận: 28.000 hạ tầng cơ sở bị bắt. 20.000 bị giết. 17.000 bỏ ngũ, tính cho đến năm 1971. Con số ấy cao, thấp, đúng sai?
TRẢ LỜI: Con số ấy rất thấp so với kết quả có cái tên mỹ miều: “ Chiến dịch Phượng Hoàng.”
PHÁN QUAN: Có trung sĩ Trần Văn Thuận, hạ sĩ quan tiếp liệu thuộc Chi khu Trảng Bàng, thưa người cướp vợ của anh ta: Cô Lê Thị Rua, nữ giáo viên trường tiểu học Bào Trai. Nhà ở ấp Mới 1, xã Tân Phú Trung, quận Củ Chi. Ðúng, sai?
TRẢ LỜI: Tôi có cho cô ta quá giang về Sài Gòn. Tôi có cho cô ta dùng thuốc kích thích. Sau đó chụp hình cô ta trần truồng. Nhưng những lần sau cô ta tự tìm đến tôi. Cô tâm sự: “Của anh to, khỏe. Người Mỹ có cái đáng yêu là không bao giờ lục vấn quá khứ!”
PHÁN QUAN: Người cho biết về Quân đội Việt Nam Cộng hòa?
TRẢ LỜI: Tôi không có điều gì ca thán về lực lượng này. Họ hùng mạnh, có lý tưởng quốc gia, chống Cộng, nhưng chắp vá. Một người có chân tay khỏe mạnh nhưng không có cái đầu.
PHÁN QUAN: Người nói gì mà ta không hiểu?
TRẢ LỜI: Ong Diệm đã nói thẳng với người Mỹ, là ông ta chỉ cần tiền và vũ khí. Phần còn lại đã có cái đầu của Bào đệ ông ta. Vì tự ái, vì nóng vội. Người Mỹ đã lộ quá sớm bản chất thái thú của mình, bằng cách xua Lũ chó săn thích danh, hám lợi ra để “ cắn” chết hai anh em ông ta. Thế là chính nghĩa mất. Một Potted Tree Government, cùng với một Potted Tree Army được dựng lên với một bọn vô tài bất tướng.
PHÁN QUAN: Còn ông Hồ Chí Minh?
TRẢ LỜI: Ðó là một Nhạc Bất Quần của Lịch sử Cận đại Việt Nam.
PHÁN QUAN: Một câu hỏi chót: Người nghĩ gì về quyển: A Bright Shining Lie. John Paul Vann And America In Viet Nam. Tạm dịch Sự Lừa Dối Hào Nhoáng?
TRẢ LỜI: Nói và viết về một người chết. Dù bốc thơm hay phá thối thì ai mà viết chả được. Cho xuất bản cuốn sách này, người Mỹ đã lấy tay tự tát vào mặt mình. Họ đã ngồi xổm lên sự hy sinh cao cả của các tử sĩ Mỹ và Ðồng Minh. Cuốn sách không có tí giá trị gì về văn học. Lại càng không có giá trị gì về lịch sử. Ðó chỉ là một bản thống kê, với những con số bị bóp méo và những cuộc lang chạ xác thân được vo tròn.
BA:
THIÊN LA.
Buổi tối,
tôi đứng vịn song sắt nhìn ra ngoài, trời mênh mông
đầy sao, những mái nhà giam phía trước mòng mọng
sương đêm, ôm ấp một chút khí lạnh của tiết Tiểu
hàn. Chân tay, mình mảy tôi ê ẩm. Kết quả của trận
“ Chào phòng” sáng nay.
.. . Tôi lách mình vào phòng số 8, cười cầu
an. Toàn đại bàng! Tôi thảng thốt, những con chim
được xâm toàn màu đen, tung hai cánh dài ngoằng
đến tận hai cánh tay.
Tôi lảo đảo sau hai cú đấm như trời giáng. Máu từ
mồm mũi nhỏ xuống nền nhà. Tôi ôm mặt, thằng đại
bàng kéo dậy.
- Ðánh bỏ mẹ nó đi, thằng này vượt biên, lắm tiền
nhiều của. Mở mắt ra cho mày chọn hai thứ.
... Trước mặt tôi, một cái dùi dài hơn một gang
tay, đen rỉ và một bát nhựa đầy phân hôi thối, “
Ðời mình đã đến nông nỗi này sao?”. Tôi lưỡng lự,
đẩy bát phân ra, rồi cầm cái dùi đưa cho tên đại
bàng
- Tôi chọn cái này.
- A! có chí khí, lâu lắm chúng ta, giai cấp hạ dân,
mới gập một người chí khí. Ðáng phục, đáng phục.
Thôi nhắm mắt lại đi con!
Tôi nhắm mắt lại.. . Con chim đại bàng đang thả
người anh tội lỗi xuống biển.
- Thôi, đủ rồi, cho tao lãnh.
