Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Tết... nhớ lại tội ác CS năm1968 ở Huế: DẤU BINH LỬA NƯỚC NON CÒN ĐÓ
Huế là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì một thảm cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968
Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức, giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam. Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến CSVN. Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỹ 1920, 1930. Huế không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi sâu với nhân tánh như đạo Phật.
DẤU BINH LỬA NƯỚC NON CÒN ĐÓ
Huế
là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì một
thảm cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968, cho dù sự giết hại đó
có đi vượt sức tưởng tượng của con người! Mà Huế còn là một chứng tích
không thể chối cải được cho tất cả chúng ta, người dân Việt với bốn ngàn
năm văn hiến, qua bao năm đã không để ý đến những thay đổi trong xã hội
làm cho con người bị mê muội và đắm chìm trong lỗi lầm mới của thế kỹ
thứ hai mươi, quên
mất đi đạo làm người. Những thảm họa xảy ra ở Huế làm cho tất cả mọi
người chúng ta phải bồi hồi suy tư! Thảm nạn Huế phải được tạc vào bia
đá, khắc vào tâm khảm, để đời sau sẽ không quên, cùng chung với những dữ
kiện lịch sử khác, của những cuộc tàn sát bạo tàn giữa con người với
nhau. Huế là một dẫn chứng điển hình cho sự mù quáng của loài người khi
họ đi theo chủ nghĩa vô sản vô thần của cộng sản.
Chuyện
gì đã đến với Huế có thể được tóm tắt lại qua vài con số thống kê như
sau: Phía cộng sản gồm có 12,000 lính chính quy Bắc Việt (BV) bắt đầu
tấn công thành phố Huế đêm ba mươi Tết, nhằm ngày Ba Mươi Tháng Một
dương lịch,
1968. Đoàn cộng quân đã tấn công và chiếm giử Huế trong suốt 26 ngày,
sau đó bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và đồng minh đánh bật ra
khỏi Huế. Sau một tháng, 5,800 thường dân Huế bị giết hại hoặc mất tích.
Đây
là những thống kê quan trọng để giải đáp những thắc mắc chúng ta có về
Huế, vì những dữ kiện này đã ghi vào lịch sử, cho dù báo chí trên thế
giới chỉ ghi nhận rất sơ sài các thống kê đó. Dù con số có lên cao đến
bao nhiêu đi nữa, lương tâm của nhân loại vẫn không bị ảnh hưởng gì cho
lắm! Đã không có những cuộc biểu tình trước các tòa Đại Sứ Việt Cộng ở
các quốc gia khác. Nói một cách mỉa mai hơn, thế giới bên ngoài đã
không biết chuyện gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết, họ cũng chẳng bận
tâm đến làm gì.
TRẬN CHIẾN
Trận
tấn công thành phố Huế là một phần quan trọng trong chiến dịch tổng tấn
công Đông Xuân năm 1967-1968 của cộng sản Việt Nam. Chiến dịch được
chia làm ba giai đoạn chính như sau:
Giai đoạn 1 –
Bắt đầu từ tháng 12 năm 1967 vơi những cuộc “tấn công chọn lọc” nhắm
vào các căn cứ và yếu điểm quan trọng của QLVNCH và đồng minh bằng những
sư đoàn chính quy Bắc Việt. Các
trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh Bình Long, Dak To ở Kontum, và Cồn Tiên ở
tỉnh Quảng Trị, cả ba trận xảy ra trong các vùng đầy núi đồi Việt Nam
gần biên giơi Cam Bốt và Lào, đều là những trận đánh then chốt thuộc
Giai đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân.
Giai đoạn 2 –
Xảy ra trong tháng Giêng, tháng Hai, và tháng Ba năm 1968, nằm trong
“chiến thuật tổng tấn công”, với nhiều trận đánh dùng những đơn vị nhỏ
lưu động cùng tấn công một lúc tại nhiều nơi. Giai đoạn 2 bao gồm một
diện tích lớn và dùng chiến thuật du kích. Trong khi những cuộc tấn công
trong giai đoạn trước, VC dùng những sư đoàn chính quy BV. Trong giai
đoạn này, đa số các cuộc tấn công đều
dùng những nhóm du kích địa phương của Mật Trận Giải Phóng Miền Nam.
Cao điểm của giai đoạn 2 xảy ra khi 70,000 Việt Cộng tấn công vào 32
thành phố vào ngày Mồng Một Tết, năm 1968.
Giai đoạn 3 –
Diễn ra trong tháng Tư, tháng Năm, và tháng Sáu năm 1968, với toàn bộ
lực lượng gồm các sư đoàn chính quy BV và các lực lượng du kích MTGPMN,
tập trung vào một trận đánh lớn. Những tài liệu tịch thu được từ mặt
trận đã có nói về chiến thuật “đợt sóng thứ Hai” này. Có thể là Khe
Sanh, một căn cứ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nằm gần Vĩ Tuyến 17 (để
yễm trợ và cũng là căn cứ xuất quân của các toán Biệt Kích Nha Kỹ
Thuật). Hoặc có
thể là Cố Đô Huế. “Đợt sóng thứ Hai” đã không xảy ra vì các chiến dịch
trước đó (Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2) đã không đạt được kết quả mong
muốn. Tuy nhiên, từ khi thành phố Huế bị chiếm, và sau cuộc đánh để giải
tỏa căn cứ Khe Sanh mùa Hè 1968, cuộc chiến đã đi đến điểm cao độ kể từ
đó.
Về
phía đồng minh Hoa Kỳ, trong ba tháng này, trung bình khoảng 500 binh
sĩ tử thương hàng tuần, QLVNCH (ARVN) hơn gấp đôi con số này - gần 1,000
nhân mạng. Và bên Việt Cộng, con số tử thương lên đến tám lần của phía
Hoa Kỳ - trên 4,000 “sinh Bắc tử Nam”! Trong chiến dịch Đông Xuân, Việt
Cộng bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy và du kích, sau 9 tháng
tổng tấn công, cộng sản Bắc Việt đã mất đi 85,000 quân, tử thương hoặc bị tàn phế.
Chiến
dịch Đông Xuân được hoạch định và mở ra nhằm mục đích bẻ gãy sức mạnh
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và để đẩy lùi các bộ phận của chính phủ
VNCH, gồm các cơ quan hành chính, và đồng minh phải rút vào thành phố để
phòng thủ. Đúng ra, cuộc tấn công thành phố Huế thuộc vào Giai đoạn 1
của chiến dịch Đông Xuân hơn là Giai đoạn 2 vì Việt Cộng xữ dụng các sư
đoàn Bắc Việt, sư đoàn 5 324-B cộng vơi các trung đoàn chính quy và
thành phần du kích với khoảng 150 cán bộ cộng sản nằm vùng.
Tóm lượt lại, trận đánh ở Huế gồm có ba giai đoạn chính:
HUẾ: GIAI ĐOẠN MỘT
Phần
tấn công khởi đầu của sư đoàn chính quy BV với Trung Đoàn 800 và Trung
Đoàn 802, đủ hỏa và nhân lực để tràn ngập vào thành phố Huế. Đến sáng
ngày hôm sau, Việt Cộng đã chiếm được đa số các cơ sở trong thành phố
Huế, ngoại trừ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH và các căn cứ của
đồng minh. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tiếp viện thêm quân để
yễm trợ cho hai tuyến phòng thủ quan trọng trong thành phố Huế. Việt
cộng gia tăng thêm Trung Đoàn 804 để
cắt đứt đường yễm trợ này. Tuy nhiên QLVNCH tấn công quá mạnh nên đã
chọc thủng vòng đai bao vây của VC và sau đó, hai căn cứ quân sự của
QLVNCH và Hoa Kỳ đó không còn bị đe dọa trầm trọng nữa.
Kể
từ đó, chiến trường trở thành cuộc bao vây và phòng thủ giữa hai phía.
Việt Cộng tấn chiếm và cố thủ ở phía Tây Thành Nội Huế. QLVNCH và Đồng
Minh tái chiếm và phòng thủ ba hướng còn lại của Thành Nội và các làng
dọc theo sông Hương, với quyết tâm đánh đuổi VC ra khỏi Thành Nội bằng
pháo binh và dùng máy bay dội bom. Nhưng Thành Nội được xây rất kiên cố,
và trong những ngày kế tiếp, QLVNCH thấy rõ là VC đã nhận chỉ thị phải
tử thủ ở Thành Nội,
bất cứ với giá nào cũng không được triệt thoái. QLVNCH chỉ còn một cách
duy nhất là lấy lại thành phố bằng từng con đường, từng khu phố, một
cách chiến đấu rất khó khăn, gian khổ và hao tổn nhân mạng.
Qua
tuần thứ Ba của tháng Hai, vòng đai bao vây Thành Nội đã được củng cố,
và Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH cùng Đồng Minh bắt đầu xiết chặc lại và
khởi sự tái chiếm từng thước đất trong Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng
Hai, Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH giật lá cờ VC đã treo 24 ngày xuống và cờ
VNCH một lần nữa ngạo nghễ tung bay trên thành phố Huế. Trận tái chiếm
Cổ Thành tuy đã thành công, nhưng rải rác trong thành phố vẫn còn những
cuộc đụng độ nhỏ
giữa VC trên đường rút lui với QLVNCH truy đuổi.
KẺ HÀNH HƯƠNG QUA ÐẤY CHẠNH THƯƠNG
TÌM THÂY
Giữa
những hỗn loạn còn nghi ngút khói sau cuộc chiến, việc cấp cứu đầu tiên
cho đồng bào Huế là cứu đói, ngăn ngừa bệnh dịch, và trị liệu cấp thời
cho các nạn nhân. Tiếp đó là xây dựng lại những nhà thương, trường học,
nhà cửa bị hư hại vì súng và bom đạn. Sau đó mới đến việc kiểm điểm
những người bị mất tích hoặc đã thiệt mạng. Sau một tháng, vẫn chưa có
một thống
kê nào chính thức. Tuy nhiên, Tòa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên kiểm kê
được gần 1,900 người đang được điều trị trong các nhà thương và ước
lượng khoảng 5,800 người vẫn còn bị mất tích.
Nhóm mộ thứ nhất: những
nạn nhân của cộng sản được tìm thấy ở trong sân trường ở Gia Hội, ngày
26 tháng Hai. Tổng số xác chết của nạn nhân bị chôn ở trường học Gia Hội
tìm thấy lên đến 170 người.
Trong
những tháng kế tiếp, lần lượt từng mồ chôn được khám phá thêm, gồm có
18 ngôi mộ tập thể, nơi chôn nhiều nhất là chùa Quảng Tự (67 nạn nhân),
Bải Dâu (77),
Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), Thiên Hàm (khoảng 200), và Đông Gia
(khoảng 100). Tổng cộng trên 1,200 xác được tìm thấy từ những ngôi mồ
tập thể chôn gấp rút, đã không dấu kỹ.
