Truyện Ngắn & Phóng Sự
Võ Phiến - Thương Hoài Ngàn Năm
Trong bốn chị em chỉ có mình Bạch là con của cha. Cả cha và mẹ Bạch đều không rõ tại sao lại thế. Có lẽ cũng không có lý do gì đích đáng; sự thắng cuộc của ông Nghĩa lần này có thể chỉ là sự ngẫu nhiên
(Còn tiếp)
Trong bốn chị em chỉ có mình Bạch là con của cha. Cả
cha và mẹ Bạch đều không rõ tại sao lại thế. Có lẽ cũng không có lý do gì đích đáng;
sự thắng cuộc của ông Nghĩa lần này có thể chỉ là sự ngẫu nhiên. Tuy vậy đó là
một trận thắng rõ rệt: ảnh hưởng của người cha trên tâm tính đứa con gái mỗi
ngày một rõ, khiến cho việc nhắc đến ông Nghĩa trong trường hợp này thành ra
cần thiết.
Ông Nghĩa cũng có chút học thức; biết xem và thảo các loại
khế bán ruộng, đợ ruộng, giấy mua bò v.v.. bằng hán văn. Nhiều người trong xóm
làng nể ông Nghĩa. Tuy thế ông cũng chỉ được cử làm “đoàn thập” là một chức còn
nhỏ hơn trùm xóm, không có quyền lợi gì. Ông Nghĩa chỉ “chịu trách nhiệm” suông
về mười người dân, vậy thôi. Như thế thực là tệ, nhưng ông không ao ước gì hơn.
Người ta cử ông làm đoàn thập đã ba mươi năm mà không thấy cấp trên khen chê thăng
thưởng hay trừng phạt gì; ông cũng chẳng hề biết bổn phận rõ rệt của mình là
làm những gì.
Trái lại ở trong gia đình, ông Nghĩa có nhiều công việc. Lúc
nào trông ông cũng chăm chăm chú chú: lúc thì đánh sợi dây nài, lúc tra cái lưỡi
cày, lúc sửa trạnh cày, thường thường thì đan đát. Từ giờ này qua giờ khác, từ
buổi này sang buổi kia, ông gườm cặp mắt sau cặp kính trắng gọng thau, xỏ sợi
mây nhọn qua lỗ nan để thắt những cái nút trôn ốc vòng theo những miệng thúng,
miệng rổ, miệng nia, miệng nong v.v...
Nét mặt ông Nghĩa lúc nào cũng một vẻ nghiêm chỉnh buồn thiu.
Làm xong mỗi món đồ, ông xếp cất, không bao giờ có cái ý ngắm nghía thưởng thức
một công trình hoàn thành thích ý. Rồi lại rầu rầu, nghiêm chỉnh, buồn thiu,
ông quay ra vớ công việc khác để tiếp tục, không vội vàng, nhưng không nhởn nhơ
bỏ mất thì giờ vô ích.
Ông Nghĩa cặm cụi nhưng không say mê, ông làm luôn tay nhưng
không phải vì tiếc công tiếc việc mà không dám nghỉ. Chỉ là vì ông Nghĩa không
có cái sáng kiến nghĩ ra cách nghỉ. Nghỉ việc rồi khoanh tay ngồi lì ra đó chịu
được sao? Làm cách gì để tiêu khiển? nói chuyện gì? nói với ai? bắt đầu như thế
nào? Ðó là những vấn đề mà trí óc ông Nghĩa không có khả năng giải quyết. Có
thể nói ông là người đần độn. Nhưng trình độ học thức, trong nhiều trường hợp,
có thể cứu vớt người ta trước sự phán xét của quần chúng. Người trong làng xóm
lúc nào cũng nhớ rằng ông Nghĩa thuộc vào cái số rất ít kẻ đọc thông chữ hán,
cho nên không có ai dùng tiếng đần độn để nói về ông. Người ta bảo là ông thực
thà.
Ông Nghĩa “thực thà” đến nỗi không sao có thể tiếp được
khách. Ðối diện với khách, chào hỏi xong, ông không tìm ra câu nào để nói nữa.
Ông chỉ trả lời những câu khách hỏi. Và ông sợ những phút im lặng; ông áy náy,
khó chịu, loay hoay, nhưng không có cách gì bịa ra nổi chuyện. Ðể bớt khổ sở,
ông phải tiếp tục cúi xuống đan đát, nên có vẻ gàn và kỳ cục. Mặc dù thế, sự có
mặt của người khách vẫn cứ đè nặng lên tinh thần ông, làm cho trí óc ông tê
liệt hẳn đi. Nếu lúc ấy có bà Nghĩa đến tiếp cứu hoặc khách cáo từ ra về, ông
mừng vô hạn.
Thực thà như thế làm sao ông Nghĩa tìm ra được những lúc nhàn
rỗi? Một người lành mạnh không thể nằm ngửa ra tơ hơ để thưởng thức thì giờ
nhàn rỗi. Còn những hoạt động xa xí như ngâm nga, hát xướng vài câu tuồng, hoặc
pha trà ngon ngồi nhấm từng hớp, hoặc dạo vườn tỉa hoa, hoặc ngắm nghía sửa mái
tóc của mình ..., thì đó lại là những sáng kiến không chịu nảy ra từ trí óc ông
Nghĩa. Ông không thể có một cử chỉ gì không phải là một công việc thực sự hữu
ích.
Mỗi động tác là mỗi công việc, như thế giản dị hơn cả. Ông
Nghĩa chọn thái độ giản dị.
Cắm cúi làm việc mãi, khi nào mỏi mệt quá ông quặt một tay ra
phía sau, đấm vào lưng mình năm bảy cái liên tiếp, rồi lom khom đứng lên, bước
lại tấm phản dưới hiên, nằm xuống một lát. Những khi ấy nếu Bạch không đi chơi
xa thì nó chạy lại ngồi bên cạnh, nhổ tóc ngứa và ngoáy tai cho cha. Không phải
ông Nghĩa bày vẽ cho nó những chuyện ấy. Chỉ là vì những khi đi chơi lang thang
trong xóm, con bé thấy bạn bè nó có đứa nhổ tóc ngoáy tai như thế, và về nhà nó
thí nghiệm trên đầu cha mình. Ông Nghĩa thấy hay hay. Nhiều lần con bé còn đang
ngồi mân mê tóc tai ông mà ông đã ngủ quên ngon lành.
Suốt ngày ông đoàn thập Nghĩa thức hay ngủ, lom khom làm việc
hay nằm khểnh ra nghỉ cũng không ai chú ý đến.
Bà Nghĩa, hồi còn trẻ, cố tránh không nhìn kỹ không nghĩ lâu đến
nét mặt và hình dáng của chồng. Ðó là một cách chống đối tiêu cực của người đàn
bà, chống đối để chịu đựng. Gặp một người chồng xấu xí, bà nhờ chọn được thái độ
như thế nên có thể ở với chồng trọn đời. Sự nhẫn nại lặng lẽ và anh hùng đó
chắc chắn được xếp vào những nết na truyền thống của người đàn bà Việt Nam. Nét mặt
ông đoàn thập trông lúc nào cũng quằm quặm, buồn thiu, nhớp nhúa, tối sầm. Nhìn
cái mặt ấy người ta trông thấy hiện ra tức khắc hình ảnh một cuộc đời lam lũ,
bần tiện, chật vật. Khổ người ông Nghĩa bé nhỏ, bước đi lóm khóm lật đật. Rõ
ràng là ông mang theo sẵn sự khổ sở từ trong lòng mẹ mà ra. Nếu bà Nghĩa có làm
điều gì không phải với chồng thì cũng chỉ là một cách xác nhận sự thực hiển
nhiên đó.
Hồi còn con gái bà Nghĩa luôn luôn bị cái hình thù xấu xí của
chồng ám ảnh. Khi thì bà nghĩ đến cái trán thấp tịt, khi nghĩ đến cặp chân mày
sát mí mắt, khi trông thấy cái cằm khuyết của ông. Bà khổ sở đau đớn, cố xua đuổi
những hình ảnh ấy đi. Mỗi lần thấy loáng thoáng trong trí một ý nghĩ về người
chồng, bà Nghĩa vội vàng lảng sang chuyện khác. Ý thức tự vệ chống cái ám ảnh đó
thấm nhuần mọi cử chỉ, ý tưởng, hành động của bà. Bất cứ lúc nào, trong trường
hợp nào, nghe nhắc đến tên ông Nghĩa, động đến một điều có liên quan tới ông,
tự nhiên bà nghe nhói lên trong lòng một cảm giác khó chịu, rồi tức khắc điều
vừa được nhắc đến bị gạt ra khỏi trí óc.
Bà ăn ở với chồng được ba bốn năm thì sự tự vệ của bà có một
kết quả thần diệu. Có thể nhắc nhở, chế giễu cặp mắt ti hí và lờ khờ hay dáng đi
lụp chụp lóm thóm của ông Nghĩa trước mặt bà, bà cũng dửng dưng. Lúc bấy giờ
chính bà lại nói được những câu như chế giễu ông cách thân mật, làm những cử
chỉ như là săn sóc kính trọng ông trước mặt khách lạ mà bà không hề mảy may cảm
xúc, khó chịu nữa. Ông Nghĩa dần dần chỉ còn là một đề tài, một cái cớ để bà
hoặc có dịp nói vài câu giễu cợt hay ho, hoặc đóng vai một người đàn bà khôn
khéo dịu ngọt. Ðó cũng là cách phát huy một vài nét đẹp của nguời đàn bà. Ðàn
bà vẫn chuộng các món trang sức. Một người chồng xấu xí như ông Nghĩa vẫn cứ có
thể biến hóa thành một món trang sức đắc dụng! Rồi khi khách của bà Nghĩa ra đi,
ông lại bị bỏ quên, cặm cụi lặng lẽ như một cái bóng trong gia đình.
Bà Nghĩa thay chồng giao thiệp với hết thảy khách khứa đến
nhà, bất cứ là vì công chuyện làm ăn hay là vì xã giao ân nghĩa. Hồi vợ chồng
ông còn trẻ, ai cũng thấy một tình trạng như thế là bất lợi.
Sự bất lợi xuất lộ đầu tiên là cô Hồng, cô con gái đầu lòng.
Cô Hồng không giống cha một mảy. Cô ta cũng không hề chịu gần gũi nguời cha.
Không ai để ý từ lúc nào, từ cỡ tuổi nào, đứa con gái bắt đầu biết phân biệt
xấu với đẹp, chỉ thấy rõ ràng là hình thù của ông Nghĩa gieo ác cảm và sự sợ
hãi vào lòng đứa bé khiến nó luôn luôn tìm cách xa lánh cha. Lớn lên Hồng không
sợ cha nữa, lại khinh nhờn. Cô ta cũng cư xử như mẹ, nghĩa là ăn, ngủ, chơi
bời, hành động y như không hề có một người cha trong gia đình. Như thế cho đến
năm mười tám tuổi thì cô Hồng chửa hoang, sinh được một đứa con trai. Mẹ con cô
tiếp tục sống trong gia đình ông đoàn thập năm năm nữa, rồi có người cháu họ
của bà Nghĩa bằng lòng cưới cô. Người cháu này là một anh kép hát. Khi cưới
nhau cô Hồng đã mang thai lần thứ hai được bốn tháng. Nhưng anh kép hát không
lấy làm quan trọng: đó là sự lỡ lầm thường xảy ra phía sau sân khấu.
