Thân Hữu Tiếp Tay...
Thầy Củ Trường Xưa- NH. ZENO
«
. . . Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, Mẹ tôi
âu yếm nắm lấy tay tôi, dẩn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường
này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ.
Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay
đổi lớn: hôm nay tôi đi học... (THANH TỊNH)
Đã trên 60 năm mà bài chánh tả đầu tiên học với thầy Lương văn Minh ở lớp Đệ Thất trường Nguyễn Trãi còn in sâu trong trí nhớ. Bao nhiêu bạn bè cùng trang lứa thuở đó chắc cũng như vậy Làm sao mà quên được! Qua biết bao nhiêu thăng trầm, anh em gặp lại nhau trên xứ Pháp khi nhắc lại bài này, vẫn còn thuộc lòng.
Giống như câu chuyện Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư của ông Sơn Nam, kể lại cuộc gặp gở giửa thầy phóng viên trên Sè gòn xuống tận Chắc Cà Đao kiếm anh chàng đặt mua báo năm. Báo gởi đều đặn hàng tuần mà không biết làm sao ban biên tập vẫn chưa nhận được tiển. Đêm về, muổi kêu như sáo thổi, cã hai phải buông mùng chun vô ngồi bên trong. Dần dà chuyện nọ dẩn chuyện kia qua tới chuyện hồi xưa, thuở cã hai còn đi học. Họ nhắc lại mấy bài trong quyển Quốc văn giáo khoa thư... Người này đọc một câu, người kia tiếp câu kế, đúng chử, đúng nhịp. Rồi cã hai mơ màng thã hồn tìm về những kỷ niệm thời thơ ấu. Thiệt đã hết sức!
Tui viết chánh tã, ba cái vụ dấu hỏi ngã, tui chịu thua. Nhờ bài chánh
tã này, tui học được hai chử chắc chắn bỏ dấu ngã là Những và Cũng. Tới
bây giờ tui vẫn còn dở ẹt mặc dù cũng có ráng học thêm mấy bài của Sư
phụ Cao chính Cương. Tui dặn thằng tui: nhớ nghe! Bộ ba đi chung với
nhau, Không, Sắc, Hỏi; Huyền, Ngã Nặng. Họ tên thì họ phải viết dấu
ngã,Nguyễn Đỗ, Vũ, Võ chẳng hạn. Còn chử gốc Hán Việt khởi đầu bằng M,
L, N, D, V ( Mình Là Người Dân Việt) thì nhắm mắt cứ bỏ dấu ngã. Vậy mà
Tui vẫn còn chưa quen bỏ dấu tự động . . . trúng liền! Khổ hết sức, mong
bạn bè thông cãm.
Giống như trong chuyện vui Don Camillo của Giovanni Guareshi vậy mà:
Xã trường Peppone là đãng viên Cộng Sản Ý và Cha sở Don Camillo vốn là
bạn học cùng lớp với nhau thời Tiểu học. Peppone lên tới lớp nhứt rồi bỏ
học đi làm cách mạng. Một hôm, Peppone viết thông cáo đem dán ngoài nhà
làng. Có ba câu mà tới bốn lỗi chánh tã. Cha sở Don Camillo lén lén lấy
viết mực đỏ khoanh mấy lỗi đó rồi lại còn thêm vô hai chử « Con Lừa »
làm dân chúng chế nhạo Peppone quá trời.
Sau đó, Cha sở bị Chúa Jesus quở một trận « Bộ nghĩ rằng ngươi may mắn
được học lên cao, biết thêm năm ba chử la tinh rồi có quyền chê khen
người ta vậy à? Quan trọng là ở Nội dung, Ngươi đừng có thấy mấy chi
tiết vụn vặt đó rồi quên cái Ý chánh, cái Tâm của người ta »
Ôi chao, nghe đã hết sức, lời Chúa dạy sao hợp ý con quá đi, Lạy Chúa tôi, con xin tạ ơn Chúa.Amen!
Nói sao thì nói, nếu quí vị có dịp đọc trọn bộ 6 cuốn Don Camillo, do gom lại từng chuyện ngắn, tui chắc quí vị cũng sẽ như tui, thương anh chàng Peppone này lắm. Dù ít học tánh tình cục mịch nhưng chất phác thiêt thà, không điếm đàng, mánh mung, trước sau như một chỉ biết có đãng CS là trên hết và yêu đãng hơn . . . mạng sống của mình. Một chuyện khác xãy ra vào trưa hè khoản đầu thập niên 50, chưa có Computer. Peppone đang ngồi đánh máy lọc cọc kiểu gà mổ, mồ hôi ướt hết áo thì thư ký trên phòng Bí Thư Tỉnh đạp xe xuống kiếm : « Ông Chủ tịch Tỉnh hỏi Xếp viết bản báo cáo thành tích của Xã xong chưa, kêu tui xuống lấy mang về gắp. Trể cã tuần nay rồi »
Đang cực khổ, đấu tranh giai cấp với cái máy đánh chử Olivetti, Peppone đổ cọc cự lại : « Ê, bộ mầy tưởng chắc đánh máy dể lắm à ? Nói cho mầy biết nha, đánh máy còn khó hơn . . . làm cách mạng nửa đó! Tao khẩn trương suốt cã tuần nay, tranh thủ, khắc phục từng chử một, bây giờ mới xong nè. Chờ tao ký tên rồi mang về trên Tỉnh một bản» Nói xong, Peppone rút bản đánh máy ra, định ký tên thì bổng bỏ xuống bàn, lấy tay vổ trán chửi thề : « Thôi chết mẹ rồi! Tao nhè để ngược mấy tấm carbone !»
Đối với riêng tui, viết tiếng việt coi vậy không phải dể. Tui viết cho vui, vừa viết vừa học thêm cách ẹo qua ẹo lại kẻo thiên hạ chê là Tiếng Tây chưa biết mà tiếng Việt đã quên. Chuyện vui về bảng quảng cáo của gian hàng bán cá là một thí dụ tiếu lâm về viết tiếng việt:
Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI
Người đi qua, kẻ đi lại bàn ra tán vào: Cá đương nhiên phải tươi mới có người mua, Viết dư chử! Ông bèn bỏ chử Tươi còn « Ở Đây Có Bán Cá »
Thiên hạ lại chê dư hai chử Ở Đây ! Hổng lẻ bán ở chổ khác à! Ờ há, thấy có lý ông bèn bỏ bớt hai chử Ở Đây. Câu quảng cáo còn ba chử « Có Bán Cá »
Chưa yên, người khác lại nói, có cá mới bán chứ hổng có thì lấy gì mà bán. Ông thấy đúng, bỏ luôn hai chử còn lại có một chử «Cá» thôi.
Khách
hàng đến mua cá nói với ông: Ghi chử «Cá» làm gì? Không lẻ họ tới đây
đòi mua thịt à! Từ ngoài đầu chợ đã nghe mùi, biết ở đây bán cá rồi!
Rốt cuộc, ông bỏ luôn bãng quảng cáo bán cá mà vẫn bán đắt như . . .
tôm tươi vì khách hàng đã hiểu ngầm với nhau, gặp mặt ông họ gọi là Ông
Bán Cá.
Tui học việt văn với Thầy Thuận, người Huế, ở THĐ. Tất
niên, Thầy có ngâm thơ cho học trò nghe bài Màu Tím Hoa Sim của Hửu
Loan. Thuở đó, tui chưa từng tận mắt nghe thấy ai ngâm thơ hết. Nét diển
tã, đôi mắt nhìn vào cỏi xa xăm, giọng Huế vang lên nhẹ nhàng: « Nàng
có ba người anh đi bộ đội. . . những đứa em nàng, có em chưa biết nói . .
. » Đám học trò im lặng ngồi nghe, giọng thơ dìu dặt như từng chử ngọt
ngào rót vào lòng. Tui nhắm mắt thã hồn lơ lửng trên đồi hoa sim tím
chiều hoang biền biệt của Thầy. Hay quá hay, quá nghệ sĩ, lãng mạn tình
tứ, vị Thầy đáng kính của tui ơi. Sau đó Thầy ngâm tiếp bài Tiển Người
Trên Sân Ga của Nguyễn Bính. Lời thơ là cã một nổi buồn cô đơn vô tận
xoáy xoay vào hồn:
Có lần tôi thấy một người đi,
Chẳng biết vê đâu, nghĩ ngợi gì
Chân bước hửng hờ theo bóng lẻ
Một người làm cã cuộc phân ly.
Làm sao mà quên khi tui vừa mới lớn lên vào tuổi mơ mộng, lại được Thầy minh ngâm thơ cho nghe !
Thầy Tô Hoà Dương, con của nhà văn Bình Nguyên Lộc, dạy Toán năm Đệ Tam. Thầy có hai bằng Cử nhơn Toán và Triết ! Tánh tình hề hà, giảng bài xong, Thầy ưa hỏi Các anh em hiểu chưa ? Hôm đó, giờ Hình Học, vòng tròn EULER chín điểm, có B.M.Quang ngồi bàn cuối lớp đưa tay thắc mắc :
« Khưa Khầy, kheo em khấy khì. . . . »
Cã lớp quay lại, cười rần nói : »Con gì kêu ... » vì cách phát âm nguyên thủy của dân vùng quê xứ tui, âm thờ (TH) thành (KH) hihi
Thầy
tỏ ra hết sức ngạc nhiên : Hổng hiểu ? Vậy mà hổng hiểu ? Trời ơi, hể
mở miệng là VN có bốn ngàn năm văn hiến, tám triệu năm lich sử, văn minh
văn hóa. Có chút xíu vậy cũng hổng hiểu. Rồi Thầy giảng lại. Từ đó, bạn
học ưa xài chử 4000 văn hiến để chọc quê nhau!
Một trong 3 câu hỏi toán của Thầy cho thi đệ nhứt lục cá nguyệt mà tui
còn nhớ : Ba cây kim đồng hồ chỉ số 12 ( 0h 0mn 0sec) Kim giây bắt đầu
di chuyển. Hỏi:
1/-Khi nào kim giây gặp lại kim phút sớm nhứt
2/- Khi nào kim phút là phân giác của kim giờ và kim giây.(độ chính xác là 1/ 100).
