Truyện Ngắn & Phóng Sự
TIỂU THUYẾT NƯỚC MẮT (Chương 1, 2)
ĐÀO THẮNG
Chương một
Cách đây đã hai mươi năm. Chuyện xảy ra như đã cũ lắm rồi. Tôi đi tìm cái cũ để rao bán cho con người ư? Hay chỉ ghi lại cái gì tinh chất, được sàng lọc qua thời gian và trong trí nhớ, để độc giả cùng sống lại, một thời chiến tranh chúng tôi phải chịu đựng, thời chiến tranh mà ngoại bang muốn đưa dân tộc chúng tôi trở về thời kỳ đồ đá.
Tôi phải lục tìm những câu chuyện đã xảy ra, một công việc quá nặng nhọc, có thể trái ý mình, ngược lại với ý của một số người nhưng không thể khác được . Phải lục lọi, bới ra từ tro tàn, từ trong khói đen của dĩ vãng, từ sự ẩn giấu trong lòng người, mà con người đã rải lên lớp tro giấu kín nó đi, một sự lấp liếm đầy đau khổ và dằn vặt. Thế là, tôi đã tự bộc lộ nơi ẩn nấp, để lộ chân tướng của chính mình, và, các bạn ạ, câu chuyện bắt đầu rồi đấy…
Đoàn xe Gát 83 kéo pháo nối nhau thành hàng dài, đứng nép vào hàng phi lao cụt ngọn ven con đường ùn lên những lớp cát khô. Đôi giày vải cao cổ của người lính nào đó đập mạnh, phụt lên một lớp bụi cát trắng xác, bay mù mịt. Lưng áo bờ-lu-lông lính bạc phếch cúi xuống tấm bạt phủ pháo mầu xanh lá cây, nhìn xa như bức tượng bằng đất quét vôi. Khẩu pháo được vít vào giá an toàn, ở tư thế hành quân. Tốp lính trẻ đã khoác áo pháo làm cho lưng khẩu 37 ly ụ lên, vươn ra cái vòi vải rất dài.
Mặt trời đỏ ối trôi bập bềnh trên rặng cây khấp khểnh cằn cỗi, lá xù xòa, thân cành xơ cứng, trắng vết mảnh đạn, vết bom bi xoáy tròn ngọt sâu trong thớ gỗ và không ngừng tuôn nắng xuống mặt cát. Một con chim mái đang ấp trứng dưới gốc bụi cây xương rồng gai đâm tua tủa. Con chim có cái mỏ dài lập bập ,bộ lông dày , lốm đốm trắng, nó trễ hai cánh, chạm vào mặt cát, cái mỏ dài gục xuống ngậm một ngọn cỏ đã héo táp, cố hút lấy chút hơi ẩm còn sót lại. Con chim cũng đang thỉu đi vì nắng nóng ghê gớm.
Bỗng dưng biển quẫy cựa, trở mình lặng lẽ, tiếng sóng thoảng như hơi thở con trẻ, dào về phía bờ cát. Ông trời vừa qua một thoáng chóng mặt. Giống như có một bàn tay mát lành xoa nhẹ lên cái vòm xanh cao hun hút úp chụp lên đất và biển, khiến nó tươi hớn lên. Gió nồm hây hẩy. Con người vừa được chứng kiến một phép lạ của tạo hóa, cả vùng đất bị nung nóng hầm hập, gió tây nam thốc đến làm cây cối mềm oặt, lá gục rũ xuống. Bây giờ nhìn cây lá tươi non, hàng phi lao cất lên tiếng hát vi vút, đứng nơi giao hòa giữa biển và trời, tiếng gọi muôn thuở của sự sống thật duyên dáng, mềm mại, mát mẻ và tươi tắn lạ lùng.
Con chim mái bừng tỉnh, đạp đôi chân khô gầy xuống cát, rũ mạnh bộ lông xơ xác và nghiêng cái đầu nhỏ chớp chớp mắt nhìn mấy quả trứng vỏ lốm đốm xám, sắp đến kỳ tách vỏ. Trong đôi mắt đau đáu khô khao vì gió cát, bỗng bừng lên cái ánh vui mừng của kẻ sắp làm mẹ. Nó ngáp rộng miệng, yết hầu phập phồng, thở những hơi dài khoan khoái. Nó nhằn nhằn cỏ héo, hít mạnh cái bã cỏ, một chút nước chỉ nó mới cảm biết được, ngấm vào tấm thân gầy khô.
Đang xòe hết đôi cánh ủ kín ổ trứng, con chim bỗng nhiên nghển đầu, như có một tín hiệu lạ vừa nhập vào người, làm cho sức lực bừng dậy, nó đập cánh bay vút lên qua đám xương rồng cát. Một bên cánh bị gai cào, xước da chảy máu, con chim không hề hay biết. Một bên cánh xõa ra, nó vẫn vút lên cao, treo lơ lửng bên trên một khẩu pháo và kêu lên thảng thốt.
Nhìn con chim vỗ tít đôi cánh không biết mệt và kêu lên không ngớt, tốp lính biết có người lạ tới trận địa, hoặc có một sự gì lạ sắp xảy ra. Nó là một con chim nhạy cảm, người bạn quen thân của trận địa pháo 37 ly này. Tốp lính còn coi nó như một giàn ra-đa sống chứa đựng sự bí ẩn có màu sắc siêu nhiên.
Đúng là sự lạ như con chim mẹ mách bảo. Một cô gái đang hộc tốc đạp xe từ phía xa lao tới. Cô gái đầu không đội nón, tóc xổ tung bay lơ thơ hai bên vai. Cô mặc chiếc áo sơ mi màu xanh lá cây, hồi đó gọi là áo “Phòng không”, tà áo bị hất ngược lên, đôi chân cô guồng cuống cuồng, liều lĩnh. Chiếc xe lao sầm vào “thằng người gù” của khẩu đột một. Cậu Viên, pháo thủ số hai đang ngồi trực, giật mình kêu:
- Cô này, điên à? Định hy sinh cái xe đạp hay sao? Đi đâu mà húc bừa vào xe kéo pháo như thế?
Cô gái đứng sát vào bánh xe, chộp lấy bàn tay Viên đang nắm chặt tay tầm khẩu pháo. Bàn tay cô nóng rừng rực, nhớp nháp mồ hôi và bụi cát. Cô đứng thở, miệng cố không mở to, mồ hôi đọng thành giọt lớn trên mặt, ướt bết mớ tóc hai bên thái dương và ướt đẫm cả ngực áo. Cô đã định nói mấy lần mà chưa thể cất lời được.
Đại đội trưởng Lộc ngồi ở xe đầu ngó cổ ra ngoài quát xuống xe thứ hai, xe thứ hai truyền khẩu lệnh xuống xe thứ ba, rồi xe thứ ba truyền lệnh xuống xe sau ,cứ thế được truyền đi miệng lệnh hành quân của trung đoàn. Đoàn xe kéo pháo nổ máy. Tiếng động cơ rền rĩ. Cô gái vẫn không chịu buông tay Viên. Anh chàng cuống cuồng miệng ú ớ định gọi ai. Cô gái hít đầy hơi vào ngực, mặt tái xám, đầu ngặt ra sau, thu hết sức, thốt lên:
- Anh ơi!
Hai tiếng “anh ơi” phào ra miệng người con gái sắp ngất vụt xéo qua người Viên. Chiếc xe đang kéo khẩu pháo, lôi theo cô gái, bàn chân tuột mất dép, miết xềnh xệch trên mặt đường. Viên nhổm người quát lớn.
- Dừng lại! Thằng cha Mịch tử tiệt, dừng lại!
Chiếc Gát 63 phanh kít lại, khẩu pháo đẩy cần lái xô mạnh, nghiến vào móc kéo ken két. Viên nhảy phốc ra khỏi cái ghế sắt nóng bỏng, đập mạnh hai bàn chân không giày xuống mặt cát. Cậu ta nâng phốc chiếc xe đạp, đặt xuống vệ cỏ, trong khi đó cô gái vẫn lẵng nhẵng bám chặt lấy tay chàng pháo thủ to khỏe, đẹp trai có tiếng.
Đại đội trưởng Lộc đẩy cửa xe đánh sầm, lệnh khệnh bước xuống, lừ lừ đi đến chỗ chàng trai và cô gái. Anh hỏi gằn trong họng:
- Cô làm sao mà tru lên thế? Tôi lại phải gánh cái của nợ gì thế này, hở?
Lộc nhe răng, lộ ra cả chiếc răng bọc vàng ở khóe miệng. Anh vẫn có thói quen khi tức giận hai hàm răng nhe hết cả ra và một âm thanh lạ tai cứ gừ gừ ở trong cổ họng. Lộc giẫm đôi giày đen kêu to hơn mức nó phải kêu, đi quanh, gầm ghè. Vừa xuất phát đã có đàn bà chặn đường, thật xúi quẩy! Sao? Cái thằng tử tiệt này làm gì nó? Mà cái con chết rấp ấy làm sao lại níu lấy thằng cha như cái bị thịt thế kia?
Viên đứng đờ mặt như chính cậu ta chứ không phải cô gái gây ra lỗi lầm cho đoàn xe vừa lăn bánh đã phải dừng. Lộc nhìn chằm chằm vào mặt, xuống ngực, tới mông, rồi cặp đùi cô gái. Cô có bộ ngực cao rất đẹp tuy đã hơi căng ra không bình thường sau lần áo. Cái lưng dài, đẫy đà, hông nhìn nghiêng hơi xệ xuống. Ái chà, không phải con gái. Một mụ đàn bà! Một mụ đàn bà đã ăn sống, nuốt tươi một thằng hoặc nhiều thằng đàn ông. Lộc đi quanh, dáng thấp nhỏ choi choi, đôi mắt nhìn xói vào cô gái như cách đang đánh giá một con vật sắp mua. Anh vẫn khoe rằng ông bố trước kia làm lái trâu bò nên đã truyền cho anh cái khả năng đặc biệt tinh ranh, lọc lõi khi phân loại, định giá con đực, con cái. Thường khi trực ban ở sở chỉ huy đứng giữa các cậu trinh sát, thông tin mặt non choẹt, má phinh phính lông tơ, anh, bằng cái giọng của một tay bợm gái lão luyện răn dạy rằng, cái tài của anh đàn ông là khi nhìn một cô gái trinh bạch phải nhận ra ngay, nhận ra bằng sự tinh nhậy, từng trải, tinh quái, thèm khát của giống đực. Phải nhớ rằng, ở người con gái còn trinh bạch cái gì trên người cũng được nâng niu và sửa sang luôn. Tuyệt nhiên không phải chỉ là hàm răng trắng muốt, mái tóc huyền giữ mượt óng, thơm tho, mà là tất cả. Tất cả là một khối ngọc quý còn nguyên vẹn, một sự tinh khiết tuyệt hảo luôn luôn bật ra cái sức phản kháng và giữ gìn. Một cô gái trinh bạch có thể run lên trước cơn gió thổi xấc xược, thô lỗ qua bộ ngực non trẻ và rụt phắt tay lại như bị bỏng khi chạm làn da mát rượi, nõn nà của mình vào tay một người đàn ông. Mỗi lần khoe như thế anh thường kể một câu chuyện trần tục với những động tác của con bò đực trông thấy một con bò cái đang gặm cỏ bên đường, khi anh riết mũi chú chàng kéo đi cho kịp ông cụ đang bước phăn phắt ra khỏi cái chợ mà ở đó ai cũng lọc lõi, tinh ma đến phát khiếp lên được.
Lộc vẫn đi quanh Viên và cô gái, cổ họng gầm gừ. Anh gườm gườm đôi mắt, xoạc mạnh cẳng cho chiếc giày cao cổ sát vào chân cô gái, đôi mắt cạu lại:
- Duyên cớ làm sao mà cô giữ cậu ấy? Sao? Cô thất thân với nó rồi à?
- Trời ơi! Sao anh ác thế?
Cô gắng gượng trút ra từng chữ rời rạc. Đôi mắt thoáng bừng lên giận dữ song sắc mặt lại nhợt nhạt, hơi thở đứt quãng, thều thào, cô lả xuống tay Viên. Người pháo thủ trẻ hai tay lóng ngóng đỡ lưng cô gái. Nhiều pháo thủ ở các khẩu đội khác cùng nhảy ào qua thành xe, xúm lại nhìn cô ái ngại. Một cậu quát tướng lên:
- Thằng Viên, sao mày lớ ngớ thế? Đặt người ta ngồi xuống đường nhanh lên! Cô ấy ngất rồi kìa!
Cô gái vẫn gắng gượng nghển nhìn vào mặt Lộc. Đôi mắt anh vẫn lừ lừ rọi khắp người cô. Cô gái khẽ rên rỉ:
- Thủ trưởng ơi, có anh Thái nhà em ở đây không?
Tốp lính trẻ quay nhìn cả vào Lộc, không ai dám thay anh trả lời cô.
Viên đã tìm cách đặt cô xuống vệ đường. Cô gái cúi đầu, úp mặt vào hai đầu gối khóc rưng rức. Vẻ liều lĩnh, táo tợn đã biến mất, trông cô như một đứa trẻ lạc lõng, bơ vơ. Cô khóc vì bị xúc phạm, vì tủi hổ và thất vọng. Đôi vai ướt đẫm mồ hôi rung lên từng đợt. Thỉnh thoảng cô ngẩng nhìn tốp lính đang ái ngại nhìn cô, và càng khóc to hơn, răng cắn sâu vào môi cho nước mắt tràn qua miệng, thành dòng trên cổ. Lộc nháy đôi mắt dẹt có đuôi dài nhọn hoắt làm nó tụt sâu vào hai mí như có vành.
- Thái nào? Cô hỏi Thái nào? – Anh hỏi có phần mềm mỏng hơn, vì hiểu ra không phải cô đến để bắt vạ đơn vị.
- Dạ, em hỏi anh Thái ở “ xê tám” mới về cưới vợ lên ấy ạ!
- Thôi chết rồi – Chiến sĩ trinh sát Đăng gạt mạnh mấy phảo thủ đứng cạnh Lộc ra xa – Vợ anh Thái A trưởng chỉ huy của ta, chứ còn Thái nào ạ!
Nét mặt Lộc sa sầm, giọng lạnh tanh:
- Ờ, nếu quả đúng như vậy cũng phải hỏi rõ đầu đuôi, cho có ngọn ngành chứ. – Anh quay đi, gằn từng tiếng: – Gọi ngay cậu Thái đến gặp tôi.
Đại đội trưởng bước thẳng về xe đầu, hai gờ vai mỏng rung lên và hơi lệch sang một bên, bàn tay nắm chặt. Đăng biết Lộc đang rất giận giữ vì vợ Thái đường đột xuất hiện ngay lúc đơn vị hành quân nhận nhiệm vụ mới, mọi người vừa được nói công khai vừa thì thầm với nhau là đến một nơi rất khốc liệt. Chắc rằng “ông ấy” đang nghĩ ra những lời cay độc để “quạt” anh Thái một mẻ. Mặc xác ông ấy, Đăng gọi to:
- Anh Thái ơi, chị Hà đến!
Đăng chạy hớt hải về chiếc xe đầu vì không thấy tiếng Thái thưa. Có tiếng giữ chăn phùm phụp và tiếng các hòm đạn va vào nhau lịch kịch. Mấy người lính lôi ra một thân hình cao to, mềm nhũn, ngủ mê mệt. Một tiếng quát như lệnh vỡ:
- Sở vào mũi xem nó có còn thở không, hay hòm đạn đè nó chết rồi.
Hà lập cập chạy lại chiếc xe đầu. Chị vấp ngã nhưng thoắt cái chị đã sáp tới bên chiếc xe.
- Cấu vào chân nó xem nào!
- Nó co chân các cậu ạ. A, lại còn đạp tao hả? Vợ đến mà lão thần ngủ không chịu buông tha nó ra.
- Trời ơi, con giời ngủ gì mà khiếp thế không biết?
Hà nghển đầu lên thùng xe thở hổn hển, mếu máo:
- Anh…Thái…ơi!
Một cậu đứng dưới đường giục với lên:
- Nắm vào hạ bộ bóp mạnh một cái cho nó tỉnh. Bóp! Bóp nữa!!!
Thái bật người ngồi dậy, hai mắt vẫn nhắm tịt.
