Truyện Ngắn & Phóng Sự
TÔI ĐI TÙ - NGUYỄN NHƠN *
TÔI ĐI TÙ
Lần đầu tiên mang thân tù tội
Ngày xưa ở tù là điều ô nhục trọng đại. Tuy nhiên phải làm điều tội lỗi nặng nề như trộm cướp, giết người thì mới ở tù.
Ngày nay dưới chề độ VC, ở tù là thường sự. Chỉ cần buồn lòng nhậu say, về nhà la lối vợ con là có thể được các “nhà cai trị mới” gởi đi học tập cải tạo. Mà không phải chỉ học tập, lao động năm mười bữa, nửa tháng thôi. Do thủ tục giấy tờ nhiêu khê, phần thì chữ nghĩa các quan làng mới cũng lem nhem, nên có khi ở tù cả năm, trường hợp chỉ vì say rượu la ó trong nhà. Đến nỗi ngày nay trong phim ảnh họ cũng có cảnh cha mẹ la rầy con cái không được, bèn đe dọa gởi đi cải tạo.
Nhà tù đầu tiên
Khoảng đầu tháng 6/75, nhà cầm quyền “Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam” ra thông cáo quy định việc học tập cải tạo: Thời hạn học tập dành cho sĩ quan cấp úy và tương đương là 15 ngày. Cấp tá và tương đương là một tháng. Mỗi người phải đem theo 12 ngàn tiền ăn. Ai không có tiền thì mang theo gạo, trị giá tương đương. Ngày trình diện đầu tiên là 25 tháng 6 năm 1975.
Nhà tôi bàn bạc, đi sớm về sớm, lại đầu mùa, mưa ít, đở cảm lạnh. Vậy là ngày kể trên tôi vào trình diện “đi học tập” từ trường Trung học Ngô Quyền. Lúc ấy vào khoảng 2 giờ chiều, trời mưa lất phất. Trong phòng hàng mấy chục anh em mà không khí hoàn toàn im lặng. Ai nấy đều lo âu trong lòng. Tôi men lại góc phòng nằm tạm trên băng ghế học trò, cố dỗ giấc ngủ để lấy sức đi đường, ắt hẳn là xa. Không gian vắng lặng nhưng không sao ngủ được vì trong lòng vẫn bồn chồn. Thời gian dài lê thê. Tuy nhiên rồi cũng đến lúc lên đường. Lúc ấy vào khoảng 5, 6 giờ chiều. Trời bỗng đổ mưa nặng hạt. Đang loay hoay lo che chắn chiếc ba lô cho khỏi ướt thì đã thấy xe quẹo vào cổng trại: Trung tâm cải Huấn Tân Hiệp.
Đêm đầu tiên trong tù thật là não nuột. Ngoài trời mưa tí tách. Trong phòng tất cả đều thao thức nhưng câm lặng. Hầu hết anh em đều là người địa phương nên có điều chua xót: vốn là người chức quyền địa phương, ít nhiều danh giá, nay ra thân tù tội, mà lại ở trong tù ngay chính tại quê nhà. Hơn nữa, từ khám tới nhà chỉ cách nhau hơn cây số, mà lúc này xa cách nghìn trùng. Nằm buồn nghĩ vẩn vơ, chợt lặng lẽ mỉm cười trong bóng tối. Nghĩ lại mình có nhiều duyên nợ với khám đường nầy.
Từ năm 1965, khi còn là Trưởng ty Nội An tôi đã có lần vào thăm khám nầy. Trước cảnh tù tội của một số sĩ quan trẻ, tuy là VC nằm vùng thuộc chủ trương “luồn sâu, leo cao” của địch, nhưng tình cảnh cũng đáng thương. Khi nghe họ trình bày nỗi vất vả trong tù, anh viên chức trẻ còn mang chất thư sinh, lòng cảm thấy rưng rưng. Thế mà ngày nay, bản thân vào tù, chỉ nghe viên Trưởng trại, vốn là Trung Úy nằm vùng bị giam ở đây, nay chỉ huy trại nầy, thốt ra toàn những lời thù hằn nhục mạ thôi.