Thầy Nguyễn T.Thành dạy Vạn Vật năm đệ tam và Lý Hóa năm đệ
nhị. Học trò rất « khoái » phương pháp sư phạm của Thầy vì chỉ cần chú ý
nghe giảng trong lớp, đến ghi vô tập thì chỉ tóm tắt các điểm chính,
còn lại chừng hơn 1 trang. Dể nhớ, dể thuộc, có thể nói đó là tinh túy
của bài học. Nhớ thuộc bao nhiêu đó đủ đi thi rồi. Học trò quá nhiều,
sau gần 50 năm, làm sao mà Thầy nhớ cho hết. Riêng em vẫn còn thấy Thầy
hiện hửu trước mặt, đứng trên bục giảng trong lớp ở từng trệt đối diện
nhìn ra sân cờ THĐ củ. Thầy mặc áo sơ mi trắng tay dài, cà vạt màu xanh,
dáng gầy, hơi có chút xíu răng khểnh bên trái, gương mặt hiền từ Thầy
thấy chưa, em đâu có quên Thầy.
Ngày qua ngày, rời THĐ, thi vô Trung Tâm Kỷ Thuật Phú Thọ. Gần 300 thí sinh lấy 24 chổ, 16 chính thức thì tui đứng hạng 17 nằm trong danh sách thí sinh dự khuyết. Cũng ráng lắm chớ nhưng làm sao tranh lại với thiên hạ! Nào là dân Tú Tài Tây, người khác đã học xong hoặc đang năm cuối bên Khoa học, Luật. Phần nhiều lớn hơn tui 7, 8 tuổi. Họ trở lại học năm thứ nhứt để được hoản dịch vì lý do học vấn. Ngoài đời, tầm cở đó là các giáo sư Toán, Lý Hóa, Pháp Văn như mấy Ông Thầy tui không hà, học trò quèn như tui mà bài đặt chen đua với các Sư phụ, vô phép quá đi.
Cuộc thi gồm 6 bài toán đủ loại, có thể giải bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Tiếp theo là một bài Thème Việt dịch ra tiếng Pháp và một bài Pháp Translate into English. Nhờ mấy câu thơ về công thức biến đổi Lượng giác của Thầy toán Nguyễn Vũ Hải ở THĐ dạy mẹo cách nhớ, tui giải chớp nhoáng mấy bài toán dù không có bãng lượng giác (không được mang theo vô phòng thi) như tính cosinus góc 75°... mà tới bây giờ tui vẫn không quên:
Cos đối, Sin bù, Phụ chéo, Tang khác Pi ( 180°)
Cos cộng Cos bằng hai Cos Cos,
Cos trừ Cos, trừ hai Sin Sin
Sin cộng Sin bằng hai Sin Cos
Sin trừ Sin bằng hai Cos Sin
Sin bằng Sin Cos, Cos Sin
Cos bằng Cos Cos, Sin Sin dấu trừ.
Thầy ơi, nếu Thầy biết là mấy chục năm sau, ba đứa con em khi học lên cấp III bên Pháp, tụi nó đều thuộc lòng bài tiếng Việt này thì chắc Thầy sẽ vui lòng lắm lắm.
Học trò N. xin Tri Ơn quí thầy THĐ, Nguyễn T. Thành dạy Lý Hóa, thầy Nguyễn V. Trừng Pháp văn, Thầy Hải, thầy Tô hòa Dương Toán, Thầy Phong, Cô Ngọc, Cô Tường Vy Anh văn, thầy Điềm, Thầy Nguyễn Huy( trục Chépone) Sử địa, Thầy Phạm minh Kiên,cô Long (qua đời). dạy Triết, thầy Thuận Việt văn...
Học trường Việt, tui khổ sở với dấu Hỏi Ngã. Vô Phú Thọ, chương trình hoàn toàn tiếng Tây thì tui lại kẹt, giống đực, giống cái, nghe Thầy giảng không kịp, chử được chử mất.
Tui tội nghiệp cho tui, từ chết tới bị thương. Ê, tiếng Tây của tui không phải tệ như loại tiếng bổi đâu nha, học trò cưng của Thầy Trừng Pháp văn ở THĐ đó. Không phải tã con dê bằng Com lơ sen, dà na cọt, dà na bạt ( Comme le chien, il y a corne, il y a barbe ( giống như con chó mà có sừng, có râu). Tui viết tiếng Tây rất để ý văn phạm như lời dạy của Thầy Nguyễn tiên Sanh và Phạm duy Nhượng ở trường Nguyễn Trải. Viết thì được nhưng trực tiếp nghe giảng rồi ghi chú, thì tui hiểu loáng thoáng vì còn phải dịch ra hiểu theo tiếng Việt. Hởi ơi! Mà toàn là danh từ kỷ thuật không hà, tìm trong cuốn Danh Từ Khoa Học của Ông Hoàng Xuân Hản, dịch ra tiếng Việt cũng khó hiểu luôn! Kỷ niệm đáng thương của tôi, trong môn Navigation Hải Hành, có chử Taximètre, chỉ dụng cụ gắn hai bên đài chỉ huy để đo phương giác. Vừa thấy chử đó là tôi liên tưởng ngay đó đồng hồ xe taxi, ô là la . . .
Tui vừa nhỏ tuổi nhứt, tiếng Tây dở ẹt như vậy nên bạn bè gọi diểu tui là thằng . . . Tây con (tưởng hay lắm ai dè là con nít mới bập bẹ học nói). Đúng là nhà quê trên tỉnh xuống Sè gòn, hiền khô chưa biết ăn chơi, nhãy đầm (Khi xưa em bé em ngu béng beng, em lấy dây thun em quấn gì gì đó)
Mới đây, xem lại vidéo đến thăm thầy DUCASSE trên Paris, bạn học bên Mỹ nói tui bây giờ thành Tây . . già. Ô, hơn ba chục năm trên đất Pháp rồi chứ đâu phải ít! Và tui hiểu tại sao người khuyết tật câm thường bị điếc (để khỏi phải nghe mà không nói được) Nghĩ trong đầu, bực thiệt nhưng hổng lẻ mình chịu thua thiên hạ sao?
Học mới có mấy tháng thì tới vụ bãi khóa, biểu tình Phật giáo. Ở nhà tui mài mò, ráng tự học, dò lại hết cho thấu đáo các bài trong trường. Lúc vô học lại, thầy Tổng Giám thị Phiêu ngạc nhiên thấy tui tiến bộ rỏ rệt khi làm bài "Cách thiết lập trục tọa độ một bản đồ với tỉ lệ định sẳn (Canevas)" được Thầy DUCASSE phê Très Bien mới hỏi: Bộ gia đình em có ai đi tàu, dạy kèm cho em à? Thầy đâu có biết, tui tra tự điển muốn chết thân. Với sức người, vo gạo tui cũng. . . nấu thành cơm. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Chổ nào không hiểu, ngoài giờ học, tui bắt đầu dám hỏi thẳng Thầy DUCASSE. Biết tui dở tiếng tây, Thầy giải thích chậm chậm, không phải lẹ như với bạn tui trong lớp. Rồi từ từ khá hơn, tui gọi thẳng tên các dụng cụ, đồ nghề bằng tiếng Tây mà không thèm dịch nửa.
Tui không bao giờ quên được câu chuyện Thầy kể về sao Vénus (Vệ Nử, Kim Tinh) Lúc đó vào một buổi chiều thứ ba khi trã lại bài tập định vị trí con tàu bằng toán thiên văn hàng hải calcul nautique làm cuối tuần ở nhà. Tui có kể lại cho Thầy nghe trong điện thoại sau mấy chục năm trường. Nhờ Thầy mà em chưa hề làm toán này sai trong đời hải nghiệp. Thầy rất vui, nhớ ra liền, thằng học trò nhí, quê ở trên Thủ dầu Một và bảo tui nói tiếng Tây khá hơn xưa nhiều. Tui hay hơn tui thôi nha, chứ không có hơn ai hết, bây giờ nói tiếng Tây hay như Tàu nói tiếng . . . Việt (Hồi đó, Ba tui có nói, ngày nào con nằm chiêm bao, thấy nói chuyện, tranh luận với Tây thì ngày đó mới khá).
Thầy nói: “Đến nay đã 5 tuần, mấy em làm quen với loại toán thiên văn hàng hải, mặt trời, mặt trăng, hành tinh và các vì sao khác. Chỉ riêng có sao Vénus là các em tính sai góc giờ ( Angle horaire) do lộn dấu của sai số correction"V" lúc cộng lúc trừ. Các em đừng quên điều này: CHÍNH VÌ VẬY NGƯỜI TA LẤY VENUS TƯỢNG TRƯNG CHO PHÁI NỮ, ĐÀN BÀ. Họ cũng y hệt! Lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc nũng nịu lúc giận hờn, họ đổi dấu cộng sang trừ không có lý do. Hỏi lý do còn khó hơn đường lên trời! Là dân đi biển, các em nên cư xử với họ làm sao để mai đây, một mình trên biển xa khơi, các em vẫn hãnh diện nhìn sao Vénus, cầm kính lục phân (Sextant) đo độ cao, tìm ra đâu là hướng trở về gặp lại những người đàn bà tuyệt vời ấy!
Ôi chao, 50 chục năm qua rồi mà hình ảnh Thầy cầm xấp bài làm của học trò; cười cười, nói chuyện này vẫn còn nằm trong trí tui như mới hôm qua.
Tui nhớ thầy Quyền dạy Elect, kỷ sư điện tốt nghiệp ở Grenoble Pháp. Thỉnh thoảng, Thầy nhắc lại kỷ niệm khi du học với giọng bực bội là lúc thi tốt nghiệp, Thầy chỉ đậu được hạng nhì, thua một con đầm!