Cô Hồng càng lớn càng giống ông lý trưởng làng An Quý; mà cô
Hoàng, em của Hồng, cũng lại là con của ông lý ấy. Rồi cô em nữa, cô Thanh,
cũng vẫn là con ông lý. Nhờ đó mười năm sau khi bà Nghĩa có chồng mọi người
thấy rằng bà không hay lang chạ: suốt đời chỉ làm vợ một người và chỉ yêu thương
có một người. Kẻ được lòng yêu của bà thì không được cái danh làm chồng, mà kẻ
có cái danh thì không được lòng yêu; điều may mắn là cả hai đều biết bằng lòng,
và hưởng thụ cái phần dành cho mình, không hề có một lầm lẫn.
Cô Hoàng có chồng sớm. Mười bốn tuổi cô đã nẩy nở ra dáng con
gái. Mười lăm tuổi có nhiều nơi ngấm nghé. Mười bảy tuổi thì bà Nghĩa gả cô cho
một anh giáo dạy lớp tư bên làng An Lợi. Ban đầu anh giáo gặp cô Hoàng ở chợ,
anh ta theo cô nhiều bận, nhưng nói rất ít, và cô thì gặp người văn nhã lấy làm
thẹn lắm, không dám chuyện trò. Trên một quãng đường vắng anh giáo vờ đánh rơi
một lá thư. Cô Hoàng nhặt đem về, cả nhà xúm nhau đọc, lấy làm thích thú, và đều
thấy cảm thương. Bà Nghĩa nhắn tin khuyến khích bên nhà trai. Hôm anh giáo đến
nhà ông Nghĩa lần đầu, cả nhà gái tò mò quan sát rất kỹ tác giả bức thư tình.
Ai nấy bằng lòng lắm. Ðó là một thanh niên trắng trẻo, hơi gầy. Mái tóc lưa thưa,
chải rất ướt, dán sát vào da đầu. Chân mày anh ta thưa đến nỗi trông gần như
trụi. Môi dày và đỏ. Cặp mắt chậm chạp nhưng có vẻ hơi dữ, thường nhìn lên.
Hai vợ chồng cô Hoàng ăn ở với nhau được hai năm thì sinh
chuyện bất hòa. Anh giáo đau một trận thương hàn, rồi tự nhiên phát ra chứng
toàn thân run rẩy. Anh giáo run đến nỗi không sao có thể bưng chén ăn được, vợ
phải đút cơm. Anh càng ốm đau, bất lực, càng ghen với cô vợ phốp pháp. Hoàng bị
giữ chặt chẽ hơn hồi còn con gái, không được đi xem hát, xem hội, không được đi
chợ xa... Nhưng rồi về sau anh giáo bắt gặp vợ thông dâm với người trai cày của
cha mình. Cô bị cắt đi mái tóc. Sau trận xung đột kịch liệt ấy cô đâm liều,
giao du thân mật với rất nhiều người con trai, và không nhường nhịn chồng nữa.
Khi trước cô gái rụt rè kính trọng người văn nhân thanh nhã, nhưng lúc người đó
chỉ còn là một hình thù xấu xí bắt đầu lộ ra bản năng hung bạo, thì người con
gái thô lỗ hung bạo trong cô liền vùng dậy kháng cự. Và tất nhiên cô thắng thế.
Có ai ngờ khởi đầu anh giáo rơi một lá thư mà kết cuộc cô Hoàng mất mái tóc,
cuộc tình duyên lại trắc trở đến thế.
Cuộc đời hai người chị đầu đều xa lạ với Bạch. Lớn lên Bạch
cũng có nghe nhắc đến, nhưng các chuyện ấy không làm cô gái suy nghĩ. Hai chị đầu
thuộc về lớp người lớn. Cho đến cô Thanh cũng sinh trước Bạch đến chín năm.
Thanh được bảy tám tuổi, người ta đã tưởng cô ta là con út. Khi Thanh mười sáu
tuổi thì Bạch mới chỉ có bảy tuổi. Chênh lệch nhau thế cho nên hai chị em không
mấy khi gần nhau. Trong khi Bạch vọc cát, vọc đất, lúc thúc chơi ngoài vườn hay
ngoài bãi sông thì Thanh đi cấy, đi gặt, chằm nón, may áo. Những lúc rảnh, Thanh
đi cặp kè bạn bè, rất ít khi ngó đến em. Chỉ những khi nào cô Thanh đi đêm một
mình bà Nghĩa buộc phải dẫn Bạch theo, “cho có bạn”. Thanh biết rằng con bé
chẳng phải để làm cho mình vui vẻ gì dọc đường, mẹ cô cũng chẳng quyết giữ gìn
cô chặt chẽ hơn các người chị; tuy vậy cô cũng thuận nhận đem em theo như một
thủ tục không thể bỏ qua.
Sự thực thì Bạch không trở ngại gì công việc của chị. Có một
lần chị em đi xem che mía ở An Lợi. Người ta che mía và nấu đường giữa đồng cho
khỏi tốn công vác mía cây về nhà. Gặp đám che giữa đêm trăng trai gái thường
kéo đến vịn che, vừa đi vừa hát suốt đêm. Hôm ấy Bạch được chị xin cho cây mía,
ngồi ăn. Ăn hết một đoạn, nó buồn ngủ và nằm ngủ bên bờ ruộng. Khuya, thức dậy,
nó không thấy chị trong đám người chạy che. Con bé lặng lẽ đi tìm. Khi trông
thấy chị nó với một người con trai ôm nhau trửng giỡn như cặp chồn cắn lộn giữa
bụi cây thì nó ngạc nhiên sợ hãi ngồi nép xuống. Nó im lặng nghe chị nói chuyện
rì rầm, nhìn chị hôn hít. Và khi trông thấy chị nó phơi bày da thịt trắng nõn dưới
trăng, con bé lặng lẽ ngồi xem. Sau, nó lại kê đầu lên bờ ruộng nằm ngủ cho đến
lúc chị nó tìm thấy, vác nó về nhà.
Hai ngày sau, chị nó ngồi vá áo. Con bé đang chơi với chiếc
lon thiếc và hai ống chỉ, chợt dừng lại nhìn chị, suy nghĩ. Nó nhìn cánh tay
nung núc của chị phơi ra ngoài tay áo cánh. Thanh không để ý đến đứa em, nhưng
trong lúc nghiêng đầu cắn một mối chỉ, Thanh liếc mắt trông thấy cái nhìn của
nó, hơi ngờ ngợ. Con bé sợ hãi cúi mặt xuống. Lần lần nó lân la đến bên cạnh
Thanh và không để chị biết, nó rón rén vén vạt áo của chị lên. Nó vén lần lên
cho đến khi chị nó giật mình ngạc nhiên, gạt tay nó và trợn mắt. Nó sợ hãi,
liền bỏ đi.
Con bé không bao giờ đả động gì đến câu chuyện mà nó mục kích
dưới trăng trong đêm che mía. Hình như những điều trông thấy giữa hai giấc ngủ,
nó cũng cho là lạ lùng. Nó lấy làm nghi hoặc, nhưng tính nó lầm lì âm thầm, vả
lại tự dưng nó cũng cảm thấy đó không phải là điều nên đem ra hỏi. Thỉnh thoảng
nó lén lút tìm cơ hội nhìn lại da thịt chị nó như tìm xem tang chứng dấu tích để
xác nhận một sự thực ngờ vực.
Thanh không nghi ngờ gì em và không để ý đến nó. Vì thế trong
lúc thơ ấu nó lại được nhiều lần chứng kiến hành động thân mật của chị.
Trong
bốn chị em, chỉ có Bạch sống gần cha. Cũng có lẽ chỉ có nó là con của cha. Tại
sao đứa con thứ tư lại thuộc về phần ông Nghĩa? Thỉnh thoảng tạo hóa cũng để
dành cho mình cái quyền phép về một vài điều bí mật, người đời không biết được.
Tuy thắng cuộc như thế ông Nghĩa cũng không lấy làm hớn hở.
Chiến đấu không gặp hiểm nghèo thì thắng trận cũng không xem
là vinh quang, một người hùng của Corneille nghĩ vậy. Và ngay cái lúc ông Nghĩa
làm việc cho sự thắng trận ông không hề gặp sự hiểm nghèo, chắc vì đó mà ông
không cho là vinh quang.
Mặt mũi hình dáng Bạch không xấu xí như cha, hình dáng nó
giống mẹ, nhưng tính nó lại giống cha. Nó lầm lì suốt ngày. Ngay từ hồi lên hai
tuổi trong cặp mắt nó đã có cái vẻ lãnh đạm đố kỵ với những hoạt động ồn ào.
Khi cô hay dì nó chạy đến vồ vập nựng nịu nó, khi trẻ con la cười bên cạnh nó,
nó ngẩng lên, giương hai mắt tròn nhìn một lúc lâu rồi thản nhiên cúi xuống,
không hề hưởng ứng. Thái độ ấy làm cho dần dần chung quanh nó có sự lạnh nhạt,
và nó cùi cũi một mình.
Hồi ba bốn tuổi nó thường bắt kiến ăn, từng nhúm. Bà Nghĩa
lấy làm ghê tởm. Một lần bắt gặp con bé ăn kiến, bà đang cầm cái ống tre dài
bốn tấc tây dùng để thổi lửa, bà quất ngang mồm, và đập lên tay con bé mấy cái,
làm nó chảy máu mồm, dập môi, và bàn tay sưng vù lên. Nhưng tính Bạch lặng lẽ,
cho nên ít khi mẹ nó chú ý đến mà bắt được nó nghịch bậy. Nhiều lần nó ngồi lượm
kiến ăn hàng giờ ngay sau lưng mẹ mà bà Nghĩa không ngờ đến.
Cái sở thích bệnh hoạn kỳ cục đó được giải thích là vì con bé
ngu ngốc đần độn. Khi bà Nghĩa nói với khách: “Ai gặp phải đứa con như thế cũng
chịu thôi. Trông cái mặt của nó đần như thế kia mà dạy làm sao được...” thì
trong trí bà đã có lảng vảng sự căm giận khinh bỉ ông Nghĩa. Mấy tiếng “cái mặt
nó” dằn xuống một giọng ghê gớm; mối hằn học ấy không thể đè trút xuống một đứa
trẻ con. Dần dần rồi con bé càng lớn càng chịu rước hết mối ác cảm thay cha.
Quả nó thật là rầy rà. Nếu không có nó, người mẹ đã quên đi ông chồng xấu xí.
Sự ra đời của nó công khai xác nhận chủ quyền hiển nhiên của ông Nghĩa đối với
vợ, khêu lại sự tức giận khổ sở của người đàn bà.
Mẹ nó đối với nó đã như thế, không còn ai nghĩ có cách gì
chữa tật xấu của Bạch khác hơn là đánh cho thực đau. Khi lên năm tuổi, tự nhiên
nó bỏ ăn kiến.