Cậu dưới đường lại giục:
- Đấm cho nó mấy quả. Đấm thật mạnh. Đấm nữa! Cầm cái của quý của nó vặn thật mạnh.
Hà đu hẳn người lên mếu máo:
- Các anh ơi, em lạy các anh trăm lạy. Các anh đừng đánh nhà em nữa!
***
Thái ngồi sát bên vợ trên vệ cỏ, hai bàn chân sục sâu vào lớp cát khô. Cát vẫn còn nóng rát, hai bàn chân anh lính dũi như hai cái dầm ngoáy sâu, giấu đi cả bàn chân, cả cổ chân cóc cáy, bẩn thỉu. Không những chân mà cả tay anh ta cũng dính đầy đất đỏ. Thái vừa mới đi tiền trạm về lại vội vàng lao ngay vào dỡ lán, bới hầm, rồi xếp tất cả cái đống ngổn ngang ấy lên xe cùng với anh em trong tiểu đội chỉ huy. Suốt nửa tháng nay Thái cùng tổ tiền trạm của đơn vị bứt ra khỏi anh em băng lên trước, vừa phải nhanh, vừa tỉ mỉ, khoa học, sục tìm nơi giấu pháo, nơi nấu ăn, trên đường đơn vị sẽ đi qua. Mỗi đêm tổ chỉ dừng lại nghỉ hai tiếng đồng hồ. Thời gian trong ngày còn lại đều ở trên xe, thậm chí đi tiểu cũng ở trên xe, đứng xạng cẳng, vạch quần tè ra hai bên đường. Con đường xuyên xen giữa miền rừng phía Tây ban đêm nườm nượp xe nhưng ban ngày vắng đến rợn người. Vắng đến nỗi há sẵn mồm xem có ai gọi một tiếng cho đỡ nhớ người mà há mỏi hàm cũng chẳng thấy bóng ai. Chiếc Gát 63 cứ lồng lên mà chạy như nó đã bị điên, quăng quật trên mặt đường đầy ổ gà. Chậm trễ một chút có khi phải ngồi đợi ở cái bến phà con ba bốn đêm. Khi tổ của Thái trở về trông ai cũng như quân tướng của Tề Thiên Đại Thánh vừa ở động ra, tóc đỏ, râu đỏ, mi mắt cũng nặng trĩu bụi đỏ. Quần áo thì bết lại cóc cáy, bụi đỏ trộn lẫn mồ hôi, bốc ra thứ mùi chua khăm khẳm. Họ chưa kịp hít thở hơi biển trong lành cho thư giãn lá phổi, đơn vị lại nhận được điện khẩn: bỏ hết các thứ cồng kềnh lại, hành quân gấp.
Xếp xe xong Thái chỉ định nằm mấy phút cho giãn xương cốt, chưa kịp dặn Đăng gọi dậy nếu anh ngủ quên, lưng chưa kịp cảm giác tấm bạt nóng rẫy, hai mắt đã nhắm tịt lại, không thể nào mở ra được nữa…
Hà tì ngực vào một bên đùi chồng, chị cảm thấy sự rắn chắc của cơ bắp đang truyền sức lực sang người mình. Mùi mồ hôi chua khẳm phả vào miệng, vào mũi ngàn ngạt. Tuy thế Hà không thấy thứ mùi chua này xa lạ hay ghê ghê cái sự bẩn, trái lại chị chấp nhận nó như một cái gì thật gần gũi, và chị cắn khẽ vào lớp vải dày cáu bẩn, hít lấy hơi chồng. Rồi chị ngả hẳn người, gần như nằm nghiêng trên đùi anh. Hà thì thào:
- Em sợ quá, sợ không gặp được anh. Sao anh ngủ say như chết ấy thế? Nghe các anh ấy đánh anh, em cứ bủn rủn cả người.
Thái cười nhẹ:
- Chúng nó phủi bụi, ăn thua gì. Đứa nào cũng vờ làm quá cho em sợ đấy thôi.
Anh vụng về đặt bàn tay dày cộm một lớp chai ráp sì lên ngực vợ. Chị lần sờ, ngạc nhiên thấy từng ngón tay anh xù xì, biến dạng vì cầm xẻng, cuốc chim, đào ngoáy suốt ngày này sang ngày khác như chuột chũi. Im lặng một lát, chị quờ một tay kia, rồi đặt cả hai ban tay chồng lên ngực mình.
Thái rút khẽ tay ra, luồn trong lần áo mỏng, thấy vợ không mặc áo nịt, hai đầu vú cương cứng, và cặp vú mới đây thôi nhỏ gọn, rắn đanh, giờ to lên khá nhiều. Thái vội hỏi:
- Em có chửa phải không?
Thấy Hà không trả lời, anh hỏi lại bằng giọng hấp tấp hơn:
- Em có mang sao không báo cho anh biết?
Chị ứa nước mắt:
- Anh cứ im như thóc thế, thư không thèm gửi không thèm nhắn ai lấy nửa câu , em biết đâu mà báo với chả cáo.
Chị lật người, ôm riết ngang lưng, cắn mạnh vào ngực áo anh. Thái kéo vạt áo xuống, ôm chặt vợ, rồi bế hẳn chị vào lòng. Anh luồn bàn tay, lần quanh lưng, thấy chị đã hơi đẫy ra.
Trời tối hẳn từ khi nào cả hai người đều không rõ nữa. Hàng phi lao réo lên u ú, cây nào cũng bị mảnh bom phạt cụt ngọn, cành con mọc túa ra um xùm. Sóng biển ầm ào, có con sóng lớn nào đó đổ xoài lên bờ cát nghe hút như một tiếng thở dài. Bầu trời nhạt nhòa muôn vì sao dạt trôi, tan tác, gió cuốn những đám mây xác xơ, ánh lân tinh sáng hắt lên trên đầu những con sóng bạc khi mờ khi rõ, một con còng gió chưa tìm thấy hang chạy cuống quýt trong cơn gió tạt. Tiếng biển thẳm sâu trĩu nặng. Hơi biển mặn mòi làm cả hai vợ chồng đều khó thở. Thái ôm ghì lấy vợ, lòng rờn rợn dõi theo ngọn gió lướt qua mặt đường, ném từng nắm cát vào chiếc xe đạp làm sắt thép bật kêu khe khẽ như tiếng người rên.
Anh cũng không nhớ rõ tốp pháo thủ vây quanh hai người tản về các xe từ lúc nào. Đoạn đường ồn ào, người đi, người chạy, lố nhố, bây giờ im phắc. Sự im lặng giống như có người chỉ huy làm Thái đâm nghi ngờ, anh ngoái nhìn đằng trước, đằng sau, nhìn ra hai bên, người thấy gai gai, sờ sợ. Một sự im lặng cố gắng nén lại và có phần giả tạo. Một lúc sau có anh lính già nào đó không nén nổi, buột ra tiếng thở dài não lòng, làm cả đoàn quân xao động, tuy vẫn là sự xao động của im lặng. Ở trên thùng chiếc xe Gát gần hai vợ chồng nhất, cậu Viên như vờ vui đập tay lên thùng xe làm nhịp bõng dưng ư ử hát bài gì không ai nghe rõ lời. Nhưng tiếng hát của cậu ta dừng đứ ngay lại. Chắc có tay nào véo cho cậu ta một cái, nên sau đó Thái nghe tiếng đấm nhau. Sau đó lại im lặng. Một cậu nào đó liều bật diêm hút thuốc lào. Có tiếng quát khẽ. Lửa tắt phụt. Tiếng điếu cày bật kêu lóc xóc. Tiếng điếu xa hút trong đêm sâu lặng tờ. Trong sự im lặng bất đắc dĩ, chỉ có biển ở ngoài bờ cát ầm ĩ sôi réo.
Thái ngồi lặng lẽ, đôi mắt mở to, nhìn đăm đắm vào mặt vợ. Qua ánh pháo sáng từ phía xa rọi tới, đôi mắt người phụ nữ như cháy loáng lên từng đợt, ánh lên như sóng những tia sáng bối rối, và hoảng sợ. Người chị cứ run bắn lên, không ghìm được và anh hôn lặng lẽ lên đôi môi ướt mọng, mấp máy, chỉ chực khóc. Chị không thấy ngượng, không còn xấu hổ nữa, ngón tay lần tìm cởi cúc áo chồng, hất tung hai tà áo ra, rúc mặt vào bộ ngực đầy, hít lấy mùi da thịt chồng, cái hơi mằn mặn và dịu ngọt nuốt vào làm người đàn bà ấy rạo rực, chị tận hưởng chưa được bao nhiêu. Đến khi Thái đậy vạt áo phủ kín mặt làm ngột thở thì chị bỗng nhiên thấy mình liều lĩnh đến ghê gớm. Chị quờ hai tay kéo đầu anh áp vào ngực nghe trái tim mình đang đập rối loạn. Rồi bàn tay mềm mại bỗng rắn chắc, bắt các ngón tay anh xòe ra, đặt lên cái bụng đã tròn lùm lùm lên trong lần vải “phíp” mỏng. Bàn tay như có ma thuật bắt Thái vuốt dọc cặp đùi dài chắc lẳn của chị. Thái ngạc nhiên hỏi vợ:
- Hà, nghe anh hỏi nhé: em không xấu hổ à?
- Em lặn lội đi đường hàng trăm cây số đến gặp anh. Xấu hổ là cái gì?
- Này, này, các anh ấy đang cười kia kìa!
- Ai cơ?
- Các anh lính pháo hay khịa chuyện, có một chúng nó tố lên gấp mười đấy…
- Có lẽ họ chưa hiểu thế nào là vợ lính, là đàn bà chăng?
- Ít người biết, còn nhiều người chưa biết chứ.
- Thảo nào cái anh bạn lúc nãy dìu đỡ em tay chân cứ lóng nga, lóng ngóng.
- Ôi dào, lóng ngóng gì nó, thằng ấy trẻ tuổi, đẹp trai, hát hay đến cỏ cây cũng phải mê, nhiều cô chết mệt vì nó đấy.
- Thế sao anh ấy run thế nhỉ, cứ như lần đầu chạm tay vào phụ nữ.
- Vì nó biết em là vợ anh. Vợ một người lính thì người lính khác phải biết trọng chứ.
- Anh thì chúa là hay đề cao các anh lính. Thế tại sao người ta nói văn mình vợ người.
- Ô hay, em hỏi như trẻ con ấy thế, anh cắn vào má vợ một cái rõ đau. – Đúng đấy, nhưng cổ nhân đúc kết điều ấy để dành cho kẻ sinh ra để tự thưởng thức cái đời sống của mình, sống dửng mỡ và phè phỡn. Những kẻ biết mình sống ba chục năm, hai chục năm hoặc mươi mười lăm năm nữa. Còn người lính thì bây giờ đang sống, lát nữa có thể chết. Lúc này nhìn thấy ánh mắt, nụ cười của nhau, ôm chầm lấy nhau, nhưng chốc nữa có thể nhìn thấy máu phun ra, cánh tay ấy đã nát bét, thân người bị mảnh bom chém lìa, nhìn thấy tim óc bạn phơi ra ngoài. Vì thế đối với đồng đội đang sống lại như đối với người có thể chết. đã chết một phần, hoặc có khi là nhất định sẽ chết. Thế nên, rốt cuộc những người lính quý nhau, thương nhau, cùng chịu đựng và chia sẻ mọi thứ trên đời. Có thể nói trên đời này không tình thương nào sâu nặng một cách đau đớn như tình thương giữa những người lính.
- Những người lính và vợ lính nữa chứ lị.
- Ừ, vợ lính nữa em ạ!
Trời tối mịt mùng. Gió bỗng mạnh lên và thổi hung hãn. Biển gầm gào, những con sóng lớn gầm thét đổ vào bờ cát. Biển sôi sục, ở sâu trong lòng nó, biển như cố ghìm lại sự phá hủy muôn đời. Biển giãy giụa.
Thái xoay hẳn người che cho cát khỏi bắn vào mặt và vào người vợ. Gió thốc tung lưng áo Hà làm tà áo kêu lên lật phật. Anh lần tay kéo tà áo xuống giữ chặt lấy, trong khi chị cứ níu như đu lấy cổ anh, tấm lưng to đẫy hơi cong lên, hai chân chị giãy ra khỏi tay anh, đạp mạnh xuống, cào cào trên cát. Và rồi, chị bỗng bật khóc nức nở.
Thái bỗng đứng lên, quên hết mọi sự gìn giữ, e sợ, lập cập bế vợ đến cái thùng nhà hầm gần đấy.
Những người con gái như Hà phải làm vợ trước khi được làm người yêu. Họ quen nhau chưa kịp yêu thì ngày cưới đã đến. Luật pháp và luật lệ ghép họ lại với nhau. Hai bên họ nhà trai, nhà gái vội vàng làm một cái lễ tác thành cho người đàn ông và người đàn bà. Họ sáp lại với nhau trong khi còn đang bỡ ngỡ về nhau một cách vội vàng vì trách nhiệm hoặc là một thứ nghĩa vụ gì đó, có khi từ sâu bên trong một đòi hỏi có tính chất bản năng chứ chưa phải là tình yêu. Tuy nhiên cái gốc gác của nó bao giờ cũng vì cuộc sống con người. Vì thế khi tách ra xa nhau tình yêu mới bật nở, một thứ nở chậm như hạt được ủ mới đem gieo, nên sâu đậm và khao khát đến cháy bỏng. Tình yêu cứ thế được nuôi dưỡng dần dần qua những lá thư và sự xa cách xen vào với nỗi thương nhau cùng nghĩa vợ chồng và rồi để trở thành một thứ tình vợ chồng ào ạt như giông bão, như lũ cuốn đối với đời người lính.
***
Đã qua giờ đơn vị hành quân từ lâu.
Tiếng còi ô tô “Toe!toe!” gắt gỏng phát ra từ xe Lộc ngồi khiến Thái giật bắn người. Nhận thức của anh bị lôi tuột ra khỏi thế giới êm dịu trở về với sự thật nghiệt ngã. Sự thật tàn nhẫn mà cái phần trữ tình đã bị lột bỏ, còn trơ lại cái cục lửa của chiến tranh, làm cho Thái cảm thấy nóng rát và đắng nghét trong cổ họng. Anh phủi cát ở lưng áo vợ, dùng ngón tay cào nhanh mấy cái cho mái tóc đỡ rối và đỡ nhanh chị đứng dậy. Qua màn đêm nhờ nhờ bởi ánh lân tinh từ những con sóng hất mình lên bãi cát, Thái vẫn thấy rõ đôi mắt Đại đội trưởng nhìn mình giận dữ và đấy cái ý trách móc. Hai người đi đến gần nhau, Lộc vấp chân làm cát bay tung. Họ vội vàng quay đi để tránh luồng mắt nhau. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc bốn con mắt lại quay phắt lại, ngó vào nhau, trân trân. Đôi mắt Lộc bừng bừng chiếu vào Thái khiến anh nóng bừng cả khoảng đầu, phía sau gáy tê đi, rờn rợn. Lộc rút phắt cây cờ chỉ huy vẫn giắt ở lựng, cầm chắc nơi tay, hầm hầm như sắp vụt vào người Tiểu đội trưởng chỉ huy dưới quyền anh.
Biết rằng giây phút này không thể kéo dài, Hà níu chặt lấy tay chồng. Người lính trẻ từ từ gỡ tay vợ. Chị nắm luôn lấy bàn tay anh, dùng cả hai tay nắm rất chắc. Thái làm một động tác mạnh, như một cái hất tay, bước vụt đi. Hà bước theo, rồi chạy lên kịp, đi song song với anh. Thái thở hổn hển.
- Về đi em! Đơn vị tới nơi ở mới, anh sẽ viết thư cho em.
Hà mếu máo:
- Anh Thái, anh đặt cho con một cái tên.
Không nghe tiếng vợ vừa nói gì, Thái bám cửa thùng xe đu người nhảy vọt lên, miệng thở hồng hộc. Chiếc xe Gát 63 rung rung sốt ruột vì chờ đợi. Từ góc bên kia thùng xe Đăng đứng chồm dậy, loạng choạng bước qua đống đồ đạc lổng chổng, gần như xô tới đẩy mạnh Thái trở xuống mặt đường. Người lính trẻ măng quát to, giọng rất dữ, như chính cậu ta là người chỉ huy cao nhất ở đây.