Đến Pháp vào Dec/1979, tui nộp đơn liền lên Bộ HH, xin cấp cho bằng tương đương Thuyền Trưởng HH thương thuyền CMM. Ba tuần sau, nhận được thơ trã lời. Bộ từ chối vì không có liên hệ ban giao HH với VN nhưng cấp giấy giới thiệu tui xuống trình diện trường Marseille và tùy nơi đây quyết định. Ngày 7/ Jan/ 1980, sau cuộc khảo sát bằng tiếng Anh về trình độ hàng hải (vì nghĩ rằng VN bây giờ nói tiếng Mỹ) tui phải kể lại chuyến tàu rời VN, phương pháp hải hành như thế nào? Sau đó, cã ba vị gồm Giám Đốc Mr RANGO, Giáo sư TREMILLON và Giám Thị OZANO đồng ý nhận tui vào lớp dù đã trể học 4 tháng.
Câu nói của thầy Quyền lởn vởn trong đầu bắt tui phải hết sức cố gắng không để thua Tây. Cũng nhờ quí Thầy bên nhà rèn luyện, Trời Phật Chúa Bà còn thương nên dù mới vừa ra khỏi trại cải tạo, đầu óc còn lùng bùng ba cái chử họp tổ, tự kiểm với đấu tranh, hết khẩn trương rồi khắc phục, tui vô lớp đã trể hơn thiên hạ 4 tháng. Đến tháng 6/1980, nhờ cố gắng, tui đỗ đầu Diplôme phần lý thuyết, chỉ sau gần 6 tháng đăt chân lên đất Pháp. Nhờ đó mà Bộ hàng hải cấp luôn cho Brevet bằng toàn phần khỏi cần qua 10 tháng tập sự. Năm sau, sẳn dịp nghỉ bờ Congé hai tháng, tui nạp đơn xin thi tự do bằng Thuyền Trưởng CC trong khi chờ đợi Bộ HH trã lời đơn xin cấp bằng CMM, Thuyền Trưởng HH thương thuyền Pháp. Lần này, tui được 16,82 vinh danh thí sinh gốc VN, đậu trên hạng nhì gần 3 điểm trung bình. Năm 1996, đang làm trong Capitainerie, có Jean B, học sau tui mấy khóa vào làm việc chung. Hắn kể lại là mấy Thầy ở trong trường, CHABERT dạy Astro, DELOLME dạy Navigation, CHOMARD dạy Carte cứ nhắc tới tên mày hoài mà bây giờ tao mới gặp mặt.
Tui viết ra đây không phải để nói về thằng tui. Đã vào cuối đời, thất thập cổ lai hi, còn ganh đua, bài đặt khoe khoan làm gì. Tui viết để cho bạn bè cùng lớp nếu có dịp đọc, như là lời cám ơn sự dạy dổ đối với Quí Thầy bên nhà. Tui không trao chuốt câu văn, nhớ sao viết vậy
Thầy Ngọc bên Pháp về làm GĐ thay thế thầy Châu dạy Carte Marine năm
thứ hai. Sau giờ học chiều, trên đường về, Thầy cho tui quá giang ra Ngã
Bảy đón xe về BD. Trên xe, Thầy kể lại lúc du học bên Tây, gặp biết bao
nhiêu là khó khăn khi xin xuống tàu tập sự vì mang quốc tịch VN. Tui
nhớ hoài bài zône d'incertitude d'estime với erreur de vitesse, erreur
d'observation par sextant và erreur du Cc, làm sao tìm cách giảm vùng
nghi ngờ khi sắp vào đất liền. Thầy đâu có biết là đứa học trò Nh này
khi thi môn Carte Marine bằng Thuyền Trưởng bên Tây, bản đồ số 5316 vùng
biển Bretagne Pháp, em được 18,5 bài Atterrissage với vùng nghi ngờ.
Một lần nửa, đây là lời tri ơn của em với tất cã tấm lòng đối với Thầy.
Có điều này tui chắc chắn là anh em hàng hải bên nhà không biết! Đừng
tưởng tui hay nha, cũng mới biết đây thôi: Hồi đầu năm 2010, Thầy PELLEN
OM1 hồi xưa dạy tui môn Machine marine có gặp lại tui ở quán cơm VN,
nói cho biết, dân SQ hàng hải Pháp khi đậu thi tuyển vào làm giáo sư
trong trường trực thuộc Bộ Giao Thông, đều trở thành Sỉ Quan Hiện Dịch,
cấp bực khởi đầu là Trung Úy Hải Quân ( giống như Bác sỉ bên mình vô
quân đội mang lon Trung úy quân y vậy) Thầy PELLEN khi về hưu, mang cấp
Phó Đề Đốc và hưởng hưu bổng trong điều kiện đó! Ông nói, nếu bây giờ
đất nước xảy ra chuyện,Tổng Thống cần đến thì tao phải trở về quân ngủ
liền!
Ngoài ra, còn có một số các giáo sư thỉnh giảng như Hoa Tiêu, Giám đốc
sở hàng hải, GĐ sở khí tượng, Cựu Thuyền Trưởng về hưu, Bác Sỉ v. . .v
Thảo nào, bây giờ tui mới hiểu. Hồi còn trong trường, vào các dịp lễ,
tui thấy mấy ông Thầy mặc quân phục toàn là cấp Tá HQ hết trơn. Các vị
Thầy của tui phần lớn là cựu sỉ quan hàng hải của 2 hảng tàu Pháp
Messageries Maritimes gọi tắt là MM và hảng Chargeurs réunis, hảng 5 sao
mà ngày xưa chạy qua Đông Nam Á.
Ông Cerigelli sinh trưởng tại Saigon, Hải quân Trung Tá,
Luật Sư hàng hải là Giám đốc sở hàng hải phụ trách môn Législation
maritime. Năm lên 13, ông theo cha mẹ hồi hương (1953) Cách nói chuyện,
giảng bài của ông rỏ ràng, kỷ lưởng, chính xác đúng là một nhà luật học.
Chẳng hạn như đang giảng về đề tài nào đó mà cần dẩn chứng thí dụ thực
tiển đã xảy ra, ông nói: tôi xin mở dấu ngoặc. Rồi sau cùng, ông không
quên: tôi đóng dấu ngoặc và giảng tiếp. Trong 15 phút nghĩ giải lao, ông
kể cho tui những kỷ niệm xưa: Mr NGUYEN à, tôi biết nói tiếng Việt
trước tiếng Tây vì bà vú nuôi của tôi là người Việt. Bây giờ quên hết
rồi, chỉ còn sót trong trí nhớ vài ba chử bậy bạ như Ăn no quá, chết
rồi. Cái bụng mập, Đu mẹ …. Cười chết được! Ông còn nhớ luôn lời bài hát
bằng tiếng Nhựt bản thuở đó rất thịnh hành : bản Shina no yoru! Tui
cũng có biết luôn cã hai lời Việt và Nhựt nửa, tựa là Vọng Tô Châu: Nhớ.
. ., về miền đồng núi xa (hồi xưa chị của thằng bạn học bên hàng xóm
dạy tui hát lúc 9, 10 tuổi gì đó).Ông ta hát một câu Shi . . . , i na no
yoru yo thì tui tiếp minato no akari, murasaki no yo ni. Đôi mắt ông ta
sáng lên tiếp liền Noboru janku no, yume no fune . . . như thấy lại
những kỷ niệm tuổi thơ. Nghe khoan khoái trong lòng như lúc học đàn
guitare cổ điển, ai đó dợt bài 14 của Carulli, điệu nhạc 6/8 thông thả
trải dài không có lạc qua valse 3/ 4 sống động, vui tươi.
Thầy CASTAGNERA có một nhận xét chính xác nhưng rất tức
cười về cách đi ăn cơm tiệm của người mình. Khoản cuối thập niên 50, mổi
khi tàu ghé qua Saigon, ông thường mang bom, nho, fromage, rượu chát
qua cho bạn bè VN. Chiều đến, họ đèo ông trên chiếc Vespa kiếm chổ ngồi
nhậu bia 33 trên bến tàu Nguyễn Huệ. Hổng có xem ông đi qua mà thích
ngắm bà đi lại! Ôi chao, lạng lách sao mà thấy sợ quá chừng (Thời bây
giờ chắc hết dám đi luôn) Lai rai rồi lên xe, đi ăn cơm tàu tuốt trong
Chợ Lớn. Ăn xong, chạy về SG kiếm chổ ăn tráng miệng, chè đủ loại. Rồi
đi uống cà phê, nghe nhạc PHÁP. Một buổi chiều đi ăn mấy tiệm !
Vui nhứt là Thầy CHABERT, Capt de Vaisseau, Đ.tá HQ, dạy
Thiên văn, toán astronautique và tân toán học rất thương học trò. Khi ra
thi mà thí sinh không trã lời được thì ông vừa làm vừa giải thích ra
hết trơn. Rồi ông hỏi hiểu chưa, hiểu thì ông cho 14/20! Lúc đó, ông
khoản 50 tuổi, độc thân.Ông thường nói, Bon commandant thuyền trưởng
giỏi khác với một CDT expérimenté thuyền trưởng dày kinh nghiệm. Giỏi là
tới khi về hưu không có tiếng tăm, bị mắc cạn, đụng tàu gì hết còn kinh
nghiệm thì ngược lại.
Tui có một kỷ niệm khó quên với thầy CHABERT: Sau khi ra
trường, tui được một người VN chở hết gia đinh chạy dọc mé biển cho
biết. Tới chổ nọ, gần Saint Tropez từ trên cao, thấy phía dưới có một
bãi biển quá đẹp, bèn ngừng xe lại. Để bà xã và đám nhỏ trên xe, tụi tui
đi xuống dọ đường thì gặp thầy CHABERT mặc quần đùi, khăn vắt vai, ở
trần ở dưới bải đi lên. Thấy tui, ông ta nói: Ủa, Mr NGUYEN, mới tới
Pháp có mấy tháng mà Vous đã biết chổ này rồi à ? Tui chỉ người bạn: nhờ
anh VN này chở hết gia đình đi qua Nice cho biết, thấy chổ này đẹp
xuống dọ đường chứ đâu có biết gì !
