Trang lá cải
Bản dịch hoàn chỉnh, bài “Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?”
Sau khi đăng bài Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc? ngày 16-8-2016, phát hiện gần 1 trang tiếng Nga đã không được dịch, nên trang Ba Sàm đã nhờ người quen kiểm tra lại.
Đôi lời: Sau khi đăng bài Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc? ngày 16-8-2016, phát hiện gần 1 trang tiếng Nga đã không được dịch, nên trang Ba Sàm đã nhờ người quen kiểm tra lại. Hiện đã có bản dịch mới của dịch giả Cao Kim Ánh, thấy trang 11 bản tiếng Nga bị dịch thiếu trước đây, đã được dịch đầy đủ, cũng như các phần khác trong bài đã được dịch lại. Xin được đăng lại bản dịch mới này để hầu bà con.
Đôi lời: Sau khi đăng bài Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc? ngày 16-8-2016, phát hiện gần 1 trang tiếng Nga đã không được dịch, nên trang Ba Sàm đã nhờ người quen kiểm tra lại. Hiện đã có bản dịch mới của dịch giả Cao Kim Ánh, thấy trang 11 bản tiếng Nga bị dịch thiếu trước đây, đã được dịch đầy đủ, cũng như các phần khác trong bài đã được dịch lại. Xin được đăng lại bản dịch mới này để hầu bà con.
____
Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga Viktor Maslov
Tác giả: Viktor Maslov
Dịch giả: Cao Kim Ánh, 2015
Sửa chữa: tháng 8-2016
Cõ
lẽ tất cả đã khác đi, nếu như tôi biết được từ đầu Lê Vũ Anh là con gái
của ai. Khi sự thật được khám phá thì đã quá muộn. Tôi đã yêu mê muội,
và không thể dứt khỏi nàng được nữa.
Chúng
tôi gặp nhau ở Khoa Lý MGU, nơi Anh học tập. Trước lúc gặp Anh tôi đã
là giáo sư, tiến sĩ khoa học toán – lý và là tác giả của lý thuyết được
biết đến ở nước ngoài dưới tên gọi “Maslov-type index theory” (lý thuyết
chỉ số kiểu – Maslov). Lý thuyết này được ứng dụng rộng rãi trong toán
học trừu tượng, và cả trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và quang
học. Chỗ làm chính của tôi là Viện chế tạo máy điện Moskva – MIEM, nhưng
Khoa Lý vẫn là nơi ruột thịt: tôi đã có thời học tập và giảng dạy ở đó.
Bao
nhiêu năm đã trôi qua … Cả một đời người. Nhiều sự kiện và ấn tượng bật
ra từ ký ức, và nàng công chúa lộng lẫy thoáng hiện ra ở cuối hành lang
hôm ấy cho đến lúc này vẫn như đang hiển hiện trước mắt. Một cô gái
không quen biết có dáng đi kiều diễm đặc biệt làm tôi sửng sốt và say mê
bước theo. Nàng dừng lại một chút ở cửa phòng thí nghiệm và quay lại.
Nhìn tôi với ánh mắt đen trong một giây, nàng mỉm cười rồi lẩn vào bên
trong. “Một cô gái ngoại quốc” – tôi hiểu ra, và đoán chắc là một cô gái
Ấn Độ.
Vấn
đề là giữa hai nước có mối quan hệ khá đặc thù, cho dù cả hai phía đều
đưa ra cam kết về một tình hữu nghị lâu dài. Liên Xô quan tâm đến việc
mở rộng ảnh hưởng ở Châu Á, đặc biệt trong điều kiện các mâu thuẫn gia
tăng với Trung Quốc, và do vậy đã tỏ ra hào hiệp giúp đỡ “người anh em”
Việt Nam. Còn Việt Nam thì hài lòng kết thân với Ông anh cả, nhưng không
chịu hi sinh các lợi ích riêng và trở thành kẻ lệ thuộc. Các nhà lãnh
đạo lợi dụng các cơ hội để con cái họ được hưởng nền giáo dục có chất
lượng khá cao của Liên Xô, nhưng lại sợ rằng chúng bị tống tiền hoặc bắt
cóc để gây áp lực lên bố mẹ, và đòi hỏi chúng phải ngụy trang. Có lẽ đó
là nguyên nhân mà các lãnh tụ Việt Nam, theo tôi, đã quá cẩn trọng. KGB
không cần phải bám theo con cái họ, nhưng biết rõ ai là ai.Tôi
không dấu diếm là luôn thích phụ nữ đông phương. Một nhà vật lý là bạn
tôi đã nói đùa: “Maslov của chúng ta là một tay “thám hiểm phương đông”
lớn!” Khá nhiều sinh viên từ các nước châu Á học tập tại MGU, trong số
đó có cả các công dân đến từ Việt Nam đang trong lửa đạn. Mọi người đều
cảm thông và có cảm tình với các sinh viên này. Tại Khoa Lý cũng có
những người Việt, và tôi lập tức kêt bạn với họ, đặc biệt với hai cô gái
– Phúc và Tình. Phúc là con gái nhà chính trị nổi tiếng Võ Nguyên Giáp,
lúc đó đang là Bộ trưởng Quốc phòng. Tình là con gái Thị trưởng Hà Nội.
Cả hai đều giấu cha họ là ai, cũng như các sinh viên khác mà gia đình
thuộc hàng ngũ lãnh đạo, do lo ngại các ý đồ chính trị và sự khiêu khích
từ phía chính quyền xô viết.
Tôi
thích Phúc, giúp cô học toán, mời đến nhà không chỉ một lần – cả một
mình lẫn cùng bạn bè – nhưng giữa chúng tôi không hề có dù chỉ là dấu
hiệu về một mối tình. Cô gái Việt Nam đáng yêu tránh xa tôi trước mặt
mọi người như tránh lửa.
Một
lần chúng tôi cùng trở về từ chỗ người đánh máy công trình khoa học của
Phúc, tôi là người giới thiệu họ với nhau. Trên con phố nhộn nhịp của
Moskva mà cô gái hành xử như một cô du kích trong lòng địch: trông rất
hốt hoảng và luôn ngó nghiêng xung quanh. Phúc đặc biệt căng thẳng với
giao thông công cộng. Thoáng thấy ô-tô bus hay trolleybus là cô ấy loay
hoay định trốn.
– Cô làm sao thế? – Tôi hỏi – Cô sợ cái gì?
– Sợ trong đấy có người Việt Nam!
– Có gì mà sợ vậy?
– Nêu họ thấy em đi với người Nga, họ sẽ không hoan nghênh em đâu.
– Cô làm sao thế? – Tôi hỏi – Cô sợ cái gì?
– Sợ trong đấy có người Việt Nam!
– Có gì mà sợ vậy?
– Nêu họ thấy em đi với người Nga, họ sẽ không hoan nghênh em đâu.
Tôi
bắt đầu lục vấn. Hóa ra người Việt Nam bị cấm giao thiệp với người Âu,
“bọn mũi lõ” như họ nói. Từ hàng thế kỷ mối quan hệ đó bị lên án và
những người có quan hệ bị xem là phản bội. Cô gái nào đi với “bọn mũi
lõ” trên phố sẽ bị nguyền rủa, và đôi khi còn bị ném đá. Những người
cộng sản, sau khi nắm quyền ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thật lạ
lùng là vẫn giữ cái nếp phong kiến đó. Vi phạm các cấm kỵ trong giao
tiếp với người nước ngoài sẽ kéo theo sự lên án của xã hội, bị kiểm điểm
trong các cuộc họp đảng và đoàn thể, thậm chí còn bị bỏ tù. Ra nước
ngoài công dân Việt Nam cũng phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức trong
nước. Theo họ, thậm chí vũ ba-lê cổ điển cũng ngang với chuyện khiêu
dâm. Về sau Anh kể chuyện rằng các nhà ngoại giao khi xem ba-lê ở Nhà
hát Lớn còn ngồi nhắm mắt để khỏi phải nhìn các vũ điệu “không đứng đắn”
của các vũ nữ ăn mặc hở hang.
