Kinh Khổ
Vì sao Trung Cộng hay dọa đánh Việt Cộng?
Ngày 21/6 vừa qua, trang mạng của Đài Á Châu Tự Do (RFA) đăng bài “Căng thẳng Việt - Trung”, trong đó có đoạn: “Chuyên gia quốc tế lo ngại sẽ có đụng độ xảy ra trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc gần bãi Tư Chính, nơi tàu Trung Quốc
Tóm lại, chừng nào ban lãnh đạo Việt Nam còn trùm lên đầu dân tộc cái vòng kim cô mang tên Marx-Lenin, chừng đó các gọng kìm chính trị - kinh tế - quân sự mang nhãn hiệu Đại Hán vẫn dần siết chặt dải đất hình chữ S, và khi đó thì Trung Quốc chẳng dại gì mà lại muốn “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Ngày 21/6 vừa qua, trang mạng của Đài Á Châu Tự Do (RFA) đăng bài “Căng
thẳng Việt - Trung”, trong đó có đoạn: “Chuyên gia quốc tế lo ngại sẽ có
đụng độ xảy ra trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc gần bãi Tư
Chính, nơi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Việt Nam vào năm 2011. Đây là lô
dầu 136/03 mà Việt Nam mới đây bắt đầu cho thực hiện các hoạt động khai
thác dầu. Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc cho biết đã
có thông tin về việc Trung Quốc đã triển khai khoảng 40 tàu và máy bay
vận tải Y-8 đến khu vực khai thác của Việt Nam.”
![]() |
Trong một cuộc biểu tình tại Đồng Nai. |
Đây không phải là lần đầu Trung Quốc có động thái hăm doạ Việt Nam.
Trong quá khứ, Bắc Kinh đã không ít lần hành xử như vậy, kể cả việc điều
động quân đội, và đó là những diễn biến hết sức nhạy cảm mà truyền
thông chính thống của cả hai bên không bao giờ đưa tin. Kể từ năm 1990
đến nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc không xảy ra thêm một vụ đụng độ
quân sự nào. Vì thế, người ta cũng không bao giờ biết được đầy đủ thông
tin về những lần Bắc Kinh “động binh” đe dọa Hà Nội, mà chỉ nghe phong
phanh qua những thông tin rò rỉ, hoặc qua những kênh thông tin không
chính thức, trong bối cảnh ngay từ năm 2008, Trung Quốc đã soạn thảo kế
hoạch xâm lấn Việt Nam 31 ngày (*) một cách bài bản và chi tiết.
Tại sao Trung Quốc hay đe dọa Việt Nam?
Mặc dù bối cảnh diễn ra các vụ căng thẳng ngoại giao khác nhau trong
từng trường hợp cụ thể nhưng bản chất của chúng thì gần như không thay
đổi: Việt Nam muốn bảo vệ chủ quyền hay lợi ích quốc gia hợp pháp của
mình trước sự ức hiếp quá đáng của Trung Quốc. Chẳng hạn, trong vụ căng
thẳng đang thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận trong và ngoài nước nói
trên, Việt Nam từ trước tới nay luôn khẳng định khu vực bãi Tư Chính
nằm trong thềm lục địa của mình, không thuộc khu vực tranh chấp với bất
kỳ quốc gia nào. Ngược lại, phía Trung Quốc thì cho rằng khu vực đó nằm
trong đường lưỡi bò, vốn do họ tưởng tượng ra và bao trùm phần lớn Biển
Đông, vì thế đó là khu vực tranh chấp, cần “thương lượng, đàm phán” để
“phân định”.
Việc Bắc Kinh lần này lại giở thủ đoạn đe dọa quân sự với Việt Nam là
bằng chứng cho thấy đây là “ngón võ” ưa thích của họ, thường đem lại kết
quả có lợi cho họ. Bởi chỉ cần một lần bị đe dọa mà đối phương không tỏ
ra nao núng thì kẻ hăm dọa đã cảm thấy ê chề, còn đối tượng bị hăm doạ
thì lại càng trở nên khinh nhờn, cứng đầu.
Tại sao Trung Quốc lại thường thành công với thủ đoạn đe dọa sử dụng bạo
lực với Việt Nam, và tại sao dù hai bên đã không ít lần xảy ra căng
thẳng nhưng kể từ năm 1990 đến nay chưa một vụ đụng độ quân sự nào giữa
hai bên được ghi nhận?