Và đây là câu trã lời (Nhớ nghe quí vị, một người Pháp bất chợt nói chuyên này, không có chuẩn bị trước chứ chẳng phải VN hay Tàu đâu nha ):
« À,
vậy sao! Nè, mà Vous cũng biết rồi, từ quả đất lên mặt trăng rất gẩn,
chỉ có 384.000 km, bằng có 1/ 400 của khoản cách mặt trời. So về khối
lượng cũng vậy. Chỉ có phân nửa mặt trăng lộ diện xoay quanh quả đất mà
thôi. Phân nửa kia gọi là Vẽ Đẹp Bí Mật Của Chị Hằng. Qua bao thế kỷ,
Cảnh trăng rầm hấp dẩn làm con người lúc nào cũng mơ ước được đặt chân
lên đó. Đời nhà Đường bên Tàu chẳng hạn, Đường Minh Hoàng Du Nguyệt
Điện, nằm mơ được bay lên cung Quãng Hàn xem vũ khúc Nghê Thường. Khi
thức dậy, Ông nhớ lại rồi dạy cho cung nử múa hát.
Mãi đến tháng 7/1969, Hoa Kỳ phóng vệ
tinh Appolo, con người mới đặt chân lên cung trăng. Họ mới khám phá ra
bí mật của chị Hằng mà ai cũng mơ ước, thèm được chiêm ngưởng đó: khi
lại gần thì hởi ơi, chỉ thấy toàn là . . lổ với . . .lổ ! ! Chào Mr NGUYEN, chúc quí vị một ngày vui vẽ.
Đọc tới đây, có ai hiểu gì không, đưa tay lên ? Ủa, không có ai hết à! Tui cũng vậy.
Tiếp tục, lối đi kín đáo lần xuống bải cho đến khi cảnh tượng hiện ra trước mắt, tui mới hiểu câu nói của thầy CHABERT : Ây da, Tui đang đi vào khu vực . . . TẮM TRUỒNG. Ô là la!
Nghe đâu bên VN ngày nay gọi là . . TẮM TIÊN đấy hihi
Từ nhỏ đến giờ tui chưa có dịp thấy chị Hằng . . . Tây. Cũng chưa coi tuồng cải lương Con Gái Chị Hằng. Bây giờ trước mắt lại . . . quá nhiều . . . Con Bé của Chị Hằng đủ kích cở, màu mè.
Tui đâm ra hoảng thiệt. bèn thối lui !
Dáng dấp của tui hơi phong trần, dân đi biển lì sóng gió, chưa biết sợ là gì, tánh nóng như Trương Phi nhưng . . . hơi nhát nên tui nhịn hay lắm kể cã nhịn thèm, nhịn ngắm hihi. Hai đứa bèn đi trở lên. Anh bạn VN cười quá chừng : ông Thầy đáo để thật, nói xa nói gần bây giờ mới hiểu !
Tự nhiên nhớ lại bài thơ Thầy Đồ:
Thầy Đồ là người tài bộ,
Gánh đồ đi giao thụ phủ Vĩnh Trường.
Trước nha môn thiết trí học đường,
Dạy năm đứa chi hồ dã dã.
Những bửa thầy Đồ nhàn hạ,
Đồ ra sân, ngắm ã hái hoa.
à lom khom, ã để . . . đồ ra,
Đồ trông thấy, ngâm nga tức khắc.
Phong tiền lạng mạn hoa xuân sắc,
Thủy diện lang bang bạnh thổ thần.
Đồ ngâm rồi, Đồ đứng tần ngần,
Đồ nọ ngắm đồ kia không chớp mắt.
Suốt năm canh Đồ nằm khôn nhấp,
Những mơ màng Đồ nọ tưởng đồ kia.
Đồ ơi, gặp gở làm chi !
Thử hỏi quí vị chứ đêm đó, tui có ngủ ngon giấc hay trở mình hoài. Nói
thiệt nha, trằn trọc một lúc rồi cũng thiếp đi. Giật minh tỉnh dậy, mồ
hôi đầy mình : Đêm qua, tui vừa mơ gặp . . . ân nhân râu dài, tóc bạc
phơ, nhờ ông ta mà hôm nay tui thành Tây . . . giấy ! ! !
Có Thầy dể chịu như vậy thì cũng có Thầy gắt gao, khó chịu
dể sợ, đánh rớt thí sinh dù rằng đó là . . . con ruột của mình. Đối với
ông, thuyền trưởng là phải giỏi nghề vì trách nhiệm nặng nề. Khi tàu cập
bến ở nước khác thì đó là một quốc gia nhỏ trong một quốc gia. Cho nên,
khi chấm thi môn loại vấn đáp, hỏi đứa con ruột mà nó không trã lời
được, ông ta cho điểm loại và nói :
« Mầy về nói với Vợ tao là con của Bã học dở quá, năm tới phải ở lại lớp »
Nghe khũng khiếp chưa các bạn !!( Nếu xứ mình cũng được như vậy thì. . . . Mà thôi !)
Một ông giám khảo ở trường khác đến chấm thi, còn khó ghê
gớm hơn nửa : một thí sinh đã bị ổng đánh rớt năm trước trên miền Bắc,
trường Le Havre. Năm nay sợ quá, trốn ổng xuống đây ghi tên thi vì ông
này chuyên chấm trên đó. Ông nổi danh là Bourreau Đao phủ. Số xui tận
cùng, năm nay ông ta lại xuống miền Nam! Khi thấy tên ổng trên danh sách
giám khảo chấm môn loại Calcul d'assiette, nó than trời. Mà thiệt, lần
này, ông ta đánh rớt nó nửa! Thê thảm quá.
Ông ngồi nơi bàn học trò, nó đứng trên bãng, còn tụi này đứng ở ngoài quan sát.
Ông
cho tựa đề xong, nói : Je vous écoute, tôi nghe anh đây.Thằng nhỏ chết
điếng, không viết được một chử. Mấy phút trôi qua, ông nói: còn nhiều
người sau anh, đang đợi bên ngoài kìa, anh viết cái gì đi chớ! Viết chử a
đi. Nó lật đật viết chử a. Ông tiếp: đừng ngưng lại kéo dài nét cuối
ra, kéo ra nửa, ra nửa, tới cửa rồi, thôi cám ơn, đi ra luôn đi ! Ghê
chưa các bạn đồng khóa của tui, chưa vô phòng thi mà thấy ướt quần rồi.
Vậy mà số tui hên, hay không bằng hên là vậy. Tới phiên lên
máy chém, ông hỏi tui về Carène Liquide với cách tính Moment d'inertie
trong mặt hầm dầu khi tàu nhãy, lắc. Ối giời ơi, đây là món nghề của em
đấy các anh ạ! Nghe tui trã lời suông sẻ vừa dẩn chứng công thức, chừng
được ba phút thì ông ta chận lại, hỏi: anh có làm thuyền trưởng rồi phải
không ? Tui đáp dạ có. Ông ta nói : Tốt, được rồi, Cám ơn anh, anh có
thể đi ra !!! Lại Chúa Bà, Trời Phật, có bao nhiêu chử Amen, Mô phật tui
làm ráo hết. À, tui nhớ ra rồi, ông ta tên là MENAN, nghe nói hồi xưa
vốn là Phó Thuyền Trưởng chiếc tàu du khách FRANCE vao khoản thập niên
50 với câu ghi chú bất hủ trên Paris Match Voici Le France dont La
France est fière. ( Đây là chiếc tàu France mà nước Pháp hảnh diện vì
nó).
Cha mẹ tui vốn là nhà giáo. Chuyện tôn sư trọng đạo, quân,
sư, phụ là truyền thống tốt đẹp của dân mình. Trong nhà, cã hai thường
hay nhắc nhở điều đó với con cái.
Ngày Cha Mẹ tui qua đời, học trò củ đội khăn tang, đến quỳ
trước linh cửu. Có anh chị học trên tui mấy năm, hoặc học sau tui mấy
khóa. Hết lớp này đến lớp khác.
Một người bạn Pháp du lịch VN, lúc đó đang ở Saigon biết
tin, anh vội mang tràng hoa, đến chia buồn với gia đình. Thấy học trò Ba
tui, bây giờ đã là những ông bà già trên 60 tuổi, hàng hàng lớp lớp đến
quỳ trước linh cửu, anh ta đi từ ngạc nhiên qua đến ngưởng mộ tinh thần
tôn sư trọng đạo của VN. Tui giải thích cho anh ta biết là đối với
người VN, đã là học trò thì suốt đời phải giử phận học trò đối với Thầy,
dù mình có làm ông này bà kia trong xã hội đi chăng nửa.
Sẳn dịp, hỏi nó một câu, nó nói không biết nên tui kể cho nó nghe:
Hồi
nhỏ, tao có học bài Phải Tôn Kính Thầy. Chuyện kể bên xứ Pháp, Tổng
Thống Sadi CARNOT về thăm quê củ. Nhân tiện trên đường đi, ông ghé qua
thăm ngôi trường xưa. Thầy lớp vở lòng vẫn còn đó, vội ra đón tiếp ông
với vẽ tôn kính đối với một Tổng Thống. Ông ôm Thầy trong vòng tay và
nói: « Thưa Thầy, đừng làm như vậy, con mãi mãi là đứa học trò bé bỏng
của Thầy ngày nào »
Trước mặt mọi quan chức và đám học trò, ông nói «
Đây là Vị Thầy đầu đời, người đã khai tâm cho tôi. Tôi có được ngày nay
là nhờ công ơn dạy dổ của Thầy. Riêng các em, phải cố gắng học hành,
nghe lời Thầy dạy để mai sau thành người có ích cho xã hội. Nhớ nghe các
em, không Thầy đố mầy làm nên! ». . . Quá tuyệt vời !
Cựu GĐ Châu là vị Thầy đầu đời trong nghề của tui, sống bên Pháp. Các
Thầy khác phần lớn bên Mỹ. Ngày Thầy về cỏi vỉnh hằng, tui được các Quý
Thầy, Niên Trưởng khắp năm châu giao phó, đại diện đến dự tang lễ. Tui
đã giử đúng phận học trò của mình, đội khăn tang đến quỳ lạy trước linh
cửu như còn bên VN.
Trời thương cho tui tánh nhớ dai. Khuôn khổ hạn hẹp của bài
không cho phép tui kể ra hết từng vị Thầy, từng bạn học, từng nét mặt,
từng câu nói mà tui không quên. Cho nên, gặp lại bạn học, tui thích nhắc
lại chuyện Thầy củ Trường xưa thuở nào. Âu dó cũng là Tinh Nghĩa Giáo
Khoa Thư vậy.