Mùa hè năm 73, một cơn mưa bão gây ngập lụt trại nầy. Khi tình hình trở nên nguy hiểm, đe dọa sinh mạng cả ngàn tù nhân, tôi đã tự mình lái xe trong mưa bão vào lúc nửa đêm, đến xem xét tại chỗ tìm cách giải cứu. Cuối cùng ông Tỉnh trưởng đã liều lĩnh cho lệnh phá sập bức tường cuối trại cho nước rút đi, cứu sống hơn ngàn sinh mạng vừa tù nhân, vừa gia đình binh sĩ kẹt lại trong trại.
Mùa thu năm 74, để chuẩn bị chiến trường đánh chiếm Phước Long mấy tháng sau đó, VC mở nhiều đợt pháo kích vào phi trường Biên Hòa nhằm tiêu hao tiềm lực của SD3 Không quân. Trong một đợt pháo kích, bất đồ một trái hoả tiễn 122 ly rơi trúng ngay một phòng giam các “đồng chí” của họ, sát thương toàn bộ nhân số trong phòng. Trước mấy chục đống máu thịt bầy nhầy gọi là thi thể, mà trại lại không có ngân khoản chôn cất, tôi đành ra lệnh bất hợp pháp cho xã Tỉnh lỵ xuất công nho lo chôn cất.
Những ngày cận 30-4, nhà thầu không chịu cung cấp thực phẩm trả bằng ngân khố phiếu, đòi phải trả tiền mặt. Không đành lòng để cho tù nhân chết đói, tôi lại liều ký chi phiếu khống, tức là không có chứng từ chứng minh, để rút tiền mặt mua thực phẩm cho họ.
Nằm trong tù ôn lại dĩ vãng thấy ở đây mình đã từng gieo nhân lành, nay cớ sao gặt qủa dữ. Nhân quả bất đồng chăng? Thật ra về sau mới biết được, là “được” vào trại nầy quả nhiên là điều lành, bởi vì ở đây giữa thành phố, lại chỗ giam đông người, nên đỡ bớt rất nhiều nguy cơ kèm kẹp khảo tra cũng như nạn thủ tiêu dấm dúi. Nghĩ thật cám cảnh ơn Trời Phật!
Chiếc còng số 8 đầu tiên
Trong đời tù tội, lần đầu tiên nếm mùi chiếc còng số 8, thì trớ trêu thay lại được mang vào tay ngay chính tại quê nhà Bình Dương.
Tháng 8 năm 76, 35 anh em biệt giam thuộc trại Nhà Đỏ được lùa lên xe vận tải bít bùng chở đi. Trên xe ai nấy đều hoang mang không biết số phận đi về đâu. Vốn là người địa phương, tôi biết rõ địa điểm thủ tiêu ghê rợn: Truông Bồng Bông. Nó nằm trên quãng đường từ Phú Giáo về Bình Dương. Nay thấy xe chạy về hướng ấy nên lòng càng sợ hãi. Lúc xe ngừng lại, cố nhổm người nhìn ra. Thật là hú vía: cổng khám đường Bình Dương. Tuy nhiên tôi vẫn còn băn khoăn tại sao không vào hẳn mà lại đậu phía ngoài cổng. Chợt thấy mấy chú CA khuân ra một thùng carton. Thùng mở ra: toàn còng số 8 Smith B Wesson mới tinh. Mấy chú CA hô to: Nào từng cặp 2 người, đưa tay ra. Tôi và Đại úy Lợi CSQG liền đưa tay ra. Vậy là rắc một cái, trên tay đã mang còng gọn ơ. Lại nghe tiếng quát nạt, nhìn lại thấy hai anh H và Đ co rúm người lùi lại trong góc xe. Chú CA sấn lại giằng tay ra, rắc một cái là xong, miệng lầm bầm: chỉ bấy nhiêu mà cũng sợ. Buồn cười là hai anh nầy chẳng những gốc “phú lít” mà một người lại có tên là “Cọp”, ngươi kia là “Lớn”, đã từng quen thuộc với cặp số 8 nầy, thế mà nay sợ hãi. Vừa còng xong, ông “Cọp” thì mặt mày tái ngắt, ông “Lớn” thì nước mắt chảy dài.