- Xe sau vượt lên, chạy trước đi!
Đăng cũng nhảy xuống mặt đường, sải những bước dài tới chỗ Hà và Thái đang nhấp nhổm, nôn nóng đứng dưới hàng phi lao. Hà phải dựa hẳn vào một cây phi lao cụt ngọn, cành lá lòa xòa đang réo lên ú ú trong gió mạnh. Hà cắn chặt môi, mặt cúi gầm, tay ôm cái nón che trước bụng… Chiếc nón cậu Chư rỗ vừa ngó hắn người ra ngoài cửa xe đội lên đầu cho Hà. Chiếc nón ấy cậu ta mua làm quà miền Trung chờ mang về cho vợ.
Một chiếc máy bay phản lực xẹt qua thả pháo sáng. Chùm pháo sáng nổ lục bục, tỏa bung ra phía trên đầu đoàn quân. Đăng nói hấp tấp:
- Chị Hà về đi! Em và anh Thái phải đi ngay bây giờ.
Hà chậm chạp ngẩng đầu lên, khi đã nhìn rõ đôi mắt thương cảm của Đăng, đôi mắt của chị bỗng giương to, óng ánh nước. Giọng chị chìm trong gió.
- Thôi, em đừng giục nữa khiến chị thêm đau đớn. Chị về ngay bây giờ đây!
Từ đôi mắt sưng mọng, nước mắt trào thành dòng, chảy dọc hai cánh mũi và đọng lại ở đôi môi rớm máu. Chiếc nón úp trước bụng lỏng dần, tuột ra khỏi tay, rồi cứ thế trượt dần, nằm lăn ra đất. Cơn gió dữ dằn vỗ ngay lấy, hất nó lăn lộn loang loáng trên con đường ngập ngụa bụi cát. Thái đuổi theo, mãi mới lấy được chiếc nón đưa lại cho Hà. Anh chụp vai Đăng kéo rất mạnh, gần như lôi anh chiến sĩ về phía chiếc xe vẫn đang đợi. Hai người bám vào thành chiếc xe quân sự nhoài lên.
Hà bỗng chồm người về phía trước, chạy cuống cuồng:
- Anh Thái, anh Thái ơi!Cho em đi với các anh một đoạn, một đoạn thôi.
- Không thể được đâu Hà!
- Em giặt giũ, em nấu cơm cho các anh ăn mà đánh nhau!!!
Chiếc xe Gát lăn chầm chậm. Hà ngồi thụp xuống, lại đứng dậy chạy. Khẩu pháo vấp vào ổ gà nẩy lên bần bật. Viên nắm chặt tay tầm khẩu pháo, đầu cúi gầm xuống. Hình như cậu ấy khóc. Một chùm pháo sáng nữa lại bung xòe trên bầu trời. Ánh lửa đám cháy do chiếc máy bay ném bom ở phía xa chiếu loang loáng trên nền trời.Trong thứ ánh sáng gắt gao, quái gở, những đám khói kết lại với nhau thành vầng khói lớn đùn lên sừng sững như những trái núi khổng lồ, che khuất hẳn một khoảng trời.
Hà vẫn chạy theo xe, chị vấp vào cái gì đó, ngã lăn ra. Thái hộc lên, níu chặt lấy vai Đăng. Những tưởng người thiếu phụ không dậy được nữa, nhưng kìa, chị đã đứng lên, lảo đảo, chệnh choạng, chới với. Chiếc xe lăn bánh đã xa. Chị chỉ còn như một cái bóng vật vờ trong ánh pháo sáng ma quái, như chị bị đè sấp xuống dưới vùng khói bom khổng lồ, và biến đi trong màn đêm khi anh pháo sáng bị đẩy lùi, bóng đêm ken ập tới đen kịt, mịt mùng.
Thái từ từ khuỵu xuống đống đồ đạc ngổn ngang trên thùng xe. Đăng cũng ngồi xuống theo, ôm chặt lấy anh. Anh nhắm nghiền đôi mắt, mi mắt lặm nhặm vì cát bụi. Màn đêm tơi tả chụp xuống xung quanh. Như một giấc mơ vội vàng, Thái hốt hoảng vì ý nghĩ điên dại đây là lần cuối cùng hai người gặp nhau. Anh vùng ra khỏi tay Đăng, hỏi to:
- Các bộ phận đo xa, trinh sát, thông tin có ai để quên cái gì không? Đường hành quân xe rất xóc, cố gắng bảo vệ tốt khí tài. Anh quay sang Đăng – Đăng đeo ống nhòm lên người, vất vạ vật như thế vào đến A2 không có nó, đơn vị như mù mắt, nằm im chờ chết.
Chương hai
Một người lính ngồi dựa lưng vào bức tường đổ, ngả hẳn đầu lên đám rêu mọc lầy ngầy, mồm há hốc, hai bàn tay sần sùi chập lại làm máng hứng nước. Anh ta gí sát đôi môi khô khốc vào cái máng tay, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng. Gió đã dịu hẳn, về cuối cơn giông mưa chỉ còn lắc rắc từng hạt, thỉnh thoảng đôi hạt mưa bay lạc vào tận họng khiến cho vòm miệng cứ muốn mở to mãi ra. Một dòng nước mỏng nhỏ xíu, từ cái máng tay nhè nhẹ lăn qua làn môi, thấm vào kẽ chân răng; tia nước chạm vào đầu lưỡi làm dịu dần cơn khát và làm tan cơn đói ngủ đang rập rình ở mi mắt, sẵn sàng kéo tuột anh vào một giấc ngủ mê mệt. Anh lính đưa bàn tay vuốt từ đỉnh đầu xuống trán, nước tràn qua mặt, lan da rân rân như giãn nở. Anh lại vuốt, lại miết, lặp lại động tác như một cái máy, tưởng như tư duy của anh đã bị lập chương trình điều khiển, bàn tay còn lại chặn nước cho chảy vào mồm, cặp môi cong lên, cái cổ rướn lên, toàn thân đê mê lặm chìm trong một khoái cảm dìu dịu.
Cách đó chừng mấy bước chân, sát cái bậc lên xuống căn nhà đổ, một thân người xám ngoét bọc trong bộ quân phục ướt sũng. Những hạt mưa to tướng ném vào cái trán hóp, đen sạm và đập vào đôi mắt hai mí chưa kịp khép kín, làm tròng mắt lồi ra, tím ngắt. Cái đầu ngoẹo hẳn sang một bên, được kê lên đôi giầy cao cổ ướt nhoét, đế giầy bê bết bùn đất đỏ; cái thân hình không hẳn là người không hẳn là xác nằm thẳng dẵng. Những hạt mưa lớn bắn vào đôi bàn chân cũng bê bết bùn quánh đỏ, làm lộ ra từng mảng da trắng nhợt nhạt, dăn deo.
Một dòng nước xanh mờ theo bức tường không mái chảy xuống. Dòng nước tràn qua bậc lên xuống căn nhà, tuồn vào lưng chiếc áo bờ-lu-dông vải dầy, ướt lũng nhũng, cái ngấn nước loang ra trên nền đất, ngấm sang chiếc quần bạc mầu cáu bẩn. Như được hẹn giờ, cứ vài phút người lính lại ngừng uống nước bằng máng tay, quay sang nâng cái thân người ấy lên vắt bớt nước ở lưng và ở đũng quần, sau đó anh cẩn thận đặt cái thân hình nửa người, nửa xác, đứng như tư thế cũ.
Trời mờ sáng, bầu trời xanh nhạt. Mảnh trăng già cong cong, nhợt dần, trôi bồng bềnh trên dãy đồi trọc lô xô. Tiếng nước chảy từ phía Ba da Đô Lương vọng lại nghe ồ ồ. Người lính cởi quần áo ngoài ném phịch xuống thềm căn nhà đứng giữa trời tắm khô. Thấy trong người bức bối, khó chịu, anh cởi nốt chiếc quần đùi cầm ở tay, đoạn áp vào đám rêu cho ướt, dùng làm khăn lau người. Anh để mình khỏa thân như thế đi ra đứng ở ngã ba đường ngóng ngược lên phía Phủ Quỳ đau đáu. Anh lính ngáp một cái thật dài, tưởng đến rách miệng rồi vội vàng quay về đứng trước căn nhà. Hoang vắng quá. Hoang vắng tới mức con người phải tự khỏa thân để thấy da thịt mình. Không một tiếng kẹt cửa ở dãy phố câm lặng, gẫy vụn, vài căn nhà còn sót lại tường nứt hoặc bay mất nóc. Không một sợi khói ấm áp nào run rẩy qua khe bếp. Tuyệt không có ánh đèn dầu le lói báo hiệu con người ta đang sống. Anh lính bỗng nảy ra một ý nghĩ rồ dại, để nguyên mình trần truồng như thế chạy quanh đây xem nếu gặp ai tất họ phải kêu lên cho bớt vắng lặng. Đôi mắt mở to hoang dã nhìn như bới tìm xung quanh. Qua ánh ngày mờ mờ anh lính thấy một đoạn hào nhỏ chắc rằng bỏ hoang đã lâu. Anh sải mấy bước dài, nhảy thử xuống con hào và bỗng giật mình hoảng hốt vì lũ cóc nhái nhảy hỗn loạn. Một con chim cũng đang trốn ở đầu kia đoạn hào thấy động chấp chới vỗ cánh bay lên, nó loạng choạng ở trên không, chưa tìm ra chỗ nào có thể trốn lại được. Anh lính ân hận vì làm kinh động, khiến con chim tội nghiệp vội vã bay đi. Và rồi, anh nhảy phắt lên mặt đất. Bằng đôi tai đặc biệt thính nhạy, anh đã nghe có tiếng động cơ máy bay ở rất xa. Gần như cùng một lúc anh ta nhìn thấy bằng mắt thường hai chiếc A7 bay sóng đôi về phía thị trấn. Sau mỗi chiếc máy bay, hai luồng khói tuôn phùn phụt, làm vẩn lên bầu trời xanh lơ trong sạch. Hai chiếc A7 xông bừa qua mảng hồng nhạt của bình minh còn rớt lại, rồi cứ thế lừ lừ diễu qua bầu trời.
Anh lính trinh sát đang chờ để đón chiếc xe hậu cần của đơn vị. Đại đội pháo cao xạ 37 ly đang chiếm lĩnh trận địa ở phà gần phà Sỏi. Anh phải “chốt” ở đây để chặn chiếc xe lại, chắc “thằng già khụ” chờ nhà bếp bị hỏng máy hoặc giở quẻ xịt lốp, gẫy cầu ở đâu đó. Lúc đơn vị hành quân rời vùng đất đỏ Phù Quỳ chiếc Gát đã đứng ì ra không chịu nổ máy. Quay ma-ni-ven chán tay đầu xe rung lên đùng đùng, nhưng nó vẫn đứng trơ thổ địa. Phải móc cáp cho xe kéo pháo lôi đi một đoạn, chiếc “chuồng gà” Gát 51 rách tã mới nổ máy phành phạch. Đến khi tăng ga lăn bánh, nó cứ rên ư ử. Đúng, nó dở chứng hỏng máy nằm ở đâu đó thôi. Có khi các bố hậu cần thấy trời sáng đánh bài lủi, nằm lại chờ tối. Các khẩu đội phòng xa đã quẳng lên thùng xe hai bao gạo, vài chục hộp thịt, thùng lương khô dự trữ chiến đấu. Người lính bị ru trong ý nghĩ đó, ngồi xuống, đầu ngửa hẳn ra, tựa vào vệt nước xỉn trên bức tường, đôi mắt đờ đẫn, dại hẳn đi và trong khi đôi mắt vẫn mở trừng trừng thì thần kinh đã tê dại, anh đã ngủ trong một giấc ngủ quái đản. Anh thấy mình đang chạy trên một vùng đất chết, bước nào cũng thụt xuống hố bom. Và khói, khói như một thứ bệnh dịch lan tràn, che mờ cả mặt đất. Anh chạy cuống cuồng trên mặt hoang mạc, bị săn đuổi bằng rốc két 70 ly và đạn hai mươi ly sáu nòng. Rồi cả một trận mưa bi thép tuôn chảy ra từ những trái bom to bằng nắm tay trẻ con, quả nào cũng vàng mỡ, tươi bóng, mầu của quả chín, nhìn vào chúng ngỡ ngàng, như có thể vồ lấy ăn ngấu nghiến, nhưng chúng lại giấu bên trong sức mạnh giết người khủng khiếp. Giấc ngủ vật vã, không thể nào sâu, dồn đuổi người lính trong ý nghĩ thật và mơ ngột ngạt.
Đột nhiên trên bầu trời lóe hai tia chớp sáng. Đôi mắt trừng trừng đờ dại thoắt sống động và người lính choàng dậy. Các giác quan thính nhạy ở anh ngay tức khắc được đẩy đến chỗ tinh nhạy nhất. Anh tự hỏi: “Tại sao sáng rồi mà hai chiếc A7 còn thả pháo sáng? Hay là chúng tóm được chiếc xe hậu cần chạy lạc đường?”. Chỉ mấy giây sau anh lính đã tự giải đáp được cho mình. Từ trên khoảng xa, xanh hút, bỗng dội lên tiếng rú rít chói buốt. Bom bi! Hàng triệu viên bi sắt từ những quả bom con vừa rời bom mẹ, sẽ bắn ra. Người lính nào từng trải như anh ta, từng chịu hàng trăm tấn bom tính theo đầu người, đều hiểu rằng cái chết đàn lũ sẽ xuyên vào khắp cơ thể và nằm ở đó, lặn sâu, gây nên các vết thương khó giải phẫu hơn gấp nhiều lần so với mảnh bom đạn thường.
Người lính bật dậy, nhảy vọt đến ôm ngang cái thân xác sũng sĩnh nước ,lăn bừa xuống đoạn hảo bỏ hoang mà anh đã xem thử khi hồi.
Loạt bom nổ ầm ập, những quả dứa, quả ổi giết người hết sức tinh vi và dã man từ cái bàn chụp khổng lồ túa ra đều đặn, rơi chụp xuống mặt đất, bật nổ, tiếng nổ nhỏ, khô ngái chọc vào làm buốt óc. Anh lính lắc mạnh người thấy mình đang sống liền giơ tay sờ khắp mặt, lần tay vào ngực, hai bên sườn và vùng rốn cái thân xác anh đã đặt xuống lòng hào. Không thấy máu, anh vẫn sờ, viên bi có thể chui vào đâu đó rất ngọt và người chiến binh chưa kịp cảm thấy đau. Anh lần sờ ở đùi, ở bẹn, không thấy vết xây xát nào đáng kể. Đến khi anh nâng hai đùi cái thân xác để sờ vào hạ bộ thì chân tay anh bủn rủn. Một cái khúc đen xám, nhẫy nhợt, thò dài từ mông về phía chân, đang ngọ nguậy, uốn lên, vật xuống. Trời ơi!Rắn!Anh lính gần như hét lên, nhảy thót lên bờ hào.
Con rắn bắt đầu bị ngạt, uốn cong hẳn thân lên, vật mạnh xuống đất rồi lại hất cả nửa mình đang được tự do sang hai bên, cái đuôi tù tù đen nhợt thọc ngoáy vào đùi cái thân người đang đè lên nó.
Anh lính luống cuống chạy quẩn bên trên đoạn hào. Mùi khói bom khét lẹt, ghê rợn xộc vào mồm, ộc vào tận trong họng làm anh ngạt thở.
Anh nhổ một miếng đờm lẫn đất bụi trong mồm ra, nhấp nhổm định nhảy xuống đoạn hào.
Cái khúc rắn quằn quại, duỗi thẳng ra phập phồng, rồi lại quằn quại, nhớt ở thân nó quệt vào hai ống quần dầy cộm lèo nhèo. Cái đầu bị đè dưới lưng người, có lẽ nó đã ngạt lắm, bây giờ nhấc lưng lên nó mổ cho một miếng thì đi tong. Do quá lo sợ và kinh tởm người lính muốn ói mửa.