Ở cái tuổi con nít thích chơi búp-bê, Bạch thấy cái thú gần
gũi cha nó. Ông Nghĩa cũng tiếp nhận sự săn sóc tỉ mỉ của nó với thái độ thụ động
của một con búp-bê. Con bé cứ đôi ba tháng lại đổi một sở thích, ông Nghĩa cứ để
mặc ý nó. Nó nhổ tóc ngứa chán rồi tập cách bẻ ngón tay ngón chân kêu lắc cắc.
Một độ nó thích đấm lưng. Có hồi nó tập vuốt trán bắt dấu. Nếu con bé ì ạch bên
cạnh mãi mà ông Nghĩa không ngủ được, thì ông ta khoát tay ngồi dậy, sai nó
chạy hái mấy lá mãng cầu, ông ta cúi xuống đất lấy lên một cây củi giấu sẵn dưới
phản, đập lộp bộp lên mép phản rồi thổi cho bay lớp tro tàn, hơ lá mãng cầu lên
lửa cho mềm để vấn thuốc hút. Có lúc vừa hút thuốc ông Nghĩa vừa nhìn đứa con
gái của mình. Thấy nó xinh, dễ thương quá, ông lấy làm thích thú vui vẻ. Và tự
nhiên ông ta nẩy ra thích thú bất ngờ, ông đùa, chìa điếu thuốc lên môi con bé,
cười vô duyên.
– Mày hút thử không?
Con bé nheo mắt lại tránh khói thuốc, vừa nhăn mặt vừa thụt
lui. Ông Nghĩa vẫn cười nhăn nhở, đưa một tay dúi thuốc vào gần mũi nó rồi lại
giật ra, cứ thế năm bảy lượt, chọc cho con bé giãy giụa nhăn nhíu mặt mũi. Làm
sao biết được lúc ấy trong lòng ông Nghĩa tràn ngập một nỗi thương yêu sung sướng
vô cùng, ông muốn kéo dài trò chơi. Ông ta cười vô duyên, nhưng trong hai mắt
nhìn chăm vào khuôn mặt con bé, người ta thấy lóng lánh ánh sáng của những giễu
cợt âu yếm và gần như thông minh.
Ðến khi Bạch hét to lên: “Chết! Thả ra!” ông Nghĩa mới vội
vàng buông tay, như mới vừa để ý đến cử chỉ của mình.
Ông Nghĩa vẫn nhìn con bé, cười, nhưng không còn sự vui vẻ
sung sướng nữa. Cái cười còn in trên môi ông chỉ như gắng gượng vụng về xin lỗi
con bé.
Khi cái cười tắt đi, gương mặt ông lại tối sầm, quằm quặm.
Ông hỏi đứa con gái:
– Ai cho mày sợi dây cườm này?
– Chị Hai.
– Chị Hai nào?
– Ðàng nhà cậu Bốn. Nhiều lắm. Ðứa nào cũng xin được một dây.
– Con Hai Khôi ở Nha Trang về hả? Hồi nào?
– Hôm qua... Cha không biết à?
– Không... Mày vừa đánh nhau với đứa nào vậy?
– Không.
– Thế sao trầy mũi?
– Mẹ đánh.
Ông Nghĩa chợt nghiêm sắc mặt lại như vụt biến thành một người
khác, không hề biết đến câu chuyện vừa chấm dứt. Miệng ông ngậm lại, môi trên
nhô ra trùm khuất môi dưới. Rồi ông Nghĩa đứng dậy đi tiếp tục công việc.
Thường thường ông tình cờ biết qua về những hoạt động trong
xóm là do đứa con gái nhỏ. Nhưng lần nào câu chuyện quanh co dẫn đến bà Nghĩa
thì ông dừng lại ngay.
Vả lại, cha con ông vẫn ít trò chuyện. Ông Nghĩa nằm yên cho
con đấm lưng rồi ngủ quên, ngáy ầm lên. Con bé hoặc đi tìm chỗ khác chơi, hoặc
có khi cũng nằm queo ngủ bên cạnh cha.
Lúc đó nếu có khách đến thì bà Nghĩa tùy trường hợp mà đối
xử. Hoặc là phát thực mạnh vào mông con bé và la ầm lên cho cha con vùng dậy.
Con bé hoảng hồn lủi đi chỗ khác, ông Nghĩa thì tuột xuống đất ngồi đan đát.
Hoặc bà tươi cười nhìn hai bố con với một vẻ khoan dung bao bọc và nói như xin
lỗi khách: “Chao ôi là ngủ! Tội nghiệp! Thôi để yên cho cha con ngủ.” Rồi bà
lấy một cái quạt bằng mo cau ép phất phất mấy cái để xua ruồi. Trong khi tiếp
chuyện khách, thỉnh thoảng bà Nghĩa lại gần, kéo ống quần con Bạch xuống cho
kín chân, cài cho nó một hột nút áo, và lại quạt cho hai cha con.
Khi khách đi rồi, bà Nghĩa quay qua công chuyện khác, như
không trông thấy hai cha con ông Nghĩa nữa, như không hề biết có cha con ông
nằm ngủ trước hiên.
Cho đến mười ba mười bốn tuổi, Bạch vẫn còn ngủ chung với
cha. Mình mẩy tóc tai nó hôi mùi khói thuốc nồng nặc. Một hôm Hồng về thăm nhà
– thường lâu lắm, một đôi năm, Hồng mới về nhà một chuyến – trông thấy nó, buột
miệng khen:
– Mẹ thấy không? con này nước da trắng, giống mẹ. Rồi nữa lớn
nó đẹp đấy.
Bà Nghĩa cười hè hè lơ đãng:
– Chị khéo khen em!
Rồi bà lén nhìn lại đứa con gái út. Một lát tự dưng bà lại cười
hề hề, chưa rời ý nghĩ về con bé.
Nhưng bỗng Hồng la lên:
– Sao mày hôi thuốc lá quá vậy, Bạch?
Bà mẹ tắt liền nụ cười:
– Còn tại sao nữa? Ngày nào đêm nào cũng ôm khư khư lấy cha
nó, ông ấy phà khói thuốc mù mịt.
– Trời đất! Con gái chừng này còn ngủ với cha. Kỳ cục.
Bà Nghĩa trọn mắt quay lại phía con Bạch, chỉ vào trán nó:
– Ðó! Nghe chưa? Từ rày phải kiếm chỗ mà ngủ riêng ra, nghe
chưa? Gớm! Còn nhỏ xác lắm sao?
Rồi thình lình bà ngoắc lại hỏi nhỏ Hồng, nghiêm trọng:
– Nghe nói thầy giáo bên đó kêu bán hai mẫu ruộng rộc, có
không?
– Mẹ tính mua hả?
Bà Nghĩa giật lùi ra, gườm con gái:
– Hừm! Cái con này! Thì hỏi vậy thôi...
– Ðừng mua ruộng nữa. Có ruộng rồi khổ đa, mẹ không biết sao?
Bà Nghĩa hớn hở, thân mật:
– Vậy há? Mày nghe nói chủ trương của nhà nước thế nào?
Hồng biết khi mẹ gườm mình phản đối thì bà hãy còn định mua,
nhưng khi bà nghiêng người tới hỏi “vậy hả”? thì bà đã sắp đổi ý rồi.
Bà Nghĩa làm chủ gia đình. Và cách thức giải quyết công việc
của người chủ gia đình là như thế, thường thường ngay trong khi trò chuyện. Có
nhiều điều xảy ra trong nhà bà không chú ý đến, nhân có người nêu lên trong một
câu chuyện, lập tức bà quay ra giải quyết nhanh như cắt. Cứ lần lượt hết chuyện
này đến chuyện kia, lắm khi một người khách đến chơi một lát giúp bà sắp đặt
chỉnh đốn năm bảy công việc gia đình.
Và như thế, Bạch ngủ riêng.
Nó không hôi mùi thuốc lá nữa. Gần nó chỉ nghe mùi lông bò
thôi. Dẫu sao đó cũng vẫn còn là thứ mùi thừa đi. Nếu không có, người ta đã
ngửi được mùi con gái của nó.
Bạch vẫn chăn bò từ hồi lên tám. Nó đã quen cưỡi lên lưng bò.
Ðáng lẽ lớn lên nó không được cưỡi nữa. Mẹ nó đã cấm: “Mày tưởng còn nhỏ xác
lắm sao? con gái lớn chồng ngồng chừng ấy ngồi ngất nghểu trên lưng bò không
biết mắc cỡ, tao chịu mày.” Nhưng Bạch vẫn lén lút cưỡi bò. Nó không mắc cỡ.
Mặc dù hôi hám, ăn mặc lôi thôi, tính nết chi bi chim bỉm,
thực thà gần như khờ dại, nó vẫn được con trai chú ý. Vì nó đẹp. Luôn luôn phơi
nắng, nhưng tóc nó chỉ hoe vàng chứ da nó vẫn không chịu rám nắng. Hàm răng rất
đều đặn của nó không được đánh bằng thứ kem nào cả nhưng vẫn trắng rất xinh.
Bắp thịt nó nở cân đối và rắn chắc.
Năm mười sáu tuổi nó vẫn không chịu hiểu những lời trêu ghẹo
bóng gió. Một hôm cho bò ăn ờ rừng Cà Tang, trong lúc xúm nhau đùa giỡn, một đứa
con trai nửa đùa nửa thực đưa tay định chụp vào ngực nó. Nó đón bắt được bàn
tay, nắm thực chặt. Ðứa con trai giật tay ra không được, lấy làm tức giận. Nhưng
con bé cũng giận. Vả lại lũ trẻ xung quanh la ó cổ võ làm cho nó bối rối khó
xử. Nó cứ nắm tay đứa con trai, rồi mím miệng, từ từ vặn tréo cánh tay hắn ta
quặt ra phía sau. Trẻ chăn bò hét lên rầm rĩ quá, hoan hô rộn quá, nó không
biết làm thế nào, cuối cùng nó vội vàng xô mạnh hắn ta chúi đầu tới trước.
Việc ấy xảy ra trước mắt ông học Thạch. Ông ta lấy làm thú vị
lắm. Học Thạch là bậc nho nhã, nhưng có cảm tình với tất cả những cánh tay
mạnh, có thứ gân thực tốt, nên thường tổ chức những cuộc vật lộn và chọi bò.
Ông ta năm bảy lượt tìm cách xúi Bạch vật lộn, nhưng nó nhất định không chịu hưởng
ứng. Tuy vậy chỉ một vặn tréo cánh tay của một gã thanh niên lớn hơn nó bốn tuổi
cũng đủ khiến nhiều người đồn đại về sức khỏe của Bạch. Ðối với con bé hiền
lành, sự đồn đại đáng lẽ là ngợi khen lại biến thành nhạo báng. Có người gặp
lại nó, hỏi: “Này! Nó định làm gì mà cô vặn tay nó?” Có người xòe bàn tay ra,
nói: “Tay nó dễ ghét, nhưng cô xem giùm liệu
có tha được bàn tay tôi không thì bảo trước đi.” Và những bàn tay ấy chờn vờn
toan hành động.