Phần tôi cũng chua xót lắm, vì không ngờ trong đời có ngày ở tù, lại nếm mùi còng trói đầu tiên ngay tại quê nhà. Hơn nữa, nhớ lại ngày nào, khi còn bé theo bạn vào chơi đùa trước sân khám đường nầy. Nay tuổi gần 40, thân tù tội mang còng cũng tại chỗ nầy.
Về sau, nếm đủ mùi còng trói thì mới biết dẫu sao chiếc còng Mỹ vẫn nhẹ nhàng, tiện lợi hơn loại dây xích chó hoặc chiếc cùm sắt do thợ rèn XHCN sản xuất nhiều. Bởi vì loại dây xích chó thì nó miết vào cườm tay vừa tê, vừa đau đớn. Còn chiếc cùm sắt thì vừa nặng, vừa kềnh càng, lại thêm cạnh xù xì rỉ sét, lỡ cứa đứt tay bị phong đòn gánh như chơi.
Vừa rồi ở Mỹ nầy, có việc vào bệnh viện, bất ngờ bắt gặp một nữ cảnh sát dẫn giải một phạm nhân đi khám bệnh. Anh nầy chắc thuộc loại nguy hiểm nên trên tay là đôi còng lại thêm một sợi dây xích nhỏ nhằm hạn chế hoạt động của đôi tay. Dưới chân đèo thêm cặp còng rời có buộc dây xích đủ để bước đi. Vậy mà anh nầy vẫn thản nhiên kháo chuyện với người bạn đồng tù được cho ra làm tạp dịch gần đó.
Thế mới biết ở đâu thân tù tội cũng chịu cùm trói nặng nề. Có khác chăng, ở đây bệnh nhẹ cũng được đi bệnh viện. Còn ở bên kia thường là tù nhân chết trước khi được đi bệnh viện. Mà có được đưa đi thì phần chết vẫn nhiều hơn phần sống, bởi vì bệnh viện không có đủ thuốc cho dân thường thì lấy đâu cấp cho tù.
Vậy đành tự an ủi:
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Nguyễn Nhơn
HNPD
Dec 31.91
TÔI ĐI TÙ - NGUYỄN NHƠN *
TÔI ĐI TÙ
Lần đầu tiên mang thân tù tội
Ngày xưa ở tù là điều ô nhục trọng đại. Tuy nhiên phải làm điều tội lỗi nặng nề như trộm cướp, giết người thì mới ở tù.
Ngày nay dưới chề độ VC, ở tù là thường sự. Chỉ cần buồn lòng nhậu say, về nhà la lối vợ con là có thể được các “nhà cai trị mới” gởi đi học tập cải tạo. Mà không phải chỉ học tập, lao động năm mười bữa, nửa tháng thôi. Do thủ tục giấy tờ nhiêu khê, phần thì chữ nghĩa các quan làng mới cũng lem nhem, nên có khi ở tù cả năm, trường hợp chỉ vì say rượu la ó trong nhà. Đến nỗi ngày nay trong phim ảnh họ cũng có cảnh cha mẹ la rầy con cái không được, bèn đe dọa gởi đi cải tạo.
Nhà tù đầu tiên
Khoảng đầu tháng 6/75, nhà cầm quyền “Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam” ra thông cáo quy định việc học tập cải tạo: Thời hạn học tập dành cho sĩ quan cấp úy và tương đương là 15 ngày. Cấp tá và tương đương là một tháng. Mỗi người phải đem theo 12 ngàn tiền ăn. Ai không có tiền thì mang theo gạo, trị giá tương đương. Ngày trình diện đầu tiên là 25 tháng 6 năm 1975.