Đám khói bom vẫn đặc sệt quanh chỗ anh lính cúi khom khom. Thứ khói bom vàng quẩn ở thấp rất lâu tan vì chúng là đám bụi hạt nặng nhỏ li ti, chúng cứ lắc lư, sền sệt, được ngọn gió Nam dâng lên rồi rơi thõng xuống lòng hào. Cái thân xác bỗng bật ho sặc sụa, ho thành cơn dài rung cả ngực và tay chân.
- Ngột thở quá! Tôi đang ở đâu đây anh Thái?
Thái nhẩy chồm chồm:
- Đăng! Cậu nằm im, không được nhúc nhích.
- Sao thế anh Thái? Sao không được nhúc nhích.
- Đã bảo nằm im, nguyên tư thế ấy. Cậu động đậy là chết tươi đấy.
- Có cái gì ngọ nguậy ở dưới lưng!Anh Thái ạ?
Thái gắt:
- Nằm im!Có lẽ trên thế giới này không ai ngủ như cậu. Một thứ chết ngủ. Nhiều lúc tớ nghĩ cậu chết đột tử rồi.
- Trời ơi, nó ngó ngoáy buồn và lạnh quá anh Thái ạ.
- Đã bảo im cơ mà – Thái gắt. Anh lo sợ lỡ bạn lồm cồm bò dậy con rắn được gọi là chúa trong cái giống rắn này sẽ ngẩng phắt đầu dậy, cắn ngay.
Đăng quờ quờ tay:
- Tôi nắm được nó đây rồi - Thân con rắn chúa đang như một cánh cung lắc lắc.
Thái đang đứng xạng hai chân ra bên bờ hào, môi mím chặt lại. Phải một lát sau, Thái mới nghĩ ra cách cứu Đăng ra khỏi tình thế vừa đáng sợ vừa hài hước như một chuyện đùa nghịch. Anh với tay xuống lấy tấn và Đăng đưa hai tay nắm chặt tay Thái. Đăng làm động tác bật mạnh, tung người lên khỏi đoạn hào, ôn chầm lấy người A trưởng.
Con rắn hổ mang to bằng bắp tay ngáp miệng thở mấy hơi cho hồi sức, rồi nó quay nhìn hai anh lính, phè cái mang to bằng bàn tay phun phì phì. Chú ta oai vệ ngẩng cao đầu bò về đoạn cuối hào. Lũ cóc nhái líu vào nhau, nhảy loạn xị. Con hổ mang bành, vẻ rất hiền, bò qua lũ cóc nhái, lên góc hào bị lở tránh vũng khói vẫn còn đặc sệt,đầu nghếch cao,mồm há ra thở gấp.Con mắt bé tí sáng chói nghiêng nhìn những chú nhái mọi khi vẫn là mồi ngon của nó, giờ đây cùng trong cảnh lánh nạn. Ở ngã ba thị trấn không sinh vật nào sống nổi trên mặt đất, do bản năng sinh tồn, chúng kéo cả xuống chung sống với nhau trong con hào.
***
Lộc cầm một chân Đăng lôi xênh xệch. Cậu lính trẻ giãy lên, giọng ồ ồ:
- Đứa nào kéo chân tao đấy? Để cho tao chợp mắt một tẹo, ờ ờ, cả chục đêm thức trắng. Này, này…để cho tao yên, không tao đào mả bố mày lên đấy!
Lộc nhe cái răng vàng ở khóe miệng, một tay cầm cờ chỉ huy đưa về phía sau, tay kia nắm chặt cái chân Đăng giật mạnh. Đăng đạp chân kia vào tay Lộc chửi:
- Thằng khỉ đột! Chợp mắt một lúc cũng không cho nằm yên. Ông lại đả cho một trận bây giờ.
Lộc buông chân Đăng, bước mấy bước, cổ họng gầm gừ, người gập xuống sát cậu lính trẻ.
Thái sợ tái mặt, nhổm người định chạy tới đánh thức người chiến sĩ dưới quyền mình song nghĩ thế nào anh lại ngồi im như phỗng đá, không nhúc nhích được. Lộc đã túm cổ áo, dựng người lính trẻ măng dậy, và không kìm mình nữa, tát cho Đăng mộ cái rất mạnh vào mang tai. Cái tát quá mạnh làm mắt Đăng nảy đom đóm, cậu ngớ mặt, sau chợt hiểu cú tát từ đâu tới, liền chồm dậy, nhảy bổ đến, mắt nhắm, mắt mở quai một quả đấm trời giáng. Lộc kịp giơ tay gạt nhưng vì quả đấm nặng đô làm đại đội trưởng chúi người, phải gắng gượng mới không bị ngã. Cậu lính trẻ chưa hết cơn khùng, lao tới định táng bồi một quả nữa thì nhận ra Đại đội trưởng của mình. Cậu ta trợn mắt, há hốc mồm ra vì sợ hãi, hai cánh tay to khỏe gân guốc vừa mới đây còn được chứng minh sức mạnh trong cú đấm, giờ đây buông thõng trước đùi, mất hết sinh lực. Đứng đờ ra một lát, không chịu nổi cái nhìn như có ánh thép xuyên vào người, Đăng lùi lại mấy bước rồi ngồi bệt xuống cái bậc nhà ướt nhầy nhụa. Lộc bỏ Đăng nhìn xoáy vào Thái:
- Các ông đón xe như thế đấy hả? Rũ đầu xuống ngủ như gà rù. Xe hậu cần vượt qua chỗ các ông về phía Truông Bồn rồi. Ông biết Truông Bồn rồi chứ? Cửa tử! Cái cửa tử đầu tiên và cũng nhiều máu lửa nhất vùng cán soong. Điều đó thì ông còn biết hơn tôi chứ, hả ông Thái?
Thái lúng túng, chân tay như bị thừa ra trước mặt Lộc. Vốn là một người lính dày dạn, trải qua hàng trăm trận đánh, anh hiểu thấu và lường hết mức độ nghiêm trọng trong tình huống vừa xảy ra. Anh và Đăng đã trải qua hơn mười đêm đưa đón đơn vị an toàn, các khẩu pháo được giấu tốt, khi cần có thể nổ súng đánh địch, anh nuôi ở ven suối, anh em đơn vị nghỉ ngơi, tắm giặt, còn tổ thì lại vội vã lên đường chuẩn bị một nơi đỗ mới. Họ làm công việc đó một cách thuần thục, có phần tài ba, khiến người khó tính như Lộc khi xét đoàn bất cứ việc gì cũng phải thốt lên “Khá, tổ các cậu khá, làm cho tớ cũng mát mặt với mấy tay hay hoạnh họe trên trung đoàn”. Tưởng rằng mọi việc trên đường trôi chảy một cách mĩ mãn, nào ngờ sáng nay cơn đói ngủ thắng cuộc đã vùi các anh xuống bùn và nước, xóa đi cái vinh quang ít tổ trinh sát tiền trạm nào có được, và đẩy các anh vào một tình thế trớ trêu. Trong chiến tranh sức chịu đựng ở con người dù có được huy động đến mức cao nhất vẫn chỉ đạt đến một giới hạn nhất định. Nhưng sự nghiệt ngã lại thường xảy ra ở chính chỗ này. Người lính không bao giờ được vin vào cái giới hạn đó, bấu víu lấy nó như một lý do. Anh ỷ vào cái giới hạn ác nghiệt đó, sự bi thảm ắt xảy ra. Bấy giờ thì dù có hối hận, dù có khóc lóc thảm thiết cũng không thể kịp nữa, ai cho phép hối hận, dù sự hối hận sâu sắc nhất trước xương thịt và máu người. Suốt những tháng khốc liệt sau đó của cuộc ném bom hạn chế, anh càng thấm thía điều đó.
Thái lảng tránh ánh mắt dữ như bắn ra từ đôi mắt nặng nề. Đôi mắt Lộc cũng đói ngủ, sâu trũng, hai mí trĩu nặng, từ chiếc cằm nhỏ râu đâm tua tủa, những sợi râu cũng bắt bụi đỏ màu gạch non.
Anh không kìm được lòng mình, hỏi một câu hết sức ngơ ngẩn.
- Biết làm thế nào bây giờ, Đại đội trưởng? Xe không ngụy trang dông qua Truông Bồn ban ngày, máy bay nó làm thịt mất.
Đôi mắt dẹt của Lộc lóe lên một cách quái gở:
- Chạy đuổi theo chứ còn làm thế nào!- Anh vung ngọn cờ chỉ huy, hướng nó về phía mấy ngọn núi cao phía xa:
- Đồng chí Đăng đứng dậy!
Đăng vẫn ngồi, vẻ mặt thỗn ra vừa sợ hãi vừa hối hận buồn bã.
Lộc hét:
- Đứng dậy!
Đăng bật lên đứng ở tư thế nghiêm. Đôi mắt Lộc tối sầm, Lộc nhả ra từng tiếng một như ném ra từng cục chết.
- Chạy -đuổi – theo – xe ngay!
Lộc không ra lệnh thẳng cho Thái. Anh tránh né những điều phải nói ra một cách rõ ràng nhất. Ở một góc nào đó trong con người anh vẫn ẩn kín một nỗi niềm, ngờ vực đối với Thái, một chiến sĩ dưới quyền mình. Lộc ngầm không ưa Thái song anh không bao giờ chịu nhận điều đó với chính mình, lòng anh nặng những uẩn khúc.
Thái chạy không còn biết trời đất là đâu nữa, tất cả trở nên mù mờ. Chính Hà cũng đã phải chạy đuổi theo xe như thế này buổi tối đơn vị lên đường vào A2, chạy một cách vô vọng và đau khổ, lật đật trong nỗi vò xé thèm được sống bên chồng. Chiến tranh là vậy đấy, không điều gì là không thể xảy ra. Anh chấp nhận như một sự nhẫn tâm, sự tàn nhẫn để vợ đuổi theo chồng một mình đơn độc giữa vùng chết, thì bây giờ chính anh lại buộc phải chạy theo xe vào vùng chết. Chiến tranh thì làm sao có thể tươi hơn hớn được. Nếu có một cái gì tương tự thì nó ở tận phía sau, phía xa kia. Còn bây giờ phải đối mặt với cái khốc liệt nhất thì cái gì sẽ xảy ra, ngay tức khắc, bi tráng, bi hùng, bi thương, bi thảm, người lính chân chính dám chấp nhận chứ không phải và không thể phung phí mạng người một cách bừa bãi. Tiếng máy bay gầm gừ và những quầng khói bom vằn vện ở phía xa, chỉ cho rõ có một chiếc xe đang chạy vào vùng tử địa! Trên xe có đồng chí đại đội phó mà Thái đặt tất cả niềm tin và tình thương yêu chân thành của người lính, có tổ nuôi quân và lương thực, thực phẩm dự trữ để nuôi đơn vị trong cuộc hành quân dài ngày. Nó kia, chiếc xe ở tít tắp, mình đầy ngụy trang như một con cua khổng lồ nặng nề leo lên dốc, vừa leo vừa dò, có lúc nó dừng hẳn để tìm hướng đơn vị đương trú quân.
Hai người đã bỏ lại khá xa thị trấn Đô lương bị san bằng.
Chiếc xe như một kẻ u mê vẫn đi về phía Truông Bồn. Khi đã nhận ra con đèo lở lói, chiếc Gát 51 dừng lại, tìm cách quay đầu để chạy xuống dốc. Không kịp nữa, nó đã đứng tô hô ra trên một cái “cua”. Và điều làm tim Thái và Đăng cùng thắt lại vì lo lắng. thấp thỏm mong nó đừng tới, đã xảy ra.
Hai chiếc A7 bay tuần thám phía thị trấn Đô Lương phát hiện ra chiếc xe Gát đang cố lùi đít vào vạt bạch đàn thấp lè tè, chúng hạ thấp độ cao, vòng ngay lại.
Thái bám được vào buồng lái chiếc xe nhảy lên ấp hẳn ngực vào cửa sổ xe, né nghiêng người về phía chiếc máy bay đang lao xuống với tốc độ chóng mặt, tưởng làm như vậy có thể tránh bớt được luồng đạn sắp sửa vãi xuống. Khi hơi thở đã bớt ngột, anh nhoài hẳn người vào buồng lái, ghé sát tai cậu Mịch lái xe với hy vọng giúp cậu ta đưa được chiếc Gát thoát khỏi cuộc săn đuổi chết người.
Hai chiếc A7 sà xuống rất thấp và đều tăng lực xả những luồng lửa đỏ lòe trên hàng bạch đàn. Rõ ràng những tên phi công Mỹ không muốn con mồi ngu ngơ chúng bỗng vớ được, chạy thoát.
Một chiếc bất ngờ đổi hướng bay lượn sát ngọn cây, thận trọng khép nhỏ vòng lượn. Nó nghiêng cánh vờ như bay đi, rồi chỉ trong chớp mắt, lật mình vòng lại, hạ thấp hơn, vờn chiếc xe như mèo vờn chuột.
Cả tổ nuôi quân nằm dán mình trên thùng xe. Đến khi một chiếc A7 căn giữa lòng đường, chúc hẳn xuống hai cánh xòa rộng, trùm lên chiếc xe như một con ác điểu tuôn ra một loạt rốc két với những đuôi lửa đỏ chói lòa, thì tất cả mọi người bật chồm dậy, nhảy té ra hai bên thành xe, lao xuống lòng đường. Cậu quản lý Chư Rỗ sợ quá cứ rúc đầu xuống cái hố đá nông choèn, Chư ta tọng được nửa người vào, còn cái mông đít to phềnh phệnh vẫn thòi ra ngoài.
Đột nhiên có tiếng đạn pháo 37 ly nổ lụp bụp trên đầu, Thái ghì hai tay vào cửa xe, anh thấy chóng mặt, máu như đông lại trong người. Đã mấy lần hai bàn tay cứng đơ như mảnh gỗ, không theo sự điều khiển của trí óc, tuột ra, để thả bịch khối máu thịt thèm khát sống xuống ta luy con đèo. Nhưng có cái gì vượt ra ngoài bản năng sợ hãi, có lẽ sự dũng cảm được rèn giũa, thử thách ở người lính từng trải đã giúp Thái bình tĩnh chỉ huy người lái xe tăng giảm tốc độ, tránh đạn. Nghe tiếng pháo nổ, Thái thấy vững tâm hơn. Chắc rằng Lộc cho đơn vị bắn mấy điểm xa, xua hai chiếc máy bay, đỡ đòn cho xe hậu cần.
Hai chiếc A7 không bỏ đi, chúng chỉ lách mình tránh đạn, gầm rít bốc lên cao, và rồi, chúng lại từ đầu kia con đèo sà xuống bắn như vãi đạn 20 ly xuống chiếc Gát tội nghiệp không có thứ vũ khí gì chống đỡ. Đạn 20 ly trúng vào những cái chậu nhôm, nổ tung, từng mảng nhôm trắng chói, bay tóe ra, rơi lả tả xuống mặt đường.
Thái nhìn thấy mặt Đăng nhợt nhạt. Cậu ấy vẫn đu lấy cửa xe lủng lẳng như một cái túi. Đôi mắt to lồi ra dưới đôi mày rậm, không ngước nhìn lên trời mà cứ nhìn chòng chọc vào Thái. Thái hiểu rằng bây giờ anh rời cửa xe tức khắc Đăng sẽ nhảy xuống ngay, như vậy chiếc xe hiện nguyên một con mồi rúm lại chờ chết.
Không biết có phải trong mấy giây anh quan sát Đăng và suy nghĩ, Thái đã để “sổng” một chiếc máy bay, chiếc A7 luồn sang bên kia đèo, khi Thái vụt ngẩng lên, luồng đạn 20 ly ác nghiệt từ chiếc máy bay bắn xuống đã chụp đúng đầu xe và vọt về phía trước làm phụt lên từng đám bụi đỏ dưới mặt đường.
Bàn tay đau nhói, thân người Thái bật ra khỏi cửa xe, rơi bịch xuống bờ ta luy đá ong.
Người lính lái xe bị một viên đạn 20 ly xuyên qua từ lưng sang ngực, gục xuống tay lái. Chiếc xe khựng lại, mặt người lái xe đập mạnh vào vô lăng, đầu ngoặt sang một bên.
Mặt Thái như vỡ tung ra, trời đất như tối sầm, đen đặc, anh có cảm giác máu không chỉ chảy ra ở bàn tay mà chảy tóa ở cả hai mắt mình.
Một loạt 20 ly nữa lại cắm thun thút xuống mặt đá nóng bỏng.