Các
bạn Việt Nam đã giới thiệu tôi với cô gái xinh đẹp đó, nàng hóa ra là
đồng hương với họ. Lê Vũ Anh thích toán và muốn học sâu về môn này. Tất
nhiên tôi đồng ý giúp nàng. Anh làm tôi sửng sốt ngay lập tức, nàng thực
sự là một quý cô trẻ tuổi, không giống với các phụ nữ Việt Nam điển
hình khác: khá cao, trắng trẻo, với đôi mắt hoàn toàn không xếch. Và cư
xử như một quý cô cành vàng lá ngọc – rất giản dị, nhưng với một sự tôn
quý khác thường. Trong nước Anh được xem là một trong các mỹ nữ hàng
đầu. Và ở đây nàng luôn được các chàng trai trẻ để ý tới.
Về
sau tôi được biết rằng trong huyết quản của Anh ngoài dòng máu Việt còn
có cả dòng máu Trung Hoa. Mẹ của nàng, Bảy Vân, một phần tư là người
Trung Hoa. Ở Việt Nam người ta không biết điều này, gia đình che dấu
“mối liên hệ với Trung Quốc”. Sự thật là khi còn thơ ấu Anh đã có một
thời gian sống ở đó. Bạn gái của nàng là con gái Đặng Tiểu Bình – bạn
của cha và là nhân vật thứ hai thiên hạ sau Mao. Với Người cầm lái vĩ
đại cô bé cũng quen biết. Anh đã cho xem tấm ảnh nàng ngồi quỳ gối bên
Mao Trạch Đông.
Thời
trẻ Bảy Vân là người xinh đẹp. Lê Duẩn vì bà mà chia tay với người vợ
đầu do bố mẹ cưới cho. Ông thuộc về một gia đình có truyền thống gia
trưởng mạnh mẽ. Người vợ thứ hai xuất thân từ một gia đình trí thức,
nhưng như tôi đã nhắc tới, bà không thể tự hào về một nguồn gốc “trong
sạch”. Anh là đứa con đầu tiên. Ngoài nàng ra Lê Duẩn còn có các con gái
từ cuộc hôn nhân đầu, và hai người con trai với bà Bảy Vân. Hai trong
số các con của ông –Thành, con trai và Muội, con gái – trong thời gian
đó cũng sống tại Moskva. Muội lớn tuổi hơn Anh nhiều và có nhiệm vụ
trông coi em gái. Chị ấy tốt nghiệp đại học ở Liên Xô và là nhà sinh
học. Chị sống cùng chồng và con gái một số năm ở Moskva. Nhưng tôi biết
về tất cả những điều này khá muộn về sau …
Vì
Anh tôi nhận dạy một chuyên đề không bắt buộc về toán ở Khoa Lý. Ban
đầu rất đông người dự, dần dần họ bắt đầu chán và bỏ học, cuối cùng chỉ
còn hai chúng tôi. Anh cố gắng, nàng rất có năng lực và cần cù. Hai
chúng tôi bị hút vào nhau không cưỡng lại được. Bắt đầu gặp gỡ – tại nhà
tôi và tại ngôi nhà ngoại ô (đatra) ở Krasnaya Pakhra. Cùng học, cùng
nghe nhạc, nói chuyện với nhau về đủ thứ. Anh giữ phong thái tự do hơn
các bạn gái của mình nhiều và không sợ điều gì cả.
Mẹ
tôi ngay lập tức thích nàng. Nói chung, bà thích tất cả những thú đam
mê của tôi. Bà mẹ đã từ lâu mong mỏi cưới vợ cho người con trai duy
nhất.
Tôi
có cuộc sống riêng tư khá phóng túng và thậm chí có cả những đứa con
ngoài giá thú. Một trong số đó – Sergey Majarov – đã gặp tai nạn, và tôi
phải chịu đựng điều đó một cách nặng nề. Serioja di cư sang phương Tây
vào đầu những năm 80 cùng cha mẹ. Sống ở Paris, thu nhận học vấn, mở
hãng và làm về tin học. Lúc đầu công việc diễn ra không thật tích cực,
nhưng khi Liên Xô bắt đầu cải tổ, Sergey hiểu các vấn đề kinh tế của đất
nước và tỏ ra là một nhà quản trị tốt. Sau một vài phi vụ lớn thì trở
thành triệu phú, sở hữu một bất động sản rất hoành tráng và thậm chí có
cả salon về mode riêng. Sống thoải mái, giàu sang, không ở cùng với vợ –
con gái nhà văn Anatoli Gladinin, người đã sinh cho Sergey hai đứa con.
Nó đối xử dịu dàng với đám con của tôi. Trước khi chết ít lâu Serioja
trở thành nhà sản xuất của bộ phim “Limita” của Denis Evstingneev.
Sergey bị giết hôm 22 tháng 11 năm 1994 tại căn hộ của mình ở trung tâm
Paris: bị bắn bằng súng tự động qua cánh cửa ra vào bọc thép. Cảnh sát
Pháp xem đây là vụ có dính đến maphia Nga. Như tôi biết được thì vụ phạm
tội này vẫn còn chưa được phanh phui …
Trước
khi gặp Anh tôi không có ý hướng tới các mối quan hệ nghiêm túc, dường
như còn muốn đợi điều gì. Và tôi đã đợi được – tôi không có được với bất
kỳ người phụ nữ nào những tình cảm như có với nàng. Về tuổi, nàng chỉ
như con gái tôi – ít hơn tôi đúng hai mươi tuổi – nhưng chúng tôi không
cảm thấy khoảng cách tuổi tác ấy. Nàng ít kể về mình: đến từ Nam Việt
Nam (Anh đã đăng ký ở sứ quán của quốc gia này để ngụy trang, khi ấy đất
nước chưa thống nhất), sống ở nông thôn trong vùng du kích. Vào Đảng
cộng sản năm 17 tuổi. Về sau tôi nói đùa: “Tôi có vợ là nữ đảng viên
cộng sản từ năm 17 tuổi”. Trên thực tế điều đó thật đáng ngạc nhiên. Ở
Việt Nam, được kết nạp vào đảng ở tuổi ấy rất hiếm, chỉ có những người
có công trạng đặc biệt.
Không
loại trừ trường hợp Anh đã giúp đỡ du kích và lập được chiến công nào
đó. Nàng im lặng về việc này. Cũng như im lặng về một số thành viên của
gia đình mình. Chỉ có một lần, khi chúng tôi đã sống cùng nhau và nàng
đã cởi mở hơn rất nhiều, nàng mới buột miệng: “Ông nội em làm quan”.
Tiếng Nga của Anh khá ngộ nghĩnh. Nàng cười: ”Em nói tiếng Nga càng kém,
ở Liên Xô người ta càng đối tốt với em!”. Khó khăn nhất với nàng không
hiểu tại sao lại là cách gọi tên họ của người Nga. Tôi còn nhớ khi cô ý
tá hỏi Anh họ, tên và tên bố của các con gái chúng tôi, nàng đã trả lời
một cách rất nghiêm túc là “Tôi còn chưa học được điều này!”. Nhưng tôi
lại chạy trước mất rồi …
Khi
một mình ở bên tôi, Anh tỏ ra khiêm tốn và rất kiềm chế, nhưng tôi cảm
thấy như nàng đang vật lộn với tình cảm của mình. Một lần trong cuộc gặp
ở nhà nghỉ ngoại ô, nàng đã suýt để lạc mất lý trí. Tôi không biết cái
ôm và nụ hôn sẽ kết thúc ra sao, nếu bỗng nhiên không có tiếng chuông
cửa. Người hàng xóm ghé sang, và chúng tôi nói chuyện chừng năm phút
ngoài sảnh, không hơn. Khi tôi quay lại, trong phòng không còn ai. Anh
đã nhảy qua cửa sổ – sực tỉnh khỏi cơn mê đắm và bỏ chạy.