Xin thưa, lý do rất đơn giản. Trong ban lãnh đạo Việt Nam luôn tồn tại
ba xu hướng quan điểm – đó là xu hướng “thân Tàu”, xu hướng “thân Mỹ,
phương Tây” và xu hướng trung dung (không theo Tàu mà cũng chẳng theo
Tây). Trong ba xu hướng quan điểm này, xu hướng “thân Tàu” hầu như luôn
chiếm ưu thế, bằng chứng là kể từ sau Đại hội VI đến nay, các vị Tổng Bí
thư luôn thể hiện lập trường đó, trong khi đất nước thì ngày càng rơi
vào vòng cương tỏa của Bắc Kinh.
Dĩ nhiên, những người có lập trường “thân Tàu” thì luôn sẵn sàng nhượng
bộ các ông chủ Trung Nam Hải, hoặc ít nhất là không phản đối trước những
yêu sách của họ. Quan trọng hơn, Trung Quốc không chỉ là chỗ dựa của
phái “thân Tàu”, mà còn là chỗ dựa của cả chế độ cộng sản Việt Nam. Vì
thế, nếu Bắc Kinh phát động tấn công quân sự Việt Nam thì cộng sản Việt
Nam gần như chắc chắn sẽ sụp đổ. Trước viễn cảnh đó, việc Trung Quốc đe
doạ tấn công còn tác động đến tâm lý và làm lung lay lập trường của các
thành viên có quan điểm trung dung, thậm chí cả những người có xu hướng
cấp tiến trong bộ máy, bởi cho dù có căm ghét người láng giềng phương
bắc “to xác, xấu bụng” đến mấy đi nữa thì những ông “vua không ngai” này
cũng không muốn chế độ sụp đổ để rồi mọi quyền lực, bổng lộc bỗng chốc
“một đi không trở lại”.
“Thấu hiểu” tâm lý đó nên mỗi khi căng thẳng xảy ra, Trung Quốc thường
hăm dọa tấn công Việt Nam, và kết quả là họ gần như luôn đạt được điều
mình mong muốn trong những lần đe dọa “động binh”, tiến thêm một bước
đến mục tiêu hiện thực hoá giấc mơ thôn tính Việt Nam vốn cháy bỏng
trong tâm can suốt hàng ngàn năm nay.
Vậy nếu Hà Nội không chịu không chịu lùi bước thì Trung Quốc có dám đánh Việt Nam hay không?
Những yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông là hoàn toàn phi pháp, bất
chấp cả bằng chứng lịch sử lẫn luật pháp quốc tế. Vì vậy, Trung Quốc
luôn yếu thế về mặt lý lẽ, và sức mạnh đáng kể nhất của họ chính là quân
sự. Mặc dù vậy, bản thân Bắc Kinh cũng rất ngại phải dùng tới sức mạnh
này. Bởi lẽ nếu họ đánh Việt Nam thì Hà Nội buộc phải ngả sang Mỹ và
phương Tây để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, đồng thời cải tổ hệ
thống và dân chủ hoá đất nước để tự cường dân tộc, nếu không muốn bị dân
chúng vùng lên lật đổ trong một cuộc cách mạng bạo lực. Còn Mỹ và đồng
minh, cho dù không muốn bị cuốn vào một cuộc chiến trực diện kéo theo
nhiều hậu quả khó lường với Trung Quốc, cũng sẽ vì lợi ích thiết thân
của mình mà ủng hộ Việt Nam trong khả năng có thể. Chỉ chừng đó thôi đã
cho thấy đây là một cuộc chiến đầy rủi ro với Bắc Kinh, chưa kể phản ứng
của các quốc gia trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Tóm lại, chừng nào ban lãnh đạo Việt Nam còn trùm lên đầu dân tộc cái vòng kim cô mang tên Marx-Lenin, chừng đó các gọng kìm chính trị - kinh tế - quân sự mang nhãn hiệu Đại Hán vẫn dần siết chặt dải đất hình chữ S, và khi đó thì Trung Quốc chẳng dại gì mà lại muốn “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Bất luận thế nào, khi đối tượng bị doạ dẫm cứ im lặng chịu đựng một cách
hèn nhát, bạc nhược để rồi đi tới đầu hàng, nhượng bộ theo cách này hay
cách khác thì quả thực là “ngu gì mà không doạ”.