Tiếng nói trầm trầm, âm u như tiếng vọng từ âm phủ..
.
BỐN:
NGƯỜI MỸ.
Năm
1970, Chiến đoàn trừ 333, thuộc Quân đoàn III tràn
chiếm Svrayriêng, Tiểu đoàn 2/46 thuộc Sư đòan 25
BB, tiến quân từ ngả Ðức Huệ lên tây bắc. Chạm địch
tại Ba Thu. Tôi bị thương vì một viên đạn bắn sẻ.
Thay vì đưa về bệnh viện Cộng Hòa. Trực thăng tản
thương “ bỏ” tôi vào Bệnh viện 3 Dã chiến của Mỹ.
Tôi nằm cùng phòng với một viên Thiếu úy công binh
người Mỹ. Hai cái giường cách nhau chưa đầy 2 mét.
Viên dạn xuyên qua phần mềm, sau mấy lần “ Thông
nòng” xé thịt, vết thương đã bắt đầu khép miệng.
Buổi sáng Thu vào thăm, cô thảng thốt:
- Sao anh bơ phờ thế này?
- Cứ ngủ li bì. Tôi nói.
Ðầu lưỡi của cô sinh viên dược lướt nhẹ lên từng
viên thuốc. Cô nhíu mày.
- Chết thật, họ cho anh dùng quá nhiều thuốc ngủ
đây mà!
Cô chọn những viên thuốc màu xanh, ném qua cửa sổ.
Khoảng nửa đêm về sáng. Tôi
nghe thấy có tiếng rì rầm ở giường bên cạnh. Một
lúc sau, cái giường lại rung lên từng chập. Có tiếng
ú ớ, rên rỉ như tiếng kêu của con thú đến mùa..
Tôi cười một mình, “thằng Bob này gan thật, dám
đưa gái vào tận đây!” Nụ cười của tôi tắt ngấm khi
tôi nghe tiếng của Bob.
- Liệu “ Thằng Mọi” nó ngủ say chưa?
- Nó vẫn kêu đau, em cho nó uống nhiều thuốc ngủ.
Chắc nó “ đi xa” rồi. Anh có làm sập giường, nó
cũng không biết đâu.
Tôi nhận ra ngay tiếng của cô y tá có cái mông ngún
nguẩy.
- Anh thù ghét cái đất nước chó đẻ này. Ðánh tụi
Da Ðỏ dễ hơn tụi Da Vàng ( im lặng) Anh chỉ mê cái
“ Vùng đất” này mà thôi.
Có tiếng cười dâm dật, cái giường lại rung lên từng
chập.
Tiếng người đàn bà:
- Thế mà sáng nay, con bạn gái của “ Thằng Mọi”
này vào. Anh nhìn chằm chằm như muốn lột quần nó
ra vậy.
Tiếng Bob:
- Ồ chẳng qua cũng là con “ Mọi Cái”
Tôi co bàn chân không bị thương,
đạp mạnh vào bàn thuốc đầu giường, chai lọ đổ loảng
xoảng. Tôi ngồi bật dậy. Cầm cái nạng, chỉ vào hai
đứa đang vội vã lấy cái chăn che thân.
- Tổ sư cha chúng mày, đồ khốn kiếp
Cơn giận vẫn để dành một chút cho lý trí. Nó cười
tôi:
- Ong chửi bằng tiếng Việt, nó hiểu thế đếch nào
được.
Các bác sĩ và y tá kéo đến. Tôi nói:
- Các ông có hai công dân mất dạy.
Tôi khập khễnh bước ra khuôn viên, ghế đá ướt lạnh
sương đêm. Tôi gõ nhè nhẹ vào vết thương tìm cái
đau nhục thể. Tiếng nhạc đồng quê “ Corn Is The
Staff Of Life” dập dìu đuổi nhau trên thảm cỏ thẫm
đậm. “ Cơm Tẻ Là Mẹ Ruột”. Tôi bỗng nhớ mà thương
con đò chiều cô lẻ, mang mang câu hò đồng vọng.
Hạt mưa xuân lấp lánh, nhí nhảnh trên ngọn xoan
đào, khói lam chiều bềnh bồng ôm ấp mái tranh quê.
Tiếng hát ru, hòa với tiếng võng đưa kẽo kẹt dưới
ánh trăng non vắt vẻo cành tre.. .
- Ồ Mẹ đẹp quá, đẹp hơn cả thiên thần. Con của Mẹ
lẽ nào lại là cú, là quạ, là mọi cơ chứ? Chỉ tội
nhà mình nghèo quá. Quân Dữ lại hoành hành, nên
chúng nó mới lên mặt dạy đời, khi dễ.
Tôi gục đầu vào cây nạng: Mẹ, Mẹ ơi.
NĂM:
VIỆT CỘNG.
Người đàn
bà ngồi trước mặt tôi là vợ của một Huyện ủy Việt
cộng. Ðầu chít khăn tang, mắt sưng đỏ, gầy guộc.