Thầy Củ Trường Xưa- NH. ZENO
«
. . . Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, Mẹ tôi
âu yếm nắm lấy tay tôi, dẩn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường
này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ.
Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay
đổi lớn: hôm nay tôi đi học... (THANH TỊNH)
Đã trên 60 năm mà bài chánh tả đầu tiên học với thầy Lương văn Minh ở lớp Đệ Thất trường Nguyễn Trãi còn in sâu trong trí nhớ. Bao nhiêu bạn bè cùng trang lứa thuở đó chắc cũng như vậy Làm sao mà quên được! Qua biết bao nhiêu thăng trầm, anh em gặp lại nhau trên xứ Pháp khi nhắc lại bài này, vẫn còn thuộc lòng.
Giống như câu chuyện Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư của ông Sơn Nam, kể lại cuộc gặp gở giửa thầy phóng viên trên Sè gòn xuống tận Chắc Cà Đao kiếm anh chàng đặt mua báo năm. Báo gởi đều đặn hàng tuần mà không biết làm sao ban biên tập vẫn chưa nhận được tiển. Đêm về, muổi kêu như sáo thổi, cã hai phải buông mùng chun vô ngồi bên trong. Dần dà chuyện nọ dẩn chuyện kia qua tới chuyện hồi xưa, thuở cã hai còn đi học. Họ nhắc lại mấy bài trong quyển Quốc văn giáo khoa thư... Người này đọc một câu, người kia tiếp câu kế, đúng chử, đúng nhịp. Rồi cã hai mơ màng thã hồn tìm về những kỷ niệm thời thơ ấu. Thiệt đã hết sức!
Tui viết chánh tã, ba cái vụ dấu hỏi ngã, tui chịu thua. Nhờ bài chánh
tã này, tui học được hai chử chắc chắn bỏ dấu ngã là Những và Cũng. Tới
bây giờ tui vẫn còn dở ẹt mặc dù cũng có ráng học thêm mấy bài của Sư
phụ Cao chính Cương. Tui dặn thằng tui: nhớ nghe! Bộ ba đi chung với
nhau, Không, Sắc, Hỏi; Huyền, Ngã Nặng. Họ tên thì họ phải viết dấu
ngã,Nguyễn Đỗ, Vũ, Võ chẳng hạn. Còn chử gốc Hán Việt khởi đầu bằng M,
L, N, D, V ( Mình Là Người Dân Việt) thì nhắm mắt cứ bỏ dấu ngã. Vậy mà
Tui vẫn còn chưa quen bỏ dấu tự động . . . trúng liền! Khổ hết sức, mong
bạn bè thông cãm.
Giống như trong chuyện vui Don Camillo của Giovanni Guareshi vậy mà:
Xã trường Peppone là đãng viên Cộng Sản Ý và Cha sở Don Camillo vốn là
bạn học cùng lớp với nhau thời Tiểu học. Peppone lên tới lớp nhứt rồi bỏ
học đi làm cách mạng. Một hôm, Peppone viết thông cáo đem dán ngoài nhà
làng. Có ba câu mà tới bốn lỗi chánh tã. Cha sở Don Camillo lén lén lấy
viết mực đỏ khoanh mấy lỗi đó rồi lại còn thêm vô hai chử « Con Lừa »
làm dân chúng chế nhạo Peppone quá trời.
Sau đó, Cha sở bị Chúa Jesus quở một trận « Bộ nghĩ rằng ngươi may mắn
được học lên cao, biết thêm năm ba chử la tinh rồi có quyền chê khen
người ta vậy à? Quan trọng là ở Nội dung, Ngươi đừng có thấy mấy chi
tiết vụn vặt đó rồi quên cái Ý chánh, cái Tâm của người ta »
Ôi chao, nghe đã hết sức, lời Chúa dạy sao hợp ý con quá đi, Lạy Chúa tôi, con xin tạ ơn Chúa.Amen!
Nói sao thì nói, nếu quí vị có dịp đọc trọn bộ 6 cuốn Don Camillo, do gom lại từng chuyện ngắn, tui chắc quí vị cũng sẽ như tui, thương anh chàng Peppone này lắm. Dù ít học tánh tình cục mịch nhưng chất phác thiêt thà, không điếm đàng, mánh mung, trước sau như một chỉ biết có đãng CS là trên hết và yêu đãng hơn . . . mạng sống của mình. Một chuyện khác xãy ra vào trưa hè khoản đầu thập niên 50, chưa có Computer. Peppone đang ngồi đánh máy lọc cọc kiểu gà mổ, mồ hôi ướt hết áo thì thư ký trên phòng Bí Thư Tỉnh đạp xe xuống kiếm : « Ông Chủ tịch Tỉnh hỏi Xếp viết bản báo cáo thành tích của Xã xong chưa, kêu tui xuống lấy mang về gắp. Trể cã tuần nay rồi »
Đang cực khổ, đấu tranh giai cấp với cái máy đánh chử Olivetti, Peppone đổ cọc cự lại : « Ê, bộ mầy tưởng chắc đánh máy dể lắm à ? Nói cho mầy biết nha, đánh máy còn khó hơn . . . làm cách mạng nửa đó! Tao khẩn trương suốt cã tuần nay, tranh thủ, khắc phục từng chử một, bây giờ mới xong nè. Chờ tao ký tên rồi mang về trên Tỉnh một bản» Nói xong, Peppone rút bản đánh máy ra, định ký tên thì bổng bỏ xuống bàn, lấy tay vổ trán chửi thề : « Thôi chết mẹ rồi! Tao nhè để ngược mấy tấm carbone !»
Đối với riêng tui, viết tiếng việt coi vậy không phải dể. Tui viết cho vui, vừa viết vừa học thêm cách ẹo qua ẹo lại kẻo thiên hạ chê là Tiếng Tây chưa biết mà tiếng Việt đã quên. Chuyện vui về bảng quảng cáo của gian hàng bán cá là một thí dụ tiếu lâm về viết tiếng việt:
Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI
Người đi qua, kẻ đi lại bàn ra tán vào: Cá đương nhiên phải tươi mới có người mua, Viết dư chử! Ông bèn bỏ chử Tươi còn « Ở Đây Có Bán Cá »
Thiên hạ lại chê dư hai chử Ở Đây ! Hổng lẻ bán ở chổ khác à! Ờ há, thấy có lý ông bèn bỏ bớt hai chử Ở Đây. Câu quảng cáo còn ba chử « Có Bán Cá »
Chưa yên, người khác lại nói, có cá mới bán chứ hổng có thì lấy gì mà bán. Ông thấy đúng, bỏ luôn hai chử còn lại có một chử «Cá» thôi.
Khách
hàng đến mua cá nói với ông: Ghi chử «Cá» làm gì? Không lẻ họ tới đây
đòi mua thịt à! Từ ngoài đầu chợ đã nghe mùi, biết ở đây bán cá rồi!
Rốt cuộc, ông bỏ luôn bãng quảng cáo bán cá mà vẫn bán đắt như . . .
tôm tươi vì khách hàng đã hiểu ngầm với nhau, gặp mặt ông họ gọi là Ông
Bán Cá.
Tui học việt văn với Thầy Thuận, người Huế, ở THĐ. Tất
niên, Thầy có ngâm thơ cho học trò nghe bài Màu Tím Hoa Sim của Hửu
Loan. Thuở đó, tui chưa từng tận mắt nghe thấy ai ngâm thơ hết. Nét diển
tã, đôi mắt nhìn vào cỏi xa xăm, giọng Huế vang lên nhẹ nhàng: « Nàng
có ba người anh đi bộ đội. . . những đứa em nàng, có em chưa biết nói . .
. » Đám học trò im lặng ngồi nghe, giọng thơ dìu dặt như từng chử ngọt
ngào rót vào lòng. Tui nhắm mắt thã hồn lơ lửng trên đồi hoa sim tím
chiều hoang biền biệt của Thầy. Hay quá hay, quá nghệ sĩ, lãng mạn tình
tứ, vị Thầy đáng kính của tui ơi. Sau đó Thầy ngâm tiếp bài Tiển Người
Trên Sân Ga của Nguyễn Bính. Lời thơ là cã một nổi buồn cô đơn vô tận
xoáy xoay vào hồn:
Có lần tôi thấy một người đi,
Chẳng biết vê đâu, nghĩ ngợi gì
Chân bước hửng hờ theo bóng lẻ
Một người làm cã cuộc phân ly.
Làm sao mà quên khi tui vừa mới lớn lên vào tuổi mơ mộng, lại được Thầy minh ngâm thơ cho nghe !
Thầy Tô Hoà Dương, con của nhà văn Bình Nguyên Lộc, dạy Toán năm Đệ Tam. Thầy có hai bằng Cử nhơn Toán và Triết ! Tánh tình hề hà, giảng bài xong, Thầy ưa hỏi Các anh em hiểu chưa ? Hôm đó, giờ Hình Học, vòng tròn EULER chín điểm, có B.M.Quang ngồi bàn cuối lớp đưa tay thắc mắc :
« Khưa Khầy, kheo em khấy khì. . . . »
Cã lớp quay lại, cười rần nói : »Con gì kêu ... » vì cách phát âm nguyên thủy của dân vùng quê xứ tui, âm thờ (TH) thành (KH) hihi
Thầy
tỏ ra hết sức ngạc nhiên : Hổng hiểu ? Vậy mà hổng hiểu ? Trời ơi, hể
mở miệng là VN có bốn ngàn năm văn hiến, tám triệu năm lich sử, văn minh
văn hóa. Có chút xíu vậy cũng hổng hiểu. Rồi Thầy giảng lại. Từ đó, bạn
học ưa xài chử 4000 văn hiến để chọc quê nhau!
Một trong 3 câu hỏi toán của Thầy cho thi đệ nhứt lục cá nguyệt mà tui
còn nhớ : Ba cây kim đồng hồ chỉ số 12 ( 0h 0mn 0sec) Kim giây bắt đầu
di chuyển. Hỏi:
1/-Khi nào kim giây gặp lại kim phút sớm nhứt
2/- Khi nào kim phút là phân giác của kim giờ và kim giây.(độ chính xác là 1/ 100).