(*)
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/China-InvasdionPlans-and-who-was-behind-the-scene-to-mastermind-MLam-09092008134943.html
Lê Anh Hùng
(Blog VOA)
Bàn ra tán vào (1)
Việt
Việt cộng đã thuần phục Trung cộng từ lâu rồi . Đây chỉ là màn kịch,Trung cộng muốn "rửa mặt " cho Việt cộng : ra cái điều rằng Việt cộng khác,Trung cộng khác,nhưng thực ra họ chỉ là một.Rửa mặt như thế để xoa dịu sự phản kháng của dân Việt
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- "Vài Chuyện Buồn 30 Tháng 4" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Sinh Nhật Buồn" - by Khuất Đẩu / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Sự thật về “Nước mắm Việt Hương” của Tàu (?) - by Kỳ Đỗ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Mỹ và người Việt khác nhau ở chỗ này !" - by Nguyễn Đắc Phúc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Lịch sử và hoài nghi _ Trần Thế Kỷ
Vì sao Trung Cộng hay dọa đánh Việt Cộng?
Ngày 21/6 vừa qua, trang mạng của Đài Á Châu Tự Do (RFA) đăng bài “Căng thẳng Việt - Trung”, trong đó có đoạn: “Chuyên gia quốc tế lo ngại sẽ có đụng độ xảy ra trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc gần bãi Tư Chính, nơi tàu Trung Quốc
Ngày 21/6 vừa qua, trang mạng của Đài Á Châu Tự Do (RFA) đăng bài “Căng
thẳng Việt - Trung”, trong đó có đoạn: “Chuyên gia quốc tế lo ngại sẽ có
đụng độ xảy ra trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc gần bãi Tư
Chính, nơi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Việt Nam vào năm 2011. Đây là lô
dầu 136/03 mà Việt Nam mới đây bắt đầu cho thực hiện các hoạt động khai
thác dầu. Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc cho biết đã
có thông tin về việc Trung Quốc đã triển khai khoảng 40 tàu và máy bay
vận tải Y-8 đến khu vực khai thác của Việt Nam.”
![]() |
Trong một cuộc biểu tình tại Đồng Nai. |
Đây không phải là lần đầu Trung Quốc có động thái hăm doạ Việt Nam.
Trong quá khứ, Bắc Kinh đã không ít lần hành xử như vậy, kể cả việc điều
động quân đội, và đó là những diễn biến hết sức nhạy cảm mà truyền
thông chính thống của cả hai bên không bao giờ đưa tin. Kể từ năm 1990
đến nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc không xảy ra thêm một vụ đụng độ
quân sự nào. Vì thế, người ta cũng không bao giờ biết được đầy đủ thông
tin về những lần Bắc Kinh “động binh” đe dọa Hà Nội, mà chỉ nghe phong
phanh qua những thông tin rò rỉ, hoặc qua những kênh thông tin không
chính thức, trong bối cảnh ngay từ năm 2008, Trung Quốc đã soạn thảo kế
hoạch xâm lấn Việt Nam 31 ngày (*) một cách bài bản và chi tiết.
Tại sao Trung Quốc hay đe dọa Việt Nam?
Mặc dù bối cảnh diễn ra các vụ căng thẳng ngoại giao khác nhau trong
từng trường hợp cụ thể nhưng bản chất của chúng thì gần như không thay
đổi: Việt Nam muốn bảo vệ chủ quyền hay lợi ích quốc gia hợp pháp của
mình trước sự ức hiếp quá đáng của Trung Quốc. Chẳng hạn, trong vụ căng
thẳng đang thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận trong và ngoài nước nói
trên, Việt Nam từ trước tới nay luôn khẳng định khu vực bãi Tư Chính
nằm trong thềm lục địa của mình, không thuộc khu vực tranh chấp với bất
kỳ quốc gia nào. Ngược lại, phía Trung Quốc thì cho rằng khu vực đó nằm
trong đường lưỡi bò, vốn do họ tưởng tượng ra và bao trùm phần lớn Biển
Đông, vì thế đó là khu vực tranh chấp, cần “thương lượng, đàm phán” để
“phân định”.
Việc Bắc Kinh lần này lại giở thủ đoạn đe dọa quân sự với Việt Nam là
bằng chứng cho thấy đây là “ngón võ” ưa thích của họ, thường đem lại kết
quả có lợi cho họ. Bởi chỉ cần một lần bị đe dọa mà đối phương không tỏ
ra nao núng thì kẻ hăm dọa đã cảm thấy ê chề, còn đối tượng bị hăm doạ
thì lại càng trở nên khinh nhờn, cứng đầu.
Tại sao Trung Quốc lại thường thành công với thủ đoạn đe dọa sử dụng bạo
lực với Việt Nam, và tại sao dù hai bên đã không ít lần xảy ra căng
thẳng nhưng kể từ năm 1990 đến nay chưa một vụ đụng độ quân sự nào giữa
hai bên được ghi nhận?