Tôi
hiểu đối với Anh tình yêu với một người Âu là một thử thách như thế
nào. Nhưng không nhận thức được kích cỡ của các vấn đề đang đặt ra với
nàng, trong đó không chỉ có các truyền thống hàng trăm năm và các chuẩn
mực về đạo đức, mà còn có các âm mưu trong nội bộ đảng, và các quan hệ
quốc tế rắc rối. Tôi hồi đó không có ngay cả chút nghi ngờ về việc Anh
là con gái của Tổng bí thư BCH trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê
Duẩn. Không thể biết được điều đó theo tên và họ của nàng. Như về sau
biết được, ở Khoa Lý ngoài một vài đồng hương chỉ có một người biết gốc
gác gia đình lãnh tụ Việt Nam của Anh – đó là Phó khoa phụ trách công
tác với người nước ngoài.
Tình
yêu của chúng tôi có thể làm hại cha của Anh và trở thành một con bài
mặc cả của các đối thủ. Đứng ngay sau lưng ông là đối thủ cạnh tranh
trong nhiều năm – Trường Chinh, tổng bí thư đảng cộng sản trước Lê Duẩn.
Lê Duẩn hướng về mô hình phát triển đất nước kiểu xô-viết. Trường Chinh
– mô hình Trung Quốc. Anh cho rằng Việt Nam sẽ chết nếu đối thủ của cha
nắm được chính quyền. Đối với Liên Xô, đó cũng là điều hết sức không
mong muốn. Sau cái chết của Lê Duẩn, Trường Chinh trở thành Tổng bí thư
BCH trung ương ĐCS Việt Nam, và đã chẳng xẩy ra điều gì đáng sợ.
Cô
gái tội nghiệp không biết làm thế nào. Nàng thậm chí còn bắt đầu hẹn hò
với một người Việt học tại khoa Toán – Cơ (tôi sẽ gọi anh ấy là Vân) để
quên tôi đi, mà không hiểu rằng những khó khăn cản trở chỉ càng làm cho
tình cảm bây giờ mãnh liệt thêm.
Một lần dầu sao chúng tôi cũng được ở gần nhau. Tôi lập tức đề nghị Anh lấy tôi làm chồng.
– Chuyện này không thể được, – nàng trả lời, rất buồn bã – Giữa hai nước có một thỏa thuận không nói ra cấm việc hôn nhân giữa các công dân Việt Nam và Liên Xô.
– Anh sẽ suy nghĩ cách để vượt qua điều này.
– Không, không thể được!
– Tại sao ?!
– Em không yêu ông!
– Chuyện này không thể được, – nàng trả lời, rất buồn bã – Giữa hai nước có một thỏa thuận không nói ra cấm việc hôn nhân giữa các công dân Việt Nam và Liên Xô.
– Anh sẽ suy nghĩ cách để vượt qua điều này.
– Không, không thể được!
– Tại sao ?!
– Em không yêu ông!
Nhưng
qua mắt nàng, thì không phải thế. Tôi quyết định không vội vã đẩy nhanh
sự việc, để cho Anh có thì giờ suy nghĩ và lắng nghe tình cảm của mình.
Và nàng biến mất. Trước đây vẫn thường xảy ra chuyện như vậy, những khi
Anh tự cho phép mình một điều gì đó “riêng”, và rồi ăn năn về việc này.
Sau đó mọi việc lại quay lại như trước. Nhưng bây giờ tôi không thể tìm
thấy nàng. Sắp đến kỳ nghỉ hè. Sinh viên tản đi mọi nơi. Tôi khó nhọc
đợi đến khi bắt đầu năm học mới, nhưng Anh cũng không xuất hiện ở MGU
sau ngày mồng một tháng Chín.
Tôi không chịu đựng được nữa và gọi cho Phó khoa phụ trách sinh viên nước ngoài:
– Bà có thể cho tôi biết cô sinh viên Lê Vũ Anh đã học chuyên đề của tôi đi đâu không? Cô ấy đã đạt được thành tích khá như thế.
– Cô ấy đã đi lấy chồng, lấy một người đồng hương, cũng là sinh viên của chúng ta, và đã về nước. Chàng trai tên là Vân. Họ sẽ quay lại vào cuối tháng cùng với cha của Anh. Ông ta có cuộc gặp với Brejnev – bà ta khẽ nói.
– Bà có thể cho tôi biết cô sinh viên Lê Vũ Anh đã học chuyên đề của tôi đi đâu không? Cô ấy đã đạt được thành tích khá như thế.
– Cô ấy đã đi lấy chồng, lấy một người đồng hương, cũng là sinh viên của chúng ta, và đã về nước. Chàng trai tên là Vân. Họ sẽ quay lại vào cuối tháng cùng với cha của Anh. Ông ta có cuộc gặp với Brejnev – bà ta khẽ nói.
Tôi
suýt khuỵu xuống khi nghe điều này. Gặp Brejnev vào cuối tháng chín sẽ
phải là Lê Duẩn. Các miếng ghép hình được xếp xong một cách bất ngờ, và
tôi chợt hiểu ra rất nhiều điều lạ lùng trong các câu chuyện và trong
cách cư xử của người yêu. Anh của tôi là con gái của lãnh tụ cộng sản
Việt Nam! Nhưng làm sao mà nàng có thể phản bội tình yêu của chúng tôi
?!
Về
sau Anh đã giải thích mọi chuyện. Khi chúng tôi đã trở nên gần gũi và
tôi đề nghị trao cho nàng “cả cánh tay và trái tim”, nàng đã chịu một cú
stress nặng nề và than vãn với bạn mình là Vân. Nàng nói rằng chỉ ràng
buộc với tôi về tình bạn: vâng, chuyện đã là như vậy, ngoài ý muốn của
nàng và Anh lấy làm tiếc về điều đó. Vân yêu nàng và xin cưới ngay. Nàng
bị ràng buộc vào anh ta và đồng ý, bảo rằng sẽ cố yêu anh ấy hơn. (Anh
nói đúng như vậy: “Em sẽ cố yêu anh hơn”.)
Cuộc
hôn nhân này là một cú đánh vào Lê Duẩn. Vị lãnh tụ có lẽ đã dự tính
cho con gái yêu một nơi phù hợp hơn, trong số các “hoàng tử” của các
nước láng giềng cũng có những người để ý đến nàng. Vân là một cậu chàng
trí thức trẻ, một tài năng toán học, nhưng không môn đăng hộ đối với
Anh. Lê Duẩn tha thứ cho cuộc hôn nhân không xứng này của con gái, nhưng
dứt khoát không đồng ý mong muốn ở lại Việt Nam của nàng. Anh cần phải
tốt nghiệp MGU. Chỉ còn một năm nữa nàng sẽ kết thúc việc học tại Khoa
Lý. Vân cũng muốn làm nghiên cứu sinh ở Moskva. Anh buộc phải phục tùng,
với hi vọng việc nàng lấy chồng sẽ làm thay đổi mọi sự và ngăn trở việc
tiếp tục cuộc tình của chúng tôi.
Khi
nàng quay lại Moskva tôi thuyết phục nàng đến đatra – cùng với Phúc.
Anh không thể từ chối, nhưng cư xử một cách kiềm chế. Tôi cố gắng để
khung cảnh được thoải mái. Nói đùa, kể chuyện tiếu lâm, và sau đó đề
nghị các cô cùng đi bơi thuyền, cho dù bấy giờ đã là cuối thu, thời tiết
không được tốt. Khi chúng tôi đến gần bờ, Phúc quay thuyền một cách
vụng về và ngã xuống nước. Tôi lôi cô ấy lên và chạy vội đến ngôi nhà
gần nhất mượn quần áo ấm. Chủ nhà đưa cho mấy bộ đồ sưởi để chúng tôi ủ
ấm cho Phúc. Tôi bế cô ấy về đatra, xoa cồn, cho uống rượu ngọt. Phúc ấm
lên và chìm vào giấc ngủ. Còn tôi và Anh, chúng tôi không còn sức để
xem nhau chỉ là bạn thêm nữa. Nàng thú nhận rằng muốn sống cùng tôi,
nhưng không tin là điều này có thể được.