Tôi ngạc nhiên:
- UƯa, anh Sáu?
- Không, thưa ông Quận, ông thân sinh nhà tôi vừa
qua đời.
- Thế, tôi giúp gì được chị?
- Thưa ông, xã Mỹ Lộc không cho làm đám tang, tôi
đến để xin ông
- Chị nói sao? xã không cho làm đám tang? Tôi ngạc
nhiên hỏi.
- Vâng thưa ông, xã chỉ cho chôn thôi. Tôi lên xin
thẳng ông. Nghĩa tử, nghĩa tận.
Lời van xin làm tôi xấu hổ. Tôi nhớ ngay đến cuộc
điện đàm với Trưởng phòng An ninh Sư đoàn sáng nay.
Tôi nói:
- Chắc chị cũng biết, tôi và anh Sáu đã tìm cách
“ Khử” nhau nhiều lần mà không được. Nhưng đấy là
việc của chúng tôi. Tôi cho phép chị về lo hậu sự
cho cụ. Muốn làm đám mấy ngày tùy chị. Chị cho tôi
gửi lời chia buồn tới anh Sáu. Chị nhắn ảnh, cứ
về..
Tôi dẫn chị qua văn phòng phó quận, rồi đi thẳng
xuống trung tâm hành quân chi khu, vừa thấy tôi
bước vào, viên sĩ quan trực đưa cho tôi một phong
bì màu vàng, bên góc phải có hàng chữ “ Tối mật”.
- Thư của Trung tá Ng. Bên an ninh Sư đoàn có dặn
tôi đưa tận tay Thiếu tá.
Tôi
mở ra đọc. Xong bỏ vào túi áo. Tôi viết vào sổ trực:
- Thiếu tá Thận, từ nay đến khi có lệnh tôi, không
tổ chức hành quân: Quân sự, bán quân sự, cảnh sát
trong toàn khu vực ấp Xóm Riềng, thuộc xã Mỹ Lộc.
Ban 3 nhớ báo cho Xã trưởng và Trung đội 23 Nghĩa
quân.
Tôi buông bút, thanh thản như một hiệp sĩ háo thắng.
Một giờ đêm, tôi bật dậy “
Chuông điện thoại giờ này?”. Tôi không còn tin vào
tai mình nữa, cái ông nghe hờ hững rơi xuống. Tôi
lao xuống phòng hành quân. Thiếu tá Thận đang rên
rỉ:
- Ngừng bắn, ngừng bắn ngay đi.
Quay lại phía tôi, người sĩ quan trưởng ban 3 phân
trần:
- Thưa Thiếu tá, tôi đã gửi công điện xuống xã từ
12 giờ trưa nay, đã nhắc ông Xã trưởng. Ðại úy Lân
hôm nay, không về Chi khu. Ong ấy từ Trung Lập,
kéo thằng Thám báo về thẳng Mỹ Lộc. Hình như ông
ấy say..
Tôi run lên như người lên cơn sốt. Chiếc jeep phóng
vùn vụt trong đêm, mà tôi vẫn cảm thấy chậm. Quốc
lộ 1 vắng tanh.
.. . Nắp ván thiên muốn bật tung lên.. quan tài
lỗ chỗ những vết đạn như tổ ong bầu. Chị Sáu thất
thần, ôm hai con đang run rẩy, quỳ xuống trước mặt
tôi:
- Ong làm lớn mà ông lừa chúng tôi.
Mặt tôi nóng bừng, tôi vuốt mặt như cố lau những
giọt nước mắt khinh bỉ đang tới tấp nhổ vào mặt
mình. Tôi cho chở tới một cỗ quan khác, và phải
quay mặt đi khi tang gia liệm xác một lần nữa..
Thời kỳ ấy, Sư đoàn 25BB,
trách nhiệm lãnh thổ ba tỉnh Hậu Nghĩa, Long An,
Tây Ninh, và được gọi là Khu 31 Chiến thuật. Trung
tá Ngh., Trưởng phòng, người miền Nam, lại có bà
con xa với Sáu Bay. Ngh. đang tìm cách chiêu dụ
Sáu Bay ra hồi chánh. Cuộc điện đàm của tôi nói
ở trên với Ngh. Ngh. xin tôi cho Sáu Bay về làm
đám. Ngh. còn rất thân với một Linh mục, Phao Lô
Nguyễn Văn Phán, Chánh xứ đạo Tha La.
SÁU:
THA LA.
Tha la, địa danh thơ mộng,
cái gạch nối giữa Hố Bò, Bời Lời, Ba Thu. Ðiểm yết
hầu của đường giao liên chiến lược, được nhiều người
biết đến, qua một bài thơ được phổ nhạc. Một nhánh
sông Vàm Cỏ, nước xanh xanh lúc nào cũng rưng rưng
tiếng chuông xóm đạo. Có Cầu Quan soi bóng văn nhân
sĩ tử một thời. Có áo trắng ca đoàn thả gió những
chiều tan lễ. Có chiến tranh về để trái ngọt cây
lành, nhà Chúa, nhà dân hứng chịu bom đạn của những
kẻ vô thần.