Xin thưa, lý do rất đơn giản. Trong ban lãnh đạo Việt Nam luôn tồn tại
ba xu hướng quan điểm – đó là xu hướng “thân Tàu”, xu hướng “thân Mỹ,
phương Tây” và xu hướng trung dung (không theo Tàu mà cũng chẳng theo
Tây). Trong ba xu hướng quan điểm này, xu hướng “thân Tàu” hầu như luôn
chiếm ưu thế, bằng chứng là kể từ sau Đại hội VI đến nay, các vị Tổng Bí
thư luôn thể hiện lập trường đó, trong khi đất nước thì ngày càng rơi
vào vòng cương tỏa của Bắc Kinh.
Dĩ nhiên, những người có lập trường “thân Tàu” thì luôn sẵn sàng nhượng
bộ các ông chủ Trung Nam Hải, hoặc ít nhất là không phản đối trước những
yêu sách của họ. Quan trọng hơn, Trung Quốc không chỉ là chỗ dựa của
phái “thân Tàu”, mà còn là chỗ dựa của cả chế độ cộng sản Việt Nam. Vì
thế, nếu Bắc Kinh phát động tấn công quân sự Việt Nam thì cộng sản Việt
Nam gần như chắc chắn sẽ sụp đổ. Trước viễn cảnh đó, việc Trung Quốc đe
doạ tấn công còn tác động đến tâm lý và làm lung lay lập trường của các
thành viên có quan điểm trung dung, thậm chí cả những người có xu hướng
cấp tiến trong bộ máy, bởi cho dù có căm ghét người láng giềng phương
bắc “to xác, xấu bụng” đến mấy đi nữa thì những ông “vua không ngai” này
cũng không muốn chế độ sụp đổ để rồi mọi quyền lực, bổng lộc bỗng chốc
“một đi không trở lại”.
“Thấu hiểu” tâm lý đó nên mỗi khi căng thẳng xảy ra, Trung Quốc thường
hăm dọa tấn công Việt Nam, và kết quả là họ gần như luôn đạt được điều
mình mong muốn trong những lần đe dọa “động binh”, tiến thêm một bước
đến mục tiêu hiện thực hoá giấc mơ thôn tính Việt Nam vốn cháy bỏng
trong tâm can suốt hàng ngàn năm nay.
Vậy nếu Hà Nội không chịu không chịu lùi bước thì Trung Quốc có dám đánh Việt Nam hay không?
Những yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông là hoàn toàn phi pháp, bất
chấp cả bằng chứng lịch sử lẫn luật pháp quốc tế. Vì vậy, Trung Quốc
luôn yếu thế về mặt lý lẽ, và sức mạnh đáng kể nhất của họ chính là quân
sự. Mặc dù vậy, bản thân Bắc Kinh cũng rất ngại phải dùng tới sức mạnh
này. Bởi lẽ nếu họ đánh Việt Nam thì Hà Nội buộc phải ngả sang Mỹ và
phương Tây để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, đồng thời cải tổ hệ
thống và dân chủ hoá đất nước để tự cường dân tộc, nếu không muốn bị dân
chúng vùng lên lật đổ trong một cuộc cách mạng bạo lực. Còn Mỹ và đồng
minh, cho dù không muốn bị cuốn vào một cuộc chiến trực diện kéo theo
nhiều hậu quả khó lường với Trung Quốc, cũng sẽ vì lợi ích thiết thân
của mình mà ủng hộ Việt Nam trong khả năng có thể. Chỉ chừng đó thôi đã
cho thấy đây là một cuộc chiến đầy rủi ro với Bắc Kinh, chưa kể phản ứng
của các quốc gia trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Tóm lại, chừng nào ban lãnh đạo Việt Nam còn trùm lên đầu dân tộc cái vòng kim cô mang tên Marx-Lenin, chừng đó các gọng kìm chính trị - kinh tế - quân sự mang nhãn hiệu Đại Hán vẫn dần siết chặt dải đất hình chữ S, và khi đó thì Trung Quốc chẳng dại gì mà lại muốn “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Bất luận thế nào, khi đối tượng bị doạ dẫm cứ im lặng chịu đựng một cách
hèn nhát, bạc nhược để rồi đi tới đầu hàng, nhượng bộ theo cách này hay
cách khác thì quả thực là “ngu gì mà không doạ”.
(*)
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/China-InvasdionPlans-and-who-was-behind-the-scene-to-mastermind-MLam-09092008134943.html
Lê Anh Hùng
(Blog VOA)