–
Mấy năm trước chính quyền đã không cho phép con gái một vị bộ trưởng
cưới con trai thủ tướng một nước châu Âu. Đôi trẻ đã tự tử. Những chuyện
như vậy từng xảy ra nhiều. Anh không tưởng tượng được là có bao nhiêu
người đã thiệt thân vì cái truyền thống này đâu!
– Mọi việc của chúng ta sẽ tốt! Chúng ta sẽ cưới nhau! – tôi an ủi Anh.
– Mọi việc của chúng ta sẽ tốt! Chúng ta sẽ cưới nhau! – tôi an ủi Anh.
Tất
nhiên chúng tôi không phô trương quan hệ của mình để người ta không xử
lý Anh, hoặc tệ hại hơn – bắt nàng về nước. Thông thường các mối tình
Xô-Việt được Sứ quán biết một cách nhanh chóng. Các đôi uyên ương bị các
đồng bào “gõ cửa” cảnh báo. Chúng tôi giữ kín chuyện được gần một năm.
Bằng chứng là không thấy có ai theo dõi “các trẻ” Việt Nam, ít nhất là
không thường xuyên có chuyện đó. Về sau Anh có thai và không hiểu sao
giấu tôi. Nàng đã sơ xuất, chắc vậy, dẫn đến việc sẩy thai. Tôi đi cùng
nàng đến bệnh viện và vô cùng hoảng sợ rằng mọi chuyện sẽ vỡ lở và người
ta sẽ bắt Anh đi. Tôi còn lo sợ hơn cho sức khỏe của nàng. Mặc họ đưa
nàng đi, miễn là mọi chuyện đối với nàng được tốt đẹp. Lần ấy mọi chuyện
trót lọt.
***
Sau
khi ra viện người ta chuyển Anh về Pushkino, đến an dưỡng đường đặt
trong một nhà thờ. Ở đấy nàng có một địa vị đặc biệt, tất nhiên rồi,
người ta xếp nàng ăn tại phòng ăn dành cho những nhân vật danh giá. Các
cô phục vụ nâng cao khay của nàng khi đi qua phòng lớn, còn những cư dân
đang nghỉ dưỡng cố liếc mắt để xem người ta chăm sóc công chúa Việt Nam
thế nào. Anh đau khổ với các quy cách xô-viết này, nhưng buộc phải sống
hòa thuận với chúng.
Ở
Pushkino Anh cảm thấy buồn chán, nàng bắt đầu đề nghị tôi đến thăm. Tôi
từ chối mãi, bảo rằng sợ họ bắt được, nhưng rồi cũng đầu hàng và khuất
phục. Tôi đến thăm nàng, mang theo con chó fox, và thu xếp để ở bên cạnh
an dưỡng đường. Trong một lần hẹn hò trong rừng chúng tôi đã chạm mặt
một nhân viên an ninh. Anh ta ngồi trong bụi cây, và bị con chó của tôi
phát hiện.
– Anh theo dõi tất cả hay chỉ chúng tôi?
– Theo dõi tất cả, – anh ta an ủi. – Chỗ này là Gestapo đấy.
– Theo dõi tất cả, – anh ta an ủi. – Chỗ này là Gestapo đấy.
Thế
là mọi chuyện bại lộ, hoàn toàn ngẫu nhiên. Các cơ quan tìm hiểu xem
tôi là ai, và báo cáo với Lê Duẩn rằng con gái ông đang yêu một nhà vật
lý xô-viết. Một cuộc họp gia đình được triệu tập để phán xét hành tung
của Anh. Nhưng những người ruột thịt e ngại nàng, vì nàng tỏ ra rất dũng
cảm và độc lập. Thậm chí phê bình cả cha. Theo tôi thì Anh là người
cộng sản lớn, lớn hơn chính Lê Duẩn.
Ban
đầu họ quyết định hạn chế việc xử lý trong phạm vi hẹp – các bạn bè của
gia đình đang ở Moskva. Họ mời Anh đến Nhà hát Lớn xem vở ba-lê “Anna
Karenina”. Điều đó không phải ngẫu nhiên. Họ muốn nhắc nhở Anh nghĩa vụ
đối với gia đình, lấy nữ nhân vật của Tolstoi làm “đại sứ thiện nguyện”:
“Thấy cuộc đời người đàn bà phụ bạc chồng mình kết thúc thế nào chứ?”.
Anh cố nén cười.
Lê
Duẩn không thể sử dụng bạo lực và chuyển cô con gái yêu đi nơi khác.
Cuối cùng nàng vẫn giữ cuộc hôn nhân và cần phải sống cùng chồng ở
Moskva. Mọi chuyện yên ắng dần sau một thời gian, nhưng không được phép
mềm yếu, cần phải đăng ký cuộc hôn nhân của chúng tôi càng nhanh càng
tốt.
Vân
không muốn ly hôn. Có thể câu chuyện không chỉ phụ thuộc vào tình cảm
của anh ấy, mà còn vì quyền lợi của người cha, mà sự nghiệp của ông ta
sau đám cưới của con trai lên như diều gặp gió. Tôi đề nghi Anh thể hiện
sự thông minh và tỏ ra ngoại giao, cố gắng thương lượng với chồng,
nhưng nàng không muốn làm chuyện khôn khéo. Kết quả là quan hệ của nàng
với Vân trở nên căng thẳng. Nhưng khi Anh lại mang thai, thì mọi chuyện
đã đến hạn. Nàng buộc phải hành động để khỏi bị rơi vào tình cảnh nhập
nhằng: nếu khi sinh đứa con của chúng tôi nàng vẫn còn là vợ Vân, phía
Việt Nam có thể áp đặt quyền của họ đối với cháu.
Nàng
hứa với Vân là ở Việt Nam sẽ không ai biết về việc họ ly hôn: “Em sẽ
giữ bí mật chuyện này, và chúng ta vẫn sẽ là bạn. Chính anh đã nói rằng
anh yêu em. Không lẽ anh muốn em sẽ phải căm thù anh?”. Chàng trai đầu
hàng. Anh ấy vẫn yêu Anh như trước. Họ làm thủ tục ly hôn tại Văn phòng
ZAGS1 cho người nước ngoài ở Moskva, nhưng như một vụ ly hôn của những
người Việt Nam bình thường và không thông báo gì cho Lê Duẩn. Cũng không
ai nghĩ đến việc thông báo cho Sứ quán Việt Nam. Vân chịu đựng vụ chia
ly rất nặng nề, thậm chí phải vào viện tâm thần.
Phần 2
Chúng
tôi giấu việc Anh mang thai để không ai ngăn cản nàng sinh nở và đăng
ký cho đứa bé tại Liên Xô. Trường đại học thu xếp cử nàng đi công tác
vài tháng đến một trường đại học ở Kiev và giúp đỡ gọi cho chị Muội “từ
Kiev” (Anh giữ liên lạc với gia đình thông qua chị), và gửi thư từ cho
gia đình với các dấu bưu điện ở Kiev, để đánh lạc hướng mọi người. Suốt
thời gian mang thai Anh sống với tôi ở đatra, và lánh mặt khi có ai đó
ghé thăm.
Trong
thời kỳ trì trệ2 các cuộc hôn nhân của công dân Moskva và vùng Moskva
với các công dân nước ngoài chỉ được tiến hành ở hai Văn phòng ZAGS –
một ở Moskva, một ở Zagorsk – có lẽ để thuân tiện cho cho việc kiểm soát
của KGB. Chúng tôi không có việc gì phải làm với hai cơ quan này. Theo
luật pháp hồi ấy khi ở một điểm dân cư nào đó không có Văn phòng ZAGS
thì có thể làm đăng ký hôn nhân tại Xô viết đại biểu địa phương. Tôi
quyết định lợi dụng việc này và đăng ký kết hôn ở Troitsk. Ở thị trấn
Viện hàn lâm này tôi có nhiều bạn bè trong tất cả các viện. Tất nhiên
nếu họ biết được ai là cô dâu thì chưa chắc đã dám giúp cho đám cưới của
chúng tôi. Đành phải láu cá, đánh lừa, thậm chí làm giả cả giấy phép
đồng ý cho kết hôn của Sứ quán Việt Nam. Điều quan trọng nhất là tôi
phải có giấy chứng nhận cư trú tin cậy ở Troitsk. Cho dù theo luật về
hôn nhân thì điều này không bắt buộc.