Tiếng em hát giữa giáo đường.
Chúa về trên những Thánh chương bàng hoàng.
Nhưng Tha La vẫn giầu nhất trong sáu họ đạo của
quận, dân Ninh Bình di cư. Toàn tòng, cha chánh
xứ lại giao thiệp rộng. Ðạo đời tịnh tiến, lại là
cha Linh hướng cho đại tá Tỉnh trưởng. Do vậy cha
nghiễm nhiên trở thành một Capo Di Capi ( Cha của
các Cha)
Cha đến chào xã giao khi tôi
về nhậm chức được hai ngày. Cha reo lên khi nhìn
trên bàn làm việc của tôi có quyển Khải huyền.
- Ồ, Thật là quý hóa, ông Quận không phải là người
nước Chúa mà lại có lòng tin Chúa.
Tôi nói:
- Tôi đọc Thánh kinh để tìm căn cốt của sự lý chứ
không phải tìm niềm tin cha ạ!
Cha khôn khéo đổi giọng:
- Ồ! Vô tri bất mộ, như vậy cũng quý hóa lắm rồi.
Cha ghét tôi từ cái ngày sơ giao ấy. Lần này, cha
đến với một người Mỹ, có cái danh thiếp in nổi:
JOHN PAUL VANN
( Nguyễn Hữu Nhất)
Dep.Corp.Biên Hòa
Tôi bắt tay Vann:
- Cố nhân!
Quay lại cha Phán , tôi chắp tay trước ngực, thay
lời chào.
Cha Phán híp mắt, môi nhếch qua một bên, hé lộ con
chủ bài:
- Ông Vann rủ tôi đến thăm Thiếu tá. Chúng tôi rất
tiếc vụ xẩy ra ở Mỹ Lộc.
Tôi nghiêm sắc mặt:
- Hôm nay Chủ nhật, các vị đến thăm tôi. Công hay
tư? Tư thì mời vào tư thất. Công thì mời lên phòng
thuyết trình.
Vann ỡm ờ:
- Ở đây thì: Quan trên trông xuống, người ta
trông vào!
Tôi nhìn kỹ Vann. Ðôi mắt
xanh thăm thẳm, Vừa lạnh lẽo, vừa soi mói, vừa là
bãi chiến trường của một trận ác đấu triền miên,
với một bên là tính tự tin quá mức của người miền
nam Virginia, một bên là vẻ trai lơ để cáng của
dân tứ chiếng Norfox.
Yên vị, Vann lấp lửng:
- Mình khai vị món nem công chả phượng đi!
- Á, ra quý vị muốn đến thanh tra tôi về kế hoạch
Phượng hoàng đây, lẽ ra thì cha Phán phải ra ngoài,
nhưng hai ông cũng một đồng, một cốt với nhau.
Câu cuối cùng, vừa bật ra khỏi mệng, tôi biết mình
lỡ lời. Vann tuy có thể đọc ngược toàn bộ Kim Vân
Kiều Truyện, nhưng hình như hắn không hiểu, chỉ
có cha Phán nét mặt đanh lại.
Tôi với tay lấy bản lượng
giá ấp và bản đồ trận liệt. Trên góc phải có vẽ
một con chim Phượng, hai cánh dang rộng, miệng đỏ
lòm màu máu. Ðôi mắt hừng hực, khác hẳn với con
chim thánh tượng trong ký ức ngọt ngào mùi khế chín,
âu yếm quắp lấy người em đang ôm cái túi ba gang,
đầy ắp vàng tình nghĩa, bay là đà trở lại mảnh vườn
có gió mùa đông bắc, quyện với sương chiều.
Vann nói:
- Tôi ghé thăm Thiếu tá, nhân tiện ghé thăm cha
chánh xứ. Có vài việc nhờ cha giúp đỡ. Tôi rất buồn
vì trong lãnh thổ của Thiếu tá có ba ấp tụt xuống
hạng B.
Tôi mở cuốn sổ tay: “Ðêm 11 tháng 12 Việt cộng đột
nhập ấp An Thới thu thuế gần 50 lò giò, chả, Vào
cả nhà chung và nhà ông Chánh Trương của cha xứ
đây.”
Cha Phán tái mặt, Vann vẫn giọng âm u:
- Thưa Thiếu tá, đây mới là lý do chúng tôi đến
đây: Có điều đến giờ mà tôi vẫn không hiểu. . .Việc
đối tượng Sáu Bay, Khu 31 Chiến Thuật sắp thành
công,Trung Tá Ngh. đã viết thư riêng cho ông, xin
cho nó về làm đám. Tại sao ông lại nóng vội phục
kích hắn?