Nhà tôi bàn bạc, đi sớm về sớm, lại đầu mùa, mưa ít, đở cảm lạnh. Vậy là ngày kể trên tôi vào trình diện “đi học tập” từ trường Trung học Ngô Quyền. Lúc ấy vào khoảng 2 giờ chiều, trời mưa lất phất. Trong phòng hàng mấy chục anh em mà không khí hoàn toàn im lặng. Ai nấy đều lo âu trong lòng. Tôi men lại góc phòng nằm tạm trên băng ghế học trò, cố dỗ giấc ngủ để lấy sức đi đường, ắt hẳn là xa. Không gian vắng lặng nhưng không sao ngủ được vì trong lòng vẫn bồn chồn. Thời gian dài lê thê. Tuy nhiên rồi cũng đến lúc lên đường. Lúc ấy vào khoảng 5, 6 giờ chiều. Trời bỗng đổ mưa nặng hạt. Đang loay hoay lo che chắn chiếc ba lô cho khỏi ướt thì đã thấy xe quẹo vào cổng trại: Trung tâm cải Huấn Tân Hiệp.
Đêm đầu tiên trong tù thật là não nuột. Ngoài trời mưa tí tách. Trong phòng tất cả đều thao thức nhưng câm lặng. Hầu hết anh em đều là người địa phương nên có điều chua xót: vốn là người chức quyền địa phương, ít nhiều danh giá, nay ra thân tù tội, mà lại ở trong tù ngay chính tại quê nhà. Hơn nữa, từ khám tới nhà chỉ cách nhau hơn cây số, mà lúc này xa cách nghìn trùng. Nằm buồn nghĩ vẩn vơ, chợt lặng lẽ mỉm cười trong bóng tối. Nghĩ lại mình có nhiều duyên nợ với khám đường nầy.
Từ năm 1965, khi còn là Trưởng ty Nội An tôi đã có lần vào thăm khám nầy. Trước cảnh tù tội của một số sĩ quan trẻ, tuy là VC nằm vùng thuộc chủ trương “luồn sâu, leo cao” của địch, nhưng tình cảnh cũng đáng thương. Khi nghe họ trình bày nỗi vất vả trong tù, anh viên chức trẻ còn mang chất thư sinh, lòng cảm thấy rưng rưng. Thế mà ngày nay, bản thân vào tù, chỉ nghe viên Trưởng trại, vốn là Trung Úy nằm vùng bị giam ở đây, nay chỉ huy trại nầy, thốt ra toàn những lời thù hằn nhục mạ thôi.
Mùa hè năm 73, một cơn mưa bão gây ngập lụt trại nầy. Khi tình hình trở nên nguy hiểm, đe dọa sinh mạng cả ngàn tù nhân, tôi đã tự mình lái xe trong mưa bão vào lúc nửa đêm, đến xem xét tại chỗ tìm cách giải cứu. Cuối cùng ông Tỉnh trưởng đã liều lĩnh cho lệnh phá sập bức tường cuối trại cho nước rút đi, cứu sống hơn ngàn sinh mạng vừa tù nhân, vừa gia đình binh sĩ kẹt lại trong trại.
Mùa thu năm 74, để chuẩn bị chiến trường đánh chiếm Phước Long mấy tháng sau đó, VC mở nhiều đợt pháo kích vào phi trường Biên Hòa nhằm tiêu hao tiềm lực của SD3 Không quân. Trong một đợt pháo kích, bất đồ một trái hoả tiễn 122 ly rơi trúng ngay một phòng giam các “đồng chí” của họ, sát thương toàn bộ nhân số trong phòng. Trước mấy chục đống máu thịt bầy nhầy gọi là thi thể, mà trại lại không có ngân khoản chôn cất, tôi đành ra lệnh bất hợp pháp cho xã Tỉnh lỵ xuất công nho lo chôn cất.
Những ngày cận 30-4, nhà thầu không chịu cung cấp thực phẩm trả bằng ngân khố phiếu, đòi phải trả tiền mặt. Không đành lòng để cho tù nhân chết đói, tôi lại liều ký chi phiếu khống, tức là không có chứng từ chứng minh, để rút tiền mặt mua thực phẩm cho họ.
Nằm trong tù ôn lại dĩ vãng thấy ở đây mình đã từng gieo nhân lành, nay cớ sao gặt qủa dữ. Nhân quả bất đồng chăng? Thật ra về sau mới biết được, là “được” vào trại nầy quả nhiên là điều lành, bởi vì ở đây giữa thành phố, lại chỗ giam đông người, nên đỡ bớt rất nhiều nguy cơ kèm kẹp khảo tra cũng như nạn thủ tiêu dấm dúi. Nghĩ thật cám cảnh ơn Trời Phật!