Vào
những ngày này tôi xây dựng tại đatra một cái gara, rất hoành tráng,
như phần nối dài của ngôi nhà. Một trong các bức tường của nó có hình
bán nguyệt.
Các
cửa sổ phải làm khá hẹp và kéo dài, trông như các lỗ châu mai, tôi còn
nẹp thêm các thanh thép. Cửa vào căn phòng này bọc thép. Thành thử trông
cứ như một pháo đài. Và nó về sau đã hoàn thành cái chức năng này của
mình.
Theo luật Liên Xô, muốn xây gara thì phải là công dân địa phương. Tôi đến gặp trưởng công an Troitsk.
– Tôi muốn đăng ký (hộ khẩu) ở đatra để xây cái gara, có được không?
– Hoàn toàn được, anh đến chỗ mình ở trong Moskva xin chuyển đăng ký về đây, rồi nạp cho phòng hộ chiếu của chúng tôi.
– Tôi muốn đăng ký (hộ khẩu) ở đatra để xây cái gara, có được không?
– Hoàn toàn được, anh đến chỗ mình ở trong Moskva xin chuyển đăng ký về đây, rồi nạp cho phòng hộ chiếu của chúng tôi.
Tôi
làm giấy chuyển đăng ký, nhưng phụ trách phòng hộ chiếu yêu cầu phải có
giấy phép của chủ tịch Ủy ban hành chính của Troitsk, một người mà tôi
có quan hệ rất tốt. Bà này đang sửa soạn đi nghỉ, do vậy bỏ qua nhiều
chi tiết trong đơn của tôi. Tôi bèn lập tức đề nghị được phép đăng ký
kết hôn ngay sau khi đăng ký (hộ khẩu). “Chúng tôi không thể đợi được.
Cô dâu có bầu rồi, tôi có giấy xác nhận khám thai đây”. Bà Chủ tịch bèn
ghi: “Cho phép đăng ký hôn nhân ngay sau khi Ủy ban có quyết định đăng
ký hộ khẩu”. Và lên đường đi nghỉ.
Với
các giấy tờ đó tôi đến gặp vị đại biểu phụ trách đăng ký kết hôn, là
“người của mình”, thú thật rằng sẽ cưới một cô gái ngoại quốc, nhưng
buộc phải giấu chuyện này, nếu không sẽ bị đuổi khỏi Viện NC mật đang
làm. Anh này hứa sẽ thu xếp, giữ bí mật và nói bà thư ký ủy ban, một phụ
nữ tốt bụng đẫy đà, xử lý cho. Tôi mừng rỡ, nhưng đã xảy ra một chuyện
không lường trước. Trước hôm đăng ký vài ngày, họ chuyển bà thư ký đi,
đưa về thay là một cô bé làm ở Quận đoàn komsomolsk Podolsk, một nhân
vật cực kỳ tích cực. Tôi hoảng sợ rằng cô ta sẽ làm hỏng cuộc hôn nhân
của mình.
Tôi
cầu cứu bạn bè: cần vô hiệu hóa một cô gái, làm quen, quyến rũ, và đưa
cô ta đi một ngày, để cô ấy phải bàn giao việc lại cho người phó. Tại
sao phải làm vậy, tất nhiên tôi không nói. Một nhà khoa học trẻ – đẹp
trai và dại gái, nhận lời giúp. Hôm sau chàng gọi điện đến: “Thứ bảy cô
ấy sẽ vắng mặt. Đã xin nghỉ. Chỉ có điều phải kiếm cho chúng tôi vé xem
buổi hòa nhạc nào thật hấp dẫn”. Chúng tôi kiếm cho họ vé buổi biểu diễn
jazz Đức.
Người
phó không gây thất vọng, làm đám cưới cho chúng tôi đúng như đã hứa,
“không một tiếng ồn, không một hạt bụi”. Nhưng tôi, cho đến giây phút
cuối cùng, vẫn sợ nhỡ có điều gì không hay xảy ra. Bulat Okudjava3 đề
nghị: “Nếu có gì cản trở, gọi cho mình. Mình sẽ huy động các phóng viên
ngoại quốc đến, và gây ầm ĩ đến mức họ không tưởng tượng ra được đâu”.
Tôi biết Okudjava từ những năm thơ ấu, các bà mẹ của chúng tôi như hai
chị em. Tôi đã sống hồi nhỏ tại gia đình Bulat, cả nửa năm tại căn hộ
của anh trên Arbat. Vì sao thì không nhớ rõ.
Đó
là năm 1937, một thời kỳ u ám. Nhiều người phải thay đổi chỗ ở, ẩn náu
để tránh bị bắt bớ. Người ta vừa bắt đi cha của Bulat – ông Saliko. Mẹ
tôi li dị với cha và lấy Boris Phedorovich Porsnev, một nhà sử học và
triết học xuất chúng. Cha dượng đóng một vai trò rất lớn trong đời tôi.
Tôi rất yêu quý ông. Có một thời gian tôi được mẹ của Bulat – Askhen
Stepanova và bà tôi, Maria Bartanova, nuôi dưỡng. Askhen sau này luôn
giúp đỡ chúng tôi, bà cũng dự đám cưới của tôi với Anh.
Tiệc
mừng được tổ chức ở đatra. Chỉ mời những bạn bè thân nhất và người nhà.
Mẹ tôi tặng cô dâu chiếc vòng đính kim cương của mình. Một chiếc vòng
rất tinh xảo, “trí thức”, nhưng Anh ngại mang nó. Nàng là một cô gái
khiêm tốn. Còn một món quà nữa của mẹ – một chuỗi hạt trai lớn có hình
thù không đều đặn – mà Anh thường đeo dấu dưới áo.
Hôn
thú được hoàn thành nhanh chóng đến ngạc nhiên, nhưng giấy đăng ký thì
là cả một câu chuyện dài. Đầu tiên bà phụ trách hộ chiếu ngần ngại. Bà
này thông báo rằng không có quyền cấp đăng ký, đó là quyết định của chủ
tịch ủy ban, và chuyển hồ sơ về Moskva, đến Ban Nội vụ vùng. Ở đó họ dồn
tôi chạy vòng quanh. Tôi phải đợi rất lâu tại cửa của các văn phòng đủ
loại, nhưng tất cả đều vô ích. Cô em họ của Okudjava đã giúp tôi. Người
phụ nữ kỳ diệu này, mà tôi chưa hề gặp, học cùng với phó chủ tịch Ban
Nội vụ vùng Moskva. Ông ta cuối cùng ký giấy phép cho tôi đăng ký ở
ngoại ô Moskva.
Trong
thời xô-viết mọi việc được làm theo các mối quen biết. Tôi và Anh được
đưa vào một nhà hộ sinh mới mở ở Moskva theo sự giới thiệu của những
người quen của tôi, chẳng cần giấy tờ gì hết. Bác sĩ đỡ đẻ, là một nhà
phẫu thuật nổi tiếng, không biết nàng là ai. Tôi nói rằng chúng tôi là
tình nhân và muốn đánh lừa người chồng ghen tuông, Anh đã phản bội anh
ta trong lúc anh này đi công tác dài ngày. Bảy tháng trước anh chồng
nghỉ phép về Moskva, sau đó lại ra đi. Vì vậy chúng tôi cần một giấy
chứng sinh rằng em bé được sinh ra mới bảy tháng tuổi.
Trên
thực tế tờ giấy này là một bảo chứng để tránh những khiếu nại có thể từ
phía Việt Nam. Anh làm thủ tục ly hôn sau khi có thai được hai tháng,
và nếu muốn có thể công bố Vân là cha đứa bé. Hồi đó còn chưa biết đến
các xét nghiệm ADN. Bác sĩ sản làm các thứ giấy tờ một cách vô tư. Ông
ta bị Anh quyến rũ. Và tôi rất biết ơn ông ấy, có lẽ vậy.