TIỂU THUYẾT NƯỚC MẮT (Chương 1, 2)
ĐÀO THẮNG
Chương một
Cách đây đã hai mươi năm. Chuyện xảy ra như đã cũ lắm rồi. Tôi đi tìm cái cũ để rao bán cho con người ư? Hay chỉ ghi lại cái gì tinh chất, được sàng lọc qua thời gian và trong trí nhớ, để độc giả cùng sống lại, một thời chiến tranh chúng tôi phải chịu đựng, thời chiến tranh mà ngoại bang muốn đưa dân tộc chúng tôi trở về thời kỳ đồ đá.
Tôi phải lục tìm những câu chuyện đã xảy ra, một công việc quá nặng nhọc, có thể trái ý mình, ngược lại với ý của một số người nhưng không thể khác được . Phải lục lọi, bới ra từ tro tàn, từ trong khói đen của dĩ vãng, từ sự ẩn giấu trong lòng người, mà con người đã rải lên lớp tro giấu kín nó đi, một sự lấp liếm đầy đau khổ và dằn vặt. Thế là, tôi đã tự bộc lộ nơi ẩn nấp, để lộ chân tướng của chính mình, và, các bạn ạ, câu chuyện bắt đầu rồi đấy…
Đoàn xe Gát 83 kéo pháo nối nhau thành hàng dài, đứng nép vào hàng phi lao cụt ngọn ven con đường ùn lên những lớp cát khô. Đôi giày vải cao cổ của người lính nào đó đập mạnh, phụt lên một lớp bụi cát trắng xác, bay mù mịt. Lưng áo bờ-lu-lông lính bạc phếch cúi xuống tấm bạt phủ pháo mầu xanh lá cây, nhìn xa như bức tượng bằng đất quét vôi. Khẩu pháo được vít vào giá an toàn, ở tư thế hành quân. Tốp lính trẻ đã khoác áo pháo làm cho lưng khẩu 37 ly ụ lên, vươn ra cái vòi vải rất dài.
Mặt trời đỏ ối trôi bập bềnh trên rặng cây khấp khểnh cằn cỗi, lá xù xòa, thân cành xơ cứng, trắng vết mảnh đạn, vết bom bi xoáy tròn ngọt sâu trong thớ gỗ và không ngừng tuôn nắng xuống mặt cát. Một con chim mái đang ấp trứng dưới gốc bụi cây xương rồng gai đâm tua tủa. Con chim có cái mỏ dài lập bập ,bộ lông dày , lốm đốm trắng, nó trễ hai cánh, chạm vào mặt cát, cái mỏ dài gục xuống ngậm một ngọn cỏ đã héo táp, cố hút lấy chút hơi ẩm còn sót lại. Con chim cũng đang thỉu đi vì nắng nóng ghê gớm.
Bỗng dưng biển quẫy cựa, trở mình lặng lẽ, tiếng sóng thoảng như hơi thở con trẻ, dào về phía bờ cát. Ông trời vừa qua một thoáng chóng mặt. Giống như có một bàn tay mát lành xoa nhẹ lên cái vòm xanh cao hun hút úp chụp lên đất và biển, khiến nó tươi hớn lên. Gió nồm hây hẩy. Con người vừa được chứng kiến một phép lạ của tạo hóa, cả vùng đất bị nung nóng hầm hập, gió tây nam thốc đến làm cây cối mềm oặt, lá gục rũ xuống. Bây giờ nhìn cây lá tươi non, hàng phi lao cất lên tiếng hát vi vút, đứng nơi giao hòa giữa biển và trời, tiếng gọi muôn thuở của sự sống thật duyên dáng, mềm mại, mát mẻ và tươi tắn lạ lùng.
Con chim mái bừng tỉnh, đạp đôi chân khô gầy xuống cát, rũ mạnh bộ lông xơ xác và nghiêng cái đầu nhỏ chớp chớp mắt nhìn mấy quả trứng vỏ lốm đốm xám, sắp đến kỳ tách vỏ. Trong đôi mắt đau đáu khô khao vì gió cát, bỗng bừng lên cái ánh vui mừng của kẻ sắp làm mẹ. Nó ngáp rộng miệng, yết hầu phập phồng, thở những hơi dài khoan khoái. Nó nhằn nhằn cỏ héo, hít mạnh cái bã cỏ, một chút nước chỉ nó mới cảm biết được, ngấm vào tấm thân gầy khô.
Đang xòe hết đôi cánh ủ kín ổ trứng, con chim bỗng nhiên nghển đầu, như có một tín hiệu lạ vừa nhập vào người, làm cho sức lực bừng dậy, nó đập cánh bay vút lên qua đám xương rồng cát. Một bên cánh bị gai cào, xước da chảy máu, con chim không hề hay biết. Một bên cánh xõa ra, nó vẫn vút lên cao, treo lơ lửng bên trên một khẩu pháo và kêu lên thảng thốt.
Nhìn con chim vỗ tít đôi cánh không biết mệt và kêu lên không ngớt, tốp lính biết có người lạ tới trận địa, hoặc có một sự gì lạ sắp xảy ra. Nó là một con chim nhạy cảm, người bạn quen thân của trận địa pháo 37 ly này. Tốp lính còn coi nó như một giàn ra-đa sống chứa đựng sự bí ẩn có màu sắc siêu nhiên.
Đúng là sự lạ như con chim mẹ mách bảo. Một cô gái đang hộc tốc đạp xe từ phía xa lao tới. Cô gái đầu không đội nón, tóc xổ tung bay lơ thơ hai bên vai. Cô mặc chiếc áo sơ mi màu xanh lá cây, hồi đó gọi là áo “Phòng không”, tà áo bị hất ngược lên, đôi chân cô guồng cuống cuồng, liều lĩnh. Chiếc xe lao sầm vào “thằng người gù” của khẩu đột một. Cậu Viên, pháo thủ số hai đang ngồi trực, giật mình kêu:
- Cô này, điên à? Định hy sinh cái xe đạp hay sao? Đi đâu mà húc bừa vào xe kéo pháo như thế?
Cô gái đứng sát vào bánh xe, chộp lấy bàn tay Viên đang nắm chặt tay tầm khẩu pháo. Bàn tay cô nóng rừng rực, nhớp nháp mồ hôi và bụi cát. Cô đứng thở, miệng cố không mở to, mồ hôi đọng thành giọt lớn trên mặt, ướt bết mớ tóc hai bên thái dương và ướt đẫm cả ngực áo. Cô đã định nói mấy lần mà chưa thể cất lời được.
Đại đội trưởng Lộc ngồi ở xe đầu ngó cổ ra ngoài quát xuống xe thứ hai, xe thứ hai truyền khẩu lệnh xuống xe thứ ba, rồi xe thứ ba truyền lệnh xuống xe sau ,cứ thế được truyền đi miệng lệnh hành quân của trung đoàn. Đoàn xe kéo pháo nổ máy. Tiếng động cơ rền rĩ. Cô gái vẫn không chịu buông tay Viên. Anh chàng cuống cuồng miệng ú ớ định gọi ai. Cô gái hít đầy hơi vào ngực, mặt tái xám, đầu ngặt ra sau, thu hết sức, thốt lên:
- Anh ơi!
Hai tiếng “anh ơi” phào ra miệng người con gái sắp ngất vụt xéo qua người Viên. Chiếc xe đang kéo khẩu pháo, lôi theo cô gái, bàn chân tuột mất dép, miết xềnh xệch trên mặt đường. Viên nhổm người quát lớn.
- Dừng lại! Thằng cha Mịch tử tiệt, dừng lại!
Chiếc Gát 63 phanh kít lại, khẩu pháo đẩy cần lái xô mạnh, nghiến vào móc kéo ken két. Viên nhảy phốc ra khỏi cái ghế sắt nóng bỏng, đập mạnh hai bàn chân không giày xuống mặt cát. Cậu ta nâng phốc chiếc xe đạp, đặt xuống vệ cỏ, trong khi đó cô gái vẫn lẵng nhẵng bám chặt lấy tay chàng pháo thủ to khỏe, đẹp trai có tiếng.
Đại đội trưởng Lộc đẩy cửa xe đánh sầm, lệnh khệnh bước xuống, lừ lừ đi đến chỗ chàng trai và cô gái. Anh hỏi gằn trong họng:
- Cô làm sao mà tru lên thế? Tôi lại phải gánh cái của nợ gì thế này, hở?
Lộc nhe răng, lộ ra cả chiếc răng bọc vàng ở khóe miệng. Anh vẫn có thói quen khi tức giận hai hàm răng nhe hết cả ra và một âm thanh lạ tai cứ gừ gừ ở trong cổ họng. Lộc giẫm đôi giày đen kêu to hơn mức nó phải kêu, đi quanh, gầm ghè. Vừa xuất phát đã có đàn bà chặn đường, thật xúi quẩy! Sao? Cái thằng tử tiệt này làm gì nó? Mà cái con chết rấp ấy làm sao lại níu lấy thằng cha như cái bị thịt thế kia?
Viên đứng đờ mặt như chính cậu ta chứ không phải cô gái gây ra lỗi lầm cho đoàn xe vừa lăn bánh đã phải dừng. Lộc nhìn chằm chằm vào mặt, xuống ngực, tới mông, rồi cặp đùi cô gái. Cô có bộ ngực cao rất đẹp tuy đã hơi căng ra không bình thường sau lần áo. Cái lưng dài, đẫy đà, hông nhìn nghiêng hơi xệ xuống. Ái chà, không phải con gái. Một mụ đàn bà! Một mụ đàn bà đã ăn sống, nuốt tươi một thằng hoặc nhiều thằng đàn ông. Lộc đi quanh, dáng thấp nhỏ choi choi, đôi mắt nhìn xói vào cô gái như cách đang đánh giá một con vật sắp mua. Anh vẫn khoe rằng ông bố trước kia làm lái trâu bò nên đã truyền cho anh cái khả năng đặc biệt tinh ranh, lọc lõi khi phân loại, định giá con đực, con cái. Thường khi trực ban ở sở chỉ huy đứng giữa các cậu trinh sát, thông tin mặt non choẹt, má phinh phính lông tơ, anh, bằng cái giọng của một tay bợm gái lão luyện răn dạy rằng, cái tài của anh đàn ông là khi nhìn một cô gái trinh bạch phải nhận ra ngay, nhận ra bằng sự tinh nhậy, từng trải, tinh quái, thèm khát của giống đực. Phải nhớ rằng, ở người con gái còn trinh bạch cái gì trên người cũng được nâng niu và sửa sang luôn. Tuyệt nhiên không phải chỉ là hàm răng trắng muốt, mái tóc huyền giữ mượt óng, thơm tho, mà là tất cả. Tất cả là một khối ngọc quý còn nguyên vẹn, một sự tinh khiết tuyệt hảo luôn luôn bật ra cái sức phản kháng và giữ gìn. Một cô gái trinh bạch có thể run lên trước cơn gió thổi xấc xược, thô lỗ qua bộ ngực non trẻ và rụt phắt tay lại như bị bỏng khi chạm làn da mát rượi, nõn nà của mình vào tay một người đàn ông. Mỗi lần khoe như thế anh thường kể một câu chuyện trần tục với những động tác của con bò đực trông thấy một con bò cái đang gặm cỏ bên đường, khi anh riết mũi chú chàng kéo đi cho kịp ông cụ đang bước phăn phắt ra khỏi cái chợ mà ở đó ai cũng lọc lõi, tinh ma đến phát khiếp lên được.
Lộc vẫn đi quanh Viên và cô gái, cổ họng gầm gừ. Anh gườm gườm đôi mắt, xoạc mạnh cẳng cho chiếc giày cao cổ sát vào chân cô gái, đôi mắt cạu lại:
- Duyên cớ làm sao mà cô giữ cậu ấy? Sao? Cô thất thân với nó rồi à?
- Trời ơi! Sao anh ác thế?
Cô gắng gượng trút ra từng chữ rời rạc. Đôi mắt thoáng bừng lên giận dữ song sắc mặt lại nhợt nhạt, hơi thở đứt quãng, thều thào, cô lả xuống tay Viên. Người pháo thủ trẻ hai tay lóng ngóng đỡ lưng cô gái. Nhiều pháo thủ ở các khẩu đội khác cùng nhảy ào qua thành xe, xúm lại nhìn cô ái ngại. Một cậu quát tướng lên:
- Thằng Viên, sao mày lớ ngớ thế? Đặt người ta ngồi xuống đường nhanh lên! Cô ấy ngất rồi kìa!
Cô gái vẫn gắng gượng nghển nhìn vào mặt Lộc. Đôi mắt anh vẫn lừ lừ rọi khắp người cô. Cô gái khẽ rên rỉ:
- Thủ trưởng ơi, có anh Thái nhà em ở đây không?
Tốp lính trẻ quay nhìn cả vào Lộc, không ai dám thay anh trả lời cô.
Viên đã tìm cách đặt cô xuống vệ đường. Cô gái cúi đầu, úp mặt vào hai đầu gối khóc rưng rức. Vẻ liều lĩnh, táo tợn đã biến mất, trông cô như một đứa trẻ lạc lõng, bơ vơ. Cô khóc vì bị xúc phạm, vì tủi hổ và thất vọng. Đôi vai ướt đẫm mồ hôi rung lên từng đợt. Thỉnh thoảng cô ngẩng nhìn tốp lính đang ái ngại nhìn cô, và càng khóc to hơn, răng cắn sâu vào môi cho nước mắt tràn qua miệng, thành dòng trên cổ. Lộc nháy đôi mắt dẹt có đuôi dài nhọn hoắt làm nó tụt sâu vào hai mí như có vành.
- Thái nào? Cô hỏi Thái nào? – Anh hỏi có phần mềm mỏng hơn, vì hiểu ra không phải cô đến để bắt vạ đơn vị.
- Dạ, em hỏi anh Thái ở “ xê tám” mới về cưới vợ lên ấy ạ!
- Thôi chết rồi – Chiến sĩ trinh sát Đăng gạt mạnh mấy phảo thủ đứng cạnh Lộc ra xa – Vợ anh Thái A trưởng chỉ huy của ta, chứ còn Thái nào ạ!
Nét mặt Lộc sa sầm, giọng lạnh tanh:
- Ờ, nếu quả đúng như vậy cũng phải hỏi rõ đầu đuôi, cho có ngọn ngành chứ. – Anh quay đi, gằn từng tiếng: – Gọi ngay cậu Thái đến gặp tôi.
Đại đội trưởng bước thẳng về xe đầu, hai gờ vai mỏng rung lên và hơi lệch sang một bên, bàn tay nắm chặt. Đăng biết Lộc đang rất giận giữ vì vợ Thái đường đột xuất hiện ngay lúc đơn vị hành quân nhận nhiệm vụ mới, mọi người vừa được nói công khai vừa thì thầm với nhau là đến một nơi rất khốc liệt. Chắc rằng “ông ấy” đang nghĩ ra những lời cay độc để “quạt” anh Thái một mẻ. Mặc xác ông ấy, Đăng gọi to:
- Anh Thái ơi, chị Hà đến!
Đăng chạy hớt hải về chiếc xe đầu vì không thấy tiếng Thái thưa. Có tiếng giữ chăn phùm phụp và tiếng các hòm đạn va vào nhau lịch kịch. Mấy người lính lôi ra một thân hình cao to, mềm nhũn, ngủ mê mệt. Một tiếng quát như lệnh vỡ:
- Sở vào mũi xem nó có còn thở không, hay hòm đạn đè nó chết rồi.
Hà lập cập chạy lại chiếc xe đầu. Chị vấp ngã nhưng thoắt cái chị đã sáp tới bên chiếc xe.
- Cấu vào chân nó xem nào!
- Nó co chân các cậu ạ. A, lại còn đạp tao hả? Vợ đến mà lão thần ngủ không chịu buông tha nó ra.
- Trời ơi, con giời ngủ gì mà khiếp thế không biết?
Hà nghển đầu lên thùng xe thở hổn hển, mếu máo:
- Anh…Thái…ơi!
Một cậu đứng dưới đường giục với lên:
- Nắm vào hạ bộ bóp mạnh một cái cho nó tỉnh. Bóp! Bóp nữa!!!
Thái bật người ngồi dậy, hai mắt vẫn nhắm tịt.