BẨY:
TRÁI CỦ CHI.
- Thôi mà, cho tao lãnh.
Sau tiếng nói ấy, tôi biết mình thoát nạn, khi tên
đại bàng quay ngược cán dùi, gõ nhịp nhàng đều đều
vào đầu tôi, giọng ê a:
- Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát.
Cả phòng cười ầm lên, cho đến khi một bàn tay khô
nhám, ấm áp kéo tôi về góc phòng. Người đàn ông
tóc muối tiêu, vừa đưa cho tôi ly nước, vừa nhìn
tôi đăm đăm:
- Vừa rồi quản giáo đọc tên anh là Nguyễn Xuân Quý
phải không?
Tôi gật.
- Trước kia anh làm việc ở Củ Chi?
Tôi giật mình, nhìn anh. Ký ức của tôi lướt nhanh
về những tấm hình tình báo của Cảnh sát Ðặc biệt:
Nếu ai bảo Sài Gòn có tuyết phủ, có thể tôi sẽ tin
hơn là bắt gập nụ cười nhạo báng của định mệnh:
Người đang ngồi trước mặt tôi là anh Sáu Bay!
... Sau năm 1975, sau nhiều đợt rèn cán, chỉnh
quân và nhiều lần đại hội đảng bộ, Tôi liên tiếp
bị kiểm điểm vì chưa thực sự giác ngộ cách mạng,
lơ mơ về quan điểm giai cấp, có nhiều biểu hiện
hữu khuynh... Cho đến khi bàn tay của An Ninh Nội
Chính sục vào hồ sơ cũ của Khu 31 Chiến thuật thì
tôi bị bắt. Lúc ấy tôi đang làm Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Huyện Củ Chi... giọng của anh mệt
mỏi.
Tên đại bàng đến, xoa hai bàn tay vào nhau, phân
bua:
- Tụi em thực không biết chú đây là bạn chú Sáu,
- Tử vi anh chắc có cung quan lộc, vào tù mà vẫn
được làm thủ trưởng. Tôi nói đùa.
- Tụi này mang tiếng là du thủ du thực, nhưng hắc
bạch phân minh lắm. Tôi tởm các phòng giam cán bộ
lắm chú ạ. Chúng nó huênh hoang sa đọa, một bọn
công thần bị thất sủng, dốt nát. Nhà nước đã biến
các phòng giam 1,2,5,6 của khu ED này thành sào
huyệt cho bọn Tư sản đỏ, và Tân phong kiến.
Tôi và anh ngủ chung trên một chiếc chiếu có chiều
ngang không đầy một thước.
.... Chú biết cây Củ Chi, trái Củ Chi là gì
không? Ðó là một loại cây tương cận với cây mã tiền,
trái có dược chất, dùng ít thì chữa được những bệnh
thông thường, nhưng dùng quá liều lại là một loại
thuốc độc cực mạnh. Nó từng là con đò chuyên trở
các bi kịch đến bến vĩnh hằng.
Bố tôi khi sinh tiền. Lúc lâm chung, để lại cho
tôi câu nói vắt vai: “ Con phải nhìn bác Năm, chị
Hai nhà mình. Chung chăn với người Cộng sản không
khác gì dùng trái Củ Chi!
TÁM:
SỰ LỪA DỐI HÀO NHOÁNG.
Tôi
nhận được giỏ thăm nuôi đầu tiên, tên đại bàng đưa
thẳng giỏ ấy cho anh Sáu mà không qua khâu “ chặt
chém”. Anh lúi húi xếp những keo đồ ăn, mì gói bên
cạnh chiếu nằm.
- Còn gì nữa đây, chữ này thì tôi chào thua, hình
vẽ ai mà mặt đen như lọ chảo vậy chú?
Anh Sáu hỏi liên hồi.
- Ðây là cuốn Ðông Châu Liệt Quốc. Hình bìa vẽ Dư
Nhượng đang đánh vào áo bào của Triệu Vô Tuất.
- Làm sao lại đánh vào áo bào?
- Cổ nhân ái mộ lòng trung nghĩa, kể cả lòng trung
nghĩa đặt không đúng chỗ. Do vậy, Triệu Tương Tử
đã hào hiệp cởi phăng áo mình cho Dư Nhượng đánh,
để cho y trả xong mối thù cho chủ cũ. Thời cận kim,
cho phù hợp với tính mâu thuẫn trong chủ nghĩa Mác.
Người Trung Hoa đã nâng cấp lòng hận thù. Họ phê
Khổng, dương Tần để đay nghiến cả lịch sử. Còn thế
hệ này, nghiền nát thế hệ kia bằng khẩu hiệu chữ
to: “Ðánh cho chết những con chó đã rơi xuống nước!”
Anh Sáu dằn từng tiếng: “Tôi căm ghét sự trả thù.