Anh
sinh con gái ngày 31 tháng Mười năm 1977, chúng tôi đặt tên cho bé là
Elena để ghi nhớ Liên – bạn gái thân thiết của Anh, là con gái vị bộ
trưởng tư pháp, người đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, nói riêng trong
việc quyết định đám cưới “chui”. Chúng tôi làm giấy khai sinh ngay cho
cháu ở Troitsk, và chỉ sau đó mới xem là hoàn thành “chương trình
minimum”4.
Trước
cuộc sinh nở ít lâu Lê Duẩn đến Moskva. Ông không thể gặp Anh ngay.
Điều này làm ông giận dữ. Con gái ở đâu? Thường thì các nhân viên Vụ
Quốc tế BCH Trung ương (TƯ) ĐCSLX đưa Anh đến vào ngày cha cô đến nơi.
Nhưng lần này họ không thể tìm thấy cô – không ở Kiev, nơi cô đến công
tác chính thức, không ở Moskva. Người quản lý giải thích là cô ấy ở với
Maslov đâu đó. Một tuần sau, khi Anh và con gái ra khỏi nhà hộ sinh,
nàng ngay lập tức tự đi gặp Lê Duẩn để kể hết mọi chuyện. Tôi đã cố ngăn
cản, nhưng nàng không nghe.
Anh
gặp cha tại nhà khách của chính phủ trên Đồi Lenin. Lê Duẩn bắt đầu
thuyết phục con gái trở về nhà để làm thủ tục ly dị với Vân, điều mà
nàng đã yêu cầu trước kia. Nhưng nàng nói đã chia tay anh từ lâu và đã
đi lấy chồng. Lê Duẩn đỏ mặt lên vì giận dữ và bắt đầu la hét, rằng cái
dòng máu Trung Hoa tệ hại mà mẹ nàng truyền cho có lỗi trong mọi chuyện.
Anh vô cùng phẫn nộ về chuyện này, nàng không chịu đựng được sự phân
biệt chủng tộc. Nhưng nàng không ngăn cha lại, chỉ quay ra và bỏ đi.
Khi
đã ở ngoài phố nàng đi đến bến xe công cộng, phía sau một chiếc “Vonga”
đen chạy theo, cách một khoảng không xa. Anh bước gấp. Lái xe ngay lập
tức nhấn ga. Nàng bỏ chạy – và “Vonga” tăng tốc. Không biết câu chuyện
sẽ ra sao nếu Anh không kịp nhảy lên chiếc trolleybus vừa đi tới. Nàng
về đến nhà nước mắt đầm đìa. Nàng kể đã hoảng sợ ra sao khi thấy chiếc
xe bắt đầu đuổi theo mình:
– Em nghĩ họ sẽ bắt mình bây giờ!
– Em đã nói là cha em không làm việc này mà.
– Nhưng hôm nay em hiểu ra rằng ông đặt quyền lợi chung cao hơn quyền lợi riêng. Nghĩa là số phận em đã định.
– Em nghĩ họ sẽ bắt mình bây giờ!
– Em đã nói là cha em không làm việc này mà.
– Nhưng hôm nay em hiểu ra rằng ông đặt quyền lợi chung cao hơn quyền lợi riêng. Nghĩa là số phận em đã định.
Tôi an ủi nàng, còn nàng bật khóc và khẳng định: “Em sẽ chết! Sẽ chết!”
Hôm
sau Anh gọi điện cho chị Muội. Chị ấy kể rằng cha rất đau khổ vì chuyện
này, nên đã nổi đóa. Ông suốt đêm không ngủ được và muốn làm lành. Anh
trả lời: “Tốt nhất hãy chúc mừng chúng em. Chúng em vừa sinh con gái”.
Chị không tin, cho rằng Anh bịa ra chuyện này để cha thừa nhận cuộc hôn
nhân của nàng. Hai chị em thỏa thuận sẽ gặp nhau tại nhà tôi và cùng đến
gặp cha. Khi nhìn thấy Lena, Muội bật khóc và bảo Anh ở nhà. Tự chị ấy
sẽ đi và kể mọi chuyện. Người cha đã bị chấn động khi biết tin về đứa
cháu.
Lê
Duẩn trong một thời gian dài không thể yên được với việc con gái ông đã
không nghe lời, vi phạm luật lệ và lấy chồng nước ngoài. Ông gọi cho
Suslov5, là người ông quen biết gần gũi, đề nghị giải thích giùm xem cái
gì đã gắn bó Anh với tôi – sự say mê giây lát hay tình yêu thực sự. KGB
sau đó đã xếp đặt một “chuyên gia tình yêu” theo dõi chúng tôi. Anh này
bí mật đi vòng quanh đatra nơi chúng tôi đang sống, quan sát, nghe
ngóng và buộc phải đưa ra kết luận: đó là tình yêu.
Người
cha không tha thứ cho con gái. Người ta kể cho tôi rằng ở nhà Lê Duẩn
đã cấm nói đến Anh, ngay cả đến tên cũng không được nhắc đến. Nhưng các
món quà thời trẻ con của nàng vẫn nằm trên bàn viết của ông. Khi một món
đồ nào bị mất, Lê Duẩn liền gây sự. Nghĩa là ông vẫn chưa hết yêu con
gái …
Anh
thay đổi rất nhiều sau khi sinh Lena. Trước đấy nàng là một người dũng
cảm, độc lập, còn bây giờ lúc nào cũng run rẩy vì sợ hãi. Lúc nào cũng
chờ đợi có người tấn công, bắt cóc, sợ những chiếc xe màu đen và những
người đồng bào của mình. Nàng nói tốt nhất không gặp họ, họ sẽ lôi đến
cuộc họp và kiểm điểm. Những người ruột thịt dè bỉu nàng, gọi nàng là đồ
phản bội. Họ thường xuyên gọi điện và gửi đến những bức thư đầy giận
dữ. Anh bị đè bẹp, cho rằng nàng sẽ bị trừng phạt vì tội lỗi đáng sợ
mình gây ra.
Trước
đây Anh không thích ngồi lắm trong căn phòng có các lỗ châu mai, còn
bây giờ nàng suốt ngày ngồi lì trong đó với Lena, mỗi khi tôi có việc
phải trở về Moskva. Nàng cầm theo mình khẩu súng săn của tôi. Anh nói
căn phòng này là nơi an toàn nhất ở đatra. Nó không bị bắn từ hướng
ngoài phố, nhưng nổ súng từ bên trong rất thuận tiện. Xem ra nàng đang
nhớ lại tuổi trẻ du kích của mình.
Một
lần nàng làm tôi sợ gần chết. Nàng đi trốn, cùng với Lena. Tôi trở về
đatra, ở đó không thấy một ai. Tôi chút nữa thì lên cơn đau tim, nghĩ họ
đã bắt hai mẹ con đi rồi. Nàng đi ra và phá lên cười.
Không
biết từ đâu có cuộc nói chuyện với một anh lính trong đội xây dựng. Anh
ta muốn bán cho tôi một khẩu súng lục dùng bắn các chốt vào bê-tông.
Tôi hỏi, với khoảng cách nào. Anh lính tỏ ra quan tâm: “Ông muốn bắn từ
xa à? Tôi có thể bán súng tự động, cả đạn nữa”. Tất nhiên tôi từ chối.
Khi tôi vừa cười vừa kể lại cho Anh nghe, nàng bất ngờ nhận xét:
– Thì sao, lý ra phải mua.
– Em điên à? Có thể vào tù đấy.
– Nhưng em sẽ yên tâm hơn. Anh không hiểu chứ, cha có thể làm tất cả. Hôn nhân của chúng ta đã phá hủy uy tín của ông ấy trong đảng và các đối thủ của Lê Duẩn có lợi. Nếu ông ấy phải rời chức vụ, đất nước sẽ chết.