Thầy Nguyễn T.Thành dạy Vạn Vật năm đệ tam và Lý Hóa năm đệ
nhị. Học trò rất « khoái » phương pháp sư phạm của Thầy vì chỉ cần chú ý
nghe giảng trong lớp, đến ghi vô tập thì chỉ tóm tắt các điểm chính,
còn lại chừng hơn 1 trang. Dể nhớ, dể thuộc, có thể nói đó là tinh túy
của bài học. Nhớ thuộc bao nhiêu đó đủ đi thi rồi. Học trò quá nhiều,
sau gần 50 năm, làm sao mà Thầy nhớ cho hết. Riêng em vẫn còn thấy Thầy
hiện hửu trước mặt, đứng trên bục giảng trong lớp ở từng trệt đối diện
nhìn ra sân cờ THĐ củ. Thầy mặc áo sơ mi trắng tay dài, cà vạt màu xanh,
dáng gầy, hơi có chút xíu răng khểnh bên trái, gương mặt hiền từ Thầy
thấy chưa, em đâu có quên Thầy.
Ngày qua ngày, rời THĐ, thi vô Trung Tâm Kỷ Thuật Phú Thọ. Gần 300 thí sinh lấy 24 chổ, 16 chính thức thì tui đứng hạng 17 nằm trong danh sách thí sinh dự khuyết. Cũng ráng lắm chớ nhưng làm sao tranh lại với thiên hạ! Nào là dân Tú Tài Tây, người khác đã học xong hoặc đang năm cuối bên Khoa học, Luật. Phần nhiều lớn hơn tui 7, 8 tuổi. Họ trở lại học năm thứ nhứt để được hoản dịch vì lý do học vấn. Ngoài đời, tầm cở đó là các giáo sư Toán, Lý Hóa, Pháp Văn như mấy Ông Thầy tui không hà, học trò quèn như tui mà bài đặt chen đua với các Sư phụ, vô phép quá đi.
Cuộc thi gồm 6 bài toán đủ loại, có thể giải bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Tiếp theo là một bài Thème Việt dịch ra tiếng Pháp và một bài Pháp Translate into English. Nhờ mấy câu thơ về công thức biến đổi Lượng giác của Thầy toán Nguyễn Vũ Hải ở THĐ dạy mẹo cách nhớ, tui giải chớp nhoáng mấy bài toán dù không có bãng lượng giác (không được mang theo vô phòng thi) như tính cosinus góc 75°... mà tới bây giờ tui vẫn không quên:
Cos đối, Sin bù, Phụ chéo, Tang khác Pi ( 180°)
Cos cộng Cos bằng hai Cos Cos,
Cos trừ Cos, trừ hai Sin Sin
Sin cộng Sin bằng hai Sin Cos
Sin trừ Sin bằng hai Cos Sin
Sin bằng Sin Cos, Cos Sin
Cos bằng Cos Cos, Sin Sin dấu trừ.
Thầy ơi, nếu Thầy biết là mấy chục năm sau, ba đứa con em khi học lên cấp III bên Pháp, tụi nó đều thuộc lòng bài tiếng Việt này thì chắc Thầy sẽ vui lòng lắm lắm.
Học trò N. xin Tri Ơn quí thầy THĐ, Nguyễn T. Thành dạy Lý Hóa, thầy Nguyễn V. Trừng Pháp văn, Thầy Hải, thầy Tô hòa Dương Toán, Thầy Phong, Cô Ngọc, Cô Tường Vy Anh văn, thầy Điềm, Thầy Nguyễn Huy( trục Chépone) Sử địa, Thầy Phạm minh Kiên,cô Long (qua đời). dạy Triết, thầy Thuận Việt văn...
Học trường Việt, tui khổ sở với dấu Hỏi Ngã. Vô Phú Thọ, chương trình hoàn toàn tiếng Tây thì tui lại kẹt, giống đực, giống cái, nghe Thầy giảng không kịp, chử được chử mất.
Tui tội nghiệp cho tui, từ chết tới bị thương. Ê, tiếng Tây của tui không phải tệ như loại tiếng bổi đâu nha, học trò cưng của Thầy Trừng Pháp văn ở THĐ đó. Không phải tã con dê bằng Com lơ sen, dà na cọt, dà na bạt ( Comme le chien, il y a corne, il y a barbe ( giống như con chó mà có sừng, có râu). Tui viết tiếng Tây rất để ý văn phạm như lời dạy của Thầy Nguyễn tiên Sanh và Phạm duy Nhượng ở trường Nguyễn Trải. Viết thì được nhưng trực tiếp nghe giảng rồi ghi chú, thì tui hiểu loáng thoáng vì còn phải dịch ra hiểu theo tiếng Việt. Hởi ơi! Mà toàn là danh từ kỷ thuật không hà, tìm trong cuốn Danh Từ Khoa Học của Ông Hoàng Xuân Hản, dịch ra tiếng Việt cũng khó hiểu luôn! Kỷ niệm đáng thương của tôi, trong môn Navigation Hải Hành, có chử Taximètre, chỉ dụng cụ gắn hai bên đài chỉ huy để đo phương giác. Vừa thấy chử đó là tôi liên tưởng ngay đó đồng hồ xe taxi, ô là la . . .
Tui vừa nhỏ tuổi nhứt, tiếng Tây dở ẹt như vậy nên bạn bè gọi diểu tui là thằng . . . Tây con (tưởng hay lắm ai dè là con nít mới bập bẹ học nói). Đúng là nhà quê trên tỉnh xuống Sè gòn, hiền khô chưa biết ăn chơi, nhãy đầm (Khi xưa em bé em ngu béng beng, em lấy dây thun em quấn gì gì đó)
Mới đây, xem lại vidéo đến thăm thầy DUCASSE trên Paris, bạn học bên Mỹ nói tui bây giờ thành Tây . . già. Ô, hơn ba chục năm trên đất Pháp rồi chứ đâu phải ít! Và tui hiểu tại sao người khuyết tật câm thường bị điếc (để khỏi phải nghe mà không nói được) Nghĩ trong đầu, bực thiệt nhưng hổng lẻ mình chịu thua thiên hạ sao?
Học mới có mấy tháng thì tới vụ bãi khóa, biểu tình Phật giáo. Ở nhà tui mài mò, ráng tự học, dò lại hết cho thấu đáo các bài trong trường. Lúc vô học lại, thầy Tổng Giám thị Phiêu ngạc nhiên thấy tui tiến bộ rỏ rệt khi làm bài "Cách thiết lập trục tọa độ một bản đồ với tỉ lệ định sẳn (Canevas)" được Thầy DUCASSE phê Très Bien mới hỏi: Bộ gia đình em có ai đi tàu, dạy kèm cho em à? Thầy đâu có biết, tui tra tự điển muốn chết thân. Với sức người, vo gạo tui cũng. . . nấu thành cơm. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Chổ nào không hiểu, ngoài giờ học, tui bắt đầu dám hỏi thẳng Thầy DUCASSE. Biết tui dở tiếng tây, Thầy giải thích chậm chậm, không phải lẹ như với bạn tui trong lớp. Rồi từ từ khá hơn, tui gọi thẳng tên các dụng cụ, đồ nghề bằng tiếng Tây mà không thèm dịch nửa.
Tui không bao giờ quên được câu chuyện Thầy kể về sao Vénus (Vệ Nử, Kim Tinh) Lúc đó vào một buổi chiều thứ ba khi trã lại bài tập định vị trí con tàu bằng toán thiên văn hàng hải calcul nautique làm cuối tuần ở nhà. Tui có kể lại cho Thầy nghe trong điện thoại sau mấy chục năm trường. Nhờ Thầy mà em chưa hề làm toán này sai trong đời hải nghiệp. Thầy rất vui, nhớ ra liền, thằng học trò nhí, quê ở trên Thủ dầu Một và bảo tui nói tiếng Tây khá hơn xưa nhiều. Tui hay hơn tui thôi nha, chứ không có hơn ai hết, bây giờ nói tiếng Tây hay như Tàu nói tiếng . . . Việt (Hồi đó, Ba tui có nói, ngày nào con nằm chiêm bao, thấy nói chuyện, tranh luận với Tây thì ngày đó mới khá).
Thầy nói: “Đến nay đã 5 tuần, mấy em làm quen với loại toán thiên văn hàng hải, mặt trời, mặt trăng, hành tinh và các vì sao khác. Chỉ riêng có sao Vénus là các em tính sai góc giờ ( Angle horaire) do lộn dấu của sai số correction"V" lúc cộng lúc trừ. Các em đừng quên điều này: CHÍNH VÌ VẬY NGƯỜI TA LẤY VENUS TƯỢNG TRƯNG CHO PHÁI NỮ, ĐÀN BÀ. Họ cũng y hệt! Lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc nũng nịu lúc giận hờn, họ đổi dấu cộng sang trừ không có lý do. Hỏi lý do còn khó hơn đường lên trời! Là dân đi biển, các em nên cư xử với họ làm sao để mai đây, một mình trên biển xa khơi, các em vẫn hãnh diện nhìn sao Vénus, cầm kính lục phân (Sextant) đo độ cao, tìm ra đâu là hướng trở về gặp lại những người đàn bà tuyệt vời ấy!
Ôi chao, 50 chục năm qua rồi mà hình ảnh Thầy cầm xấp bài làm của học trò; cười cười, nói chuyện này vẫn còn nằm trong trí tui như mới hôm qua.
Tui nhớ thầy Quyền dạy Elect, kỷ sư điện tốt nghiệp ở Grenoble Pháp. Thỉnh thoảng, Thầy nhắc lại kỷ niệm khi du học với giọng bực bội là lúc thi tốt nghiệp, Thầy chỉ đậu được hạng nhì, thua một con đầm!
Đến Pháp vào Dec/1979, tui nộp đơn liền lên Bộ HH, xin cấp cho bằng tương đương Thuyền Trưởng HH thương thuyền CMM. Ba tuần sau, nhận được thơ trã lời. Bộ từ chối vì không có liên hệ ban giao HH với VN nhưng cấp giấy giới thiệu tui xuống trình diện trường Marseille và tùy nơi đây quyết định. Ngày 7/ Jan/ 1980, sau cuộc khảo sát bằng tiếng Anh về trình độ hàng hải (vì nghĩ rằng VN bây giờ nói tiếng Mỹ) tui phải kể lại chuyến tàu rời VN, phương pháp hải hành như thế nào? Sau đó, cã ba vị gồm Giám Đốc Mr RANGO, Giáo sư TREMILLON và Giám Thị OZANO đồng ý nhận tui vào lớp dù đã trể học 4 tháng.
