Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Việt Nam qua mắt giáo sĩ phương Tây: Lối chữa bệnh lạ lùng của người Trung kỳ
Cristoforo Borri (1585 - 1632) là một cố đạo người Ý sang Trung kỳ vào khoảng 1618. Về Roma, năm 1631, ông cho xuất bản quyển sách in đầu tiên của châu Âu nói về Trung kỳ của VN.
Về các ông lương y và phép chữa bệnh, tôi phải nói rằng ở Trung kỳ
có rất nhiều lương y người Bồ Đào Nha và bản xứ; thường có những bệnh
rất lạ, không có thuốc chữa đối với y sĩ Âu châu, thì ở đây các ông lang
đã biết rõ căn chứng rồi và chữa được rất dễ dàng. Đã nhiều lần các y
sĩ Bồ Đào Nha đã bỏ mặc người bệnh rồi tưởng thế là đi đứt, thì khi với
đến ông lang An Nam bệnh khỏi rất nhanh.
Những y sĩ bản xứ
Phương pháp của các y sĩ An Nam là khi bước vào buồng con bệnh, họ
đứng lại một lúc để cho hết sự xúc động trong khi đi đường. Đoạn họ bắt
mạch rất chủ ý và cẩn thận; xong rồi họ nói rõ căn bệnh cho người ốm
biết; nếu bệnh không còn chữa được, cứu được nữa thì họ nói thật; tôi
không có thuốc để chữa, tỏ cho con bệnh rõ là không thể nào qua khỏi
được; nếu họ đoán rằng nhờ thuốc họ mà người ốm lành mạnh được, họ sẽ
bảo cho ta biết là họ có thuốc chữa ta và bao nhiêu lâu thì ta đi đứng
được. Xong rồi thì họ tính tiền công, tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Cũng
có khi, họ làm giấy cam kết với gia chủ. Đoạn họ kê đơn và bốc thuốc
lấy, không nhờ đến bọn chế thuốc, một là để giữ kín, hết sức kín các đơn
thuốc của họ, hai là họ không dám tin và nhờ người khác bốc thuốc thay
họ. Nếu đúng hạn khỏi, bệnh nhân phải giả công cho thầy; nếu không khỏi
thì thầy uổng công và mất tiền thuốc.
Không như thuốc ta làm cho người uống ghê tởm, “bụng mềm và dãn
ra”, thuốc nam dễ uống như nước cháo và rất bổ, uống vào không cần phải
ăn cơm (?). Nên một ngày người ốm uống mấy lần như ta uống nước xuýt. Đã
không trái với lẽ tự nhiên, thuốc lại còn bồi bổ những bộ phận trong
người, làm tiêu các khí độc, mà không hành người ốm.
Vào chỗ này có một chuyện đáng kể: Một người Bồ Đào Nha ốm, nhờ các
lương y Âu châu chữa mãi không khỏi; người ta đành bỏ mặc anh ta chết
đấy không đến thăm nom nữa; sau vời một ông lang bản xứ đến; ông này cam
đoan chữa khỏi cho anh ta trong một kỳ hạn nhất định, nhưng căn dặn anh
ta là trong lúc để ông chữa, anh ta phải kiêng khem, sự đi lại với đàn
bà cấm ngặt; nếu anh ta trái lời thì không có thuốc nào chữa nữa; phải
cữ đàn bà mới sống được. Hai bên đồng ý làm giao kèo và ông lang nói
chắc ba mươi ngày thì khỏi. Bệnh nhân uống thuốc, vài ngày thấy khỏe
khoắn và không còn sợ cái việc mà ông lang đã cấm ngặt anh ta. Chuyện
đến đấy thì ông lang lại thăm anh ta, thấy mạch khác, bảo anh ta sửa
soạn việc ma chay đi vì ông không còn hy vọng gì nữa và hết phương để
cứu sống rồi; bảo anh ta đừng quên giả tiền công đã hẹn trong giao kèo
vì anh ta chết không phải lỗi tự ông ta. Việc đem đến cửa quan, án ra
bắt người bệnh cùng ông lang; và án tuyên rồi thì anh Bồ Đào Nha kia hấp
hối.
Lá cỏ thần kỳ
Người Trung kỳ còn biết chích huyết nữa; nhưng họ hà tiện máu người
ốm hơn ta và họ không dùng những dao chích thông thường đâu: họ có
những lông ngỗng trong có lắm “kim” bằng sứ rất sắc có cái to cái nhỏ,
hình răng cưa.
Khi phải mở một ống hồi huyết quản nào, họ đặt lên trên ống ấy một
chiếc lông ngỗng lớn vừa bằng bề ngang huyết quản, chiếc “kim” vào nông
hay sâu đúng với ý muốn. Phải phục họ là sau khi lấy đủ máu rồi, họ
chẳng cần đến băng bó, vải thấm và dây buộc gì cả, chỉ đem nước bọt nhấm
đầu ngón tay cái rồi đem ấn lên chỗ lỗ thủng, họ làm cho thịt giở lại
nguyên chỗ, máu ngừng chảy và vết thương chóng lành. Tôi cho vì họ dùng
chiếc “kim” sứ có răng nên mạch máu chóng hàn miệng và đập được ngay.