– Ông ấy yêu em và sẽ không phá hạnh phúc của em.
– Yêu, và em cũng rất yêu cha. Nhưng lợi ích quốc gia quan trọng hơn. Em luôn biết mình đi đâu. Khi chưa có Lena, em không sợ, còn bây giờ em thấy sợ lắm. Một mình anh không xoay sở nổi với con.
– Thì sao, lý ra phải mua.
– Em điên à? Có thể vào tù đấy.
– Nhưng em sẽ yên tâm hơn. Anh không hiểu chứ, cha có thể làm tất cả. Hôn nhân của chúng ta đã phá hủy uy tín của ông ấy trong đảng và các đối thủ của Lê Duẩn có lợi. Nếu ông ấy phải rời chức vụ, đất nước sẽ chết.
– Ông ấy yêu em và sẽ không phá hạnh phúc của em.
– Yêu, và em cũng rất yêu cha. Nhưng lợi ích quốc gia quan trọng hơn. Em luôn biết mình đi đâu. Khi chưa có Lena, em không sợ, còn bây giờ em thấy sợ lắm. Một mình anh không xoay sở nổi với con.
Chẳng
bao lâu cô bé bị ốm, cần phải đi viện. Trước khi vào viện với con, Anh
chuyển cho tôi bản tuyên bố chính thức: “Nếu người ta đem tôi đi, một
mình hay cùng con gái, và đưa về Sứ quán Việt Nam, xin biết rằng đó là
một hành động bạo lực, chống lại ý chí của tôi, cho dù những người thân
hay sứ quán có nói gì. Tôi muốn sống với chồng tôi là Victor Maslov ở
Liên Xô và muốn rằng ông sẽ là người nuôi dạy con gái chúng tôi và
truyền dạy cho cháu văn hóa Nga”. Tôi đã cất tờ giấy vào nơi an toàn.
Phần
lớn thời gian chúng tôi sống với nhau ở đatra và gần như không rời
nhau. Tôi dạy ít hơn, cố gắng làm việc tại nhà. Hàng đêm, đôi lúc nhìn
vợ ngủ tôi nghĩ: “Trời ơi, làm sao tôi được hạnh phúc thế này? Tôi đâu
có xứng”. Tôi dường như cảm thấy thời gian dành cho chúng tôi thật ít …
Lúc
đầu tôi sợ rằng Anh sẽ buồn nhớ gia đình và quê hương. Một lần bạn tôi,
viện sỹ hàn lâm Mishenko hỏi nàng về điều đó. “Tôi buồn chỉ khi nhà có
khách” – Anh trả lời với sự thẳng thắn vốn có của nàng. Nàng không thích
hội hè ầm ĩ, các cuộc rượu phè phỡn. Tôi nhận thấy Anh khó chịu với sự
vui sướng của những đám say rượu, cho dù nàng không thể hiện sự không
hài lòng của mình, và dần dần bỏ rượu. Còn nàng nhìn chung không uống
rượu.
Sống
với Anh tôi đã thay đổi, trẻ ra có lẽ đến mười lăm tuổi. Chưa bao giờ
tôi làm việc hiệu quả đến như vậy. Chúng tôi hầu như không đi đâu (nhân
viên Vụ Quốc tế của BCH TƯ ĐCS LX không khuyên chúng tôi xuất hiện ở
những chỗ công cộng), nhưng chúng tôi không cảm thấy mình bị xa cách.
Các bạn và chị gái vẫn đến thăm Anh. Nàng cũng vào Moskva, đến trường
đại học, kết thúc NCS một cách khôn khéo. Anh có năng lực làm việc hơn
tôi nhiều, và có lẽ sẽ làm khoa học nếu mọi việc đã không diễn ra khác
đi. Nàng đã kịp bảo vệ luận án và trở thành PTS khoa học toán – lý.
Tôi
còn nhớ có một lần đi nghe Vưsotsky6 biểu diễn tại trường MIEM. Chúng
tôi ngồi khá xa ở hàng sau, nhưng sau khi biểu diễn nghệ sỹ lập tức đến
gặp Anh. Anh ấy đã chú ý đến nàng khi đang hát, và luôn ngoái nhìn nàng.
Anh ngạc nhiên, nghĩ rằng nghệ sỹ nhầm nàng với ai đó. Còn Vưsotsky thì
sôi nổi khen ngợi, đề nghị tiếp tục gặp gỡ với nàng, nói chung cư xử cứ
như không có tôi ngồi cạnh. Tôi cố gắng kéo anh ngồi xuống. Khi anh hỏi
Anh có hiểu hết anh hát gì không, tôi đã trả lời thay:
– Này, có chồng cô ấy đây kia mà. Tôi có thể giải thích. Nói chung chúng ta gần như là hàng xóm với nhau ở đatra mà. Anh ghé chơi nhé, chúng tôi rất vui được đón.
– Tôi ở ngoài đó không thường xuyên – Vưsotsky chợt buồn – đấy là Maria thích đatra, tôi thì không thích lắm. Với lại không có thì giờ.
– Này, có chồng cô ấy đây kia mà. Tôi có thể giải thích. Nói chung chúng ta gần như là hàng xóm với nhau ở đatra mà. Anh ghé chơi nhé, chúng tôi rất vui được đón.
– Tôi ở ngoài đó không thường xuyên – Vưsotsky chợt buồn – đấy là Maria thích đatra, tôi thì không thích lắm. Với lại không có thì giờ.
Cuộc
gặp gỡ của chúng tôi với Vưsotsky xảy ra trước khi anh ấy mất không
lâu. Anh ấy trông mệt mỏi và không được khỏe. Nhưng cố tỏ ra trẻ trung
trước người đẹp Việt Nam. Nàng không hiểu lý do sự chú ý của anh. Khi
rời buổi biểu diễn, nàng hỏi:
– Anh ấy muốn gì thế?
– Anh ấy thích em – tôi trả lời. – Nhìn thấy người đẹp và xù lông xù cánh!
– Anh ấy muốn gì thế?
– Anh ấy thích em – tôi trả lời. – Nhìn thấy người đẹp và xù lông xù cánh!
Tôi
tự hào vì Vưsotski để ý đến Anh. Tôi thấy thật dễ chịu khi thấy những
ánh nhìn thán phục hướng về phía nàng. Nàng không thích lôi kéo sự chú
ý, nhưng có thể làm việc đó một cách rất hiệu quả. Nàng biết ăn mặc,
tiếp khách. Đôi lúc tôi cảm thấy tiếc rằng đã không thể cho nàng những
điều nàng xứng đáng được hưởng. Trước khi đến Liên Xô Anh đã sống một
cuộc sống hoàn toàn khác, nàng thường đi cùng cha ra nước ngoài, ở đó họ
được đón tiếp ở cấp cao nhất.
Và
ngay ở Việt Nam, chỗ Lê Duẩn cũng có nơi ở rộng lớn với bao nhiêu người
phục vụ. Nhưng Anh không than phiền và, theo tôi, không đau khổ vì
thiếu đi những tiện nghi quen thuộc, nàng tự thu dọn, tự nấu ăn. Tôi vẫn
dùng một cái máy giặt ZVM do nhà máy mang tên Vladimir Ilich sản xuất.
Nó ồn khủng khiếp và thường xuyên chảy nước, có đến cả chục lần chúng
tôi làm ướt nhà hàng xóm tại căn hộ Moskva. Khi có đứa con gái thứ hai
Anh phải xoay xở vất vả hơn, chúng tôi đã thuê một người giúp việc nhà
và bảo mẫu.
Ba
mươi tuổi, mẹ của hai đứa trẻ, Anh trông như gái mười tám. Một lần tôi
chịu đựng một cơn ghen vô cớ. Chúng tôi đứng xếp hàng trong cửa hiệu.
Trước mặt chúng tôi là một chàng trai trẻ khá cao. Một trang nam tử.