Hơn
một nữa trong số những nạn nhân vẫn còn để lai những dấu hiệu của cái
chết thảm khốc: hai tay trói chặc sau lưng, khăn nhét đầy vào cuống
họng, nằm cong queo với không thương tích trên người. Đó là dấu hiệu họ
đã bị chôn sống. 600 nạn nhân còn lại có những vết thương, nhưng nhà
giảo nghiệm không thể nói được là họ đã bị xữ bắn hay bị chết vì lạc
đạn.
Những ngôi mộ
tập thể thuộc nhóm thứ nhì được tìm thấy trong bảy tháng đầu tiên
của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Gò Cát – Sand Dune), Lệ Xá Tây, quận Hương
Thủy – huyện Xuân Hòa, Vân Đường vào cuối tháng Ba và tháng Tư. Nhiều
ngôi mộ khác cũng đã được tìm thấy tại làng Vĩnh Lộc trong tháng Năm và ở
quận Nam Hòa trong tháng bảy. Những ngôi mộ lớn nhất tìm thấy trong đợt
hai nằm ở Gò Cát tại ba địa điểm Vĩnh Lưu, Lê Xã Đông và Xuân Lộ, nằm
giấu trong những gò cát nhấp nhô với cỏ mọc cao gần bãi biển. Ngăn chia
bởi những cồn muối, xa với làng xóm, những gò cát này là địa điểm lý
tưởng để chôn dấu. Trên 800 xác đã được tìm thấy ở đây.
(ghi chú thêm của Ngô Xuân Hùng: trong số những nạn nhân này có hai vị Linh Mục – Cha Bữu Đồng và Cha Micael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng Lasan).
Ở
Gò Cát, tất cả các nạn nhân đều bị trói gô lại thành từng nhóm khoảng
10 đến 20 người, xếp hàng đứng trước các rãnh mới được đào bởi chính các
nạn nhân, và bị xữ bắn bằng súng đại liên. Một trong những di vật quý
của dân làng gò cát Phú Thứ là vỏ đạn đại liên của Nga Sô tìm thấy được
trong những ngôi mộ này. Thường thì những nạn nhân ở đây bị chôn chung
một mộ, chôn đến ba hay bốn lớp, nên nhận diện các nạn
nhân rất khó khăn.
Nhóm mộ thứ ba tìm
thấy ở suối Đá Mài (Da Mai Creek find), cũng được gọi là Phủ Cam tử lộ,
tìm ra ngày 19 tháng 9, năm 1969. Ba VC hồi chánh viên đã báo cho toán
quân báo của Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù rằng, họ đã chứng kiến cuộc thảm sát
của vài trăm nạn nhân tại Đá Mài vào tháng Hai năm 1968, cách Huế khoảng
mười dặm. Vùng suối Đá Mài rất hoang dã, không người ở, và gần như
không có lối ra vào bằng đường bộ.
Sau khi gom lại những bằng chứng, các giảm nghiệm viên đã phân tách diễn biến xảy ra tại Đá Mài như sau:
Ngày
Mồng Năm Tết ở làng Phủ Cam, nơi gần ba phần tư của 40 ngàn người Công
Giáo Huế cư ngụ, một số rất đông ngươi đã tránh nạn trong Thánh Đường
Phủ Cam, một cách tránh nạn rất thông thường ở Việt Nam. Trong số này,
cũng có một số người không phải là Công Giáo. Một cán bộ chính trị cộng
sản đến nhà thờ và đã ra lệnh cho 400 người, bằng cách gọi tên hoặc nhận
diện qua cách ăn mặc (giàu có hoặc nhìn như thương gia). Tên cán bộ nói
họ sẽ được đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày mà thôi để được cải
tạo, sau đó họ sẽ được thả về.
Những
người này đi bộ chín cây
số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi cộng sản đã dựng sẵn một bộ chỉ
huy hành quân. Hai mươi người bị kêu ra khỏi nhóm, đứng sắp hàng một,
lần lượt bị truy tố vì những tội đã hợp tác với chính phủ VNCH, sau đó
bị bắn rồi bị chôn trong sân chùa. Những người còn lại bị buộc phải lội
băng qua phía bên kia sông, và được giao lại cho một đại đội du kích,
với biên bản và danh sách của những người bị bắt. Có thể là tên cán bộ
chính trị có ý là những người bị bắt này sẽ “được” cải tạo rồi sẽ thả
cho họ về, nhưng sau khi bàn giao, số phần của những nạn nhân này đã ra
khỏi tầm tay của tên cán bộ chính trị.
Những
ngày kế
tiếp, bao nhiêu ngày không ai biết, những người bị bắt và người quản
thúc họ đi lang thang lẩn trốn cuộc truy lùng của QLVNCH qua những làng
nhỏ. Cuối cùng, cán bộ du kích cao cấp quyết định thủ tiêu nhân chứng:
Họ bị dắt đi sáu cây số qua những đường núi khó đi và hẻo lánh nhất, đến
suối Đá Mài. Tất cả đều bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ, xác họ để nằm phơi
trên suối nước. Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù QLVNCH ghi nhận rằng nơi hành
quyết không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi
lọt được, chỉ vào được bằng đường bộ. Cây cối nơi này mọc rất cao, lá
dầy và mọc theo lối “hai tầng”, tầng một gồm những bụi tre và cây thấp
gần đất, tầng hai gồm những cây cổ thụ mọc rất cao, những nhánh lớn xoè
ra
như lọng dù che khuất đi những gì ở dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh
sánh mặt trời không chiếu sáng được. Công binh QLVNCH đã bỏ hai ngày để
dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ và tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho
máy bay trực thăng đáp xuống để đem các di hài nạn nhân về Huế. Suối Đá
Mài thật đúng là nơi để hạ sát mà không cần phải chôn giấu xác nạn nhân.
Ở
suối Đá Mài, cách bờ khoảng một trăm thước, người ta tìm thấy hàng trăm
chiếc sọ người, hàng trăm mẫu xương vụn nằm chung lại một chổ. Những
xác này đã không được chôn, nằm lộ liễu (theo truyền thuyết VN, người
chết nếu không được chôn, hồn họ phải lang thang mãi và sẽ không
được đầu thai qua kiếp khác). Và sau hai mươi tháng, dòng suối đã rửa
sạch trắng những bộ xương này.
Nhà
chức trách VNCH sau đó đã phổ biến danh sách nạn nhân bị cộng sản giết
tại suối Đá Mài, 428 người đã được xác nhận. Việt cộng đã dùng lý do
tiêu diệt các phần tử phản cách mạng. 428 nạn nhân được phân ra như sau:
25 phần trăm là quân đội VCNH – hai sĩ quan, một số hạ sĩ quan và binh
sĩ, 25 phần trăm là học sinh và sinh viên, 50 phần trăm là công chức và
viên chức quận hạt và thường dân.
Nhóm mồ tập thể thứ tư –
Phú Thứ gần biễn muối, tìm ra
vào tháng mười một năm 1969, gần làng đánh cá Lương Viện, mười lăm cây
số về phía Đông của thành phố Huế, một nơi cũng hoang dã như suối Đá
Mài. Quân đội VNCH trong tháng đó đã có chiến dịch truy lùng những cán
bộ cộng sản nằm vùng. Làng Lương Viện, dân số 700, sống gần với quân đội
VNCH gần hai mươi tháng trời, đã có đủ can đảm để nói lên sự thật mà họ
đã giữ kín trước đó, rồi sau đó, đã dẫn QLVNCH đến những ngôi mộ chôn
tập thể. Dựa trên những lơi tường thuật của dân làng Lương Viện, nhà
chức trách đã ước lượng số nạn nhân tại Phú Thứ từ 300 cho đến khoảng
1,000 người.
Tuy nhiên, việc kiểm kê tổng số nạn nhân vẫn chưa
được đầy đủ. Nếu tổng kê của chức trách địa phương Huế gần đúng, trên 2,000 người vẫn còn mất tích.
Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng
tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau:
tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau:
Bị thương và tàn tật vì bom đạn: Thường dân bị chết vì bom đạn: Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến: Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969: Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969: Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969: Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế: Số người vẫn còn mất tích: Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: | 1,900 844 1,173 809 428 300 200 1,946 7,600 |
Chú thích của tác giả - tài liệu trên đây lấy từ:
[1] SEATO: South East Asia Organization.
[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000.
[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.
CỘNG SẢN CHẠY TỘI
Những
cuộc thảm sát ở Huế đã vượt quá những việc tàn ác CSVN đã ra tay trước
đó ở miền Nam Việt Nam. Điều khác biệt là ở số nạn nhân lần này, chứ
không phải ở mức độ tàn ác của việc họ làm. Đặc điểm của những vụ tàn
sát ở Huế, sau khi chúng ta nghiên cứu những tài liệu tìm thấy, cho ta
nhìn rõ được mức độ tàn ác của CSVN tại Huế, đã vượt xa những việc tàn
ác ở những nơi khác
trên miền Nam Việt Nam, cho dù có thường xuyên hoặc tàn bạo đến mức nào
đi nữa.
Vụ
thảm sát ở Huế không phải là một việc làm để nâng cao tinh thần tranh
đấu – cách đánh cấp tốc vào thẳng yếu điểm của phía bên kia để chứng
minh sức mạnh của phe mình, mà lại khác hơn ở chổ xuống tay sát hại dân
lành trong vùng do du kích của CSVN kiểm soát. Không phải một chiến dịch
đe dọa để quảng bá lý thuyết cộng sản. Không nhắm vào mục đích lay
chuyển lý tưởng của phe đối nghịch, vì đa số những nạn nhân đều bị giết
một cách âm thầm. Và cũng không phải để thủ tiêu những phần tử đối
nghịch theo danh sách đã được soạn trước. Huế đã là ngoại lệ
so với những chiến dịch của cộng sản nhằm lay chuyển hoặc đánh dò đường
phản ứng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu nghiên cứu cẩn thận hơn,
đây đó cũng có vài lý do, dữ kiện để giải thích một góc cạnh nào đó,
nhưng tất cả vẫn không đủ để giải thích được những hình thức giết hại và
sự lan rộng của những cuộc thảm sát ở Huế.