Kể cả sự trả thù đã được mặc áo!”
Buổi chiều
hôm đó, đến phiên anh Sáu lãnh đồ thăm nuôi. Y như
một chi tiết, mà người viết muốn bịa ra cho tròn
trĩnh câu chuyện. Tôi gập lại Cố nhân của tôi, trong
giỏ thăm nuôi của anh Sáu... “ Cái kính này của
chị gửi cho chú, cả quyển sách này nữa”
Tôi mở ra, cả anh và tôi cùng reo lên: “ A ! Lại
John Paul Vann!”
Tờ giấy trắng bên trái, chữ của Mỹ Lộc con gái lớn
của anh: “ Hai cháu Thạnh Lộc kính tặng chú Quý.”
Bên dưới là bức vẽ nguệch ngoạc: Hai đấu sĩ nằm
chết, cánh tay gối lên nhau, hai cây kiếm văng ra
xa. Trên bụng người thứ nhất ghi: “ Ba Sáu.” Người
thứ hai ghi chữ: “ Chú Quý.” Anh sáu cười ngặt nghẽo:
- Còn người thứ ba đứng vỗ tay sao nó không ghi
là ai vậy?
Tôi nói: Là Vann, là Tư sản đỏ, hay Tân phong kiến.
Có khi cả ba !
Tôi
đọc ngấu nghiến một lần rồi đọc lại cho anh Sáu
nghe. Tựa đề cuốn sách làm anh thắc mắc: Sự Lừa
Dối Hào Nhoáng. Ai lừa dối ai?
Tôi nói: Cả một hệ thống lừa dối chằng chéo.
Vann nói dối chính anh ta. Nói dối vợ. Nói dối nhân
tình. Nói dối cấp trên. Nói dối tác giả. Cao hơn:
Thế hệ này, lừa dối thế hệ kia. Mỹ lừa dối người
Mỹ và lừa dối Ðồng minh. Và sau cùng nhưng không
kém quan trọng: Tác giả xử dụng ngòi bút lươn lẹo
của mình để nói dối người đọc!
CHÍN:
CỐ NHÂN.
... Tôi đi họp tại Bộ tư lệnh
Sư đoàn về, chiếc jeep vừa quẹo quá dốc Mũi Lớn.
Bỗng người tài xế la lên:
- Phía trước có xe bị phục kích!
Một chiếc xe Ford F. màu vàng xoay ngang mặt đường.
Khẩu trung liên nồi đặt trên gò cao đang yểm trợ
cho cả chục người mặc toàn đồ đen đang tìm cách
chiếm bờ lộ. Tiếng bắn trả rời rạc, yếu ớt. Tôi
ra lệnh lấy khẩu M10 vừa lãnh bắn dọc mặt lộ bên
phải, và những trái M 79 bắn cầu vồng đã cứu được
Vann. Vann đưa tôi xem khẩu súng còn đúng một viên
đạn. Vừa phủi quần áo, vừa nói: “Tôi để dành viên
đạn này cho tôi!”
Ðêm ấy,Vann ở lại đồn Bình
Tả với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn tôi. Vann thâm nhập
rất nhanh vào ban sĩ quan tham mưu, bằng những chuyện
tiếu lân dân gian, bằng những câu thơ âm thanh ý
tục của Hồ Xuân Hương. Tôi đứng nhìn tấm tắc: “
Hết xẩy, điệp viên tứ thiệt” Tôi chợt nghĩ đến Bob
khi ngồi đối diện với Vann trong hầm chỉ huy.
- Nghe sĩ quan của Thiếu tá nói,ông biết nhiều về
dịch lý và biết cả bốc dịch?
May quá, Vann giúp tôi có cơ hội để đưa câu chuyện
đến một đề tài vô thưởng vô phạt.
- Tôi chỉ đang nghiên cứu thôi, nhưng y như người
đi trong đêm, càng đi càng muốn lạc...
Vann nói:
- Ở Mỹ, các trường đại học đang nghiên cứu môn học
vừa kỳ bí, vừa rất khoa học này. Tiếc rằng người
Trung Hoa mải mê chũ nghĩa giáo điều. Họ đã bỏ hoang
con đường có thể dẫn đến một giải Nobel y học. Ðó
là Y Dịch!
Tôi phụ họa: “ Bất tri dịch bất khả ngôn y”. Vann
vỗ tay tán thưởng.
Tôi moi trong đáy balô ba đồng tiền Minh Mạng đưa
cho Vann: “ Ông gieo cho tôi ba lần, bằng tay trái,
tránh tạp niệm, khỏi cầu đảo gì cả.”
Tôi vừa lẩm bẩm tính, rồi nói với Vann:
- Ông Giáp Tí, bà ấy ở Mỹ Ðinh Mão. Quẻ bốc Tốn
Ngộ Khôn. Ông vinh hạnh được ngâm câu: “ Cổ lai
chinh chiến, kỷ nhân hồi”
Tôi vẽ và giải thích trong quyển sổ tay của hắn.