Chiếc còng số 8 đầu tiên
Trong đời tù tội, lần đầu tiên nếm mùi chiếc còng số 8, thì trớ trêu thay lại được mang vào tay ngay chính tại quê nhà Bình Dương.
Tháng 8 năm 76, 35 anh em biệt giam thuộc trại Nhà Đỏ được lùa lên xe vận tải bít bùng chở đi. Trên xe ai nấy đều hoang mang không biết số phận đi về đâu. Vốn là người địa phương, tôi biết rõ địa điểm thủ tiêu ghê rợn: Truông Bồng Bông. Nó nằm trên quãng đường từ Phú Giáo về Bình Dương. Nay thấy xe chạy về hướng ấy nên lòng càng sợ hãi. Lúc xe ngừng lại, cố nhổm người nhìn ra. Thật là hú vía: cổng khám đường Bình Dương. Tuy nhiên tôi vẫn còn băn khoăn tại sao không vào hẳn mà lại đậu phía ngoài cổng. Chợt thấy mấy chú CA khuân ra một thùng carton. Thùng mở ra: toàn còng số 8 Smith B Wesson mới tinh. Mấy chú CA hô to: Nào từng cặp 2 người, đưa tay ra. Tôi và Đại úy Lợi CSQG liền đưa tay ra. Vậy là rắc một cái, trên tay đã mang còng gọn ơ. Lại nghe tiếng quát nạt, nhìn lại thấy hai anh H và Đ co rúm người lùi lại trong góc xe. Chú CA sấn lại giằng tay ra, rắc một cái là xong, miệng lầm bầm: chỉ bấy nhiêu mà cũng sợ. Buồn cười là hai anh nầy chẳng những gốc “phú lít” mà một người lại có tên là “Cọp”, ngươi kia là “Lớn”, đã từng quen thuộc với cặp số 8 nầy, thế mà nay sợ hãi. Vừa còng xong, ông “Cọp” thì mặt mày tái ngắt, ông “Lớn” thì nước mắt chảy dài.
Phần tôi cũng chua xót lắm, vì không ngờ trong đời có ngày ở tù, lại nếm mùi còng trói đầu tiên ngay tại quê nhà. Hơn nữa, nhớ lại ngày nào, khi còn bé theo bạn vào chơi đùa trước sân khám đường nầy. Nay tuổi gần 40, thân tù tội mang còng cũng tại chỗ nầy.
Về sau, nếm đủ mùi còng trói thì mới biết dẫu sao chiếc còng Mỹ vẫn nhẹ nhàng, tiện lợi hơn loại dây xích chó hoặc chiếc cùm sắt do thợ rèn XHCN sản xuất nhiều. Bởi vì loại dây xích chó thì nó miết vào cườm tay vừa tê, vừa đau đớn. Còn chiếc cùm sắt thì vừa nặng, vừa kềnh càng, lại thêm cạnh xù xì rỉ sét, lỡ cứa đứt tay bị phong đòn gánh như chơi.
Vừa rồi ở Mỹ nầy, có việc vào bệnh viện, bất ngờ bắt gặp một nữ cảnh sát dẫn giải một phạm nhân đi khám bệnh. Anh nầy chắc thuộc loại nguy hiểm nên trên tay là đôi còng lại thêm một sợi dây xích nhỏ nhằm hạn chế hoạt động của đôi tay. Dưới chân đèo thêm cặp còng rời có buộc dây xích đủ để bước đi. Vậy mà anh nầy vẫn thản nhiên kháo chuyện với người bạn đồng tù được cho ra làm tạp dịch gần đó.
Thế mới biết ở đâu thân tù tội cũng chịu cùm trói nặng nề. Có khác chăng, ở đây bệnh nhẹ cũng được đi bệnh viện. Còn ở bên kia thường là tù nhân chết trước khi được đi bệnh viện. Mà có được đưa đi thì phần chết vẫn nhiều hơn phần sống, bởi vì bệnh viện không có đủ thuốc cho dân thường thì lấy đâu cấp cho tù.
Vậy đành tự an ủi:
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Nguyễn Nhơn
HNPD
Dec 31.91