Điều
mà tác giả muốn nói ở đây là một giả thuyết, để giải thích những vấn đề
liên quan đến những vụ thảm sát ở Huế, dưới hình thức sát nhân rất đơn
giản và không có sự chọn lựa. Trước khi vào vấn đề, chúng ta nên để ý
đến “ba sự thật” quan trọng. Có hai điều chính yếu mà khách du lịch
nào đến Huế để tìm sự thật về thảm sát Tết Mậu Thân cũng đều tự hỏi:
cái gì đã xảy ra? Và quan trọng hơn nữa là tại sao nó đã xảy ra? Cả hai
câu hỏi này rất khó nhận thấy qua sự suy đoán đơn giản và thường đi
ngược lại những lý luận của con người. Sau khi đã nói chuyện, thẩm vấn
một số đông những cựu tỉnh trưởng, quận trưởng, cảnh sát địa phương lúc
bấy giờ, cũng như những người đồng minh Hoa Kỳ có tham dự trận đánh tái
chiếm Cổ Thành Nội, những nhân chứng, tù nhân đã được thả, những người
cộng sản đã hồi chánh, và một số ít người quá may mắn, tuy đã bị bắt
nhưng đã thoát chết, “ba sự thật” quan trọng này vẫn trổi lên trên hết:
SỰ THẬT THỨ NHẤT: Và có thể sự thật quan trọng nhất, là tuy không thấy rõ bên ngoài, nhưng hầu như tất cả những vụ hành quyết đều xảy ra không phải vì lý do nóng nảy, bực tức, hay khủng hoảng khi cộng sản phải cuối cùng rút lui ra khỏi Huế. Nhiều lần, những lý do vừa đề cập đến đã được nêu lên, nhưng những lý do nầy quá yếu đi, không đủ để biện minh cho sự việc. Trái lại, nếu chúng ta xét lại từ đầu những vụ hành quyết đầu tiên khi Việt Cộng vừa chiếm được thành phố Huế, mình sẽ thấy rằng: gần như tất cả những vụ hành quyết này đều là kết quả của một quyết định và sự toan tính của đảng cộng sản Việt Nam. Nói đúng hơn nữa là những vụ hành quyết này rất cần thiết cho đảng cộng sản Việt Nam. SỰ THẬT THỨ NHÌ: Sau
khi kiểm chứng với những dữ kiện đầy đủ, hầu như tất cả các vụ hành
quyết đều do bàn tay của những đảng viên cộng sản nằm vùng, không phải ở
quân chích quy Bắc Việt hoặc QLVNCH. Trên 12,000 binh sĩ QLVNCH đã
chiến đấu để tái chiếm thành phố Huế, và có thể đã gây thiệt mạng một số
thường dân vì lạc đạn. Đa số 150 tên cán bộ chính trị nằm vùng hoạt
động ở tỉnh Thừa Thiên, những người này chính là thủ phạm đã ra lệnh thủ
tiêu các nạn nhân ở Huế. Cho dù họ đã làm theo chỉ thị của bộ chỉ huy
(và ban lãnh đạo
trung ương CSVN), và nếu như thế thì những chỉ thị đó đã có lệnh như
thế nào? Cho đến nay vẫn không ai biết rõ chi tiết. SỰ THẬT THỨ BA: Ngoài
việc hành quyết những “cường hào ác bá”, cộng sản đã giết hại những nạn
nhân còn lại một cách bí mật và đã không thèm dấu diếm tội ác của họ.
Người ta bây giờ thường nghĩ đến Huế như một pháp trường để hành quyết
tội nhân, với những mồ chôn tập thể lớn. Nhưng trong những ngày đầu tiên
Huế bị chiếm đóng, chỉ có một số ít hành quyết được bộ đội và cộng sản
nằm vùng loan báo để đồng bào đến xem. Những mồ chôn trong thành phố Huế
tương đối dễ tìm thấy, vì để
chôn người nơi đông đảo rất khó dấu được những soi bói tò mò của người
xung quanh. Tất cả những mộ tập thể còn lại đều được dấu kỹ, đa số ở
vùng rừng núi hoang dã, không người qua lại, chắc đây là lý do chính
khiến cho những nơi này đã được chọn lựa. |
Một
thân xác chôn vùi trong đồi cát rất khó tìm, cũng như đi tìm một vỏ sò
chôn sâu trong cát trên bờ biễn với sóng biễn xoá đi những dấu tích trên
chổ chôn. Suối Đá Mài là một trong những nơi hẻo lánh nhất của Huế, và
chắc hẳn đã làm cho cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó để
giết. Khi đến những nơi này, người
quan sát sẽ nhận thấy rất rõ chủ ý của Việt cộng đã có nỗ lực che đậy
tội ác của họ. Giả thuyết mà tôi (tác giả DOUGLAS PIKE) nêu lên ở đây là
dự định của cộng sản VN khi đang chiếm giữ thành phố Huế, và những vụ
hành quyết họ đã thi hành. Từ những chứng tích để lại, chúng ta có thể
thấy được rằng, họ đã không nghĩ đến tương lai của họ ở thành phố Huế,
mà chỉ thi hành những mệnh lệnh của cấp trên theo nhu cầu cần thiết, và
với tình hình thay đổi lúc bấy giờ.
Một
điều quan trọng khác nữa là đã không có một dấu hiệu nào để lại, đủ để
chứng minh rằng, một lệnh hành quyết chính thức được phát ra từ Việt
cộng; Thay vào đó,
những quyết định giết để bịt miệng nhân chứng thường xảy ra theo diễn
tiến của cuộc chiến. Sự liên hệ giữa hai điều vừa nêu ra rất rõ và được
chia ra vào ba phần. Giả thuyết ở đây là Việt cộng đã phải thay đổi
chiến thuật trong suốt 26 ngày tấn chiếm Huế, và cũng từ đó mà “lệnh
hành quyết” cũng thay đổi để thích ứng với nhu cầu và chiến lược. Kết
luận này tôi đã có sau khi sưu tầm những tài liệu của đảng cộng sản Việt
Nam, phỏng vấn người tù số 1 và hồi chánh, tường thuật của những nhân
chứng còn sống sót, những tài liệu tịch thu được bởi QLVNCH trên chiến
trường, và những đường lối nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam lúc bấy
giờ.
Chiến
lược của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Communist Party of South Vietnam
- PRP) cho Phần 1 chiến dịch Đông Xuân đã được nói ra rất rõ trong quân
lệnh phát hành trong đêm ba mươi trước ngày tổng tấn công: “…phải nhất
quyết phối hợp các thành phần VC trong thành phố sau khi chiếm được
thành phố. Cấp tố trang bị vũ khí cho các cán bộ chính trị cũng như dân
sự, thành lập ủy ban quản trị từ tỉnh xuống đến quận hạt, phường khóm,
thành lập các toán dân sự chiến đấu và các cơ cấu để yễm trợ quân đội
khi chiến đấu, dùng dân để thành lập tuyến phòng không, và nâng cao tinh
thần đấu tranh của mọi giới cấp để phòng thủ khi ngụy quân phản
công...”
Đây
là những dự tính và đã xảy ra như vậy lúc ban đầu. Tuy nhiên, những
ngày sau đó, những biến chuyển tình thế đã được thuật lại với chi tiết
khác nhau. Đài Hà Nội, ngày mồng bốn tháng Hai đã nói: “Sau một giờ tấn
công, Quân Đội Nhân Dân đã chiếm được biệt thự của Tỉnh Trưởng Thừa
Thiên, nhà tù và tất cả các văn phòng cơ cấu của chánh phủ ngụy … Quân
Đội Nhân Dân đã trừng trị đích đáng những tên tay sai ác độc của quân
ngụy và kiểm soát chặt chẽ các đường phố, bắt giữ những tên phản động,
phản cách mạng, và đánh xập đổ chánh phủ ngụy hà hiếp nhân dân …”
Trong
thời gian ngắn ngủi chiếm đóng thành phố
Huế, những cán bộ chính trị cộng sản, tháp tùng bởi các toán hành
quyết, đi bắt và giết sạch các yếu nhân của tỉnh Thừa Thiên để chánh phủ
VNCH sẽ bị yếu đi sau khi Việt Cộng rút lui ra khỏi thành phố. Đây là
giai đoạn “hành quyết theo sổ đen”. Tòa án nhân dân được dựng lên, buộc
tội, và hành quyết một cách chớp nhoáng. Những tên cán bộ xuất hiện, tay
cầm danh sách và địa chỉ của các nạn nhân, ra tay thủ tiêu các thành
phần mà chúng gọi là “phản cách mạng”.
Những
phiên tòa này thường được diễn ra ở những nơi công cộng, hoặc trong
vườn rộng dùng làm bộ chỉ huy dã chiến của việt cộng. Phiên xử thường
chỉ cần 10 phút để VC tuyên
truyền, đọc cáo trạng, và buộc tội. Không có một bị can nào được trắng
án. Hình phạt luôn luôn là “tử hình”, và thường các bị can đã bị xử bắn
ngay tại chổ. Xác của họ được chôn gấp rút, hay trả lại cho gia đình nếu
xin. Những người bị bắt xữ theo lối này, nhiếu nhất là các công an,
cảnh sát của thành phố, nhất là các ban an ninh, mật vụ, quân nhân và
binh sĩ, và những người không phải là cảnh sát hay quân đội, nhưng là
những vị lãnh đạo của các đảng phái, cộng đồng, giáo sư và các tôn giáo.
Ngoài
sự tấn công ác độc nhắm vào thành phần “trí thức” ở Huế, Phần 1 của
chiến dịch Đông Xuân đi theo đúng phương thức hoạt động của
đảng cộng sản Việt Nam. Hủy diệt thành phần trí thức đã liên tục xảy ra
trong các làng xã trong suốt 10 năm trước đó. Sổ đen và địa điểm hoạt
động đã được chọn lựa kỹ càng trước, Việt cộng chỉ chờ cơ hội để thi
hành những dự tính này mà thôi.
Tuy
nhiên, không phải mọi người trong “sổ đen” ở Huế đã bị sát hại. Rất
nhiếu người trong sổ đen đã chạy trốn vào vùng thôn dã và đã thoát chết.
Suốt cuộc chiến 24 ngày liền, trong những ngày đầu, cán bộ cộng sản rất
bận rộn truy lùng tìm bắt tất cả mọi người trong sổ đen, nhưng sau đó,
họ đã chuyển mọi nỗ lực vào các công tác mới khi đã không bắt được hết
tất cả.
HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI
Trong
những ngày đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân ở Huế đã thành công khá dễ
dàng (nhưng ở miền Nam thì lại khác, Ủy Ban Đảng Cộng Sản Trung Ương đã
nhận những bản báo cáo về kết quả không được mỹ mãn cho lắm từ vùng đồng
bằng sông Cửu Long) nên trong say mê chiến thắng, Việt Cộng tưởng họ có
thể giử được thành phố Huế lâu dài. Có thể, các đảng viên cao cấp đã
không dám nghĩ đến quyết định tử thủ dài hạn ở Huế, nhưng đối với cấp
cán bộ tại làng xã thì họ đã vững tin như thế. Một thông tin mật của
cộng sản bị VNCH bắt nghe được trong ngày
Mồng Hai tháng Hai, kêu gọi các cán bộ ở mọi hạ tầng cơ sở phải quyết
tâm tử thủ Huế, đã tuyên bố như sau: “Một giai đoạn mới trong lịch sử,
một cuộc cách mạng đã bắt đầu (vì chiến thắng ở Huế) và chúng ta chỉ cần
đánh nhanh đánh mạnh (ở Huế) để kết thúc cuộc giải phóng trong thắng
lợi vinh quang.”