Bạch không biết cách đáp lại. Nó sợ hãi không dám phô bày sức
mạnh nữa. Nhưng lần khác, một con bò đực của nó đạp phải chông, lâu ngày chỗ bị
thương lở thối, có dòi. Một mình Bạch cột đầu con bò ép vào góc chuồng, ôm chân
bò giơ cao lên để rút chông ra và rảy crésyl vào chỗ lở mà con bò không giãy
thoát nổi. Chuyện đó rồi cũng lại được phao đồn.
Con trai không dám lỗ mãng với nó nữa. Giai đoạn mới có hình
thức tấn công ái tình mới. Một anh chàng hôm nào cũng giả vờ vác cuốc ra thăm đồng,
chờ lúc nó lừa bò về thì lẽo đẽo theo sau, gợi chuyện. Bạch ít có chuyện để
nói, tuy vậy nó không từ chối sự ân cần của ai cả, nó đáp lại đầy đủ hết những
câu nói của người thanh niên. Anh ta đi sau, nó cưỡi bò đi trước. Phải nhiều
lần như thế lắm, người kia mới tìm cách rủ được nó bỏ lưng bò nhảy xuống đi bộ.
Rồi người con trai theo nó lên rừng. Bạch vẫn không đoán được
câu chuyện nói dài dòng như thế sẽ đưa tới đâu. Gặp chỗ vắng vẻ, người con trai
nắm lấy tay nó, nó nhìn lên, ngạc nhiên. Mặt đỏ như gấc, nó lách mình bỏ đi.
Trông bộ dạng nó, người con trai không dám đuổi theo.
Bạch nhớ lại câu chuyện chị Thanh đêm trăng che mía ngày xưa,
vừa thẹn vừa sợ hãi: sự bí mật lạ lùng, vừa tục tằn vừa khó hiểu đó suýt nữa
choàng phủ lên nó rồi? Gạt người con trai ra, thoát đi đã xa chỗ vắng vẻ, nó
vẫn còn bàng hoàng, hồi hộp.
May
sao đôi ba, năm bảy lần kháng cự ái tình chưa phải đã có thể chấm dứt cuộc đời
tình ái của một người con gái. Rồi Bạch vẫn cứ gặp chuyện yêu đương, và ngạc
nhiên một cách dễ chịu như con bò tự thấy không thể từ chối cặp sừng.
Chẳng những thế, sau này Bạch còn tự nghĩ giữa mình với Ðang
tất có duyên nợ. Nếu không, hôm đó đã không gặp nhau. Hôm đó, từ nửa đêm, Bạch đau
bụng. Nó đến bên bếp, bươi trấu, thổi lửa, hơ bàn tay cho nóng rồi áp vào bụng.
Những lúc ruột quặn lên đau quá nó vặn mình rên nho nhỏ. Bớt đau, người con gái
lên giường nằm úp sấp, ép bụng sát xuống mặt giường. Nó chợp mắt ngủ quên đi
một lát rồi lại giật mình thức dậy.
Khi nghe vang lên trong xóm tiếng gõ đòn xóc, Bạch thấy cơn đau
vừa dịu xuống, lưỡng lự một chút, rồi cũng đi rửa mặt qua loa, xách nón ra đi
củi. Mỗi sáng, trời còn tờ mờ, những người đi núi chặt củi dùng rựa gõ mạnh lên
đòn xóc để rủ nhau. Khi Bạch ra khỏi cổng, thì tiếng cười, tiếng gõ đòn xóc đã
văng vẳng ở xa. Nó lủi thủi đi một mình.
Ðến trưa, chặt và bó củi thành gánh xong xuôi, mọi người tập
trung lại nghỉ bên một khe nước. Người ta uống nước, hút thuốc, nói chuyện một
lát trước khi về. Khi ấy, Ðang vừa đến.
Ðang là con trai độc nhất của học Thạch. Thuở nhỏ anh ta cùng
chơi đùa với Bạch, với những người con trai và con gái có mặt trong đoàn đi
củi, đã cùng với họ đập lộn, vật lộn, rồi cùng nằm ngang nằm dọc phơi mặt ngủ
giữa bãi sông Ba. Nhưng lớn lên trong bọn chỉ có mình Ðang đi học, nên họ xa
rời nhau. Mỗi năm về làng chừng vài tháng, Ðang vẫn câu thụt trên sông, vẫn soi
ếch, vẫn dự vào các đám săn chồn săn nai với người làng. Tuy thế mỗi năm xa
làng đến chín mười tháng là quá nhiều, Ðang không còn thực sự là người làng
nữa.
Các cô gái tò mò để ý đến những nét bỡ ngỡ ngớ ngẩn của Ðang,
họ cười khúc khích. Anh ta mở một túi vải màu xanh, vốc từng vốc sim, chà là,
trái dấy, chia cho mọi người. Anh ta đi dạo núi để hái những trứ trái ấy. Các
cô gái làm ra vẻ tự nhiên, giành lấy túi vải tuyển chọn trái ngon. Ðang quay về
phía Bạch, ngạc nhiên hỏi:
– Cô Bạch chê hả?
Bạch toan bảo là mình đau bụng, nhưng hai ba cô bạn đã vội đáp
thay:
– Ơ, anh chưa mời nó mà!
Ðang nghẻo đầu về phía mấy cô gái, hỏi:
– Hở?
Các cô gái bụm miệng ồ lên cười. Ðang chợt hiểu, cười theo, đưa
cho Bạch một nắm trái sim:
– Thì mời!
Họ lại cười ầm lên:
– Gớm chưa? Chỉ mời riêng nhau. Thôi, bọn mình không ăn nữa.
Một cô nói với Ðang, vẻ đứng đắn:
– Anh phải đưa cho con Bạch nó coi tướng tay mới được. Nó
thạo lắm.
Ðang quay đầu ngó bên này bên kia, ngờ vực. Cô gái bảo:
– Bộ bọn tôi nói láo sao?
Ðang vẫn chưa hiểu, cười cười, đưa tay ra, nói giọng giễu
cợt, ngập ngừng thăm dò:
– Cô Bạch xem giùm coi tôi bao giờ có vợ?
Cả bọn vùng cười ồ. Ðang cũng ngẩng lên nhìn hết người này đến
người khác, ngạc nhiên thấy câu pha trò của mình thành công quá mức và nghi ngờ
cái cười có hậu ý. Rồi anh ta hất mặt lên cười, ra ý đã hiểu chuyện và bất cần.
Nhưng xem ra anh ta vẫn chưa hiểu gì. Bạch đỏ mặt cúi đầu. Nhưng nó len lén
liếc mắt nhìn vẻ mặt Ðang. Và nó cũng bật cười. Gớm! Người đâu khéo thực thà.
Lần đầu tiên nó gặp một người ngớ ngẩn thực thà hơn nó.
Bộ dạng anh ta, Bạch trông thấy ngộ nghĩnh. Hai vành tai đỏ
và mỏng, hướng hẳn ra phía trước, như hứng đón âm thanh một cách quá niềm nở.
Hai con mắt ướt với hàng lông nheo dài nhìn vào đâu cũng đầy vẻ nghiêm trọng.
Cả những lúc cười đùa, cái cách anh ta nhìn người khác cũng có ý lo lắng và e
ngại, hình như không chắc mình đã cười đúng ý kẻ nói. Cặp mắt của một nguời đứng
đắn, chậm hiểu những sự tinh nghịch.
Hai môi anh ta mỏng dính. Trên mép lông măng mọc cao, đen như
râu. Trông cặp môi và cái mép rung rung ngần ngại khi anh ta nói: “Cô Bạch xem
giùm...” không thể nín cười được.
Cánh tay anh chìa ra gầy, và cũng nhiều lông.
Bạch soát lại một loạt những chi tiết đó, thấy không có cái
gì liên quan đến cái thân thể quen thuộc của chú bé Ðang ngày xưa vẫn đùa giỡn
với nó. Bạch nhận thấy anh chàng thì ngơ ngác lạc loài, các cô bạn thì vồ vập
ồn ào. Nó ngồi riêng trên cỏ. Cỏ mát, hơi gió thổi dưới bóng cây, bóng nắng lốm
đốm chạy loạng xoạng trên cỏ, trên tóc tai mặt mũi, và loạn xoạn trước mắt làm
cho nó thấy lành lạnh và xôn xao.
Một người đàn ông đứng lên, nói:
– Thôi. Về!
Bạch đứng dậy, bước xuống dòng nước, rửa lại hai tay, rồi
trèo lên một hòn đá sống trâu, giữa nắng, chùi tay vào vạt áo, và cúi xuống xắn
hai ống quần. Lúc Bạch từ trên tảng đá bước xuống lội vào bờ thì Ðang từ trong
bờ đi ra, tay cầm cái ca bằng nhôm. Gặp nhau, anh ta vừa ngước mặt lên liền bị
trượt chân.
Anh ta vung hai cánh tay dài ra cố gượng; Bạch thấy loang
loáng trước mặt cái ca sáng lấp lánh. Nó ngửa người ra phía sau, né những cánh
tay ấy, nhưng Ðang ngã sấp tới, nó vội đưa một tay ra đỡ, và trượt ngã theo.
Bạch khuỵu xuống, va đầu gối vào một tảng đá, rồi ngã ngồi. Nước bắn tung lên
trắng xóa quanh hai người.
Bạch cúi nhìn nét mặt hoảng hốt của người con trai trên tay
mình. Ðầu anh ta kê vào ngực Bạch, hai mắt mở to ngơ ngác, nước khe bắn văng
lên ướt má, ướt lông nheo, lông măng trên mép anh ta. Thoạt tiên anh ta đón
nhìn thẳng mắt Bạch như để nhận hiểu tình thế, rồi chợt anh ta vội vàng chới với
chồm dậy.
Người con gái một tay ôm giữ đầu Ðang, một tay chống ra phía
sau. Nước suối ngập quá rốn.
Trên bờ, một đứa con gái kêu:
– Coi kìa!
Tiếp theo, một tràng cười rộ lên ầm ĩ.
Mặt Bạch bừng đỏ. Nó bối rối. Sự cảm động bất ngờ và vô lý
của nó làm cho người con trai khó xử.
Ðang quay lại, vào bờ, ướt lướt mướt, trên tay vẫn còn cái ca
không, quên múc nước. Anh ta ngước nhìn từ người này đến người kia, cười thực
thà, như muốn bảo: “Chúng tôi không sao cả! Vui nhỉ!”. Và anh cúi lượm túi vải
xanh, chào mọi người, bước đi.
Khi anh ta khuất dạng, Bạch thấy dễ chịu, nhẹ người.
Nó định bước vào bờ, nhưng đầu gối và bắp đùi đau nhói lên,
không cất bước nổi. Nó chống tay vịn một mỏm đá nổi, từ từ ngồi xuống. Lúc ấy
người ta mới biết Bạch bị té nặng.
Nhưng Bạch chỉ phải ngồi yên chừng mười lăm phút cho dịu bớt đau,
rồi cũng khập khiễng bước theo mọi người đi về được. Chỉ phải bỏ lại gánh củi
bên khe nước.