Người Trung kỳ không thiếu những tay giải phẫu. Tôi chỉ muốn đem cách họ đã chữa tôi và một người bạn ra làm thí dụ.
Từ một chỗ rất cao, tôi bị ngã xuống, dạ dày đập vào một khối đá;
tôi thổ huyết và ngực bị tổn thương. Uống thuốc tây chẳng đỡ chút nào.
Lúc đó có một ông lang chuyên nghề giải phẫu đến cho tôi một ít cỏ,
giống như cỏ mercuriale của ta (hỏa diễm thái), một phần ông ta đem giã
và đắp lên dạ dày tôi; một phần đem sắc lấy nước cho tôi uống; và một
phần bảo tôi ăn sống. Vài ngày sau, tôi hoàn toàn khỏi. Muốn tự thí
nghiệm lấy, tôi bắt một con gà con đem bẻ chân nó gãy thành nhiều đoạn
rồi đem cỏ ấy đắp lên những chỗ gãy vài bữa thì con gà nguyên lành.
Một thầy dòng bạn tôi bị bọ cạp đốt - nọc bọ cạp có thể làm chết
người ở xứ này - cổ họng sưng bạnh ra và chúng tôi đã nghĩ đến phép sức
dầu thánh cho thầy ta thì bỗng có một ông lang ngoại khoa đến, thổi một
hồ cơm với nước lã thường. Xong rồi ông ta đặt nồi cơm xuống dưới hai
chân thầy dòng, lấy chăn chùm kín thầy ta để hơi cơm và khói nóng không
mất đi đâu được. Hơi bốc lên đến chỗ bị thương, thì thầy dòng thấy bớt
đau, cổ hết sưng và người khỏe mạnh như không bao giờ bị bệnh cả.
Còn có nhiều việc tương tự như thế, nhưng thuốc dùng ngay tại xứ ấy
công hiệu hơn là đem về đây. Riêng tôi, tôi đem về một thùng nhỏ đại
hoàng (rhubarbe), lúc xuống tàu còn tốt vào bực nhất nhưng sau hai năm
đi đường lúc về đến Âu châu thì đại hoàng biến thể đến nỗi tôi không
nhận ra được nữa. Thế mới biết các dược thảo đem từ bên ấy về đây mất
hết cả linh nghiệm.
Cristoforo Borri
(Nguyễn Trọng Phấn dịch)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Việt Nam qua mắt giáo sĩ phương Tây: Lối chữa bệnh lạ lùng của người Trung kỳ
Cristoforo Borri (1585 - 1632) là một cố đạo người Ý sang Trung kỳ vào khoảng 1618. Về Roma, năm 1631, ông cho xuất bản quyển sách in đầu tiên của châu Âu nói về Trung kỳ của VN.
Về các ông lương y và phép chữa bệnh, tôi phải nói rằng ở Trung kỳ
có rất nhiều lương y người Bồ Đào Nha và bản xứ; thường có những bệnh
rất lạ, không có thuốc chữa đối với y sĩ Âu châu, thì ở đây các ông lang
đã biết rõ căn chứng rồi và chữa được rất dễ dàng. Đã nhiều lần các y
sĩ Bồ Đào Nha đã bỏ mặc người bệnh rồi tưởng thế là đi đứt, thì khi với
đến ông lang An Nam bệnh khỏi rất nhanh.
Những y sĩ bản xứ
Phương pháp của các y sĩ An Nam là khi bước vào buồng con bệnh, họ
đứng lại một lúc để cho hết sự xúc động trong khi đi đường. Đoạn họ bắt
mạch rất chủ ý và cẩn thận; xong rồi họ nói rõ căn bệnh cho người ốm
biết; nếu bệnh không còn chữa được, cứu được nữa thì họ nói thật; tôi
không có thuốc để chữa, tỏ cho con bệnh rõ là không thể nào qua khỏi
được; nếu họ đoán rằng nhờ thuốc họ mà người ốm lành mạnh được, họ sẽ
bảo cho ta biết là họ có thuốc chữa ta và bao nhiêu lâu thì ta đi đứng
được. Xong rồi thì họ tính tiền công, tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Cũng
có khi, họ làm giấy cam kết với gia chủ. Đoạn họ kê đơn và bốc thuốc
lấy, không nhờ đến bọn chế thuốc, một là để giữ kín, hết sức kín các đơn
thuốc của họ, hai là họ không dám tin và nhờ người khác bốc thuốc thay
họ. Nếu đúng hạn khỏi, bệnh nhân phải giả công cho thầy; nếu không khỏi
thì thầy uổng công và mất tiền thuốc.
Không như thuốc ta làm cho người uống ghê tởm, “bụng mềm và dãn
ra”, thuốc nam dễ uống như nước cháo và rất bổ, uống vào không cần phải
ăn cơm (?). Nên một ngày người ốm uống mấy lần như ta uống nước xuýt. Đã
không trái với lẽ tự nhiên, thuốc lại còn bồi bổ những bộ phận trong
người, làm tiêu các khí độc, mà không hành người ốm.