Tờ
báo chính thức của đảng cộng sản, Nhân Dân, cũng đã tuyên bố như thế:
“Như một tia sét, đảng và nhân dân đã tổng tấn công đế quốc Mỹ và các
tay sai đế quốc Mỹ … Guồng máy Ngụy đã bị tiêu hủy. Những bộ phận cơ cấu
của Mỹ-Ngụy đã bị cách mạng đánh tan rã. Chính phủ Thiệu-Kỳ sẽ hoàn
toàn sụp đổ. Quân tay sai đế quốc Mỹ
đã trở thành yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi các
chiến sĩ cách mạng.”
Đương
nhiên, những tin tức này luôn luôn để tuyên truyền và mê hoặc quần
chúng, thường các tin tức loan tải bởi cơ quan truyền thông của đảng
cộng sản là như thế. Muốn biết được những điều này là sự thật hay chỉ là
ước nguyện của đảng cộng sản thì thật rất khó phân biệt. Nhưng từ những
cuộc phỏng vấn các tù binh và hồi chánh viên, cũng như bắt được làn
sóng để nghe lén những mật tin của cộng sản, các cán bộ cao cấp cũng như
lính cộng sản đều đã tin rằng, họ sẽ chiếm giử thành phố Huế mãi mãi,
và họ đã cố gắng làm như vậy.
Giữa
những việc họ làm là tiếp tục thanh trừng những phần tử phản động còn
lại và bắt đầu xây dựng lại hạ tầng cơ sở mới cho đảng và do đảng. Chỉ
thị mới được ban hành, từ ủy ban chính trị trong thành phố, cho các cán
bộ Việt cộng đi truy lùng và bắt những phần tử “chống cách mạng”, có
nghĩa là, bất cứ những cá nhân hoặc tổ chức nào có khả năng và nhân lực
để đi ngược lại đường lối của đảng trong tương lai. Chỉ thị này rất mơ
hồ, và đã không dựa lên phương pháp “sổ đen” nữa, mà ủy thác toàn
quyền quyết định đến người thi hành chỉ thị. Lần này, mục tiêu không
còn là vài nhóm người nữa, mà là “tổ chức hoặc giai cấp
trong xã hội.”
Như
đã thấy trước đây ở ngoài Bắc Việt hoặc ở Trung Cộng, đảng cộng sản lúc
nào cũng san bằng những giai cấp trong xã hội, tiêu diệt những người
trí thức, lãnh tụ các đảng phái chính trị, các vị lãnh đạo tinh thần của
các tôn giáo (các cao tăng Phật Giáo, các Linh Mục Công Giáo), các đảng
phái, các tổ chức xã hội (đàn bà, tuổi trẻ, hướng đạo), ngay cả những
sinh viên thân cộng trước đây nhưng vì gia đình khá giả thuộc loại tư
bản.
Cũng như thế, đôi khi cả gia đình đều bị sát hại dưới bàn tay cộng sản. Trong một trường hợp khá nổi
tiếng do nhiều nhân chứng thuật lại như sau:
Một toán cán bộ ám sát đã xông vào một căn nhà của một người có địa vị trong thành phố Huế, bắn ông ta, vợ ông ta, con trai và con dâu, con gái còn nhỏ, hai người đầy tớ và đứa bé con của họ! Ngay cả con mèo cũng bị bóp cổ cho chết, con chó thì bị đập vỡ sọ, những con cá vàng trong chậu cũng bị đổ ra sàn nhà dãy dụa chết. Sau khi những tên cán bộ bỏ đi, trong nhà không còn một ai sống sót. Một “cơ cấu xấu của xã hội” đã bị tiêu diệt!!!
Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức, giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam. Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến CSVN. Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỹ 1920, 1930. Huế không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi sâu với nhân tánh như đạo Phật.
Vì
thế nên những người cộng sản gốc Huế, khi đã thấm nhuần và mù quáng bởi
chủ nghĩa cộng sản, đã trở thành những kẻ vô tri, vô hồn khi bị hất hủi
bởi những giới trí thức khác hay
tôn giáo ở Huế. Hoặc tệ hơn nữa, thay vì bị hất hủi, họ đã bị loại hẳn
ra khỏi giới trí thức Huế. Vì thế, với sự trung thành và tin tưởng tuyệt
đối vào chủ thuyết cộng sản, họ đã tìm cách trả thù và san bằng những
sự khác biệt này. Những người trí thức còn sống sót đã phải trả một giá
rất đắt cho bài học này, từ đó họ đã chú ý đến và e sợ cộng sản hơn, nếu
không là một chủ thuyết chính đáng, ít nhất cũng phải là một nhóm cuồng
tín vô thần rất nguy hiểm!
Trong
giai đoạn 2, có lẽ khoảng 2,000 người đã bị cộng sản giết hại. Nhưng đó
vẫn chưa phải là giai đoạn sát hại khủng khiếp nhất.
HUẾ: GIAI ĐOẠN BA
Cuối
cùng rồi, cũng như Trung Ương Cộng Sản ở Hà Nội đã biết trước (vì đã
hiểu rõ thế và sức mạnh của QLVNCH và đồng minh), con cờ đã xoay chuyển
trong cuộc chiến ở Huế. Một bản mật tin truyền đi từ Thành Nội (bị
QLVNCH nghe được) bởi đám tàn quân Việt Cộng ngày 22 tháng Hai, xin ban
tham mưu hành quân cho phép được rút quân. Bản trả lời như sau từ bộ
chỉ huy: không cho phép rút quân, ngày hôm sau, 23 tháng Hai, phải tấn
công nữa. Trận tấn công ngày 23 đã xảy ra, nhưng rất yếu ớt, không gây
thiệt hại gì cho bên VNCH và đồng minh. Vào ngày 24 tháng Hai, Thành Nội
được giải tỏa khi VC bị
đánh bại.
Từ
tuần trước đó, Cộng Sản Việt Nam đã thấy rõ sự thất bại sẽ phải đến.
Khi đó, giai đoạn 3 mới bắt đầu: giai đoạn thủ tiêu nhân chứng và tang
chứng. Có thể trong suốt giai đoạn 2, hầu hết tất cả những việt cộng nằm
vùng ở Huế đã bị lộ mặt nạ. Ngay cả những cán bộ nằm vùng trước đó, dù
đã không bao giờ bị nghi ngờ là VC, nay cũng đã ra mặt (vì tin tưởng
rằng Huế đã và sẽ mãi mãi thuộc vào tay cộng sản). Chuyện thường tình
như một dân Huế kể lại sự ngạc nhiên của ông khi biết được người hàng
xóm bên nhà là một cán bộ nằm vùng cao cấp trong hàng ngũ MTGPMN (hắn là
một cán bộ cao cấp trong thành phố Huế): “Tôi biết
ông ta 18 năm nay, mà không bao giờ nghĩ đến ông ta có thể hoạt động
chính trị như vậy.” Những người cán bộ này nằm vùng rất lâu, và chỉ lộ
diện mỗi khi không có ai hay biết để giữ kín tông tích của mình.
Vì thế, giai đoạn 3 khởi đầu để “bịt miệng nhân chứng”.
Có thể giai đoạn này, số nạn nhân lên cao nhất ở Huế, cũng vì lý do
này. Những người trước đó bị bắt đi học tập với ý định ban đầu là sẽ thả
họ về. Nhưng vì là dân làng, cũng như những tên cán bộ nằm vùng đã bắt
họ; tên tuổi và mặt mũi của những cán bộ này giờ đã lộ. Vì thế, họ đã
phải chết, không phải vì là một con nợ hay gánh nặng, nhưng vì họ sẽ trở
thành những người tố cáo những tên nằm vùng. Ví dụ rõ ràng nhất là nhóm
người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 em học sinh
trung học bị chôn ở Phú Thứ trong các gò muối biễn.
Việc
tìm những tài liệu lịch sử để đi đến một kết luận cho lý do tại sao,
dựa trên một vài giả thuyết, đương nhiên sẽ có chỗ đúng chỗ sai, và chỉ
vẽ lại một hình ảnh khá sơ sài cho độc giả. Sự việc xảy ra ở đời thường
không đơn giản như bài viết. Ví dụ như, cho dù trong suốt thời gian
những vụ hành quyết dựa vào “sổ đen” đang xảy ra, đương nhiên cũng có
những chuyện trả thù theo “đường lối công bằng của cách mạng”. Và chắc
chắn
cũng có những vụ trả thù riêng tư giữa những cán bộ với người họ ghét
bỏ!
Quan điểm chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thảm sát ở Huế được nói rõ ra trong một cuốn sách nhỏ phát hành ở Hà Nội:
“Liên
kết và phối hợp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nhân dân, những
toán nhân dân võ trang và cán bộ võ trang thành phố Huế đã bắt giữ và
kêu gọi những tay sai đế quốc, sĩ quan VNCH và binh lính của quân ngụy
ra đầu hàng. Những tên ngoan cố đã được trừng trị đích đáng.”
Ở
Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không
phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán
bộ ở Huế bất mãn với chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng
Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội đã chê trách việc chính phủ VNCH cố
tìm xác của các nạn nhân, đài đã phát thanh rằng những người bị giết hại
chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay vào máu của nhân dân yêu nước ở
Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giết hại vào tháng Ba tháng
Tư.”. Những lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do
khác là “thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các
đảng phái ở Huế mà thôi.”
Ngô Xuân Hùng
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm 2002.
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm 2002.
(Thứ nam của Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh,
Phó Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật,
Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Phó Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật,
Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Xin ghi nhận và chân thành cảm tạ cố Giáo Sư Douglas Eugene Pike, trường Ðại Học Texas Tech, Texas,
U.S.A..
Bàn ra tán vào (1)
Lê Đắc
HOÀNG tay nhúng máu cuối đời bần, (*)
PHỦ giết dân lành Tết Mậu Thân.
NGỌC ác trời ơi nơi chẳng địch,
TƯỜNG hung đất hỡi chỗ vô thần.
VÀ tên “sắt máu” đi sau lẹ,
NGUYỄN họ “gươm đao” tiến trước gần
ÐÁC ý là vì Hồ “bác” ngợi,
XUÂN sang khói lửa ngập trời xanh.