Câu nói của thầy Quyền lởn vởn trong đầu bắt tui phải hết sức cố gắng không để thua Tây. Cũng nhờ quí Thầy bên nhà rèn luyện, Trời Phật Chúa Bà còn thương nên dù mới vừa ra khỏi trại cải tạo, đầu óc còn lùng bùng ba cái chử họp tổ, tự kiểm với đấu tranh, hết khẩn trương rồi khắc phục, tui vô lớp đã trể hơn thiên hạ 4 tháng. Đến tháng 6/1980, nhờ cố gắng, tui đỗ đầu Diplôme phần lý thuyết, chỉ sau gần 6 tháng đăt chân lên đất Pháp. Nhờ đó mà Bộ hàng hải cấp luôn cho Brevet bằng toàn phần khỏi cần qua 10 tháng tập sự. Năm sau, sẳn dịp nghỉ bờ Congé hai tháng, tui nạp đơn xin thi tự do bằng Thuyền Trưởng CC trong khi chờ đợi Bộ HH trã lời đơn xin cấp bằng CMM, Thuyền Trưởng HH thương thuyền Pháp. Lần này, tui được 16,82 vinh danh thí sinh gốc VN, đậu trên hạng nhì gần 3 điểm trung bình. Năm 1996, đang làm trong Capitainerie, có Jean B, học sau tui mấy khóa vào làm việc chung. Hắn kể lại là mấy Thầy ở trong trường, CHABERT dạy Astro, DELOLME dạy Navigation, CHOMARD dạy Carte cứ nhắc tới tên mày hoài mà bây giờ tao mới gặp mặt.
Tui viết ra đây không phải để nói về thằng tui. Đã vào cuối đời, thất thập cổ lai hi, còn ganh đua, bài đặt khoe khoan làm gì. Tui viết để cho bạn bè cùng lớp nếu có dịp đọc, như là lời cám ơn sự dạy dổ đối với Quí Thầy bên nhà. Tui không trao chuốt câu văn, nhớ sao viết vậy
Thầy Ngọc bên Pháp về làm GĐ thay thế thầy Châu dạy Carte Marine năm
thứ hai. Sau giờ học chiều, trên đường về, Thầy cho tui quá giang ra Ngã
Bảy đón xe về BD. Trên xe, Thầy kể lại lúc du học bên Tây, gặp biết bao
nhiêu là khó khăn khi xin xuống tàu tập sự vì mang quốc tịch VN. Tui
nhớ hoài bài zône d'incertitude d'estime với erreur de vitesse, erreur
d'observation par sextant và erreur du Cc, làm sao tìm cách giảm vùng
nghi ngờ khi sắp vào đất liền. Thầy đâu có biết là đứa học trò Nh này
khi thi môn Carte Marine bằng Thuyền Trưởng bên Tây, bản đồ số 5316 vùng
biển Bretagne Pháp, em được 18,5 bài Atterrissage với vùng nghi ngờ.
Một lần nửa, đây là lời tri ơn của em với tất cã tấm lòng đối với Thầy.
Có điều này tui chắc chắn là anh em hàng hải bên nhà không biết! Đừng
tưởng tui hay nha, cũng mới biết đây thôi: Hồi đầu năm 2010, Thầy PELLEN
OM1 hồi xưa dạy tui môn Machine marine có gặp lại tui ở quán cơm VN,
nói cho biết, dân SQ hàng hải Pháp khi đậu thi tuyển vào làm giáo sư
trong trường trực thuộc Bộ Giao Thông, đều trở thành Sỉ Quan Hiện Dịch,
cấp bực khởi đầu là Trung Úy Hải Quân ( giống như Bác sỉ bên mình vô
quân đội mang lon Trung úy quân y vậy) Thầy PELLEN khi về hưu, mang cấp
Phó Đề Đốc và hưởng hưu bổng trong điều kiện đó! Ông nói, nếu bây giờ
đất nước xảy ra chuyện,Tổng Thống cần đến thì tao phải trở về quân ngủ
liền!
Ngoài ra, còn có một số các giáo sư thỉnh giảng như Hoa Tiêu, Giám đốc
sở hàng hải, GĐ sở khí tượng, Cựu Thuyền Trưởng về hưu, Bác Sỉ v. . .v
Thảo nào, bây giờ tui mới hiểu. Hồi còn trong trường, vào các dịp lễ,
tui thấy mấy ông Thầy mặc quân phục toàn là cấp Tá HQ hết trơn. Các vị
Thầy của tui phần lớn là cựu sỉ quan hàng hải của 2 hảng tàu Pháp
Messageries Maritimes gọi tắt là MM và hảng Chargeurs réunis, hảng 5 sao
mà ngày xưa chạy qua Đông Nam Á.
Ông Cerigelli sinh trưởng tại Saigon, Hải quân Trung Tá,
Luật Sư hàng hải là Giám đốc sở hàng hải phụ trách môn Législation
maritime. Năm lên 13, ông theo cha mẹ hồi hương (1953) Cách nói chuyện,
giảng bài của ông rỏ ràng, kỷ lưởng, chính xác đúng là một nhà luật học.
Chẳng hạn như đang giảng về đề tài nào đó mà cần dẩn chứng thí dụ thực
tiển đã xảy ra, ông nói: tôi xin mở dấu ngoặc. Rồi sau cùng, ông không
quên: tôi đóng dấu ngoặc và giảng tiếp. Trong 15 phút nghĩ giải lao, ông
kể cho tui những kỷ niệm xưa: Mr NGUYEN à, tôi biết nói tiếng Việt
trước tiếng Tây vì bà vú nuôi của tôi là người Việt. Bây giờ quên hết
rồi, chỉ còn sót trong trí nhớ vài ba chử bậy bạ như Ăn no quá, chết
rồi. Cái bụng mập, Đu mẹ …. Cười chết được! Ông còn nhớ luôn lời bài hát
bằng tiếng Nhựt bản thuở đó rất thịnh hành : bản Shina no yoru! Tui
cũng có biết luôn cã hai lời Việt và Nhựt nửa, tựa là Vọng Tô Châu: Nhớ.
. ., về miền đồng núi xa (hồi xưa chị của thằng bạn học bên hàng xóm
dạy tui hát lúc 9, 10 tuổi gì đó).Ông ta hát một câu Shi . . . , i na no
yoru yo thì tui tiếp minato no akari, murasaki no yo ni. Đôi mắt ông ta
sáng lên tiếp liền Noboru janku no, yume no fune . . . như thấy lại
những kỷ niệm tuổi thơ. Nghe khoan khoái trong lòng như lúc học đàn
guitare cổ điển, ai đó dợt bài 14 của Carulli, điệu nhạc 6/8 thông thả
trải dài không có lạc qua valse 3/ 4 sống động, vui tươi.
Thầy CASTAGNERA có một nhận xét chính xác nhưng rất tức
cười về cách đi ăn cơm tiệm của người mình. Khoản cuối thập niên 50, mổi
khi tàu ghé qua Saigon, ông thường mang bom, nho, fromage, rượu chát
qua cho bạn bè VN. Chiều đến, họ đèo ông trên chiếc Vespa kiếm chổ ngồi
nhậu bia 33 trên bến tàu Nguyễn Huệ. Hổng có xem ông đi qua mà thích
ngắm bà đi lại! Ôi chao, lạng lách sao mà thấy sợ quá chừng (Thời bây
giờ chắc hết dám đi luôn) Lai rai rồi lên xe, đi ăn cơm tàu tuốt trong
Chợ Lớn. Ăn xong, chạy về SG kiếm chổ ăn tráng miệng, chè đủ loại. Rồi
đi uống cà phê, nghe nhạc PHÁP. Một buổi chiều đi ăn mấy tiệm !
Vui nhứt là Thầy CHABERT, Capt de Vaisseau, Đ.tá HQ, dạy
Thiên văn, toán astronautique và tân toán học rất thương học trò. Khi ra
thi mà thí sinh không trã lời được thì ông vừa làm vừa giải thích ra
hết trơn. Rồi ông hỏi hiểu chưa, hiểu thì ông cho 14/20! Lúc đó, ông
khoản 50 tuổi, độc thân.Ông thường nói, Bon commandant thuyền trưởng
giỏi khác với một CDT expérimenté thuyền trưởng dày kinh nghiệm. Giỏi là
tới khi về hưu không có tiếng tăm, bị mắc cạn, đụng tàu gì hết còn kinh
nghiệm thì ngược lại.
Tui có một kỷ niệm khó quên với thầy CHABERT: Sau khi ra
trường, tui được một người VN chở hết gia đinh chạy dọc mé biển cho
biết. Tới chổ nọ, gần Saint Tropez từ trên cao, thấy phía dưới có một
bãi biển quá đẹp, bèn ngừng xe lại. Để bà xã và đám nhỏ trên xe, tụi tui
đi xuống dọ đường thì gặp thầy CHABERT mặc quần đùi, khăn vắt vai, ở
trần ở dưới bải đi lên. Thấy tui, ông ta nói: Ủa, Mr NGUYEN, mới tới
Pháp có mấy tháng mà Vous đã biết chổ này rồi à ? Tui chỉ người bạn: nhờ
anh VN này chở hết gia đình đi qua Nice cho biết, thấy chổ này đẹp
xuống dọ đường chứ đâu có biết gì !