Cậu dưới đường lại giục:
- Đấm cho nó mấy quả. Đấm thật mạnh. Đấm nữa! Cầm cái của quý của nó vặn thật mạnh.
Hà đu hẳn người lên mếu máo:
- Các anh ơi, em lạy các anh trăm lạy. Các anh đừng đánh nhà em nữa!
***
Thái ngồi sát bên vợ trên vệ cỏ, hai bàn chân sục sâu vào lớp cát khô. Cát vẫn còn nóng rát, hai bàn chân anh lính dũi như hai cái dầm ngoáy sâu, giấu đi cả bàn chân, cả cổ chân cóc cáy, bẩn thỉu. Không những chân mà cả tay anh ta cũng dính đầy đất đỏ. Thái vừa mới đi tiền trạm về lại vội vàng lao ngay vào dỡ lán, bới hầm, rồi xếp tất cả cái đống ngổn ngang ấy lên xe cùng với anh em trong tiểu đội chỉ huy. Suốt nửa tháng nay Thái cùng tổ tiền trạm của đơn vị bứt ra khỏi anh em băng lên trước, vừa phải nhanh, vừa tỉ mỉ, khoa học, sục tìm nơi giấu pháo, nơi nấu ăn, trên đường đơn vị sẽ đi qua. Mỗi đêm tổ chỉ dừng lại nghỉ hai tiếng đồng hồ. Thời gian trong ngày còn lại đều ở trên xe, thậm chí đi tiểu cũng ở trên xe, đứng xạng cẳng, vạch quần tè ra hai bên đường. Con đường xuyên xen giữa miền rừng phía Tây ban đêm nườm nượp xe nhưng ban ngày vắng đến rợn người. Vắng đến nỗi há sẵn mồm xem có ai gọi một tiếng cho đỡ nhớ người mà há mỏi hàm cũng chẳng thấy bóng ai. Chiếc Gát 63 cứ lồng lên mà chạy như nó đã bị điên, quăng quật trên mặt đường đầy ổ gà. Chậm trễ một chút có khi phải ngồi đợi ở cái bến phà con ba bốn đêm. Khi tổ của Thái trở về trông ai cũng như quân tướng của Tề Thiên Đại Thánh vừa ở động ra, tóc đỏ, râu đỏ, mi mắt cũng nặng trĩu bụi đỏ. Quần áo thì bết lại cóc cáy, bụi đỏ trộn lẫn mồ hôi, bốc ra thứ mùi chua khăm khẳm. Họ chưa kịp hít thở hơi biển trong lành cho thư giãn lá phổi, đơn vị lại nhận được điện khẩn: bỏ hết các thứ cồng kềnh lại, hành quân gấp.
Xếp xe xong Thái chỉ định nằm mấy phút cho giãn xương cốt, chưa kịp dặn Đăng gọi dậy nếu anh ngủ quên, lưng chưa kịp cảm giác tấm bạt nóng rẫy, hai mắt đã nhắm tịt lại, không thể nào mở ra được nữa…
Hà tì ngực vào một bên đùi chồng, chị cảm thấy sự rắn chắc của cơ bắp đang truyền sức lực sang người mình. Mùi mồ hôi chua khẳm phả vào miệng, vào mũi ngàn ngạt. Tuy thế Hà không thấy thứ mùi chua này xa lạ hay ghê ghê cái sự bẩn, trái lại chị chấp nhận nó như một cái gì thật gần gũi, và chị cắn khẽ vào lớp vải dày cáu bẩn, hít lấy hơi chồng. Rồi chị ngả hẳn người, gần như nằm nghiêng trên đùi anh. Hà thì thào:
- Em sợ quá, sợ không gặp được anh. Sao anh ngủ say như chết ấy thế? Nghe các anh ấy đánh anh, em cứ bủn rủn cả người.
Thái cười nhẹ:
- Chúng nó phủi bụi, ăn thua gì. Đứa nào cũng vờ làm quá cho em sợ đấy thôi.
Anh vụng về đặt bàn tay dày cộm một lớp chai ráp sì lên ngực vợ. Chị lần sờ, ngạc nhiên thấy từng ngón tay anh xù xì, biến dạng vì cầm xẻng, cuốc chim, đào ngoáy suốt ngày này sang ngày khác như chuột chũi. Im lặng một lát, chị quờ một tay kia, rồi đặt cả hai ban tay chồng lên ngực mình.
Thái rút khẽ tay ra, luồn trong lần áo mỏng, thấy vợ không mặc áo nịt, hai đầu vú cương cứng, và cặp vú mới đây thôi nhỏ gọn, rắn đanh, giờ to lên khá nhiều. Thái vội hỏi:
- Em có chửa phải không?
Thấy Hà không trả lời, anh hỏi lại bằng giọng hấp tấp hơn:
- Em có mang sao không báo cho anh biết?
Chị ứa nước mắt:
- Anh cứ im như thóc thế, thư không thèm gửi không thèm nhắn ai lấy nửa câu , em biết đâu mà báo với chả cáo.
Chị lật người, ôm riết ngang lưng, cắn mạnh vào ngực áo anh. Thái kéo vạt áo xuống, ôm chặt vợ, rồi bế hẳn chị vào lòng. Anh luồn bàn tay, lần quanh lưng, thấy chị đã hơi đẫy ra.
Trời tối hẳn từ khi nào cả hai người đều không rõ nữa. Hàng phi lao réo lên u ú, cây nào cũng bị mảnh bom phạt cụt ngọn, cành con mọc túa ra um xùm. Sóng biển ầm ào, có con sóng lớn nào đó đổ xoài lên bờ cát nghe hút như một tiếng thở dài. Bầu trời nhạt nhòa muôn vì sao dạt trôi, tan tác, gió cuốn những đám mây xác xơ, ánh lân tinh sáng hắt lên trên đầu những con sóng bạc khi mờ khi rõ, một con còng gió chưa tìm thấy hang chạy cuống quýt trong cơn gió tạt. Tiếng biển thẳm sâu trĩu nặng. Hơi biển mặn mòi làm cả hai vợ chồng đều khó thở. Thái ôm ghì lấy vợ, lòng rờn rợn dõi theo ngọn gió lướt qua mặt đường, ném từng nắm cát vào chiếc xe đạp làm sắt thép bật kêu khe khẽ như tiếng người rên.
Anh cũng không nhớ rõ tốp pháo thủ vây quanh hai người tản về các xe từ lúc nào. Đoạn đường ồn ào, người đi, người chạy, lố nhố, bây giờ im phắc. Sự im lặng giống như có người chỉ huy làm Thái đâm nghi ngờ, anh ngoái nhìn đằng trước, đằng sau, nhìn ra hai bên, người thấy gai gai, sờ sợ. Một sự im lặng cố gắng nén lại và có phần giả tạo. Một lúc sau có anh lính già nào đó không nén nổi, buột ra tiếng thở dài não lòng, làm cả đoàn quân xao động, tuy vẫn là sự xao động của im lặng. Ở trên thùng chiếc xe Gát gần hai vợ chồng nhất, cậu Viên như vờ vui đập tay lên thùng xe làm nhịp bõng dưng ư ử hát bài gì không ai nghe rõ lời. Nhưng tiếng hát của cậu ta dừng đứ ngay lại. Chắc có tay nào véo cho cậu ta một cái, nên sau đó Thái nghe tiếng đấm nhau. Sau đó lại im lặng. Một cậu nào đó liều bật diêm hút thuốc lào. Có tiếng quát khẽ. Lửa tắt phụt. Tiếng điếu cày bật kêu lóc xóc. Tiếng điếu xa hút trong đêm sâu lặng tờ. Trong sự im lặng bất đắc dĩ, chỉ có biển ở ngoài bờ cát ầm ĩ sôi réo.
Thái ngồi lặng lẽ, đôi mắt mở to, nhìn đăm đắm vào mặt vợ. Qua ánh pháo sáng từ phía xa rọi tới, đôi mắt người phụ nữ như cháy loáng lên từng đợt, ánh lên như sóng những tia sáng bối rối, và hoảng sợ. Người chị cứ run bắn lên, không ghìm được và anh hôn lặng lẽ lên đôi môi ướt mọng, mấp máy, chỉ chực khóc. Chị không thấy ngượng, không còn xấu hổ nữa, ngón tay lần tìm cởi cúc áo chồng, hất tung hai tà áo ra, rúc mặt vào bộ ngực đầy, hít lấy mùi da thịt chồng, cái hơi mằn mặn và dịu ngọt nuốt vào làm người đàn bà ấy rạo rực, chị tận hưởng chưa được bao nhiêu. Đến khi Thái đậy vạt áo phủ kín mặt làm ngột thở thì chị bỗng nhiên thấy mình liều lĩnh đến ghê gớm. Chị quờ hai tay kéo đầu anh áp vào ngực nghe trái tim mình đang đập rối loạn. Rồi bàn tay mềm mại bỗng rắn chắc, bắt các ngón tay anh xòe ra, đặt lên cái bụng đã tròn lùm lùm lên trong lần vải “phíp” mỏng. Bàn tay như có ma thuật bắt Thái vuốt dọc cặp đùi dài chắc lẳn của chị. Thái ngạc nhiên hỏi vợ:
- Hà, nghe anh hỏi nhé: em không xấu hổ à?
- Em lặn lội đi đường hàng trăm cây số đến gặp anh. Xấu hổ là cái gì?
- Này, này, các anh ấy đang cười kia kìa!
- Ai cơ?
- Các anh lính pháo hay khịa chuyện, có một chúng nó tố lên gấp mười đấy…
- Có lẽ họ chưa hiểu thế nào là vợ lính, là đàn bà chăng?
- Ít người biết, còn nhiều người chưa biết chứ.
- Thảo nào cái anh bạn lúc nãy dìu đỡ em tay chân cứ lóng nga, lóng ngóng.
- Ôi dào, lóng ngóng gì nó, thằng ấy trẻ tuổi, đẹp trai, hát hay đến cỏ cây cũng phải mê, nhiều cô chết mệt vì nó đấy.
- Thế sao anh ấy run thế nhỉ, cứ như lần đầu chạm tay vào phụ nữ.
- Vì nó biết em là vợ anh. Vợ một người lính thì người lính khác phải biết trọng chứ.
- Anh thì chúa là hay đề cao các anh lính. Thế tại sao người ta nói văn mình vợ người.
- Ô hay, em hỏi như trẻ con ấy thế, anh cắn vào má vợ một cái rõ đau. – Đúng đấy, nhưng cổ nhân đúc kết điều ấy để dành cho kẻ sinh ra để tự thưởng thức cái đời sống của mình, sống dửng mỡ và phè phỡn. Những kẻ biết mình sống ba chục năm, hai chục năm hoặc mươi mười lăm năm nữa. Còn người lính thì bây giờ đang sống, lát nữa có thể chết. Lúc này nhìn thấy ánh mắt, nụ cười của nhau, ôm chầm lấy nhau, nhưng chốc nữa có thể nhìn thấy máu phun ra, cánh tay ấy đã nát bét, thân người bị mảnh bom chém lìa, nhìn thấy tim óc bạn phơi ra ngoài. Vì thế đối với đồng đội đang sống lại như đối với người có thể chết. đã chết một phần, hoặc có khi là nhất định sẽ chết. Thế nên, rốt cuộc những người lính quý nhau, thương nhau, cùng chịu đựng và chia sẻ mọi thứ trên đời. Có thể nói trên đời này không tình thương nào sâu nặng một cách đau đớn như tình thương giữa những người lính.
- Những người lính và vợ lính nữa chứ lị.
- Ừ, vợ lính nữa em ạ!
Trời tối mịt mùng. Gió bỗng mạnh lên và thổi hung hãn. Biển gầm gào, những con sóng lớn gầm thét đổ vào bờ cát. Biển sôi sục, ở sâu trong lòng nó, biển như cố ghìm lại sự phá hủy muôn đời. Biển giãy giụa.
Thái xoay hẳn người che cho cát khỏi bắn vào mặt và vào người vợ. Gió thốc tung lưng áo Hà làm tà áo kêu lên lật phật. Anh lần tay kéo tà áo xuống giữ chặt lấy, trong khi chị cứ níu như đu lấy cổ anh, tấm lưng to đẫy hơi cong lên, hai chân chị giãy ra khỏi tay anh, đạp mạnh xuống, cào cào trên cát. Và rồi, chị bỗng bật khóc nức nở.
Thái bỗng đứng lên, quên hết mọi sự gìn giữ, e sợ, lập cập bế vợ đến cái thùng nhà hầm gần đấy.
Những người con gái như Hà phải làm vợ trước khi được làm người yêu. Họ quen nhau chưa kịp yêu thì ngày cưới đã đến. Luật pháp và luật lệ ghép họ lại với nhau. Hai bên họ nhà trai, nhà gái vội vàng làm một cái lễ tác thành cho người đàn ông và người đàn bà. Họ sáp lại với nhau trong khi còn đang bỡ ngỡ về nhau một cách vội vàng vì trách nhiệm hoặc là một thứ nghĩa vụ gì đó, có khi từ sâu bên trong một đòi hỏi có tính chất bản năng chứ chưa phải là tình yêu. Tuy nhiên cái gốc gác của nó bao giờ cũng vì cuộc sống con người. Vì thế khi tách ra xa nhau tình yêu mới bật nở, một thứ nở chậm như hạt được ủ mới đem gieo, nên sâu đậm và khao khát đến cháy bỏng. Tình yêu cứ thế được nuôi dưỡng dần dần qua những lá thư và sự xa cách xen vào với nỗi thương nhau cùng nghĩa vợ chồng và rồi để trở thành một thứ tình vợ chồng ào ạt như giông bão, như lũ cuốn đối với đời người lính.
***
Đã qua giờ đơn vị hành quân từ lâu.
Tiếng còi ô tô “Toe!toe!” gắt gỏng phát ra từ xe Lộc ngồi khiến Thái giật bắn người. Nhận thức của anh bị lôi tuột ra khỏi thế giới êm dịu trở về với sự thật nghiệt ngã. Sự thật tàn nhẫn mà cái phần trữ tình đã bị lột bỏ, còn trơ lại cái cục lửa của chiến tranh, làm cho Thái cảm thấy nóng rát và đắng nghét trong cổ họng. Anh phủi cát ở lưng áo vợ, dùng ngón tay cào nhanh mấy cái cho mái tóc đỡ rối và đỡ nhanh chị đứng dậy. Qua màn đêm nhờ nhờ bởi ánh lân tinh từ những con sóng hất mình lên bãi cát, Thái vẫn thấy rõ đôi mắt Đại đội trưởng nhìn mình giận dữ và đấy cái ý trách móc. Hai người đi đến gần nhau, Lộc vấp chân làm cát bay tung. Họ vội vàng quay đi để tránh luồng mắt nhau. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc bốn con mắt lại quay phắt lại, ngó vào nhau, trân trân. Đôi mắt Lộc bừng bừng chiếu vào Thái khiến anh nóng bừng cả khoảng đầu, phía sau gáy tê đi, rờn rợn. Lộc rút phắt cây cờ chỉ huy vẫn giắt ở lựng, cầm chắc nơi tay, hầm hầm như sắp vụt vào người Tiểu đội trưởng chỉ huy dưới quyền anh.
Biết rằng giây phút này không thể kéo dài, Hà níu chặt lấy tay chồng. Người lính trẻ từ từ gỡ tay vợ. Chị nắm luôn lấy bàn tay anh, dùng cả hai tay nắm rất chắc. Thái làm một động tác mạnh, như một cái hất tay, bước vụt đi. Hà bước theo, rồi chạy lên kịp, đi song song với anh. Thái thở hổn hển.
- Về đi em! Đơn vị tới nơi ở mới, anh sẽ viết thư cho em.
Hà mếu máo:
- Anh Thái, anh đặt cho con một cái tên.
Không nghe tiếng vợ vừa nói gì, Thái bám cửa thùng xe đu người nhảy vọt lên, miệng thở hồng hộc. Chiếc xe Gát 63 rung rung sốt ruột vì chờ đợi. Từ góc bên kia thùng xe Đăng đứng chồm dậy, loạng choạng bước qua đống đồ đạc lổng chổng, gần như xô tới đẩy mạnh Thái trở xuống mặt đường. Người lính trẻ măng quát to, giọng rất dữ, như chính cậu ta là người chỉ huy cao nhất ở đây.