(*).Ác giả ác báo phải ngồi xe lăn)
********************
VUI mừng đón Tết năm nay
XUÂN sang kính chúc tràn đầy lộc vô
GIÁP mang phước lộc ngon ơ
NGỌ năm con ngựa bất ngờ gặp may
KHÔNG nên sao lãng việc hay
QUÊN đi thống khổ vui vầy ngày Xuân
TỘI chúng trên bốn thập niên
ÁC nhân thất đức bạo quyền đã, đang
CỘNG hèn giết hại dân làng
QUÂN thù chôn sống bà con một mồ
VỤ này nhức nhối năm xưa
TẾT ta truyền thống giặc Hồ tấn công
MẬU năm bất hạnh vô cùng
THÂN người ngã gục tứ tung kinh hoàng !
(Ðại lộ kinh hoàng)
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Tết... nhớ lại tội ác CS năm1968 ở Huế: DẤU BINH LỬA NƯỚC NON CÒN ĐÓ
Huế là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì một thảm cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968
DẤU BINH LỬA NƯỚC NON CÒN ĐÓ
Huế
là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì một
thảm cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968, cho dù sự giết hại đó
có đi vượt sức tưởng tượng của con người! Mà Huế còn là một chứng tích
không thể chối cải được cho tất cả chúng ta, người dân Việt với bốn ngàn
năm văn hiến, qua bao năm đã không để ý đến những thay đổi trong xã hội
làm cho con người bị mê muội và đắm chìm trong lỗi lầm mới của thế kỹ
thứ hai mươi, quên
mất đi đạo làm người. Những thảm họa xảy ra ở Huế làm cho tất cả mọi
người chúng ta phải bồi hồi suy tư! Thảm nạn Huế phải được tạc vào bia
đá, khắc vào tâm khảm, để đời sau sẽ không quên, cùng chung với những dữ
kiện lịch sử khác, của những cuộc tàn sát bạo tàn giữa con người với
nhau. Huế là một dẫn chứng điển hình cho sự mù quáng của loài người khi
họ đi theo chủ nghĩa vô sản vô thần của cộng sản.
Chuyện
gì đã đến với Huế có thể được tóm tắt lại qua vài con số thống kê như
sau: Phía cộng sản gồm có 12,000 lính chính quy Bắc Việt (BV) bắt đầu
tấn công thành phố Huế đêm ba mươi Tết, nhằm ngày Ba Mươi Tháng Một
dương lịch,
1968. Đoàn cộng quân đã tấn công và chiếm giử Huế trong suốt 26 ngày,
sau đó bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và đồng minh đánh bật ra
khỏi Huế. Sau một tháng, 5,800 thường dân Huế bị giết hại hoặc mất tích.
Đây
là những thống kê quan trọng để giải đáp những thắc mắc chúng ta có về
Huế, vì những dữ kiện này đã ghi vào lịch sử, cho dù báo chí trên thế
giới chỉ ghi nhận rất sơ sài các thống kê đó. Dù con số có lên cao đến
bao nhiêu đi nữa, lương tâm của nhân loại vẫn không bị ảnh hưởng gì cho
lắm! Đã không có những cuộc biểu tình trước các tòa Đại Sứ Việt Cộng ở
các quốc gia khác. Nói một cách mỉa mai hơn, thế giới bên ngoài đã
không biết chuyện gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết, họ cũng chẳng bận
tâm đến làm gì.
TRẬN CHIẾN
Trận
tấn công thành phố Huế là một phần quan trọng trong chiến dịch tổng tấn
công Đông Xuân năm 1967-1968 của cộng sản Việt Nam. Chiến dịch được
chia làm ba giai đoạn chính như sau:
Giai đoạn 1 –
Bắt đầu từ tháng 12 năm 1967 vơi những cuộc “tấn công chọn lọc” nhắm
vào các căn cứ và yếu điểm quan trọng của QLVNCH và đồng minh bằng những
sư đoàn chính quy Bắc Việt. Các
trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh Bình Long, Dak To ở Kontum, và Cồn Tiên ở
tỉnh Quảng Trị, cả ba trận xảy ra trong các vùng đầy núi đồi Việt Nam
gần biên giơi Cam Bốt và Lào, đều là những trận đánh then chốt thuộc
Giai đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân.
Giai đoạn 2 –
Xảy ra trong tháng Giêng, tháng Hai, và tháng Ba năm 1968, nằm trong
“chiến thuật tổng tấn công”, với nhiều trận đánh dùng những đơn vị nhỏ
lưu động cùng tấn công một lúc tại nhiều nơi. Giai đoạn 2 bao gồm một
diện tích lớn và dùng chiến thuật du kích. Trong khi những cuộc tấn công
trong giai đoạn trước, VC dùng những sư đoàn chính quy BV. Trong giai
đoạn này, đa số các cuộc tấn công đều
dùng những nhóm du kích địa phương của Mật Trận Giải Phóng Miền Nam.
Cao điểm của giai đoạn 2 xảy ra khi 70,000 Việt Cộng tấn công vào 32
thành phố vào ngày Mồng Một Tết, năm 1968.
Giai đoạn 3 –
Diễn ra trong tháng Tư, tháng Năm, và tháng Sáu năm 1968, với toàn bộ
lực lượng gồm các sư đoàn chính quy BV và các lực lượng du kích MTGPMN,
tập trung vào một trận đánh lớn. Những tài liệu tịch thu được từ mặt
trận đã có nói về chiến thuật “đợt sóng thứ Hai” này. Có thể là Khe
Sanh, một căn cứ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nằm gần Vĩ Tuyến 17 (để
yễm trợ và cũng là căn cứ xuất quân của các toán Biệt Kích Nha Kỹ
Thuật). Hoặc có
thể là Cố Đô Huế. “Đợt sóng thứ Hai” đã không xảy ra vì các chiến dịch
trước đó (Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2) đã không đạt được kết quả mong
muốn. Tuy nhiên, từ khi thành phố Huế bị chiếm, và sau cuộc đánh để giải
tỏa căn cứ Khe Sanh mùa Hè 1968, cuộc chiến đã đi đến điểm cao độ kể từ
đó.
Về
phía đồng minh Hoa Kỳ, trong ba tháng này, trung bình khoảng 500 binh
sĩ tử thương hàng tuần, QLVNCH (ARVN) hơn gấp đôi con số này - gần 1,000
nhân mạng. Và bên Việt Cộng, con số tử thương lên đến tám lần của phía
Hoa Kỳ - trên 4,000 “sinh Bắc tử Nam”! Trong chiến dịch Đông Xuân, Việt
Cộng bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy và du kích, sau 9 tháng
tổng tấn công, cộng sản Bắc Việt đã mất đi 85,000 quân, tử thương hoặc bị tàn phế.
Chiến
dịch Đông Xuân được hoạch định và mở ra nhằm mục đích bẻ gãy sức mạnh
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và để đẩy lùi các bộ phận của chính phủ
VNCH, gồm các cơ quan hành chính, và đồng minh phải rút vào thành phố để
phòng thủ. Đúng ra, cuộc tấn công thành phố Huế thuộc vào Giai đoạn 1
của chiến dịch Đông Xuân hơn là Giai đoạn 2 vì Việt Cộng xữ dụng các sư
đoàn Bắc Việt, sư đoàn 5 324-B cộng vơi các trung đoàn chính quy và
thành phần du kích với khoảng 150 cán bộ cộng sản nằm vùng.
Tóm lượt lại, trận đánh ở Huế gồm có ba giai đoạn chính:
HUẾ: GIAI ĐOẠN MỘT
Phần
tấn công khởi đầu của sư đoàn chính quy BV với Trung Đoàn 800 và Trung
Đoàn 802, đủ hỏa và nhân lực để tràn ngập vào thành phố Huế. Đến sáng
ngày hôm sau, Việt Cộng đã chiếm được đa số các cơ sở trong thành phố
Huế, ngoại trừ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH và các căn cứ của
đồng minh. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tiếp viện thêm quân để
yễm trợ cho hai tuyến phòng thủ quan trọng trong thành phố Huế. Việt
cộng gia tăng thêm Trung Đoàn 804 để
cắt đứt đường yễm trợ này. Tuy nhiên QLVNCH tấn công quá mạnh nên đã
chọc thủng vòng đai bao vây của VC và sau đó, hai căn cứ quân sự của
QLVNCH và Hoa Kỳ đó không còn bị đe dọa trầm trọng nữa.
Kể
từ đó, chiến trường trở thành cuộc bao vây và phòng thủ giữa hai phía.
Việt Cộng tấn chiếm và cố thủ ở phía Tây Thành Nội Huế. QLVNCH và Đồng
Minh tái chiếm và phòng thủ ba hướng còn lại của Thành Nội và các làng
dọc theo sông Hương, với quyết tâm đánh đuổi VC ra khỏi Thành Nội bằng
pháo binh và dùng máy bay dội bom. Nhưng Thành Nội được xây rất kiên cố,
và trong những ngày kế tiếp, QLVNCH thấy rõ là VC đã nhận chỉ thị phải
tử thủ ở Thành Nội,
bất cứ với giá nào cũng không được triệt thoái. QLVNCH chỉ còn một cách
duy nhất là lấy lại thành phố bằng từng con đường, từng khu phố, một
cách chiến đấu rất khó khăn, gian khổ và hao tổn nhân mạng.
Qua
tuần thứ Ba của tháng Hai, vòng đai bao vây Thành Nội đã được củng cố,
và Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH cùng Đồng Minh bắt đầu xiết chặc lại và
khởi sự tái chiếm từng thước đất trong Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng
Hai, Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH giật lá cờ VC đã treo 24 ngày xuống và cờ
VNCH một lần nữa ngạo nghễ tung bay trên thành phố Huế. Trận tái chiếm
Cổ Thành tuy đã thành công, nhưng rải rác trong thành phố vẫn còn những
cuộc đụng độ nhỏ
giữa VC trên đường rút lui với QLVNCH truy đuổi.
KẺ HÀNH HƯƠNG QUA ÐẤY CHẠNH THƯƠNG
TÌM THÂY
Giữa
những hỗn loạn còn nghi ngút khói sau cuộc chiến, việc cấp cứu đầu tiên
cho đồng bào Huế là cứu đói, ngăn ngừa bệnh dịch, và trị liệu cấp thời
cho các nạn nhân. Tiếp đó là xây dựng lại những nhà thương, trường học,
nhà cửa bị hư hại vì súng và bom đạn. Sau đó mới đến việc kiểm điểm
những người bị mất tích hoặc đã thiệt mạng. Sau một tháng, vẫn chưa có
một thống
kê nào chính thức. Tuy nhiên, Tòa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên kiểm kê
được gần 1,900 người đang được điều trị trong các nhà thương và ước
lượng khoảng 5,800 người vẫn còn bị mất tích.