Võ Phiến - Thương Hoài Ngàn Năm
Trong bốn chị em chỉ có mình Bạch là con của cha. Cả cha và mẹ Bạch đều không rõ tại sao lại thế. Có lẽ cũng không có lý do gì đích đáng; sự thắng cuộc của ông Nghĩa lần này có thể chỉ là sự ngẫu nhiên
Trong bốn chị em chỉ có mình Bạch là con của cha. Cả
cha và mẹ Bạch đều không rõ tại sao lại thế. Có lẽ cũng không có lý do gì đích đáng;
sự thắng cuộc của ông Nghĩa lần này có thể chỉ là sự ngẫu nhiên. Tuy vậy đó là
một trận thắng rõ rệt: ảnh hưởng của người cha trên tâm tính đứa con gái mỗi
ngày một rõ, khiến cho việc nhắc đến ông Nghĩa trong trường hợp này thành ra
cần thiết.
Ông Nghĩa cũng có chút học thức; biết xem và thảo các loại
khế bán ruộng, đợ ruộng, giấy mua bò v.v.. bằng hán văn. Nhiều người trong xóm
làng nể ông Nghĩa. Tuy thế ông cũng chỉ được cử làm “đoàn thập” là một chức còn
nhỏ hơn trùm xóm, không có quyền lợi gì. Ông Nghĩa chỉ “chịu trách nhiệm” suông
về mười người dân, vậy thôi. Như thế thực là tệ, nhưng ông không ao ước gì hơn.
Người ta cử ông làm đoàn thập đã ba mươi năm mà không thấy cấp trên khen chê thăng
thưởng hay trừng phạt gì; ông cũng chẳng hề biết bổn phận rõ rệt của mình là
làm những gì.
Trái lại ở trong gia đình, ông Nghĩa có nhiều công việc. Lúc
nào trông ông cũng chăm chăm chú chú: lúc thì đánh sợi dây nài, lúc tra cái lưỡi
cày, lúc sửa trạnh cày, thường thường thì đan đát. Từ giờ này qua giờ khác, từ
buổi này sang buổi kia, ông gườm cặp mắt sau cặp kính trắng gọng thau, xỏ sợi
mây nhọn qua lỗ nan để thắt những cái nút trôn ốc vòng theo những miệng thúng,
miệng rổ, miệng nia, miệng nong v.v...
Nét mặt ông Nghĩa lúc nào cũng một vẻ nghiêm chỉnh buồn thiu.
Làm xong mỗi món đồ, ông xếp cất, không bao giờ có cái ý ngắm nghía thưởng thức
một công trình hoàn thành thích ý. Rồi lại rầu rầu, nghiêm chỉnh, buồn thiu,
ông quay ra vớ công việc khác để tiếp tục, không vội vàng, nhưng không nhởn nhơ
bỏ mất thì giờ vô ích.
Ông Nghĩa cặm cụi nhưng không say mê, ông làm luôn tay nhưng
không phải vì tiếc công tiếc việc mà không dám nghỉ. Chỉ là vì ông Nghĩa không
có cái sáng kiến nghĩ ra cách nghỉ. Nghỉ việc rồi khoanh tay ngồi lì ra đó chịu
được sao? Làm cách gì để tiêu khiển? nói chuyện gì? nói với ai? bắt đầu như thế
nào? Ðó là những vấn đề mà trí óc ông Nghĩa không có khả năng giải quyết. Có
thể nói ông là người đần độn. Nhưng trình độ học thức, trong nhiều trường hợp,
có thể cứu vớt người ta trước sự phán xét của quần chúng. Người trong làng xóm
lúc nào cũng nhớ rằng ông Nghĩa thuộc vào cái số rất ít kẻ đọc thông chữ hán,
cho nên không có ai dùng tiếng đần độn để nói về ông. Người ta bảo là ông thực
thà.
Ông Nghĩa “thực thà” đến nỗi không sao có thể tiếp được
khách. Ðối diện với khách, chào hỏi xong, ông không tìm ra câu nào để nói nữa.
Ông chỉ trả lời những câu khách hỏi. Và ông sợ những phút im lặng; ông áy náy,
khó chịu, loay hoay, nhưng không có cách gì bịa ra nổi chuyện. Ðể bớt khổ sở,
ông phải tiếp tục cúi xuống đan đát, nên có vẻ gàn và kỳ cục. Mặc dù thế, sự có
mặt của người khách vẫn cứ đè nặng lên tinh thần ông, làm cho trí óc ông tê
liệt hẳn đi. Nếu lúc ấy có bà Nghĩa đến tiếp cứu hoặc khách cáo từ ra về, ông
mừng vô hạn.
Thực thà như thế làm sao ông Nghĩa tìm ra được những lúc nhàn
rỗi? Một người lành mạnh không thể nằm ngửa ra tơ hơ để thưởng thức thì giờ
nhàn rỗi. Còn những hoạt động xa xí như ngâm nga, hát xướng vài câu tuồng, hoặc
pha trà ngon ngồi nhấm từng hớp, hoặc dạo vườn tỉa hoa, hoặc ngắm nghía sửa mái
tóc của mình ..., thì đó lại là những sáng kiến không chịu nảy ra từ trí óc ông
Nghĩa. Ông không thể có một cử chỉ gì không phải là một công việc thực sự hữu
ích.
Mỗi động tác là mỗi công việc, như thế giản dị hơn cả. Ông
Nghĩa chọn thái độ giản dị.
Cắm cúi làm việc mãi, khi nào mỏi mệt quá ông quặt một tay ra
phía sau, đấm vào lưng mình năm bảy cái liên tiếp, rồi lom khom đứng lên, bước
lại tấm phản dưới hiên, nằm xuống một lát. Những khi ấy nếu Bạch không đi chơi
xa thì nó chạy lại ngồi bên cạnh, nhổ tóc ngứa và ngoáy tai cho cha. Không phải
ông Nghĩa bày vẽ cho nó những chuyện ấy. Chỉ là vì những khi đi chơi lang thang
trong xóm, con bé thấy bạn bè nó có đứa nhổ tóc ngoáy tai như thế, và về nhà nó
thí nghiệm trên đầu cha mình. Ông Nghĩa thấy hay hay. Nhiều lần con bé còn đang
ngồi mân mê tóc tai ông mà ông đã ngủ quên ngon lành.
Suốt ngày ông đoàn thập Nghĩa thức hay ngủ, lom khom làm việc
hay nằm khểnh ra nghỉ cũng không ai chú ý đến.
Bà Nghĩa, hồi còn trẻ, cố tránh không nhìn kỹ không nghĩ lâu đến
nét mặt và hình dáng của chồng. Ðó là một cách chống đối tiêu cực của người đàn
bà, chống đối để chịu đựng. Gặp một người chồng xấu xí, bà nhờ chọn được thái độ
như thế nên có thể ở với chồng trọn đời. Sự nhẫn nại lặng lẽ và anh hùng đó
chắc chắn được xếp vào những nết na truyền thống của người đàn bà Việt Nam. Nét mặt
ông đoàn thập trông lúc nào cũng quằm quặm, buồn thiu, nhớp nhúa, tối sầm. Nhìn
cái mặt ấy người ta trông thấy hiện ra tức khắc hình ảnh một cuộc đời lam lũ,
bần tiện, chật vật. Khổ người ông Nghĩa bé nhỏ, bước đi lóm khóm lật đật. Rõ
ràng là ông mang theo sẵn sự khổ sở từ trong lòng mẹ mà ra. Nếu bà Nghĩa có làm
điều gì không phải với chồng thì cũng chỉ là một cách xác nhận sự thực hiển
nhiên đó.
Hồi còn con gái bà Nghĩa luôn luôn bị cái hình thù xấu xí của
chồng ám ảnh. Khi thì bà nghĩ đến cái trán thấp tịt, khi nghĩ đến cặp chân mày
sát mí mắt, khi trông thấy cái cằm khuyết của ông. Bà khổ sở đau đớn, cố xua đuổi
những hình ảnh ấy đi. Mỗi lần thấy loáng thoáng trong trí một ý nghĩ về người
chồng, bà Nghĩa vội vàng lảng sang chuyện khác. Ý thức tự vệ chống cái ám ảnh đó
thấm nhuần mọi cử chỉ, ý tưởng, hành động của bà. Bất cứ lúc nào, trong trường
hợp nào, nghe nhắc đến tên ông Nghĩa, động đến một điều có liên quan tới ông,
tự nhiên bà nghe nhói lên trong lòng một cảm giác khó chịu, rồi tức khắc điều
vừa được nhắc đến bị gạt ra khỏi trí óc.
Bà ăn ở với chồng được ba bốn năm thì sự tự vệ của bà có một
kết quả thần diệu. Có thể nhắc nhở, chế giễu cặp mắt ti hí và lờ khờ hay dáng đi
lụp chụp lóm thóm của ông Nghĩa trước mặt bà, bà cũng dửng dưng. Lúc bấy giờ
chính bà lại nói được những câu như chế giễu ông cách thân mật, làm những cử
chỉ như là săn sóc kính trọng ông trước mặt khách lạ mà bà không hề mảy may cảm
xúc, khó chịu nữa. Ông Nghĩa dần dần chỉ còn là một đề tài, một cái cớ để bà
hoặc có dịp nói vài câu giễu cợt hay ho, hoặc đóng vai một người đàn bà khôn
khéo dịu ngọt. Ðó cũng là cách phát huy một vài nét đẹp của nguời đàn bà. Ðàn
bà vẫn chuộng các món trang sức. Một người chồng xấu xí như ông Nghĩa vẫn cứ có
thể biến hóa thành một món trang sức đắc dụng! Rồi khi khách của bà Nghĩa ra đi,
ông lại bị bỏ quên, cặm cụi lặng lẽ như một cái bóng trong gia đình.
Bà Nghĩa thay chồng giao thiệp với hết thảy khách khứa đến
nhà, bất cứ là vì công chuyện làm ăn hay là vì xã giao ân nghĩa. Hồi vợ chồng
ông còn trẻ, ai cũng thấy một tình trạng như thế là bất lợi.
Sự bất lợi xuất lộ đầu tiên là cô Hồng, cô con gái đầu lòng.
Cô Hồng không giống cha một mảy. Cô ta cũng không hề chịu gần gũi nguời cha.
Không ai để ý từ lúc nào, từ cỡ tuổi nào, đứa con gái bắt đầu biết phân biệt
xấu với đẹp, chỉ thấy rõ ràng là hình thù của ông Nghĩa gieo ác cảm và sự sợ
hãi vào lòng đứa bé khiến nó luôn luôn tìm cách xa lánh cha. Lớn lên Hồng không
sợ cha nữa, lại khinh nhờn. Cô ta cũng cư xử như mẹ, nghĩa là ăn, ngủ, chơi
bời, hành động y như không hề có một người cha trong gia đình. Như thế cho đến
năm mười tám tuổi thì cô Hồng chửa hoang, sinh được một đứa con trai. Mẹ con cô
tiếp tục sống trong gia đình ông đoàn thập năm năm nữa, rồi có người cháu họ
của bà Nghĩa bằng lòng cưới cô. Người cháu này là một anh kép hát. Khi cưới
nhau cô Hồng đã mang thai lần thứ hai được bốn tháng. Nhưng anh kép hát không
lấy làm quan trọng: đó là sự lỡ lầm thường xảy ra phía sau sân khấu.