- Xe sau vượt lên, chạy trước đi!
Đăng cũng nhảy xuống mặt đường, sải những bước dài tới chỗ Hà và Thái đang nhấp nhổm, nôn nóng đứng dưới hàng phi lao. Hà phải dựa hẳn vào một cây phi lao cụt ngọn, cành lá lòa xòa đang réo lên ú ú trong gió mạnh. Hà cắn chặt môi, mặt cúi gầm, tay ôm cái nón che trước bụng… Chiếc nón cậu Chư rỗ vừa ngó hắn người ra ngoài cửa xe đội lên đầu cho Hà. Chiếc nón ấy cậu ta mua làm quà miền Trung chờ mang về cho vợ.
Một chiếc máy bay phản lực xẹt qua thả pháo sáng. Chùm pháo sáng nổ lục bục, tỏa bung ra phía trên đầu đoàn quân. Đăng nói hấp tấp:
- Chị Hà về đi! Em và anh Thái phải đi ngay bây giờ.
Hà chậm chạp ngẩng đầu lên, khi đã nhìn rõ đôi mắt thương cảm của Đăng, đôi mắt của chị bỗng giương to, óng ánh nước. Giọng chị chìm trong gió.
- Thôi, em đừng giục nữa khiến chị thêm đau đớn. Chị về ngay bây giờ đây!
Từ đôi mắt sưng mọng, nước mắt trào thành dòng, chảy dọc hai cánh mũi và đọng lại ở đôi môi rớm máu. Chiếc nón úp trước bụng lỏng dần, tuột ra khỏi tay, rồi cứ thế trượt dần, nằm lăn ra đất. Cơn gió dữ dằn vỗ ngay lấy, hất nó lăn lộn loang loáng trên con đường ngập ngụa bụi cát. Thái đuổi theo, mãi mới lấy được chiếc nón đưa lại cho Hà. Anh chụp vai Đăng kéo rất mạnh, gần như lôi anh chiến sĩ về phía chiếc xe vẫn đang đợi. Hai người bám vào thành chiếc xe quân sự nhoài lên.
Hà bỗng chồm người về phía trước, chạy cuống cuồng:
- Anh Thái, anh Thái ơi!Cho em đi với các anh một đoạn, một đoạn thôi.
- Không thể được đâu Hà!
- Em giặt giũ, em nấu cơm cho các anh ăn mà đánh nhau!!!
Chiếc xe Gát lăn chầm chậm. Hà ngồi thụp xuống, lại đứng dậy chạy. Khẩu pháo vấp vào ổ gà nẩy lên bần bật. Viên nắm chặt tay tầm khẩu pháo, đầu cúi gầm xuống. Hình như cậu ấy khóc. Một chùm pháo sáng nữa lại bung xòe trên bầu trời. Ánh lửa đám cháy do chiếc máy bay ném bom ở phía xa chiếu loang loáng trên nền trời.Trong thứ ánh sáng gắt gao, quái gở, những đám khói kết lại với nhau thành vầng khói lớn đùn lên sừng sững như những trái núi khổng lồ, che khuất hẳn một khoảng trời.
Hà vẫn chạy theo xe, chị vấp vào cái gì đó, ngã lăn ra. Thái hộc lên, níu chặt lấy vai Đăng. Những tưởng người thiếu phụ không dậy được nữa, nhưng kìa, chị đã đứng lên, lảo đảo, chệnh choạng, chới với. Chiếc xe lăn bánh đã xa. Chị chỉ còn như một cái bóng vật vờ trong ánh pháo sáng ma quái, như chị bị đè sấp xuống dưới vùng khói bom khổng lồ, và biến đi trong màn đêm khi anh pháo sáng bị đẩy lùi, bóng đêm ken ập tới đen kịt, mịt mùng.
Thái từ từ khuỵu xuống đống đồ đạc ngổn ngang trên thùng xe. Đăng cũng ngồi xuống theo, ôm chặt lấy anh. Anh nhắm nghiền đôi mắt, mi mắt lặm nhặm vì cát bụi. Màn đêm tơi tả chụp xuống xung quanh. Như một giấc mơ vội vàng, Thái hốt hoảng vì ý nghĩ điên dại đây là lần cuối cùng hai người gặp nhau. Anh vùng ra khỏi tay Đăng, hỏi to:
- Các bộ phận đo xa, trinh sát, thông tin có ai để quên cái gì không? Đường hành quân xe rất xóc, cố gắng bảo vệ tốt khí tài. Anh quay sang Đăng – Đăng đeo ống nhòm lên người, vất vạ vật như thế vào đến A2 không có nó, đơn vị như mù mắt, nằm im chờ chết.
Chương hai
Một người lính ngồi dựa lưng vào bức tường đổ, ngả hẳn đầu lên đám rêu mọc lầy ngầy, mồm há hốc, hai bàn tay sần sùi chập lại làm máng hứng nước. Anh ta gí sát đôi môi khô khốc vào cái máng tay, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng. Gió đã dịu hẳn, về cuối cơn giông mưa chỉ còn lắc rắc từng hạt, thỉnh thoảng đôi hạt mưa bay lạc vào tận họng khiến cho vòm miệng cứ muốn mở to mãi ra. Một dòng nước mỏng nhỏ xíu, từ cái máng tay nhè nhẹ lăn qua làn môi, thấm vào kẽ chân răng; tia nước chạm vào đầu lưỡi làm dịu dần cơn khát và làm tan cơn đói ngủ đang rập rình ở mi mắt, sẵn sàng kéo tuột anh vào một giấc ngủ mê mệt. Anh lính đưa bàn tay vuốt từ đỉnh đầu xuống trán, nước tràn qua mặt, lan da rân rân như giãn nở. Anh lại vuốt, lại miết, lặp lại động tác như một cái máy, tưởng như tư duy của anh đã bị lập chương trình điều khiển, bàn tay còn lại chặn nước cho chảy vào mồm, cặp môi cong lên, cái cổ rướn lên, toàn thân đê mê lặm chìm trong một khoái cảm dìu dịu.
Cách đó chừng mấy bước chân, sát cái bậc lên xuống căn nhà đổ, một thân người xám ngoét bọc trong bộ quân phục ướt sũng. Những hạt mưa to tướng ném vào cái trán hóp, đen sạm và đập vào đôi mắt hai mí chưa kịp khép kín, làm tròng mắt lồi ra, tím ngắt. Cái đầu ngoẹo hẳn sang một bên, được kê lên đôi giầy cao cổ ướt nhoét, đế giầy bê bết bùn đất đỏ; cái thân hình không hẳn là người không hẳn là xác nằm thẳng dẵng. Những hạt mưa lớn bắn vào đôi bàn chân cũng bê bết bùn quánh đỏ, làm lộ ra từng mảng da trắng nhợt nhạt, dăn deo.
Một dòng nước xanh mờ theo bức tường không mái chảy xuống. Dòng nước tràn qua bậc lên xuống căn nhà, tuồn vào lưng chiếc áo bờ-lu-dông vải dầy, ướt lũng nhũng, cái ngấn nước loang ra trên nền đất, ngấm sang chiếc quần bạc mầu cáu bẩn. Như được hẹn giờ, cứ vài phút người lính lại ngừng uống nước bằng máng tay, quay sang nâng cái thân người ấy lên vắt bớt nước ở lưng và ở đũng quần, sau đó anh cẩn thận đặt cái thân hình nửa người, nửa xác, đứng như tư thế cũ.
Trời mờ sáng, bầu trời xanh nhạt. Mảnh trăng già cong cong, nhợt dần, trôi bồng bềnh trên dãy đồi trọc lô xô. Tiếng nước chảy từ phía Ba da Đô Lương vọng lại nghe ồ ồ. Người lính cởi quần áo ngoài ném phịch xuống thềm căn nhà đứng giữa trời tắm khô. Thấy trong người bức bối, khó chịu, anh cởi nốt chiếc quần đùi cầm ở tay, đoạn áp vào đám rêu cho ướt, dùng làm khăn lau người. Anh để mình khỏa thân như thế đi ra đứng ở ngã ba đường ngóng ngược lên phía Phủ Quỳ đau đáu. Anh lính ngáp một cái thật dài, tưởng đến rách miệng rồi vội vàng quay về đứng trước căn nhà. Hoang vắng quá. Hoang vắng tới mức con người phải tự khỏa thân để thấy da thịt mình. Không một tiếng kẹt cửa ở dãy phố câm lặng, gẫy vụn, vài căn nhà còn sót lại tường nứt hoặc bay mất nóc. Không một sợi khói ấm áp nào run rẩy qua khe bếp. Tuyệt không có ánh đèn dầu le lói báo hiệu con người ta đang sống. Anh lính bỗng nảy ra một ý nghĩ rồ dại, để nguyên mình trần truồng như thế chạy quanh đây xem nếu gặp ai tất họ phải kêu lên cho bớt vắng lặng. Đôi mắt mở to hoang dã nhìn như bới tìm xung quanh. Qua ánh ngày mờ mờ anh lính thấy một đoạn hào nhỏ chắc rằng bỏ hoang đã lâu. Anh sải mấy bước dài, nhảy thử xuống con hào và bỗng giật mình hoảng hốt vì lũ cóc nhái nhảy hỗn loạn. Một con chim cũng đang trốn ở đầu kia đoạn hào thấy động chấp chới vỗ cánh bay lên, nó loạng choạng ở trên không, chưa tìm ra chỗ nào có thể trốn lại được. Anh lính ân hận vì làm kinh động, khiến con chim tội nghiệp vội vã bay đi. Và rồi, anh nhảy phắt lên mặt đất. Bằng đôi tai đặc biệt thính nhạy, anh đã nghe có tiếng động cơ máy bay ở rất xa. Gần như cùng một lúc anh ta nhìn thấy bằng mắt thường hai chiếc A7 bay sóng đôi về phía thị trấn. Sau mỗi chiếc máy bay, hai luồng khói tuôn phùn phụt, làm vẩn lên bầu trời xanh lơ trong sạch. Hai chiếc A7 xông bừa qua mảng hồng nhạt của bình minh còn rớt lại, rồi cứ thế lừ lừ diễu qua bầu trời.
Anh lính trinh sát đang chờ để đón chiếc xe hậu cần của đơn vị. Đại đội pháo cao xạ 37 ly đang chiếm lĩnh trận địa ở phà gần phà Sỏi. Anh phải “chốt” ở đây để chặn chiếc xe lại, chắc “thằng già khụ” chờ nhà bếp bị hỏng máy hoặc giở quẻ xịt lốp, gẫy cầu ở đâu đó. Lúc đơn vị hành quân rời vùng đất đỏ Phù Quỳ chiếc Gát đã đứng ì ra không chịu nổ máy. Quay ma-ni-ven chán tay đầu xe rung lên đùng đùng, nhưng nó vẫn đứng trơ thổ địa. Phải móc cáp cho xe kéo pháo lôi đi một đoạn, chiếc “chuồng gà” Gát 51 rách tã mới nổ máy phành phạch. Đến khi tăng ga lăn bánh, nó cứ rên ư ử. Đúng, nó dở chứng hỏng máy nằm ở đâu đó thôi. Có khi các bố hậu cần thấy trời sáng đánh bài lủi, nằm lại chờ tối. Các khẩu đội phòng xa đã quẳng lên thùng xe hai bao gạo, vài chục hộp thịt, thùng lương khô dự trữ chiến đấu. Người lính bị ru trong ý nghĩ đó, ngồi xuống, đầu ngửa hẳn ra, tựa vào vệt nước xỉn trên bức tường, đôi mắt đờ đẫn, dại hẳn đi và trong khi đôi mắt vẫn mở trừng trừng thì thần kinh đã tê dại, anh đã ngủ trong một giấc ngủ quái đản. Anh thấy mình đang chạy trên một vùng đất chết, bước nào cũng thụt xuống hố bom. Và khói, khói như một thứ bệnh dịch lan tràn, che mờ cả mặt đất. Anh chạy cuống cuồng trên mặt hoang mạc, bị săn đuổi bằng rốc két 70 ly và đạn hai mươi ly sáu nòng. Rồi cả một trận mưa bi thép tuôn chảy ra từ những trái bom to bằng nắm tay trẻ con, quả nào cũng vàng mỡ, tươi bóng, mầu của quả chín, nhìn vào chúng ngỡ ngàng, như có thể vồ lấy ăn ngấu nghiến, nhưng chúng lại giấu bên trong sức mạnh giết người khủng khiếp. Giấc ngủ vật vã, không thể nào sâu, dồn đuổi người lính trong ý nghĩ thật và mơ ngột ngạt.
Đột nhiên trên bầu trời lóe hai tia chớp sáng. Đôi mắt trừng trừng đờ dại thoắt sống động và người lính choàng dậy. Các giác quan thính nhạy ở anh ngay tức khắc được đẩy đến chỗ tinh nhạy nhất. Anh tự hỏi: “Tại sao sáng rồi mà hai chiếc A7 còn thả pháo sáng? Hay là chúng tóm được chiếc xe hậu cần chạy lạc đường?”. Chỉ mấy giây sau anh lính đã tự giải đáp được cho mình. Từ trên khoảng xa, xanh hút, bỗng dội lên tiếng rú rít chói buốt. Bom bi! Hàng triệu viên bi sắt từ những quả bom con vừa rời bom mẹ, sẽ bắn ra. Người lính nào từng trải như anh ta, từng chịu hàng trăm tấn bom tính theo đầu người, đều hiểu rằng cái chết đàn lũ sẽ xuyên vào khắp cơ thể và nằm ở đó, lặn sâu, gây nên các vết thương khó giải phẫu hơn gấp nhiều lần so với mảnh bom đạn thường.
Người lính bật dậy, nhảy vọt đến ôm ngang cái thân xác sũng sĩnh nước ,lăn bừa xuống đoạn hảo bỏ hoang mà anh đã xem thử khi hồi.
Loạt bom nổ ầm ập, những quả dứa, quả ổi giết người hết sức tinh vi và dã man từ cái bàn chụp khổng lồ túa ra đều đặn, rơi chụp xuống mặt đất, bật nổ, tiếng nổ nhỏ, khô ngái chọc vào làm buốt óc. Anh lính lắc mạnh người thấy mình đang sống liền giơ tay sờ khắp mặt, lần tay vào ngực, hai bên sườn và vùng rốn cái thân xác anh đã đặt xuống lòng hào. Không thấy máu, anh vẫn sờ, viên bi có thể chui vào đâu đó rất ngọt và người chiến binh chưa kịp cảm thấy đau. Anh lần sờ ở đùi, ở bẹn, không thấy vết xây xát nào đáng kể. Đến khi anh nâng hai đùi cái thân xác để sờ vào hạ bộ thì chân tay anh bủn rủn. Một cái khúc đen xám, nhẫy nhợt, thò dài từ mông về phía chân, đang ngọ nguậy, uốn lên, vật xuống. Trời ơi!Rắn!Anh lính gần như hét lên, nhảy thót lên bờ hào.
Con rắn bắt đầu bị ngạt, uốn cong hẳn thân lên, vật mạnh xuống đất rồi lại hất cả nửa mình đang được tự do sang hai bên, cái đuôi tù tù đen nhợt thọc ngoáy vào đùi cái thân người đang đè lên nó.
Anh lính luống cuống chạy quẩn bên trên đoạn hào. Mùi khói bom khét lẹt, ghê rợn xộc vào mồm, ộc vào tận trong họng làm anh ngạt thở.
Anh nhổ một miếng đờm lẫn đất bụi trong mồm ra, nhấp nhổm định nhảy xuống đoạn hào.
Cái khúc rắn quằn quại, duỗi thẳng ra phập phồng, rồi lại quằn quại, nhớt ở thân nó quệt vào hai ống quần dầy cộm lèo nhèo. Cái đầu bị đè dưới lưng người, có lẽ nó đã ngạt lắm, bây giờ nhấc lưng lên nó mổ cho một miếng thì đi tong. Do quá lo sợ và kinh tởm người lính muốn ói mửa.
Đám khói bom vẫn đặc sệt quanh chỗ anh lính cúi khom khom. Thứ khói bom vàng quẩn ở thấp rất lâu tan vì chúng là đám bụi hạt nặng nhỏ li ti, chúng cứ lắc lư, sền sệt, được ngọn gió Nam dâng lên rồi rơi thõng xuống lòng hào. Cái thân xác bỗng bật ho sặc sụa, ho thành cơn dài rung cả ngực và tay chân.