Nhóm mộ thứ nhất: những
nạn nhân của cộng sản được tìm thấy ở trong sân trường ở Gia Hội, ngày
26 tháng Hai. Tổng số xác chết của nạn nhân bị chôn ở trường học Gia Hội
tìm thấy lên đến 170 người.
Trong
những tháng kế tiếp, lần lượt từng mồ chôn được khám phá thêm, gồm có
18 ngôi mộ tập thể, nơi chôn nhiều nhất là chùa Quảng Tự (67 nạn nhân),
Bải Dâu (77),
Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), Thiên Hàm (khoảng 200), và Đông Gia
(khoảng 100). Tổng cộng trên 1,200 xác được tìm thấy từ những ngôi mồ
tập thể chôn gấp rút, đã không dấu kỹ.
Hơn
một nữa trong số những nạn nhân vẫn còn để lai những dấu hiệu của cái
chết thảm khốc: hai tay trói chặc sau lưng, khăn nhét đầy vào cuống
họng, nằm cong queo với không thương tích trên người. Đó là dấu hiệu họ
đã bị chôn sống. 600 nạn nhân còn lại có những vết thương, nhưng nhà
giảo nghiệm không thể nói được là họ đã bị xữ bắn hay bị chết vì lạc
đạn.
Những ngôi mộ
tập thể thuộc nhóm thứ nhì được tìm thấy trong bảy tháng đầu tiên
của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Gò Cát – Sand Dune), Lệ Xá Tây, quận Hương
Thủy – huyện Xuân Hòa, Vân Đường vào cuối tháng Ba và tháng Tư. Nhiều
ngôi mộ khác cũng đã được tìm thấy tại làng Vĩnh Lộc trong tháng Năm và ở
quận Nam Hòa trong tháng bảy. Những ngôi mộ lớn nhất tìm thấy trong đợt
hai nằm ở Gò Cát tại ba địa điểm Vĩnh Lưu, Lê Xã Đông và Xuân Lộ, nằm
giấu trong những gò cát nhấp nhô với cỏ mọc cao gần bãi biển. Ngăn chia
bởi những cồn muối, xa với làng xóm, những gò cát này là địa điểm lý
tưởng để chôn dấu. Trên 800 xác đã được tìm thấy ở đây.
(ghi chú thêm của Ngô Xuân Hùng: trong số những nạn nhân này có hai vị Linh Mục – Cha Bữu Đồng và Cha Micael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng Lasan).
Ở
Gò Cát, tất cả các nạn nhân đều bị trói gô lại thành từng nhóm khoảng
10 đến 20 người, xếp hàng đứng trước các rãnh mới được đào bởi chính các
nạn nhân, và bị xữ bắn bằng súng đại liên. Một trong những di vật quý
của dân làng gò cát Phú Thứ là vỏ đạn đại liên của Nga Sô tìm thấy được
trong những ngôi mộ này. Thường thì những nạn nhân ở đây bị chôn chung
một mộ, chôn đến ba hay bốn lớp, nên nhận diện các nạn
nhân rất khó khăn.
Nhóm mộ thứ ba tìm
thấy ở suối Đá Mài (Da Mai Creek find), cũng được gọi là Phủ Cam tử lộ,
tìm ra ngày 19 tháng 9, năm 1969. Ba VC hồi chánh viên đã báo cho toán
quân báo của Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù rằng, họ đã chứng kiến cuộc thảm sát
của vài trăm nạn nhân tại Đá Mài vào tháng Hai năm 1968, cách Huế khoảng
mười dặm. Vùng suối Đá Mài rất hoang dã, không người ở, và gần như
không có lối ra vào bằng đường bộ.
Sau khi gom lại những bằng chứng, các giảm nghiệm viên đã phân tách diễn biến xảy ra tại Đá Mài như sau:
Ngày
Mồng Năm Tết ở làng Phủ Cam, nơi gần ba phần tư của 40 ngàn người Công
Giáo Huế cư ngụ, một số rất đông ngươi đã tránh nạn trong Thánh Đường
Phủ Cam, một cách tránh nạn rất thông thường ở Việt Nam. Trong số này,
cũng có một số người không phải là Công Giáo. Một cán bộ chính trị cộng
sản đến nhà thờ và đã ra lệnh cho 400 người, bằng cách gọi tên hoặc nhận
diện qua cách ăn mặc (giàu có hoặc nhìn như thương gia). Tên cán bộ nói
họ sẽ được đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày mà thôi để được cải
tạo, sau đó họ sẽ được thả về.
Những
người này đi bộ chín cây
số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi cộng sản đã dựng sẵn một bộ chỉ
huy hành quân. Hai mươi người bị kêu ra khỏi nhóm, đứng sắp hàng một,
lần lượt bị truy tố vì những tội đã hợp tác với chính phủ VNCH, sau đó
bị bắn rồi bị chôn trong sân chùa. Những người còn lại bị buộc phải lội
băng qua phía bên kia sông, và được giao lại cho một đại đội du kích,
với biên bản và danh sách của những người bị bắt. Có thể là tên cán bộ
chính trị có ý là những người bị bắt này sẽ “được” cải tạo rồi sẽ thả
cho họ về, nhưng sau khi bàn giao, số phần của những nạn nhân này đã ra
khỏi tầm tay của tên cán bộ chính trị.
Những
ngày kế
tiếp, bao nhiêu ngày không ai biết, những người bị bắt và người quản
thúc họ đi lang thang lẩn trốn cuộc truy lùng của QLVNCH qua những làng
nhỏ. Cuối cùng, cán bộ du kích cao cấp quyết định thủ tiêu nhân chứng:
Họ bị dắt đi sáu cây số qua những đường núi khó đi và hẻo lánh nhất, đến
suối Đá Mài. Tất cả đều bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ, xác họ để nằm phơi
trên suối nước. Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù QLVNCH ghi nhận rằng nơi hành
quyết không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi
lọt được, chỉ vào được bằng đường bộ. Cây cối nơi này mọc rất cao, lá
dầy và mọc theo lối “hai tầng”, tầng một gồm những bụi tre và cây thấp
gần đất, tầng hai gồm những cây cổ thụ mọc rất cao, những nhánh lớn xoè
ra
như lọng dù che khuất đi những gì ở dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh
sánh mặt trời không chiếu sáng được. Công binh QLVNCH đã bỏ hai ngày để
dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ và tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho
máy bay trực thăng đáp xuống để đem các di hài nạn nhân về Huế. Suối Đá
Mài thật đúng là nơi để hạ sát mà không cần phải chôn giấu xác nạn nhân.
Ở
suối Đá Mài, cách bờ khoảng một trăm thước, người ta tìm thấy hàng trăm
chiếc sọ người, hàng trăm mẫu xương vụn nằm chung lại một chổ. Những
xác này đã không được chôn, nằm lộ liễu (theo truyền thuyết VN, người
chết nếu không được chôn, hồn họ phải lang thang mãi và sẽ không
được đầu thai qua kiếp khác). Và sau hai mươi tháng, dòng suối đã rửa
sạch trắng những bộ xương này.
Nhà
chức trách VNCH sau đó đã phổ biến danh sách nạn nhân bị cộng sản giết
tại suối Đá Mài, 428 người đã được xác nhận. Việt cộng đã dùng lý do
tiêu diệt các phần tử phản cách mạng. 428 nạn nhân được phân ra như sau:
25 phần trăm là quân đội VCNH – hai sĩ quan, một số hạ sĩ quan và binh
sĩ, 25 phần trăm là học sinh và sinh viên, 50 phần trăm là công chức và
viên chức quận hạt và thường dân.
Nhóm mồ tập thể thứ tư –
Phú Thứ gần biễn muối, tìm ra
vào tháng mười một năm 1969, gần làng đánh cá Lương Viện, mười lăm cây
số về phía Đông của thành phố Huế, một nơi cũng hoang dã như suối Đá
Mài. Quân đội VNCH trong tháng đó đã có chiến dịch truy lùng những cán
bộ cộng sản nằm vùng. Làng Lương Viện, dân số 700, sống gần với quân đội
VNCH gần hai mươi tháng trời, đã có đủ can đảm để nói lên sự thật mà họ
đã giữ kín trước đó, rồi sau đó, đã dẫn QLVNCH đến những ngôi mộ chôn
tập thể. Dựa trên những lơi tường thuật của dân làng Lương Viện, nhà
chức trách đã ước lượng số nạn nhân tại Phú Thứ từ 300 cho đến khoảng
1,000 người.
Tuy nhiên, việc kiểm kê tổng số nạn nhân vẫn chưa
được đầy đủ. Nếu tổng kê của chức trách địa phương Huế gần đúng, trên 2,000 người vẫn còn mất tích.
Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng
tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau:
tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau:
Bị thương và tàn tật vì bom đạn: Thường dân bị chết vì bom đạn: Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến: Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969: Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969: Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969: Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế: Số người vẫn còn mất tích: Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: | 1,900 844 1,173 809 428 300 200 1,946 7,600 |
Chú thích của tác giả - tài liệu trên đây lấy từ:
[1] SEATO: South East Asia Organization.
[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000.
[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.
CỘNG SẢN CHẠY TỘI
Những
cuộc thảm sát ở Huế đã vượt quá những việc tàn ác CSVN đã ra tay trước
đó ở miền Nam Việt Nam. Điều khác biệt là ở số nạn nhân lần này, chứ
không phải ở mức độ tàn ác của việc họ làm. Đặc điểm của những vụ tàn
sát ở Huế, sau khi chúng ta nghiên cứu những tài liệu tìm thấy, cho ta
nhìn rõ được mức độ tàn ác của CSVN tại Huế, đã vượt xa những việc tàn
ác ở những nơi khác
trên miền Nam Việt Nam, cho dù có thường xuyên hoặc tàn bạo đến mức nào
đi nữa.
Vụ
thảm sát ở Huế không phải là một việc làm để nâng cao tinh thần tranh
đấu – cách đánh cấp tốc vào thẳng yếu điểm của phía bên kia để chứng
minh sức mạnh của phe mình, mà lại khác hơn ở chổ xuống tay sát hại dân
lành trong vùng do du kích của CSVN kiểm soát. Không phải một chiến dịch
đe dọa để quảng bá lý thuyết cộng sản. Không nhắm vào mục đích lay
chuyển lý tưởng của phe đối nghịch, vì đa số những nạn nhân đều bị giết
một cách âm thầm. Và cũng không phải để thủ tiêu những phần tử đối
nghịch theo danh sách đã được soạn trước. Huế đã là ngoại lệ
so với những chiến dịch của cộng sản nhằm lay chuyển hoặc đánh dò đường
phản ứng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu nghiên cứu cẩn thận hơn,
đây đó cũng có vài lý do, dữ kiện để giải thích một góc cạnh nào đó,
nhưng tất cả vẫn không đủ để giải thích được những hình thức giết hại và
sự lan rộng của những cuộc thảm sát ở Huế.