Hắn trầm ngâm rồi bước ra ngoài. Có một miếng giấy
nhỏ rớt ra: “Ðại Tá Nguyễn Văn Thiện, Tỉnh Trưởng
Tây Ninh đang ra sức mua chuộc các chức sắc trong
Hiệp thiên đài của Tòa thánh Tây Ninh……...”
. . . Có tiếng chân. Tôi vội gấp tờ giấy bỏ lại
vào quyển sổ.
Vann ôm vào chai Whisky, tôi khui hộp thịt “ ba
lát” làm mồi.Vann nâng ly hào sảng: “ Túy ngọa sa
trường quân mặc tiếu”
- Thế
còn việc Vann tìm cách chuộc Ramsey thông qua một
vị linh mục. Cha nào vậy Anh Sáu hỏi:
- Vẫn là cha chánh xứ Tha La. Hai người này là một
cặp bài trùng. Họ đều mắc bệnh hoang tưởng. Nửa
thiên tài, nửa đồng bóng. Có điều Vann dùng sự xảo
quyệt của mình vừa để tạo công danh cho mình, vừa
để phụng sự chính nghĩa. Còn cha, dùng bá đạo của
cha để giúp đỡ bổn đạo. Aãy vậy mà Vann cũng bị
mắc lỡm đấy. Ngôi thánh đường Tha La được tái tạo
tráng lệ, nghe nói đó là tiền chuộc Ramsey!
- Nhưng thời điểm ấy, tôi biết huyện đội Củ Chi
đã chuyển Ramsey lên Miền để chuyển ra Bắc. Anh
Sáu nói..
- Thì chỉ có Chúa Trời mới biết cha có liên lạc
với Việt cộng hay không!
MƯỜI:
NHỮNG NHÂN VẬT CHẾT.
Ðọc hết cuốn
sách Sáu Bay bực tức ra mặt:
- Khốn nạn! Thật khốn nạn
Tôi hỏi: “ Anh nói ai khốn nạn vậy?”
Anh dằn từng tiếng một:
- Cả hai thằng, mà tôi và chú phục vụ cho chúng
nó.
Tôi cãi: “ Chỉ có anh mới phục vụ, còn tôi, thằng
Mỹ có lúc là Ðồng minh”.
Giọng anh Sáu như khóc:
- Cái quân đội mà tôi phục vụ,cái chế độ mà tôi
vừa bước ra, có hạn chế vì ít học quá chú ạ. Trước
khi tôi về Củ Chi. Tôi là cán bộ trụ cột của Ban
tuyên huấn miền. Tôi có bằng thành chung kia đấy.
Nhưng so với quân đội của chú, vốn học của một cán
bộ như tôi, chẳng đi đến đâu... Sau nhiều lần bị
kiểm điểm liên tục, biết rằng: “ Thỏ chết thì chó
săn tất bị luộc”. Tôi nói thẳng:
“...Bốn là, anh Bẩy Trọng phê bình ba điểm của
tôi ở trên, đều dẫn chứng bằng kinh điển của Mác,
Về phần này, tôi xin nói rõ: Ðọc Mác, hiểu Mác không
phải dễ đâu, chưa hẳn đã đúng đâu. Người đọc Mác
phải có kiến thức ở nhà trường, ở sách vở, ở ngay
cả ngoài đường nữa. Tóm lại phải có kiến thức của
loài người, và cái tâm của con quỷ. Mác viết Tư
bản luận, tác phẩm đắc ý nhất của ông ta, đặc biệt
là chương đầu, mang văn phong na ná như Thánh kinh.
Lê Nin trong Bút Ký Triết Học phải thốt lên:
“ Vậy là sau Mác hàng thế kỷ, không ai hiểu Mác
cả”.
. . . Còn các đồng chí, cứ “nghe hơi nổ chõ” nắm
bắt vội vàng được vài ý, cóp nhặt được vài câu,
rồi xem đó như kinh nhật tụng, làm khuôn vàng thước
ngọc để ấn nhét vào các bài diễn văn, để nói năng,
để làm dáng trí thức, thêm vào một lô từ hoa mỹ,
khó hiểu, biến lý luận ngụy tín thành chân lý bất
biến, Với ý đồ lòe bịp và trù dập người khác!
... Ngày xưa, bọn hủ nho mở miệng ra là: “chi, hồ,
giả, dã”, là: “ Khổng Tử viết, Mạnh Tử viết”. Ðến
bây giờ, Than ôi! Bài bản chân truyền của bọn thất
học, lại dẫn nhau đi theo con đường cũ. Lại “ Mác
nói, Lê Nin nói” ( Có tiếng đập bàn). Tôi dùng hai
chữ “ đồng chí” có còn thích hợp không nhỉ? Tôi
xin hết, tôi xin ra ngoài để các anh làm việc!”