- Ngột thở quá! Tôi đang ở đâu đây anh Thái?
Thái nhẩy chồm chồm:
- Đăng! Cậu nằm im, không được nhúc nhích.
- Sao thế anh Thái? Sao không được nhúc nhích.
- Đã bảo nằm im, nguyên tư thế ấy. Cậu động đậy là chết tươi đấy.
- Có cái gì ngọ nguậy ở dưới lưng!Anh Thái ạ?
Thái gắt:
- Nằm im!Có lẽ trên thế giới này không ai ngủ như cậu. Một thứ chết ngủ. Nhiều lúc tớ nghĩ cậu chết đột tử rồi.
- Trời ơi, nó ngó ngoáy buồn và lạnh quá anh Thái ạ.
- Đã bảo im cơ mà – Thái gắt. Anh lo sợ lỡ bạn lồm cồm bò dậy con rắn được gọi là chúa trong cái giống rắn này sẽ ngẩng phắt đầu dậy, cắn ngay.
Đăng quờ quờ tay:
- Tôi nắm được nó đây rồi - Thân con rắn chúa đang như một cánh cung lắc lắc.
Thái đang đứng xạng hai chân ra bên bờ hào, môi mím chặt lại. Phải một lát sau, Thái mới nghĩ ra cách cứu Đăng ra khỏi tình thế vừa đáng sợ vừa hài hước như một chuyện đùa nghịch. Anh với tay xuống lấy tấn và Đăng đưa hai tay nắm chặt tay Thái. Đăng làm động tác bật mạnh, tung người lên khỏi đoạn hào, ôn chầm lấy người A trưởng.
Con rắn hổ mang to bằng bắp tay ngáp miệng thở mấy hơi cho hồi sức, rồi nó quay nhìn hai anh lính, phè cái mang to bằng bàn tay phun phì phì. Chú ta oai vệ ngẩng cao đầu bò về đoạn cuối hào. Lũ cóc nhái líu vào nhau, nhảy loạn xị. Con hổ mang bành, vẻ rất hiền, bò qua lũ cóc nhái, lên góc hào bị lở tránh vũng khói vẫn còn đặc sệt,đầu nghếch cao,mồm há ra thở gấp.Con mắt bé tí sáng chói nghiêng nhìn những chú nhái mọi khi vẫn là mồi ngon của nó, giờ đây cùng trong cảnh lánh nạn. Ở ngã ba thị trấn không sinh vật nào sống nổi trên mặt đất, do bản năng sinh tồn, chúng kéo cả xuống chung sống với nhau trong con hào.
***
Lộc cầm một chân Đăng lôi xênh xệch. Cậu lính trẻ giãy lên, giọng ồ ồ:
- Đứa nào kéo chân tao đấy? Để cho tao chợp mắt một tẹo, ờ ờ, cả chục đêm thức trắng. Này, này…để cho tao yên, không tao đào mả bố mày lên đấy!
Lộc nhe cái răng vàng ở khóe miệng, một tay cầm cờ chỉ huy đưa về phía sau, tay kia nắm chặt cái chân Đăng giật mạnh. Đăng đạp chân kia vào tay Lộc chửi:
- Thằng khỉ đột! Chợp mắt một lúc cũng không cho nằm yên. Ông lại đả cho một trận bây giờ.
Lộc buông chân Đăng, bước mấy bước, cổ họng gầm gừ, người gập xuống sát cậu lính trẻ.
Thái sợ tái mặt, nhổm người định chạy tới đánh thức người chiến sĩ dưới quyền mình song nghĩ thế nào anh lại ngồi im như phỗng đá, không nhúc nhích được. Lộc đã túm cổ áo, dựng người lính trẻ măng dậy, và không kìm mình nữa, tát cho Đăng mộ cái rất mạnh vào mang tai. Cái tát quá mạnh làm mắt Đăng nảy đom đóm, cậu ngớ mặt, sau chợt hiểu cú tát từ đâu tới, liền chồm dậy, nhảy bổ đến, mắt nhắm, mắt mở quai một quả đấm trời giáng. Lộc kịp giơ tay gạt nhưng vì quả đấm nặng đô làm đại đội trưởng chúi người, phải gắng gượng mới không bị ngã. Cậu lính trẻ chưa hết cơn khùng, lao tới định táng bồi một quả nữa thì nhận ra Đại đội trưởng của mình. Cậu ta trợn mắt, há hốc mồm ra vì sợ hãi, hai cánh tay to khỏe gân guốc vừa mới đây còn được chứng minh sức mạnh trong cú đấm, giờ đây buông thõng trước đùi, mất hết sinh lực. Đứng đờ ra một lát, không chịu nổi cái nhìn như có ánh thép xuyên vào người, Đăng lùi lại mấy bước rồi ngồi bệt xuống cái bậc nhà ướt nhầy nhụa. Lộc bỏ Đăng nhìn xoáy vào Thái:
- Các ông đón xe như thế đấy hả? Rũ đầu xuống ngủ như gà rù. Xe hậu cần vượt qua chỗ các ông về phía Truông Bồn rồi. Ông biết Truông Bồn rồi chứ? Cửa tử! Cái cửa tử đầu tiên và cũng nhiều máu lửa nhất vùng cán soong. Điều đó thì ông còn biết hơn tôi chứ, hả ông Thái?
Thái lúng túng, chân tay như bị thừa ra trước mặt Lộc. Vốn là một người lính dày dạn, trải qua hàng trăm trận đánh, anh hiểu thấu và lường hết mức độ nghiêm trọng trong tình huống vừa xảy ra. Anh và Đăng đã trải qua hơn mười đêm đưa đón đơn vị an toàn, các khẩu pháo được giấu tốt, khi cần có thể nổ súng đánh địch, anh nuôi ở ven suối, anh em đơn vị nghỉ ngơi, tắm giặt, còn tổ thì lại vội vã lên đường chuẩn bị một nơi đỗ mới. Họ làm công việc đó một cách thuần thục, có phần tài ba, khiến người khó tính như Lộc khi xét đoàn bất cứ việc gì cũng phải thốt lên “Khá, tổ các cậu khá, làm cho tớ cũng mát mặt với mấy tay hay hoạnh họe trên trung đoàn”. Tưởng rằng mọi việc trên đường trôi chảy một cách mĩ mãn, nào ngờ sáng nay cơn đói ngủ thắng cuộc đã vùi các anh xuống bùn và nước, xóa đi cái vinh quang ít tổ trinh sát tiền trạm nào có được, và đẩy các anh vào một tình thế trớ trêu. Trong chiến tranh sức chịu đựng ở con người dù có được huy động đến mức cao nhất vẫn chỉ đạt đến một giới hạn nhất định. Nhưng sự nghiệt ngã lại thường xảy ra ở chính chỗ này. Người lính không bao giờ được vin vào cái giới hạn đó, bấu víu lấy nó như một lý do. Anh ỷ vào cái giới hạn ác nghiệt đó, sự bi thảm ắt xảy ra. Bấy giờ thì dù có hối hận, dù có khóc lóc thảm thiết cũng không thể kịp nữa, ai cho phép hối hận, dù sự hối hận sâu sắc nhất trước xương thịt và máu người. Suốt những tháng khốc liệt sau đó của cuộc ném bom hạn chế, anh càng thấm thía điều đó.
Thái lảng tránh ánh mắt dữ như bắn ra từ đôi mắt nặng nề. Đôi mắt Lộc cũng đói ngủ, sâu trũng, hai mí trĩu nặng, từ chiếc cằm nhỏ râu đâm tua tủa, những sợi râu cũng bắt bụi đỏ màu gạch non.
Anh không kìm được lòng mình, hỏi một câu hết sức ngơ ngẩn.
- Biết làm thế nào bây giờ, Đại đội trưởng? Xe không ngụy trang dông qua Truông Bồn ban ngày, máy bay nó làm thịt mất.
Đôi mắt dẹt của Lộc lóe lên một cách quái gở:
- Chạy đuổi theo chứ còn làm thế nào!- Anh vung ngọn cờ chỉ huy, hướng nó về phía mấy ngọn núi cao phía xa:
- Đồng chí Đăng đứng dậy!
Đăng vẫn ngồi, vẻ mặt thỗn ra vừa sợ hãi vừa hối hận buồn bã.
Lộc hét:
- Đứng dậy!
Đăng bật lên đứng ở tư thế nghiêm. Đôi mắt Lộc tối sầm, Lộc nhả ra từng tiếng một như ném ra từng cục chết.
- Chạy -đuổi – theo – xe ngay!
Lộc không ra lệnh thẳng cho Thái. Anh tránh né những điều phải nói ra một cách rõ ràng nhất. Ở một góc nào đó trong con người anh vẫn ẩn kín một nỗi niềm, ngờ vực đối với Thái, một chiến sĩ dưới quyền mình. Lộc ngầm không ưa Thái song anh không bao giờ chịu nhận điều đó với chính mình, lòng anh nặng những uẩn khúc.
Thái chạy không còn biết trời đất là đâu nữa, tất cả trở nên mù mờ. Chính Hà cũng đã phải chạy đuổi theo xe như thế này buổi tối đơn vị lên đường vào A2, chạy một cách vô vọng và đau khổ, lật đật trong nỗi vò xé thèm được sống bên chồng. Chiến tranh là vậy đấy, không điều gì là không thể xảy ra. Anh chấp nhận như một sự nhẫn tâm, sự tàn nhẫn để vợ đuổi theo chồng một mình đơn độc giữa vùng chết, thì bây giờ chính anh lại buộc phải chạy theo xe vào vùng chết. Chiến tranh thì làm sao có thể tươi hơn hớn được. Nếu có một cái gì tương tự thì nó ở tận phía sau, phía xa kia. Còn bây giờ phải đối mặt với cái khốc liệt nhất thì cái gì sẽ xảy ra, ngay tức khắc, bi tráng, bi hùng, bi thương, bi thảm, người lính chân chính dám chấp nhận chứ không phải và không thể phung phí mạng người một cách bừa bãi. Tiếng máy bay gầm gừ và những quầng khói bom vằn vện ở phía xa, chỉ cho rõ có một chiếc xe đang chạy vào vùng tử địa! Trên xe có đồng chí đại đội phó mà Thái đặt tất cả niềm tin và tình thương yêu chân thành của người lính, có tổ nuôi quân và lương thực, thực phẩm dự trữ để nuôi đơn vị trong cuộc hành quân dài ngày. Nó kia, chiếc xe ở tít tắp, mình đầy ngụy trang như một con cua khổng lồ nặng nề leo lên dốc, vừa leo vừa dò, có lúc nó dừng hẳn để tìm hướng đơn vị đương trú quân.
Hai người đã bỏ lại khá xa thị trấn Đô lương bị san bằng.
Chiếc xe như một kẻ u mê vẫn đi về phía Truông Bồn. Khi đã nhận ra con đèo lở lói, chiếc Gát 51 dừng lại, tìm cách quay đầu để chạy xuống dốc. Không kịp nữa, nó đã đứng tô hô ra trên một cái “cua”. Và điều làm tim Thái và Đăng cùng thắt lại vì lo lắng. thấp thỏm mong nó đừng tới, đã xảy ra.
Hai chiếc A7 bay tuần thám phía thị trấn Đô Lương phát hiện ra chiếc xe Gát đang cố lùi đít vào vạt bạch đàn thấp lè tè, chúng hạ thấp độ cao, vòng ngay lại.
Thái bám được vào buồng lái chiếc xe nhảy lên ấp hẳn ngực vào cửa sổ xe, né nghiêng người về phía chiếc máy bay đang lao xuống với tốc độ chóng mặt, tưởng làm như vậy có thể tránh bớt được luồng đạn sắp sửa vãi xuống. Khi hơi thở đã bớt ngột, anh nhoài hẳn người vào buồng lái, ghé sát tai cậu Mịch lái xe với hy vọng giúp cậu ta đưa được chiếc Gát thoát khỏi cuộc săn đuổi chết người.
Hai chiếc A7 sà xuống rất thấp và đều tăng lực xả những luồng lửa đỏ lòe trên hàng bạch đàn. Rõ ràng những tên phi công Mỹ không muốn con mồi ngu ngơ chúng bỗng vớ được, chạy thoát.
Một chiếc bất ngờ đổi hướng bay lượn sát ngọn cây, thận trọng khép nhỏ vòng lượn. Nó nghiêng cánh vờ như bay đi, rồi chỉ trong chớp mắt, lật mình vòng lại, hạ thấp hơn, vờn chiếc xe như mèo vờn chuột.
Cả tổ nuôi quân nằm dán mình trên thùng xe. Đến khi một chiếc A7 căn giữa lòng đường, chúc hẳn xuống hai cánh xòa rộng, trùm lên chiếc xe như một con ác điểu tuôn ra một loạt rốc két với những đuôi lửa đỏ chói lòa, thì tất cả mọi người bật chồm dậy, nhảy té ra hai bên thành xe, lao xuống lòng đường. Cậu quản lý Chư Rỗ sợ quá cứ rúc đầu xuống cái hố đá nông choèn, Chư ta tọng được nửa người vào, còn cái mông đít to phềnh phệnh vẫn thòi ra ngoài.
Đột nhiên có tiếng đạn pháo 37 ly nổ lụp bụp trên đầu, Thái ghì hai tay vào cửa xe, anh thấy chóng mặt, máu như đông lại trong người. Đã mấy lần hai bàn tay cứng đơ như mảnh gỗ, không theo sự điều khiển của trí óc, tuột ra, để thả bịch khối máu thịt thèm khát sống xuống ta luy con đèo. Nhưng có cái gì vượt ra ngoài bản năng sợ hãi, có lẽ sự dũng cảm được rèn giũa, thử thách ở người lính từng trải đã giúp Thái bình tĩnh chỉ huy người lái xe tăng giảm tốc độ, tránh đạn. Nghe tiếng pháo nổ, Thái thấy vững tâm hơn. Chắc rằng Lộc cho đơn vị bắn mấy điểm xa, xua hai chiếc máy bay, đỡ đòn cho xe hậu cần.
Hai chiếc A7 không bỏ đi, chúng chỉ lách mình tránh đạn, gầm rít bốc lên cao, và rồi, chúng lại từ đầu kia con đèo sà xuống bắn như vãi đạn 20 ly xuống chiếc Gát tội nghiệp không có thứ vũ khí gì chống đỡ. Đạn 20 ly trúng vào những cái chậu nhôm, nổ tung, từng mảng nhôm trắng chói, bay tóe ra, rơi lả tả xuống mặt đường.
Thái nhìn thấy mặt Đăng nhợt nhạt. Cậu ấy vẫn đu lấy cửa xe lủng lẳng như một cái túi. Đôi mắt to lồi ra dưới đôi mày rậm, không ngước nhìn lên trời mà cứ nhìn chòng chọc vào Thái. Thái hiểu rằng bây giờ anh rời cửa xe tức khắc Đăng sẽ nhảy xuống ngay, như vậy chiếc xe hiện nguyên một con mồi rúm lại chờ chết.
Không biết có phải trong mấy giây anh quan sát Đăng và suy nghĩ, Thái đã để “sổng” một chiếc máy bay, chiếc A7 luồn sang bên kia đèo, khi Thái vụt ngẩng lên, luồng đạn 20 ly ác nghiệt từ chiếc máy bay bắn xuống đã chụp đúng đầu xe và vọt về phía trước làm phụt lên từng đám bụi đỏ dưới mặt đường.
Bàn tay đau nhói, thân người Thái bật ra khỏi cửa xe, rơi bịch xuống bờ ta luy đá ong.
Người lính lái xe bị một viên đạn 20 ly xuyên qua từ lưng sang ngực, gục xuống tay lái. Chiếc xe khựng lại, mặt người lái xe đập mạnh vào vô lăng, đầu ngoặt sang một bên.
Mặt Thái như vỡ tung ra, trời đất như tối sầm, đen đặc, anh có cảm giác máu không chỉ chảy ra ở bàn tay mà chảy tóa ở cả hai mắt mình.
Một loạt 20 ly nữa lại cắm thun thút xuống mặt đá nóng bỏng.