Cô Hồng càng lớn càng giống ông lý trưởng làng An Quý; mà cô
Hoàng, em của Hồng, cũng lại là con của ông lý ấy. Rồi cô em nữa, cô Thanh,
cũng vẫn là con ông lý. Nhờ đó mười năm sau khi bà Nghĩa có chồng mọi người
thấy rằng bà không hay lang chạ: suốt đời chỉ làm vợ một người và chỉ yêu thương
có một người. Kẻ được lòng yêu của bà thì không được cái danh làm chồng, mà kẻ
có cái danh thì không được lòng yêu; điều may mắn là cả hai đều biết bằng lòng,
và hưởng thụ cái phần dành cho mình, không hề có một lầm lẫn.
Cô Hoàng có chồng sớm. Mười bốn tuổi cô đã nẩy nở ra dáng con
gái. Mười lăm tuổi có nhiều nơi ngấm nghé. Mười bảy tuổi thì bà Nghĩa gả cô cho
một anh giáo dạy lớp tư bên làng An Lợi. Ban đầu anh giáo gặp cô Hoàng ở chợ,
anh ta theo cô nhiều bận, nhưng nói rất ít, và cô thì gặp người văn nhã lấy làm
thẹn lắm, không dám chuyện trò. Trên một quãng đường vắng anh giáo vờ đánh rơi
một lá thư. Cô Hoàng nhặt đem về, cả nhà xúm nhau đọc, lấy làm thích thú, và đều
thấy cảm thương. Bà Nghĩa nhắn tin khuyến khích bên nhà trai. Hôm anh giáo đến
nhà ông Nghĩa lần đầu, cả nhà gái tò mò quan sát rất kỹ tác giả bức thư tình.
Ai nấy bằng lòng lắm. Ðó là một thanh niên trắng trẻo, hơi gầy. Mái tóc lưa thưa,
chải rất ướt, dán sát vào da đầu. Chân mày anh ta thưa đến nỗi trông gần như
trụi. Môi dày và đỏ. Cặp mắt chậm chạp nhưng có vẻ hơi dữ, thường nhìn lên.
Hai vợ chồng cô Hoàng ăn ở với nhau được hai năm thì sinh
chuyện bất hòa. Anh giáo đau một trận thương hàn, rồi tự nhiên phát ra chứng
toàn thân run rẩy. Anh giáo run đến nỗi không sao có thể bưng chén ăn được, vợ
phải đút cơm. Anh càng ốm đau, bất lực, càng ghen với cô vợ phốp pháp. Hoàng bị
giữ chặt chẽ hơn hồi còn con gái, không được đi xem hát, xem hội, không được đi
chợ xa... Nhưng rồi về sau anh giáo bắt gặp vợ thông dâm với người trai cày của
cha mình. Cô bị cắt đi mái tóc. Sau trận xung đột kịch liệt ấy cô đâm liều,
giao du thân mật với rất nhiều người con trai, và không nhường nhịn chồng nữa.
Khi trước cô gái rụt rè kính trọng người văn nhân thanh nhã, nhưng lúc người đó
chỉ còn là một hình thù xấu xí bắt đầu lộ ra bản năng hung bạo, thì người con
gái thô lỗ hung bạo trong cô liền vùng dậy kháng cự. Và tất nhiên cô thắng thế.
Có ai ngờ khởi đầu anh giáo rơi một lá thư mà kết cuộc cô Hoàng mất mái tóc,
cuộc tình duyên lại trắc trở đến thế.
Cuộc đời hai người chị đầu đều xa lạ với Bạch. Lớn lên Bạch
cũng có nghe nhắc đến, nhưng các chuyện ấy không làm cô gái suy nghĩ. Hai chị đầu
thuộc về lớp người lớn. Cho đến cô Thanh cũng sinh trước Bạch đến chín năm.
Thanh được bảy tám tuổi, người ta đã tưởng cô ta là con út. Khi Thanh mười sáu
tuổi thì Bạch mới chỉ có bảy tuổi. Chênh lệch nhau thế cho nên hai chị em không
mấy khi gần nhau. Trong khi Bạch vọc cát, vọc đất, lúc thúc chơi ngoài vườn hay
ngoài bãi sông thì Thanh đi cấy, đi gặt, chằm nón, may áo. Những lúc rảnh, Thanh
đi cặp kè bạn bè, rất ít khi ngó đến em. Chỉ những khi nào cô Thanh đi đêm một
mình bà Nghĩa buộc phải dẫn Bạch theo, “cho có bạn”. Thanh biết rằng con bé
chẳng phải để làm cho mình vui vẻ gì dọc đường, mẹ cô cũng chẳng quyết giữ gìn
cô chặt chẽ hơn các người chị; tuy vậy cô cũng thuận nhận đem em theo như một
thủ tục không thể bỏ qua.
Sự thực thì Bạch không trở ngại gì công việc của chị. Có một
lần chị em đi xem che mía ở An Lợi. Người ta che mía và nấu đường giữa đồng cho
khỏi tốn công vác mía cây về nhà. Gặp đám che giữa đêm trăng trai gái thường
kéo đến vịn che, vừa đi vừa hát suốt đêm. Hôm ấy Bạch được chị xin cho cây mía,
ngồi ăn. Ăn hết một đoạn, nó buồn ngủ và nằm ngủ bên bờ ruộng. Khuya, thức dậy,
nó không thấy chị trong đám người chạy che. Con bé lặng lẽ đi tìm. Khi trông
thấy chị nó với một người con trai ôm nhau trửng giỡn như cặp chồn cắn lộn giữa
bụi cây thì nó ngạc nhiên sợ hãi ngồi nép xuống. Nó im lặng nghe chị nói chuyện
rì rầm, nhìn chị hôn hít. Và khi trông thấy chị nó phơi bày da thịt trắng nõn dưới
trăng, con bé lặng lẽ ngồi xem. Sau, nó lại kê đầu lên bờ ruộng nằm ngủ cho đến
lúc chị nó tìm thấy, vác nó về nhà.
Hai ngày sau, chị nó ngồi vá áo. Con bé đang chơi với chiếc
lon thiếc và hai ống chỉ, chợt dừng lại nhìn chị, suy nghĩ. Nó nhìn cánh tay
nung núc của chị phơi ra ngoài tay áo cánh. Thanh không để ý đến đứa em, nhưng
trong lúc nghiêng đầu cắn một mối chỉ, Thanh liếc mắt trông thấy cái nhìn của
nó, hơi ngờ ngợ. Con bé sợ hãi cúi mặt xuống. Lần lần nó lân la đến bên cạnh
Thanh và không để chị biết, nó rón rén vén vạt áo của chị lên. Nó vén lần lên
cho đến khi chị nó giật mình ngạc nhiên, gạt tay nó và trợn mắt. Nó sợ hãi,
liền bỏ đi.
Con bé không bao giờ đả động gì đến câu chuyện mà nó mục kích
dưới trăng trong đêm che mía. Hình như những điều trông thấy giữa hai giấc ngủ,
nó cũng cho là lạ lùng. Nó lấy làm nghi hoặc, nhưng tính nó lầm lì âm thầm, vả
lại tự dưng nó cũng cảm thấy đó không phải là điều nên đem ra hỏi. Thỉnh thoảng
nó lén lút tìm cơ hội nhìn lại da thịt chị nó như tìm xem tang chứng dấu tích để
xác nhận một sự thực ngờ vực.
Thanh không nghi ngờ gì em và không để ý đến nó. Vì thế trong
lúc thơ ấu nó lại được nhiều lần chứng kiến hành động thân mật của chị.
Trong
bốn chị em, chỉ có Bạch sống gần cha. Cũng có lẽ chỉ có nó là con của cha. Tại
sao đứa con thứ tư lại thuộc về phần ông Nghĩa? Thỉnh thoảng tạo hóa cũng để
dành cho mình cái quyền phép về một vài điều bí mật, người đời không biết được.
Tuy thắng cuộc như thế ông Nghĩa cũng không lấy làm hớn hở.
Chiến đấu không gặp hiểm nghèo thì thắng trận cũng không xem
là vinh quang, một người hùng của Corneille nghĩ vậy. Và ngay cái lúc ông Nghĩa
làm việc cho sự thắng trận ông không hề gặp sự hiểm nghèo, chắc vì đó mà ông
không cho là vinh quang.
Mặt mũi hình dáng Bạch không xấu xí như cha, hình dáng nó
giống mẹ, nhưng tính nó lại giống cha. Nó lầm lì suốt ngày. Ngay từ hồi lên hai
tuổi trong cặp mắt nó đã có cái vẻ lãnh đạm đố kỵ với những hoạt động ồn ào.
Khi cô hay dì nó chạy đến vồ vập nựng nịu nó, khi trẻ con la cười bên cạnh nó,
nó ngẩng lên, giương hai mắt tròn nhìn một lúc lâu rồi thản nhiên cúi xuống,
không hề hưởng ứng. Thái độ ấy làm cho dần dần chung quanh nó có sự lạnh nhạt,
và nó cùi cũi một mình.
Hồi ba bốn tuổi nó thường bắt kiến ăn, từng nhúm. Bà Nghĩa
lấy làm ghê tởm. Một lần bắt gặp con bé ăn kiến, bà đang cầm cái ống tre dài
bốn tấc tây dùng để thổi lửa, bà quất ngang mồm, và đập lên tay con bé mấy cái,
làm nó chảy máu mồm, dập môi, và bàn tay sưng vù lên. Nhưng tính Bạch lặng lẽ,
cho nên ít khi mẹ nó chú ý đến mà bắt được nó nghịch bậy. Nhiều lần nó ngồi lượm
kiến ăn hàng giờ ngay sau lưng mẹ mà bà Nghĩa không ngờ đến.
Cái sở thích bệnh hoạn kỳ cục đó được giải thích là vì con bé
ngu ngốc đần độn. Khi bà Nghĩa nói với khách: “Ai gặp phải đứa con như thế cũng
chịu thôi. Trông cái mặt của nó đần như thế kia mà dạy làm sao được...” thì
trong trí bà đã có lảng vảng sự căm giận khinh bỉ ông Nghĩa. Mấy tiếng “cái mặt
nó” dằn xuống một giọng ghê gớm; mối hằn học ấy không thể đè trút xuống một đứa
trẻ con. Dần dần rồi con bé càng lớn càng chịu rước hết mối ác cảm thay cha.
Quả nó thật là rầy rà. Nếu không có nó, người mẹ đã quên đi ông chồng xấu xí.
Sự ra đời của nó công khai xác nhận chủ quyền hiển nhiên của ông Nghĩa đối với
vợ, khêu lại sự tức giận khổ sở của người đàn bà.
Mẹ nó đối với nó đã như thế, không còn ai nghĩ có cách gì
chữa tật xấu của Bạch khác hơn là đánh cho thực đau. Khi lên năm tuổi, tự nhiên
nó bỏ ăn kiến.