Điều
mà tác giả muốn nói ở đây là một giả thuyết, để giải thích những vấn đề
liên quan đến những vụ thảm sát ở Huế, dưới hình thức sát nhân rất đơn
giản và không có sự chọn lựa. Trước khi vào vấn đề, chúng ta nên để ý
đến “ba sự thật” quan trọng. Có hai điều chính yếu mà khách du lịch
nào đến Huế để tìm sự thật về thảm sát Tết Mậu Thân cũng đều tự hỏi:
cái gì đã xảy ra? Và quan trọng hơn nữa là tại sao nó đã xảy ra? Cả hai
câu hỏi này rất khó nhận thấy qua sự suy đoán đơn giản và thường đi
ngược lại những lý luận của con người. Sau khi đã nói chuyện, thẩm vấn
một số đông những cựu tỉnh trưởng, quận trưởng, cảnh sát địa phương lúc
bấy giờ, cũng như những người đồng minh Hoa Kỳ có tham dự trận đánh tái
chiếm Cổ Thành Nội, những nhân chứng, tù nhân đã được thả, những người
cộng sản đã hồi chánh, và một số ít người quá may mắn, tuy đã bị bắt
nhưng đã thoát chết, “ba sự thật” quan trọng này vẫn trổi lên trên hết:
SỰ THẬT THỨ NHẤT: Và có thể sự thật quan trọng nhất, là tuy không thấy rõ bên ngoài, nhưng hầu như tất cả những vụ hành quyết đều xảy ra không phải vì lý do nóng nảy, bực tức, hay khủng hoảng khi cộng sản phải cuối cùng rút lui ra khỏi Huế. Nhiều lần, những lý do vừa đề cập đến đã được nêu lên, nhưng những lý do nầy quá yếu đi, không đủ để biện minh cho sự việc. Trái lại, nếu chúng ta xét lại từ đầu những vụ hành quyết đầu tiên khi Việt Cộng vừa chiếm được thành phố Huế, mình sẽ thấy rằng: gần như tất cả những vụ hành quyết này đều là kết quả của một quyết định và sự toan tính của đảng cộng sản Việt Nam. Nói đúng hơn nữa là những vụ hành quyết này rất cần thiết cho đảng cộng sản Việt Nam. SỰ THẬT THỨ NHÌ: Sau
khi kiểm chứng với những dữ kiện đầy đủ, hầu như tất cả các vụ hành
quyết đều do bàn tay của những đảng viên cộng sản nằm vùng, không phải ở
quân chích quy Bắc Việt hoặc QLVNCH. Trên 12,000 binh sĩ QLVNCH đã
chiến đấu để tái chiếm thành phố Huế, và có thể đã gây thiệt mạng một số
thường dân vì lạc đạn. Đa số 150 tên cán bộ chính trị nằm vùng hoạt
động ở tỉnh Thừa Thiên, những người này chính là thủ phạm đã ra lệnh thủ
tiêu các nạn nhân ở Huế. Cho dù họ đã làm theo chỉ thị của bộ chỉ huy
(và ban lãnh đạo
trung ương CSVN), và nếu như thế thì những chỉ thị đó đã có lệnh như
thế nào? Cho đến nay vẫn không ai biết rõ chi tiết. SỰ THẬT THỨ BA: Ngoài
việc hành quyết những “cường hào ác bá”, cộng sản đã giết hại những nạn
nhân còn lại một cách bí mật và đã không thèm dấu diếm tội ác của họ.
Người ta bây giờ thường nghĩ đến Huế như một pháp trường để hành quyết
tội nhân, với những mồ chôn tập thể lớn. Nhưng trong những ngày đầu tiên
Huế bị chiếm đóng, chỉ có một số ít hành quyết được bộ đội và cộng sản
nằm vùng loan báo để đồng bào đến xem. Những mồ chôn trong thành phố Huế
tương đối dễ tìm thấy, vì để
chôn người nơi đông đảo rất khó dấu được những soi bói tò mò của người
xung quanh. Tất cả những mộ tập thể còn lại đều được dấu kỹ, đa số ở
vùng rừng núi hoang dã, không người qua lại, chắc đây là lý do chính
khiến cho những nơi này đã được chọn lựa. |
Một
thân xác chôn vùi trong đồi cát rất khó tìm, cũng như đi tìm một vỏ sò
chôn sâu trong cát trên bờ biễn với sóng biễn xoá đi những dấu tích trên
chổ chôn. Suối Đá Mài là một trong những nơi hẻo lánh nhất của Huế, và
chắc hẳn đã làm cho cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó để
giết. Khi đến những nơi này, người
quan sát sẽ nhận thấy rất rõ chủ ý của Việt cộng đã có nỗ lực che đậy
tội ác của họ. Giả thuyết mà tôi (tác giả DOUGLAS PIKE) nêu lên ở đây là
dự định của cộng sản VN khi đang chiếm giữ thành phố Huế, và những vụ
hành quyết họ đã thi hành. Từ những chứng tích để lại, chúng ta có thể
thấy được rằng, họ đã không nghĩ đến tương lai của họ ở thành phố Huế,
mà chỉ thi hành những mệnh lệnh của cấp trên theo nhu cầu cần thiết, và
với tình hình thay đổi lúc bấy giờ.
Một
điều quan trọng khác nữa là đã không có một dấu hiệu nào để lại, đủ để
chứng minh rằng, một lệnh hành quyết chính thức được phát ra từ Việt
cộng; Thay vào đó,
những quyết định giết để bịt miệng nhân chứng thường xảy ra theo diễn
tiến của cuộc chiến. Sự liên hệ giữa hai điều vừa nêu ra rất rõ và được
chia ra vào ba phần. Giả thuyết ở đây là Việt cộng đã phải thay đổi
chiến thuật trong suốt 26 ngày tấn chiếm Huế, và cũng từ đó mà “lệnh
hành quyết” cũng thay đổi để thích ứng với nhu cầu và chiến lược. Kết
luận này tôi đã có sau khi sưu tầm những tài liệu của đảng cộng sản Việt
Nam, phỏng vấn người tù số 1 và hồi chánh, tường thuật của những nhân
chứng còn sống sót, những tài liệu tịch thu được bởi QLVNCH trên chiến
trường, và những đường lối nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam lúc bấy
giờ.
Chiến
lược của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Communist Party of South Vietnam
- PRP) cho Phần 1 chiến dịch Đông Xuân đã được nói ra rất rõ trong quân
lệnh phát hành trong đêm ba mươi trước ngày tổng tấn công: “…phải nhất
quyết phối hợp các thành phần VC trong thành phố sau khi chiếm được
thành phố. Cấp tố trang bị vũ khí cho các cán bộ chính trị cũng như dân
sự, thành lập ủy ban quản trị từ tỉnh xuống đến quận hạt, phường khóm,
thành lập các toán dân sự chiến đấu và các cơ cấu để yễm trợ quân đội
khi chiến đấu, dùng dân để thành lập tuyến phòng không, và nâng cao tinh
thần đấu tranh của mọi giới cấp để phòng thủ khi ngụy quân phản
công...”
Đây
là những dự tính và đã xảy ra như vậy lúc ban đầu. Tuy nhiên, những
ngày sau đó, những biến chuyển tình thế đã được thuật lại với chi tiết
khác nhau. Đài Hà Nội, ngày mồng bốn tháng Hai đã nói: “Sau một giờ tấn
công, Quân Đội Nhân Dân đã chiếm được biệt thự của Tỉnh Trưởng Thừa
Thiên, nhà tù và tất cả các văn phòng cơ cấu của chánh phủ ngụy … Quân
Đội Nhân Dân đã trừng trị đích đáng những tên tay sai ác độc của quân
ngụy và kiểm soát chặt chẽ các đường phố, bắt giữ những tên phản động,
phản cách mạng, và đánh xập đổ chánh phủ ngụy hà hiếp nhân dân …”
Trong
thời gian ngắn ngủi chiếm đóng thành phố
Huế, những cán bộ chính trị cộng sản, tháp tùng bởi các toán hành
quyết, đi bắt và giết sạch các yếu nhân của tỉnh Thừa Thiên để chánh phủ
VNCH sẽ bị yếu đi sau khi Việt Cộng rút lui ra khỏi thành phố. Đây là
giai đoạn “hành quyết theo sổ đen”. Tòa án nhân dân được dựng lên, buộc
tội, và hành quyết một cách chớp nhoáng. Những tên cán bộ xuất hiện, tay
cầm danh sách và địa chỉ của các nạn nhân, ra tay thủ tiêu các thành
phần mà chúng gọi là “phản cách mạng”.
Những
phiên tòa này thường được diễn ra ở những nơi công cộng, hoặc trong
vườn rộng dùng làm bộ chỉ huy dã chiến của việt cộng. Phiên xử thường
chỉ cần 10 phút để VC tuyên
truyền, đọc cáo trạng, và buộc tội. Không có một bị can nào được trắng
án. Hình phạt luôn luôn là “tử hình”, và thường các bị can đã bị xử bắn
ngay tại chổ. Xác của họ được chôn gấp rút, hay trả lại cho gia đình nếu
xin. Những người bị bắt xữ theo lối này, nhiếu nhất là các công an,
cảnh sát của thành phố, nhất là các ban an ninh, mật vụ, quân nhân và
binh sĩ, và những người không phải là cảnh sát hay quân đội, nhưng là
những vị lãnh đạo của các đảng phái, cộng đồng, giáo sư và các tôn giáo.
Ngoài
sự tấn công ác độc nhắm vào thành phần “trí thức” ở Huế, Phần 1 của
chiến dịch Đông Xuân đi theo đúng phương thức hoạt động của
đảng cộng sản Việt Nam. Hủy diệt thành phần trí thức đã liên tục xảy ra
trong các làng xã trong suốt 10 năm trước đó. Sổ đen và địa điểm hoạt
động đã được chọn lựa kỹ càng trước, Việt cộng chỉ chờ cơ hội để thi
hành những dự tính này mà thôi.
Tuy
nhiên, không phải mọi người trong “sổ đen” ở Huế đã bị sát hại. Rất
nhiếu người trong sổ đen đã chạy trốn vào vùng thôn dã và đã thoát chết.
Suốt cuộc chiến 24 ngày liền, trong những ngày đầu, cán bộ cộng sản rất
bận rộn truy lùng tìm bắt tất cả mọi người trong sổ đen, nhưng sau đó,
họ đã chuyển mọi nỗ lực vào các công tác mới khi đã không bắt được hết
tất cả.
HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI
Trong
những ngày đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân ở Huế đã thành công khá dễ
dàng (nhưng ở miền Nam thì lại khác, Ủy Ban Đảng Cộng Sản Trung Ương đã
nhận những bản báo cáo về kết quả không được mỹ mãn cho lắm từ vùng đồng
bằng sông Cửu Long) nên trong say mê chiến thắng, Việt Cộng tưởng họ có
thể giử được thành phố Huế lâu dài. Có thể, các đảng viên cao cấp đã
không dám nghĩ đến quyết định tử thủ dài hạn ở Huế, nhưng đối với cấp
cán bộ tại làng xã thì họ đã vững tin như thế. Một thông tin mật của
cộng sản bị VNCH bắt nghe được trong ngày
Mồng Hai tháng Hai, kêu gọi các cán bộ ở mọi hạ tầng cơ sở phải quyết
tâm tử thủ Huế, đã tuyên bố như sau: “Một giai đoạn mới trong lịch sử,
một cuộc cách mạng đã bắt đầu (vì chiến thắng ở Huế) và chúng ta chỉ cần
đánh nhanh đánh mạnh (ở Huế) để kết thúc cuộc giải phóng trong thắng
lợi vinh quang.”
Tờ
báo chính thức của đảng cộng sản, Nhân Dân, cũng đã tuyên bố như thế:
“Như một tia sét, đảng và nhân dân đã tổng tấn công đế quốc Mỹ và các
tay sai đế quốc Mỹ … Guồng máy Ngụy đã bị tiêu hủy. Những bộ phận cơ cấu
của Mỹ-Ngụy đã bị cách mạng đánh tan rã. Chính phủ Thiệu-Kỳ sẽ hoàn
toàn sụp đổ. Quân tay sai đế quốc Mỹ
đã trở thành yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi các
chiến sĩ cách mạng.”
Đương
nhiên, những tin tức này luôn luôn để tuyên truyền và mê hoặc quần
chúng, thường các tin tức loan tải bởi cơ quan truyền thông của đảng
cộng sản là như thế. Muốn biết được những điều này là sự thật hay chỉ là
ước nguyện của đảng cộng sản thì thật rất khó phân biệt. Nhưng từ những
cuộc phỏng vấn các tù binh và hồi chánh viên, cũng như bắt được làn
sóng để nghe lén những mật tin của cộng sản, các cán bộ cao cấp cũng như
lính cộng sản đều đã tin rằng, họ sẽ chiếm giử thành phố Huế mãi mãi,
và họ đã cố gắng làm như vậy.
Giữa
những việc họ làm là tiếp tục thanh trừng những phần tử phản động còn
lại và bắt đầu xây dựng lại hạ tầng cơ sở mới cho đảng và do đảng. Chỉ
thị mới được ban hành, từ ủy ban chính trị trong thành phố, cho các cán
bộ Việt cộng đi truy lùng và bắt những phần tử “chống cách mạng”, có
nghĩa là, bất cứ những cá nhân hoặc tổ chức nào có khả năng và nhân lực
để đi ngược lại đường lối của đảng trong tương lai. Chỉ thị này rất mơ
hồ, và đã không dựa lên phương pháp “sổ đen” nữa, mà ủy thác toàn
quyền quyết định đến người thi hành chỉ thị. Lần này, mục tiêu không
còn là vài nhóm người nữa, mà là “tổ chức hoặc giai cấp
trong xã hội.”
Như
đã thấy trước đây ở ngoài Bắc Việt hoặc ở Trung Cộng, đảng cộng sản lúc
nào cũng san bằng những giai cấp trong xã hội, tiêu diệt những người
trí thức, lãnh tụ các đảng phái chính trị, các vị lãnh đạo tinh thần của
các tôn giáo (các cao tăng Phật Giáo, các Linh Mục Công Giáo), các đảng
phái, các tổ chức xã hội (đàn bà, tuổi trẻ, hướng đạo), ngay cả những
sinh viên thân cộng trước đây nhưng vì gia đình khá giả thuộc loại tư
bản.
Cũng như thế, đôi khi cả gia đình đều bị sát hại dưới bàn tay cộng sản. Trong một trường hợp khá nổi
tiếng do nhiều nhân chứng thuật lại như sau:
Một toán cán bộ ám sát đã xông vào một căn nhà của một người có địa vị trong thành phố Huế, bắn ông ta, vợ ông ta, con trai và con dâu, con gái còn nhỏ, hai người đầy tớ và đứa bé con của họ! Ngay cả con mèo cũng bị bóp cổ cho chết, con chó thì bị đập vỡ sọ, những con cá vàng trong chậu cũng bị đổ ra sàn nhà dãy dụa chết. Sau khi những tên cán bộ bỏ đi, trong nhà không còn một ai sống sót. Một “cơ cấu xấu của xã hội” đã bị tiêu diệt!!!
Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức, giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam. Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến CSVN. Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỹ 1920, 1930. Huế không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi sâu với nhân tánh như đạo Phật.
Vì
thế nên những người cộng sản gốc Huế, khi đã thấm nhuần và mù quáng bởi
chủ nghĩa cộng sản, đã trở thành những kẻ vô tri, vô hồn khi bị hất hủi
bởi những giới trí thức khác hay
tôn giáo ở Huế. Hoặc tệ hơn nữa, thay vì bị hất hủi, họ đã bị loại hẳn
ra khỏi giới trí thức Huế. Vì thế, với sự trung thành và tin tưởng tuyệt
đối vào chủ thuyết cộng sản, họ đã tìm cách trả thù và san bằng những
sự khác biệt này. Những người trí thức còn sống sót đã phải trả một giá
rất đắt cho bài học này, từ đó họ đã chú ý đến và e sợ cộng sản hơn, nếu
không là một chủ thuyết chính đáng, ít nhất cũng phải là một nhóm cuồng
tín vô thần rất nguy hiểm!
Trong
giai đoạn 2, có lẽ khoảng 2,000 người đã bị cộng sản giết hại. Nhưng đó
vẫn chưa phải là giai đoạn sát hại khủng khiếp nhất.
HUẾ: GIAI ĐOẠN BA
Cuối
cùng rồi, cũng như Trung Ương Cộng Sản ở Hà Nội đã biết trước (vì đã
hiểu rõ thế và sức mạnh của QLVNCH và đồng minh), con cờ đã xoay chuyển
trong cuộc chiến ở Huế. Một bản mật tin truyền đi từ Thành Nội (bị
QLVNCH nghe được) bởi đám tàn quân Việt Cộng ngày 22 tháng Hai, xin ban
tham mưu hành quân cho phép được rút quân. Bản trả lời như sau từ bộ
chỉ huy: không cho phép rút quân, ngày hôm sau, 23 tháng Hai, phải tấn
công nữa. Trận tấn công ngày 23 đã xảy ra, nhưng rất yếu ớt, không gây
thiệt hại gì cho bên VNCH và đồng minh. Vào ngày 24 tháng Hai, Thành Nội
được giải tỏa khi VC bị
đánh bại.
Từ
tuần trước đó, Cộng Sản Việt Nam đã thấy rõ sự thất bại sẽ phải đến.
Khi đó, giai đoạn 3 mới bắt đầu: giai đoạn thủ tiêu nhân chứng và tang
chứng. Có thể trong suốt giai đoạn 2, hầu hết tất cả những việt cộng nằm
vùng ở Huế đã bị lộ mặt nạ. Ngay cả những cán bộ nằm vùng trước đó, dù
đã không bao giờ bị nghi ngờ là VC, nay cũng đã ra mặt (vì tin tưởng
rằng Huế đã và sẽ mãi mãi thuộc vào tay cộng sản). Chuyện thường tình
như một dân Huế kể lại sự ngạc nhiên của ông khi biết được người hàng
xóm bên nhà là một cán bộ nằm vùng cao cấp trong hàng ngũ MTGPMN (hắn là
một cán bộ cao cấp trong thành phố Huế): “Tôi biết
ông ta 18 năm nay, mà không bao giờ nghĩ đến ông ta có thể hoạt động
chính trị như vậy.” Những người cán bộ này nằm vùng rất lâu, và chỉ lộ
diện mỗi khi không có ai hay biết để giữ kín tông tích của mình.
Vì thế, giai đoạn 3 khởi đầu để “bịt miệng nhân chứng”.
Có thể giai đoạn này, số nạn nhân lên cao nhất ở Huế, cũng vì lý do
này. Những người trước đó bị bắt đi học tập với ý định ban đầu là sẽ thả
họ về. Nhưng vì là dân làng, cũng như những tên cán bộ nằm vùng đã bắt
họ; tên tuổi và mặt mũi của những cán bộ này giờ đã lộ. Vì thế, họ đã
phải chết, không phải vì là một con nợ hay gánh nặng, nhưng vì họ sẽ trở
thành những người tố cáo những tên nằm vùng. Ví dụ rõ ràng nhất là nhóm
người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 em học sinh
trung học bị chôn ở Phú Thứ trong các gò muối biễn.
Việc
tìm những tài liệu lịch sử để đi đến một kết luận cho lý do tại sao,
dựa trên một vài giả thuyết, đương nhiên sẽ có chỗ đúng chỗ sai, và chỉ
vẽ lại một hình ảnh khá sơ sài cho độc giả. Sự việc xảy ra ở đời thường
không đơn giản như bài viết. Ví dụ như, cho dù trong suốt thời gian
những vụ hành quyết dựa vào “sổ đen” đang xảy ra, đương nhiên cũng có
những chuyện trả thù theo “đường lối công bằng của cách mạng”. Và chắc
chắn
cũng có những vụ trả thù riêng tư giữa những cán bộ với người họ ghét
bỏ!
Quan điểm chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thảm sát ở Huế được nói rõ ra trong một cuốn sách nhỏ phát hành ở Hà Nội:
“Liên
kết và phối hợp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nhân dân, những
toán nhân dân võ trang và cán bộ võ trang thành phố Huế đã bắt giữ và
kêu gọi những tay sai đế quốc, sĩ quan VNCH và binh lính của quân ngụy
ra đầu hàng. Những tên ngoan cố đã được trừng trị đích đáng.”
Ở
Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không
phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán
bộ ở Huế bất mãn với chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng
Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội đã chê trách việc chính phủ VNCH cố
tìm xác của các nạn nhân, đài đã phát thanh rằng những người bị giết hại
chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay vào máu của nhân dân yêu nước ở
Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giết hại vào tháng Ba tháng
Tư.”. Những lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do
khác là “thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các
đảng phái ở Huế mà thôi.”
Ngô Xuân Hùng
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm 2002.
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm 2002.
(Thứ nam của Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh,
Phó Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật,
Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Phó Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật,
Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Xin ghi nhận và chân thành cảm tạ cố Giáo Sư Douglas Eugene Pike, trường Ðại Học Texas Tech, Texas,
U.S.A..