“ Chó săn bị luộc” Hai tiếng
Ðồng minh ngạo nghễ nhìn tôi. Chữ “ Minh” gồm Minh
là sáng. Bên dưới, chữ “Mãnh” là cái chén. Thuở
xa xưa, khi con người còn tin nhau, conợ tin vào
lời thề. Tể tướng dâng bát máu trâu cho vua. Vua
lấy máu bôi vào môi, tượng trưng cho lời thề son
sắt
Các bạn đọc đến đây, chắc
là sốt ruột, muốn biết số phận các nhân vật tôi
đã dàn dựng quá nhiều ở trên.
Tôi xin tóm tắt:
- JOHN PAUL VANN ( Chết) Sau khi dời chức giám đốc
CORP, Vann lên Quân đoàn II, chết trận.
- LINH MỤC PHÁN: ( Chết). Sau năm 1975, cha giữ
chức chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc huyện Củ Chi,
năm 1995 chết già,
- CHIM PHƯỢNG: Sau năm 1975, giống chim này tuyệt
chủng, người ta chỉ thấy hậu duệ của loài lông vũ
này bay từng đàn. Người ta gọi chúng là diều hâu,
kên kên.
Tôi, NGUYỄN XUÂN QUÝ, tuy được hít thở không khí
tự do, nhưng sức khỏe càng ngày càng xuống dốc.
Chờ chết.
Còn anh Sáu Bay, xin quý bạn,
theo bóng tôi trở lại phòng giam số 8, khu ED, trại
giam Chí Hòa.
... Khoảng một tuần sau, anh đang ngồi vá áo cho
tôi. Thì anh được lệnh tha. Anh bỏ cái áo đang vá
vào bịch nilon,
Tôi gàn: “ Người ta kiêng mang đồ của tù về nhà”
Anh ôm tôi: “ Quẻ dịch của chú đúng quá. Tội nghiệp
chú. Tuần sau anh chị sẽ vào thăm chú”
Tôi ôm anh, nói nhỏ: “ Anh về, ít nói thôi, tốt
nhất anh chị và các cháu nên dời khỏi Củ Chi.
Anh lấy tay lau nước mắt, rồi theo người quản giáo
ra cửa.
Tuần sau, khung cửa thăm nuôi,
có một mình vợ tôi, nàng khóc:
- Em vừa lên Củ Chi đưa đám anh Sáu. Em có hỏi lý
do, chị chỉ im lặng. Nghe người ta đồn, anh bị một
tên đi xe Honda “cố tình đâm vào” Chị ấy nói tuần
sau sẽ vào thăm anh..
Tôi trở về phòng giam. Ngồi
bó gối trong góc phòng với một nỗi cô đơn vô cùng
tận. Lần trước tôi đoán tào lao Vann chết thật.
Lần này thấy anh xuống sắc, tôi an ủi: “ Anh mậu
dần, tháng này, cấn vào hẳn chấn. Anh về là cái
chắc.
“ Anh về là cái chắc”. Mà anh về đâu? Trên con đường
đi không bao giờ tới, lấp lánh đủ tia ngũ sắc cầu
vồng, gương mặt Lịch Sử cau lại, Anh và không biết
bao nhiêu đồng chí của anh, đang lầm lũi đi về một
Hậu thiên đường, với chiếc thuyền hoa kết toàn bằng
cỏ, đang từ từ chìm xuống giòng sông Ðào thải..
... Vốn
dịch lý, cùng với những dự cảm vừa thần bí, vừa
bông lơn của tôi đã hoàn toàn phá sản. năm ngày
sau đó, tôi nhận được cáo trạng của Viện kiểm sát:
“ Mặc dù được Cách mạng giáo dục nhiều năm.
Tên Nguyễn Xuân Quý vẫn không gột rửa được bản chất
phản động , nguy hiểm. Ðiều 1, khoản 2.
Tôi lẩm bẩm: “ Từ 5 đến 12 năm..”. Mắt tôi nhòa
đi. Tôi nghĩ ngay đến vợ con tôi, đến ngày về xa
lắc..
Con
chim Phượng hoàng lại bay đến, nó nhẩn nha ăn khế.
Ðôi mắt hiền từ như đang chờ đợi một giọng trách
cứ dịu dàng. Nó chờ hoài không thấy. Nó ngơ ngác
nhìn khắp mảnh vườn. Chỉ có gió thu và nắng vàng
hiu hắt, Chim chẩy nước mắt, rồi tung cánh, bay
vút lên cao...
Có tiếng đồng dao:
Diều hâu mày lượn cho tròn
Ðến mai tao gả gà con cho mày
Gà con tao để tao nuôi
Tao gả con chó cụt đuôi cho mày.
( Phòng giam số 8, khu ED,
Chí Hoà 1991 )
Nguyễn
Trọng Hoàn