Ở cái tuổi con nít thích chơi búp-bê, Bạch thấy cái thú gần
gũi cha nó. Ông Nghĩa cũng tiếp nhận sự săn sóc tỉ mỉ của nó với thái độ thụ động
của một con búp-bê. Con bé cứ đôi ba tháng lại đổi một sở thích, ông Nghĩa cứ để
mặc ý nó. Nó nhổ tóc ngứa chán rồi tập cách bẻ ngón tay ngón chân kêu lắc cắc.
Một độ nó thích đấm lưng. Có hồi nó tập vuốt trán bắt dấu. Nếu con bé ì ạch bên
cạnh mãi mà ông Nghĩa không ngủ được, thì ông ta khoát tay ngồi dậy, sai nó
chạy hái mấy lá mãng cầu, ông ta cúi xuống đất lấy lên một cây củi giấu sẵn dưới
phản, đập lộp bộp lên mép phản rồi thổi cho bay lớp tro tàn, hơ lá mãng cầu lên
lửa cho mềm để vấn thuốc hút. Có lúc vừa hút thuốc ông Nghĩa vừa nhìn đứa con
gái của mình. Thấy nó xinh, dễ thương quá, ông lấy làm thích thú vui vẻ. Và tự
nhiên ông ta nẩy ra thích thú bất ngờ, ông đùa, chìa điếu thuốc lên môi con bé,
cười vô duyên.
– Mày hút thử không?
Con bé nheo mắt lại tránh khói thuốc, vừa nhăn mặt vừa thụt
lui. Ông Nghĩa vẫn cười nhăn nhở, đưa một tay dúi thuốc vào gần mũi nó rồi lại
giật ra, cứ thế năm bảy lượt, chọc cho con bé giãy giụa nhăn nhíu mặt mũi. Làm
sao biết được lúc ấy trong lòng ông Nghĩa tràn ngập một nỗi thương yêu sung sướng
vô cùng, ông muốn kéo dài trò chơi. Ông ta cười vô duyên, nhưng trong hai mắt
nhìn chăm vào khuôn mặt con bé, người ta thấy lóng lánh ánh sáng của những giễu
cợt âu yếm và gần như thông minh.
Ðến khi Bạch hét to lên: “Chết! Thả ra!” ông Nghĩa mới vội
vàng buông tay, như mới vừa để ý đến cử chỉ của mình.
Ông Nghĩa vẫn nhìn con bé, cười, nhưng không còn sự vui vẻ
sung sướng nữa. Cái cười còn in trên môi ông chỉ như gắng gượng vụng về xin lỗi
con bé.
Khi cái cười tắt đi, gương mặt ông lại tối sầm, quằm quặm.
Ông hỏi đứa con gái:
– Ai cho mày sợi dây cườm này?
– Chị Hai.
– Chị Hai nào?
– Ðàng nhà cậu Bốn. Nhiều lắm. Ðứa nào cũng xin được một dây.
– Con Hai Khôi ở Nha Trang về hả? Hồi nào?
– Hôm qua... Cha không biết à?
– Không... Mày vừa đánh nhau với đứa nào vậy?
– Không.
– Thế sao trầy mũi?
– Mẹ đánh.
Ông Nghĩa chợt nghiêm sắc mặt lại như vụt biến thành một người
khác, không hề biết đến câu chuyện vừa chấm dứt. Miệng ông ngậm lại, môi trên
nhô ra trùm khuất môi dưới. Rồi ông Nghĩa đứng dậy đi tiếp tục công việc.
Thường thường ông tình cờ biết qua về những hoạt động trong
xóm là do đứa con gái nhỏ. Nhưng lần nào câu chuyện quanh co dẫn đến bà Nghĩa
thì ông dừng lại ngay.
Vả lại, cha con ông vẫn ít trò chuyện. Ông Nghĩa nằm yên cho
con đấm lưng rồi ngủ quên, ngáy ầm lên. Con bé hoặc đi tìm chỗ khác chơi, hoặc
có khi cũng nằm queo ngủ bên cạnh cha.
Lúc đó nếu có khách đến thì bà Nghĩa tùy trường hợp mà đối
xử. Hoặc là phát thực mạnh vào mông con bé và la ầm lên cho cha con vùng dậy.
Con bé hoảng hồn lủi đi chỗ khác, ông Nghĩa thì tuột xuống đất ngồi đan đát.
Hoặc bà tươi cười nhìn hai bố con với một vẻ khoan dung bao bọc và nói như xin
lỗi khách: “Chao ôi là ngủ! Tội nghiệp! Thôi để yên cho cha con ngủ.” Rồi bà
lấy một cái quạt bằng mo cau ép phất phất mấy cái để xua ruồi. Trong khi tiếp
chuyện khách, thỉnh thoảng bà Nghĩa lại gần, kéo ống quần con Bạch xuống cho
kín chân, cài cho nó một hột nút áo, và lại quạt cho hai cha con.
Khi khách đi rồi, bà Nghĩa quay qua công chuyện khác, như
không trông thấy hai cha con ông Nghĩa nữa, như không hề biết có cha con ông
nằm ngủ trước hiên.
Cho đến mười ba mười bốn tuổi, Bạch vẫn còn ngủ chung với
cha. Mình mẩy tóc tai nó hôi mùi khói thuốc nồng nặc. Một hôm Hồng về thăm nhà
– thường lâu lắm, một đôi năm, Hồng mới về nhà một chuyến – trông thấy nó, buột
miệng khen:
– Mẹ thấy không? con này nước da trắng, giống mẹ. Rồi nữa lớn
nó đẹp đấy.
Bà Nghĩa cười hè hè lơ đãng:
– Chị khéo khen em!
Rồi bà lén nhìn lại đứa con gái út. Một lát tự dưng bà lại cười
hề hề, chưa rời ý nghĩ về con bé.
Nhưng bỗng Hồng la lên:
– Sao mày hôi thuốc lá quá vậy, Bạch?
Bà mẹ tắt liền nụ cười:
– Còn tại sao nữa? Ngày nào đêm nào cũng ôm khư khư lấy cha
nó, ông ấy phà khói thuốc mù mịt.
– Trời đất! Con gái chừng này còn ngủ với cha. Kỳ cục.
Bà Nghĩa trọn mắt quay lại phía con Bạch, chỉ vào trán nó:
– Ðó! Nghe chưa? Từ rày phải kiếm chỗ mà ngủ riêng ra, nghe
chưa? Gớm! Còn nhỏ xác lắm sao?
Rồi thình lình bà ngoắc lại hỏi nhỏ Hồng, nghiêm trọng:
– Nghe nói thầy giáo bên đó kêu bán hai mẫu ruộng rộc, có
không?
– Mẹ tính mua hả?
Bà Nghĩa giật lùi ra, gườm con gái:
– Hừm! Cái con này! Thì hỏi vậy thôi...
– Ðừng mua ruộng nữa. Có ruộng rồi khổ đa, mẹ không biết sao?
Bà Nghĩa hớn hở, thân mật:
– Vậy há? Mày nghe nói chủ trương của nhà nước thế nào?
Hồng biết khi mẹ gườm mình phản đối thì bà hãy còn định mua,
nhưng khi bà nghiêng người tới hỏi “vậy hả”? thì bà đã sắp đổi ý rồi.
Bà Nghĩa làm chủ gia đình. Và cách thức giải quyết công việc
của người chủ gia đình là như thế, thường thường ngay trong khi trò chuyện. Có
nhiều điều xảy ra trong nhà bà không chú ý đến, nhân có người nêu lên trong một
câu chuyện, lập tức bà quay ra giải quyết nhanh như cắt. Cứ lần lượt hết chuyện
này đến chuyện kia, lắm khi một người khách đến chơi một lát giúp bà sắp đặt
chỉnh đốn năm bảy công việc gia đình.
Và như thế, Bạch ngủ riêng.
Nó không hôi mùi thuốc lá nữa. Gần nó chỉ nghe mùi lông bò
thôi. Dẫu sao đó cũng vẫn còn là thứ mùi thừa đi. Nếu không có, người ta đã
ngửi được mùi con gái của nó.
Bạch vẫn chăn bò từ hồi lên tám. Nó đã quen cưỡi lên lưng bò.
Ðáng lẽ lớn lên nó không được cưỡi nữa. Mẹ nó đã cấm: “Mày tưởng còn nhỏ xác
lắm sao? con gái lớn chồng ngồng chừng ấy ngồi ngất nghểu trên lưng bò không
biết mắc cỡ, tao chịu mày.” Nhưng Bạch vẫn lén lút cưỡi bò. Nó không mắc cỡ.
Mặc dù hôi hám, ăn mặc lôi thôi, tính nết chi bi chim bỉm,
thực thà gần như khờ dại, nó vẫn được con trai chú ý. Vì nó đẹp. Luôn luôn phơi
nắng, nhưng tóc nó chỉ hoe vàng chứ da nó vẫn không chịu rám nắng. Hàm răng rất
đều đặn của nó không được đánh bằng thứ kem nào cả nhưng vẫn trắng rất xinh.
Bắp thịt nó nở cân đối và rắn chắc.
Năm mười sáu tuổi nó vẫn không chịu hiểu những lời trêu ghẹo
bóng gió. Một hôm cho bò ăn ờ rừng Cà Tang, trong lúc xúm nhau đùa giỡn, một đứa
con trai nửa đùa nửa thực đưa tay định chụp vào ngực nó. Nó đón bắt được bàn
tay, nắm thực chặt. Ðứa con trai giật tay ra không được, lấy làm tức giận. Nhưng
con bé cũng giận. Vả lại lũ trẻ xung quanh la ó cổ võ làm cho nó bối rối khó
xử. Nó cứ nắm tay đứa con trai, rồi mím miệng, từ từ vặn tréo cánh tay hắn ta
quặt ra phía sau. Trẻ chăn bò hét lên rầm rĩ quá, hoan hô rộn quá, nó không
biết làm thế nào, cuối cùng nó vội vàng xô mạnh hắn ta chúi đầu tới trước.
Việc ấy xảy ra trước mắt ông học Thạch. Ông ta lấy làm thú vị
lắm. Học Thạch là bậc nho nhã, nhưng có cảm tình với tất cả những cánh tay
mạnh, có thứ gân thực tốt, nên thường tổ chức những cuộc vật lộn và chọi bò.
Ông ta năm bảy lượt tìm cách xúi Bạch vật lộn, nhưng nó nhất định không chịu hưởng
ứng. Tuy vậy chỉ một vặn tréo cánh tay của một gã thanh niên lớn hơn nó bốn tuổi
cũng đủ khiến nhiều người đồn đại về sức khỏe của Bạch. Ðối với con bé hiền
lành, sự đồn đại đáng lẽ là ngợi khen lại biến thành nhạo báng. Có người gặp
lại nó, hỏi: “Này! Nó định làm gì mà cô vặn tay nó?” Có người xòe bàn tay ra,
nói: “Tay nó dễ ghét, nhưng cô xem giùm liệu
có tha được bàn tay tôi không thì bảo trước đi.” Và những bàn tay ấy chờn vờn
toan hành động.