Và đây là câu trã lời (Nhớ nghe quí vị, một người Pháp bất chợt nói chuyên này, không có chuẩn bị trước chứ chẳng phải VN hay Tàu đâu nha ):
« À,
vậy sao! Nè, mà Vous cũng biết rồi, từ quả đất lên mặt trăng rất gẩn,
chỉ có 384.000 km, bằng có 1/ 400 của khoản cách mặt trời. So về khối
lượng cũng vậy. Chỉ có phân nửa mặt trăng lộ diện xoay quanh quả đất mà
thôi. Phân nửa kia gọi là Vẽ Đẹp Bí Mật Của Chị Hằng. Qua bao thế kỷ,
Cảnh trăng rầm hấp dẩn làm con người lúc nào cũng mơ ước được đặt chân
lên đó. Đời nhà Đường bên Tàu chẳng hạn, Đường Minh Hoàng Du Nguyệt
Điện, nằm mơ được bay lên cung Quãng Hàn xem vũ khúc Nghê Thường. Khi
thức dậy, Ông nhớ lại rồi dạy cho cung nử múa hát.
Mãi đến tháng 7/1969, Hoa Kỳ phóng vệ
tinh Appolo, con người mới đặt chân lên cung trăng. Họ mới khám phá ra
bí mật của chị Hằng mà ai cũng mơ ước, thèm được chiêm ngưởng đó: khi
lại gần thì hởi ơi, chỉ thấy toàn là . . lổ với . . .lổ ! ! Chào Mr NGUYEN, chúc quí vị một ngày vui vẽ.
Đọc tới đây, có ai hiểu gì không, đưa tay lên ? Ủa, không có ai hết à! Tui cũng vậy.
Tiếp tục, lối đi kín đáo lần xuống bải cho đến khi cảnh tượng hiện ra trước mắt, tui mới hiểu câu nói của thầy CHABERT : Ây da, Tui đang đi vào khu vực . . . TẮM TRUỒNG. Ô là la!
Nghe đâu bên VN ngày nay gọi là . . TẮM TIÊN đấy hihi
Từ nhỏ đến giờ tui chưa có dịp thấy chị Hằng . . . Tây. Cũng chưa coi tuồng cải lương Con Gái Chị Hằng. Bây giờ trước mắt lại . . . quá nhiều . . . Con Bé của Chị Hằng đủ kích cở, màu mè.
Tui đâm ra hoảng thiệt. bèn thối lui !
Dáng dấp của tui hơi phong trần, dân đi biển lì sóng gió, chưa biết sợ là gì, tánh nóng như Trương Phi nhưng . . . hơi nhát nên tui nhịn hay lắm kể cã nhịn thèm, nhịn ngắm hihi. Hai đứa bèn đi trở lên. Anh bạn VN cười quá chừng : ông Thầy đáo để thật, nói xa nói gần bây giờ mới hiểu !
Tự nhiên nhớ lại bài thơ Thầy Đồ:
Thầy Đồ là người tài bộ,
Gánh đồ đi giao thụ phủ Vĩnh Trường.
Trước nha môn thiết trí học đường,
Dạy năm đứa chi hồ dã dã.
Những bửa thầy Đồ nhàn hạ,
Đồ ra sân, ngắm ã hái hoa.
à lom khom, ã để . . . đồ ra,
Đồ trông thấy, ngâm nga tức khắc.
Phong tiền lạng mạn hoa xuân sắc,
Thủy diện lang bang bạnh thổ thần.
Đồ ngâm rồi, Đồ đứng tần ngần,
Đồ nọ ngắm đồ kia không chớp mắt.
Suốt năm canh Đồ nằm khôn nhấp,
Những mơ màng Đồ nọ tưởng đồ kia.
Đồ ơi, gặp gở làm chi !
Thử hỏi quí vị chứ đêm đó, tui có ngủ ngon giấc hay trở mình hoài. Nói
thiệt nha, trằn trọc một lúc rồi cũng thiếp đi. Giật minh tỉnh dậy, mồ
hôi đầy mình : Đêm qua, tui vừa mơ gặp . . . ân nhân râu dài, tóc bạc
phơ, nhờ ông ta mà hôm nay tui thành Tây . . . giấy ! ! !
Có Thầy dể chịu như vậy thì cũng có Thầy gắt gao, khó chịu
dể sợ, đánh rớt thí sinh dù rằng đó là . . . con ruột của mình. Đối với
ông, thuyền trưởng là phải giỏi nghề vì trách nhiệm nặng nề. Khi tàu cập
bến ở nước khác thì đó là một quốc gia nhỏ trong một quốc gia. Cho nên,
khi chấm thi môn loại vấn đáp, hỏi đứa con ruột mà nó không trã lời
được, ông ta cho điểm loại và nói :
« Mầy về nói với Vợ tao là con của Bã học dở quá, năm tới phải ở lại lớp »
Nghe khũng khiếp chưa các bạn !!( Nếu xứ mình cũng được như vậy thì. . . . Mà thôi !)
Một ông giám khảo ở trường khác đến chấm thi, còn khó ghê
gớm hơn nửa : một thí sinh đã bị ổng đánh rớt năm trước trên miền Bắc,
trường Le Havre. Năm nay sợ quá, trốn ổng xuống đây ghi tên thi vì ông
này chuyên chấm trên đó. Ông nổi danh là Bourreau Đao phủ. Số xui tận
cùng, năm nay ông ta lại xuống miền Nam! Khi thấy tên ổng trên danh sách
giám khảo chấm môn loại Calcul d'assiette, nó than trời. Mà thiệt, lần
này, ông ta đánh rớt nó nửa! Thê thảm quá.
Ông ngồi nơi bàn học trò, nó đứng trên bãng, còn tụi này đứng ở ngoài quan sát.
Ông
cho tựa đề xong, nói : Je vous écoute, tôi nghe anh đây.Thằng nhỏ chết
điếng, không viết được một chử. Mấy phút trôi qua, ông nói: còn nhiều
người sau anh, đang đợi bên ngoài kìa, anh viết cái gì đi chớ! Viết chử a
đi. Nó lật đật viết chử a. Ông tiếp: đừng ngưng lại kéo dài nét cuối
ra, kéo ra nửa, ra nửa, tới cửa rồi, thôi cám ơn, đi ra luôn đi ! Ghê
chưa các bạn đồng khóa của tui, chưa vô phòng thi mà thấy ướt quần rồi.
Vậy mà số tui hên, hay không bằng hên là vậy. Tới phiên lên
máy chém, ông hỏi tui về Carène Liquide với cách tính Moment d'inertie
trong mặt hầm dầu khi tàu nhãy, lắc. Ối giời ơi, đây là món nghề của em
đấy các anh ạ! Nghe tui trã lời suông sẻ vừa dẩn chứng công thức, chừng
được ba phút thì ông ta chận lại, hỏi: anh có làm thuyền trưởng rồi phải
không ? Tui đáp dạ có. Ông ta nói : Tốt, được rồi, Cám ơn anh, anh có
thể đi ra !!! Lại Chúa Bà, Trời Phật, có bao nhiêu chử Amen, Mô phật tui
làm ráo hết. À, tui nhớ ra rồi, ông ta tên là MENAN, nghe nói hồi xưa
vốn là Phó Thuyền Trưởng chiếc tàu du khách FRANCE vao khoản thập niên
50 với câu ghi chú bất hủ trên Paris Match Voici Le France dont La
France est fière. ( Đây là chiếc tàu France mà nước Pháp hảnh diện vì
nó).
Cha mẹ tui vốn là nhà giáo. Chuyện tôn sư trọng đạo, quân,
sư, phụ là truyền thống tốt đẹp của dân mình. Trong nhà, cã hai thường
hay nhắc nhở điều đó với con cái.
Ngày Cha Mẹ tui qua đời, học trò củ đội khăn tang, đến quỳ
trước linh cửu. Có anh chị học trên tui mấy năm, hoặc học sau tui mấy
khóa. Hết lớp này đến lớp khác.
Một người bạn Pháp du lịch VN, lúc đó đang ở Saigon biết
tin, anh vội mang tràng hoa, đến chia buồn với gia đình. Thấy học trò Ba
tui, bây giờ đã là những ông bà già trên 60 tuổi, hàng hàng lớp lớp đến
quỳ trước linh cửu, anh ta đi từ ngạc nhiên qua đến ngưởng mộ tinh thần
tôn sư trọng đạo của VN. Tui giải thích cho anh ta biết là đối với
người VN, đã là học trò thì suốt đời phải giử phận học trò đối với Thầy,
dù mình có làm ông này bà kia trong xã hội đi chăng nửa.
Sẳn dịp, hỏi nó một câu, nó nói không biết nên tui kể cho nó nghe:
Hồi
nhỏ, tao có học bài Phải Tôn Kính Thầy. Chuyện kể bên xứ Pháp, Tổng
Thống Sadi CARNOT về thăm quê củ. Nhân tiện trên đường đi, ông ghé qua
thăm ngôi trường xưa. Thầy lớp vở lòng vẫn còn đó, vội ra đón tiếp ông
với vẽ tôn kính đối với một Tổng Thống. Ông ôm Thầy trong vòng tay và
nói: « Thưa Thầy, đừng làm như vậy, con mãi mãi là đứa học trò bé bỏng
của Thầy ngày nào »
Trước mặt mọi quan chức và đám học trò, ông nói «
Đây là Vị Thầy đầu đời, người đã khai tâm cho tôi. Tôi có được ngày nay
là nhờ công ơn dạy dổ của Thầy. Riêng các em, phải cố gắng học hành,
nghe lời Thầy dạy để mai sau thành người có ích cho xã hội. Nhớ nghe các
em, không Thầy đố mầy làm nên! ». . . Quá tuyệt vời !
Cựu GĐ Châu là vị Thầy đầu đời trong nghề của tui, sống bên Pháp. Các
Thầy khác phần lớn bên Mỹ. Ngày Thầy về cỏi vỉnh hằng, tui được các Quý
Thầy, Niên Trưởng khắp năm châu giao phó, đại diện đến dự tang lễ. Tui
đã giử đúng phận học trò của mình, đội khăn tang đến quỳ lạy trước linh
cửu như còn bên VN.
Trời thương cho tui tánh nhớ dai. Khuôn khổ hạn hẹp của bài
không cho phép tui kể ra hết từng vị Thầy, từng bạn học, từng nét mặt,
từng câu nói mà tui không quên. Cho nên, gặp lại bạn học, tui thích nhắc
lại chuyện Thầy củ Trường xưa thuở nào. Âu dó cũng là Tinh Nghĩa Giáo
Khoa Thư vậy.