Vào chỗ này có một chuyện đáng kể: Một người Bồ Đào Nha ốm, nhờ các
lương y Âu châu chữa mãi không khỏi; người ta đành bỏ mặc anh ta chết
đấy không đến thăm nom nữa; sau vời một ông lang bản xứ đến; ông này cam
đoan chữa khỏi cho anh ta trong một kỳ hạn nhất định, nhưng căn dặn anh
ta là trong lúc để ông chữa, anh ta phải kiêng khem, sự đi lại với đàn
bà cấm ngặt; nếu anh ta trái lời thì không có thuốc nào chữa nữa; phải
cữ đàn bà mới sống được. Hai bên đồng ý làm giao kèo và ông lang nói
chắc ba mươi ngày thì khỏi. Bệnh nhân uống thuốc, vài ngày thấy khỏe
khoắn và không còn sợ cái việc mà ông lang đã cấm ngặt anh ta. Chuyện
đến đấy thì ông lang lại thăm anh ta, thấy mạch khác, bảo anh ta sửa
soạn việc ma chay đi vì ông không còn hy vọng gì nữa và hết phương để
cứu sống rồi; bảo anh ta đừng quên giả tiền công đã hẹn trong giao kèo
vì anh ta chết không phải lỗi tự ông ta. Việc đem đến cửa quan, án ra
bắt người bệnh cùng ông lang; và án tuyên rồi thì anh Bồ Đào Nha kia hấp
hối.
Lá cỏ thần kỳ
Người Trung kỳ còn biết chích huyết nữa; nhưng họ hà tiện máu người
ốm hơn ta và họ không dùng những dao chích thông thường đâu: họ có
những lông ngỗng trong có lắm “kim” bằng sứ rất sắc có cái to cái nhỏ,
hình răng cưa.
Khi phải mở một ống hồi huyết quản nào, họ đặt lên trên ống ấy một
chiếc lông ngỗng lớn vừa bằng bề ngang huyết quản, chiếc “kim” vào nông
hay sâu đúng với ý muốn. Phải phục họ là sau khi lấy đủ máu rồi, họ
chẳng cần đến băng bó, vải thấm và dây buộc gì cả, chỉ đem nước bọt nhấm
đầu ngón tay cái rồi đem ấn lên chỗ lỗ thủng, họ làm cho thịt giở lại
nguyên chỗ, máu ngừng chảy và vết thương chóng lành. Tôi cho vì họ dùng
chiếc “kim” sứ có răng nên mạch máu chóng hàn miệng và đập được ngay.
Người Trung kỳ không thiếu những tay giải phẫu. Tôi chỉ muốn đem cách họ đã chữa tôi và một người bạn ra làm thí dụ.
Từ một chỗ rất cao, tôi bị ngã xuống, dạ dày đập vào một khối đá;
tôi thổ huyết và ngực bị tổn thương. Uống thuốc tây chẳng đỡ chút nào.
Lúc đó có một ông lang chuyên nghề giải phẫu đến cho tôi một ít cỏ,
giống như cỏ mercuriale của ta (hỏa diễm thái), một phần ông ta đem giã
và đắp lên dạ dày tôi; một phần đem sắc lấy nước cho tôi uống; và một
phần bảo tôi ăn sống. Vài ngày sau, tôi hoàn toàn khỏi. Muốn tự thí
nghiệm lấy, tôi bắt một con gà con đem bẻ chân nó gãy thành nhiều đoạn
rồi đem cỏ ấy đắp lên những chỗ gãy vài bữa thì con gà nguyên lành.
Một thầy dòng bạn tôi bị bọ cạp đốt - nọc bọ cạp có thể làm chết
người ở xứ này - cổ họng sưng bạnh ra và chúng tôi đã nghĩ đến phép sức
dầu thánh cho thầy ta thì bỗng có một ông lang ngoại khoa đến, thổi một
hồ cơm với nước lã thường. Xong rồi ông ta đặt nồi cơm xuống dưới hai
chân thầy dòng, lấy chăn chùm kín thầy ta để hơi cơm và khói nóng không
mất đi đâu được. Hơi bốc lên đến chỗ bị thương, thì thầy dòng thấy bớt
đau, cổ hết sưng và người khỏe mạnh như không bao giờ bị bệnh cả.
Còn có nhiều việc tương tự như thế, nhưng thuốc dùng ngay tại xứ ấy
công hiệu hơn là đem về đây. Riêng tôi, tôi đem về một thùng nhỏ đại
hoàng (rhubarbe), lúc xuống tàu còn tốt vào bực nhất nhưng sau hai năm
đi đường lúc về đến Âu châu thì đại hoàng biến thể đến nỗi tôi không
nhận ra được nữa. Thế mới biết các dược thảo đem từ bên ấy về đây mất
hết cả linh nghiệm.
Cristoforo Borri
(Nguyễn Trọng Phấn dịch)