Bạch không biết cách đáp lại. Nó sợ hãi không dám phô bày sức
mạnh nữa. Nhưng lần khác, một con bò đực của nó đạp phải chông, lâu ngày chỗ bị
thương lở thối, có dòi. Một mình Bạch cột đầu con bò ép vào góc chuồng, ôm chân
bò giơ cao lên để rút chông ra và rảy crésyl vào chỗ lở mà con bò không giãy
thoát nổi. Chuyện đó rồi cũng lại được phao đồn.
Con trai không dám lỗ mãng với nó nữa. Giai đoạn mới có hình
thức tấn công ái tình mới. Một anh chàng hôm nào cũng giả vờ vác cuốc ra thăm đồng,
chờ lúc nó lừa bò về thì lẽo đẽo theo sau, gợi chuyện. Bạch ít có chuyện để
nói, tuy vậy nó không từ chối sự ân cần của ai cả, nó đáp lại đầy đủ hết những
câu nói của người thanh niên. Anh ta đi sau, nó cưỡi bò đi trước. Phải nhiều
lần như thế lắm, người kia mới tìm cách rủ được nó bỏ lưng bò nhảy xuống đi bộ.
Rồi người con trai theo nó lên rừng. Bạch vẫn không đoán được
câu chuyện nói dài dòng như thế sẽ đưa tới đâu. Gặp chỗ vắng vẻ, người con trai
nắm lấy tay nó, nó nhìn lên, ngạc nhiên. Mặt đỏ như gấc, nó lách mình bỏ đi.
Trông bộ dạng nó, người con trai không dám đuổi theo.
Bạch nhớ lại câu chuyện chị Thanh đêm trăng che mía ngày xưa,
vừa thẹn vừa sợ hãi: sự bí mật lạ lùng, vừa tục tằn vừa khó hiểu đó suýt nữa
choàng phủ lên nó rồi? Gạt người con trai ra, thoát đi đã xa chỗ vắng vẻ, nó
vẫn còn bàng hoàng, hồi hộp.
May
sao đôi ba, năm bảy lần kháng cự ái tình chưa phải đã có thể chấm dứt cuộc đời
tình ái của một người con gái. Rồi Bạch vẫn cứ gặp chuyện yêu đương, và ngạc
nhiên một cách dễ chịu như con bò tự thấy không thể từ chối cặp sừng.
Chẳng những thế, sau này Bạch còn tự nghĩ giữa mình với Ðang
tất có duyên nợ. Nếu không, hôm đó đã không gặp nhau. Hôm đó, từ nửa đêm, Bạch đau
bụng. Nó đến bên bếp, bươi trấu, thổi lửa, hơ bàn tay cho nóng rồi áp vào bụng.
Những lúc ruột quặn lên đau quá nó vặn mình rên nho nhỏ. Bớt đau, người con gái
lên giường nằm úp sấp, ép bụng sát xuống mặt giường. Nó chợp mắt ngủ quên đi
một lát rồi lại giật mình thức dậy.
Khi nghe vang lên trong xóm tiếng gõ đòn xóc, Bạch thấy cơn đau
vừa dịu xuống, lưỡng lự một chút, rồi cũng đi rửa mặt qua loa, xách nón ra đi
củi. Mỗi sáng, trời còn tờ mờ, những người đi núi chặt củi dùng rựa gõ mạnh lên
đòn xóc để rủ nhau. Khi Bạch ra khỏi cổng, thì tiếng cười, tiếng gõ đòn xóc đã
văng vẳng ở xa. Nó lủi thủi đi một mình.
Ðến trưa, chặt và bó củi thành gánh xong xuôi, mọi người tập
trung lại nghỉ bên một khe nước. Người ta uống nước, hút thuốc, nói chuyện một
lát trước khi về. Khi ấy, Ðang vừa đến.
Ðang là con trai độc nhất của học Thạch. Thuở nhỏ anh ta cùng
chơi đùa với Bạch, với những người con trai và con gái có mặt trong đoàn đi
củi, đã cùng với họ đập lộn, vật lộn, rồi cùng nằm ngang nằm dọc phơi mặt ngủ
giữa bãi sông Ba. Nhưng lớn lên trong bọn chỉ có mình Ðang đi học, nên họ xa
rời nhau. Mỗi năm về làng chừng vài tháng, Ðang vẫn câu thụt trên sông, vẫn soi
ếch, vẫn dự vào các đám săn chồn săn nai với người làng. Tuy thế mỗi năm xa
làng đến chín mười tháng là quá nhiều, Ðang không còn thực sự là người làng
nữa.
Các cô gái tò mò để ý đến những nét bỡ ngỡ ngớ ngẩn của Ðang,
họ cười khúc khích. Anh ta mở một túi vải màu xanh, vốc từng vốc sim, chà là,
trái dấy, chia cho mọi người. Anh ta đi dạo núi để hái những trứ trái ấy. Các
cô gái làm ra vẻ tự nhiên, giành lấy túi vải tuyển chọn trái ngon. Ðang quay về
phía Bạch, ngạc nhiên hỏi:
– Cô Bạch chê hả?
Bạch toan bảo là mình đau bụng, nhưng hai ba cô bạn đã vội đáp
thay:
– Ơ, anh chưa mời nó mà!
Ðang nghẻo đầu về phía mấy cô gái, hỏi:
– Hở?
Các cô gái bụm miệng ồ lên cười. Ðang chợt hiểu, cười theo, đưa
cho Bạch một nắm trái sim:
– Thì mời!
Họ lại cười ầm lên:
– Gớm chưa? Chỉ mời riêng nhau. Thôi, bọn mình không ăn nữa.
Một cô nói với Ðang, vẻ đứng đắn:
– Anh phải đưa cho con Bạch nó coi tướng tay mới được. Nó
thạo lắm.
Ðang quay đầu ngó bên này bên kia, ngờ vực. Cô gái bảo:
– Bộ bọn tôi nói láo sao?
Ðang vẫn chưa hiểu, cười cười, đưa tay ra, nói giọng giễu
cợt, ngập ngừng thăm dò:
– Cô Bạch xem giùm coi tôi bao giờ có vợ?
Cả bọn vùng cười ồ. Ðang cũng ngẩng lên nhìn hết người này đến
người khác, ngạc nhiên thấy câu pha trò của mình thành công quá mức và nghi ngờ
cái cười có hậu ý. Rồi anh ta hất mặt lên cười, ra ý đã hiểu chuyện và bất cần.
Nhưng xem ra anh ta vẫn chưa hiểu gì. Bạch đỏ mặt cúi đầu. Nhưng nó len lén
liếc mắt nhìn vẻ mặt Ðang. Và nó cũng bật cười. Gớm! Người đâu khéo thực thà.
Lần đầu tiên nó gặp một người ngớ ngẩn thực thà hơn nó.
Bộ dạng anh ta, Bạch trông thấy ngộ nghĩnh. Hai vành tai đỏ
và mỏng, hướng hẳn ra phía trước, như hứng đón âm thanh một cách quá niềm nở.
Hai con mắt ướt với hàng lông nheo dài nhìn vào đâu cũng đầy vẻ nghiêm trọng.
Cả những lúc cười đùa, cái cách anh ta nhìn người khác cũng có ý lo lắng và e
ngại, hình như không chắc mình đã cười đúng ý kẻ nói. Cặp mắt của một nguời đứng
đắn, chậm hiểu những sự tinh nghịch.
Hai môi anh ta mỏng dính. Trên mép lông măng mọc cao, đen như
râu. Trông cặp môi và cái mép rung rung ngần ngại khi anh ta nói: “Cô Bạch xem
giùm...” không thể nín cười được.
Cánh tay anh chìa ra gầy, và cũng nhiều lông.
Bạch soát lại một loạt những chi tiết đó, thấy không có cái
gì liên quan đến cái thân thể quen thuộc của chú bé Ðang ngày xưa vẫn đùa giỡn
với nó. Bạch nhận thấy anh chàng thì ngơ ngác lạc loài, các cô bạn thì vồ vập
ồn ào. Nó ngồi riêng trên cỏ. Cỏ mát, hơi gió thổi dưới bóng cây, bóng nắng lốm
đốm chạy loạng xoạng trên cỏ, trên tóc tai mặt mũi, và loạn xoạn trước mắt làm
cho nó thấy lành lạnh và xôn xao.
Một người đàn ông đứng lên, nói:
– Thôi. Về!
Bạch đứng dậy, bước xuống dòng nước, rửa lại hai tay, rồi
trèo lên một hòn đá sống trâu, giữa nắng, chùi tay vào vạt áo, và cúi xuống xắn
hai ống quần. Lúc Bạch từ trên tảng đá bước xuống lội vào bờ thì Ðang từ trong
bờ đi ra, tay cầm cái ca bằng nhôm. Gặp nhau, anh ta vừa ngước mặt lên liền bị
trượt chân.
Anh ta vung hai cánh tay dài ra cố gượng; Bạch thấy loang
loáng trước mặt cái ca sáng lấp lánh. Nó ngửa người ra phía sau, né những cánh
tay ấy, nhưng Ðang ngã sấp tới, nó vội đưa một tay ra đỡ, và trượt ngã theo.
Bạch khuỵu xuống, va đầu gối vào một tảng đá, rồi ngã ngồi. Nước bắn tung lên
trắng xóa quanh hai người.
Bạch cúi nhìn nét mặt hoảng hốt của người con trai trên tay
mình. Ðầu anh ta kê vào ngực Bạch, hai mắt mở to ngơ ngác, nước khe bắn văng
lên ướt má, ướt lông nheo, lông măng trên mép anh ta. Thoạt tiên anh ta đón
nhìn thẳng mắt Bạch như để nhận hiểu tình thế, rồi chợt anh ta vội vàng chới với
chồm dậy.
Người con gái một tay ôm giữ đầu Ðang, một tay chống ra phía
sau. Nước suối ngập quá rốn.
Trên bờ, một đứa con gái kêu:
– Coi kìa!
Tiếp theo, một tràng cười rộ lên ầm ĩ.
Mặt Bạch bừng đỏ. Nó bối rối. Sự cảm động bất ngờ và vô lý
của nó làm cho người con trai khó xử.
Ðang quay lại, vào bờ, ướt lướt mướt, trên tay vẫn còn cái ca
không, quên múc nước. Anh ta ngước nhìn từ người này đến người kia, cười thực
thà, như muốn bảo: “Chúng tôi không sao cả! Vui nhỉ!”. Và anh cúi lượm túi vải
xanh, chào mọi người, bước đi.
Khi anh ta khuất dạng, Bạch thấy dễ chịu, nhẹ người.
Nó định bước vào bờ, nhưng đầu gối và bắp đùi đau nhói lên,
không cất bước nổi. Nó chống tay vịn một mỏm đá nổi, từ từ ngồi xuống. Lúc ấy
người ta mới biết Bạch bị té nặng.
Nhưng Bạch chỉ phải ngồi yên chừng mười lăm phút cho dịu bớt đau,
rồi cũng khập khiễng bước theo mọi người đi về được. Chỉ phải bỏ lại gánh củi
bên khe nước.