Liếc nhìn anh ta, tôi cảm thấy nhói trong tim: Anh bây giờ sẽ nhìn anh
ta, so sánh với tôi, và rút ra kết luận … Nhưng nàng không mảy may để ý
đến chàng đẹp trai. Lúc ra ngoài phố, tôi hỏi:
– Em có thấy anh chàng đẹp trai đứng trước chúng mình không? Đúng là một Alain Delon.
– Thế ư? – Anh ngạc nhiên. – Em không để ý.
– Em có thấy anh chàng đẹp trai đứng trước chúng mình không? Đúng là một Alain Delon.
– Thế ư? – Anh ngạc nhiên. – Em không để ý.
Muội nói với nàng:
– Sao em lại lấy Maslov? Ông ấy già rồi! Xem kìa, xung quanh bao nhiêu là đàn ông trẻ trung thú vị!
– Với em chẳng có ai khác tồn tại cả. – Anh trả lời.
– Sao em lại lấy Maslov? Ông ấy già rồi! Xem kìa, xung quanh bao nhiêu là đàn ông trẻ trung thú vị!
– Với em chẳng có ai khác tồn tại cả. – Anh trả lời.
Tatiana,
con gái thứ hai của chúng tôi, sinh vào năm 1979. Sau lần này quan hệ
của Anh với cha mẹ tốt lên. Có vẻ họ đã hiểu rằng mọi việc đối với con
gái họ rất nghiêm túc, và ngừng các cuộc tấn công. Thậm chí họ còn xin
Anh tha thứ, tất cả, trừ người cha. Mẹ nàng, bà Bảy Vân, đến Moskva và
vẫn đến thăm chúng tôi – cả ở đatra, cả ở căn hộ Moskva trên phố Dmitri
Ulianov.
Nhờ
mối tình của chúng tôi đã xảy ra những thay đổi quan trọng không chỉ
trong cuộc sống của gia đình Lê Duẩn, mà còn trong cả nước. Ở Việt Nam
đã thông qua luật cho phép kết hôn với người nước ngoài. Một bạn gái,
người đã yêu một chàng trai Đông Đức, ngay lập tức gọi điện cho Anh:
“Mày thật đúng là anh hùng! Hàng nghìn người sẽ cầu nguyện cho mày! Lạy
trời cho mày được hạnh phúc!”
***
Sau
khi hòa giải với gia đình Anh quyết định giới thiệu với cha cháu gái
lớn. Khi Lê Duẩn đến Moskva lần sau đó, nàng đem theo Lena đến gặp ông.
Ông ngay lập tức yêu mến cháu. Ông đề nghị để Anh và cháu ở lại cùng ông
cho đến khi ông về nước. Lúc đầu cháu bé còn lạ, nhưng dần dần quyến
luyến với ông ngoại. Ông chủ ý dấu tất cả chuối trong nhà để tự mình đãi
Lena – mong chiếm được cảm tình của đứa cháu.
Lê
Duẩn luôn yêu cầu đưa Lena đến gặp ông mỗi lần đến Moskva. Còn gặp tôi
thì dứt khoát không muốn. Còn nhớ tôi đưa Anh và con gái đến thăm mẹ vợ ở
cái đatra cũ của Khrusov ở Rublebka và phải đợi trong xe, trong khi các
cháu đang ở bên ông. Lê Duẩn đưa Lena và Anh đi xem xiếc rồi đưa họ đi
theo dự lễ khai mạc Olympic Moskva. Con bé lên cơn đỏng đảnh đúng lúc
long trọng nhất, kêu to: “Mẹ ơi, con muốn đi đái!”
Lần
khác, trong lúc ăn trưa ngồi cạnh Lê Duẩn, đúng lúc đang nói chuyện về
bắt đầu chiến tranh chống chế độ Khmer đỏ ở Campuchia, Lena bỗng nhiên
hỏi: “Ông ơi, thế ông không làm gãy răng mình chứ?”
Không
biết có sự liên tưởng nào xuất hiện trong đầu con bé, để đúng lúc nói
chuyện gay cấn nhất lại hỏi như vậy? Ở nhà chúng tôi cũng trao đổi về
cuộc chiến tranh với chế độ Polpot – Ieng Sari. Có thể Lena nhớ lại câu
mà tôi đã nói khi nào đó? Anh có ý nghĩ khá tốt về Ieng Sary, nhân vật
thứ hai của chế độ ở Campuchia. Có thể trong cuộc nói chuyện ở buổi tiếp
khách Việt Nam đó đã vang lên cái tên này, và gợi lại sự liên tưởng nơi
con bé? Người phiên dịch hiểu câu hỏi theo nghĩa bóng, lờ đi, nhưng cố
gắng truyền đạt tối đa ý nghĩa của câu hỏi. Lê Duẩn không hề bối rối.
Ông cắn chặt hàm răng chắc khỏe của mình và nhe ra với Lena. Tình huống
được giải tỏa.
Anh
cũng rất trực tính và tiết lộ các “bí mật” xô-viết cho cha một cách đơn
giản. Hơn nữa, ông ấy cũng biết cách để hỏi. Một hôm người cha nói rằng
theo lời Brejnev đất nước vừa thu hoạch một vụ bông kỷ lục. “Vậy mà vải
trải giường nhà con thủng hết rồi”, Anh nhận xét. Ngay ngày hôm sau cán
bộ phân ban Việt Nam trong Ban quốc tế của BCH TƯ ĐCSLX dẫn Anh đến
gian hàng số 200 nổi tiếng của GUM, nơi chỉ bán cho các khách hàng chọn
lọc. Thế là chúng tôi có đồ trải giường mới.
Anh
không muốn lợi dụng sự ưu đãi, nhưng dù sao vẫn mua đồ ở gian hàng cấm
này của GUM, và tôi thường nhận được các đơn hàng mà nàng đặt. Nàng
không nhận của cha dù một xu nhỏ, ngay cả khi học ở MGU. Chính quyền
chúng ta đề nghị cấp cho nàng một căn hộ rộng rãi ngay trung tâm Moskva,
nhưng nàng từ chối. Chỉ nhận một căn hộ ba phòng bình thường trong một
tòa nhà lắp ghép ở Beliaevo. Để phòng khi nhỡ có việc chúng tôi đột ngột
phải chia tay, thì vẫn có chỗ ở và làm việc.
Nhưng
chúng tôi sống hòa thuận cùng nhau. Trong suốt thời gian chung sống chỉ
cãi nhau vài lần, đấy là Anh cho rằng thế. Lần đầu tiên là khi Anh giận
dữ vì tôi chở trên xe hai cô gái, cho dù trong xóm chúng tôi ở việc cho
đi nhờ vẫn hay xảy ra. Nhưng Anh lại tức giận.
Lần
thứ hai thì xảy ra một chuyện nói chung là ngớ ngẩn. Buổi chiều tôi
nghe “đài địch”. Anh ngồi cùng tôi, nhưng nàng không hiểu tiếng Anh, do
vậy nhanh chóng đứng dậy và đi vào phòng trẻ con. Tôi nghĩ lũ trẻ đã đi
ngủ, và khép cửa thật chặt để khỏi đánh thức chúng. Sau đó tôi cũng
thiếp đi. Anh ra khỏi phòng trẻ, kéo cửa, nhưng không mở được. Nàng cho
rằng tôi không muốn gặp nàng, lấy làm khó chịu và sáng hôm sau bỏ đi đến
nhà chị Muội. Đến chiều Anh trở về, và chúng tôi làm lành. Nàng không
thể sống trong tình trạng xung đột với tôi.
Mẹ
nàng, bà Bảy Vân, cố gắng làm cho con gái chống lại tôi, có lần nói ra
sự không hài lòng với việc chúng tôi sống tằn tiện. Anh giải thích cho
mẹ: “Bao nhiêu tiền anh ấy gần như dành cho đatra. Luôn cứ phải mua hay
sửa cái gì đó. Con không thể từ chối anh ấy trong chuyện này. Những
người đàn ông khác họ uống rượu hết tiền, còn anh ấy thì xây dựng”.
Anh
dành lấy việc chăm sóc cho mẹ tôi, khi bà bị đột quỵ, và nàng rất biết
cách chăm sóc. Có lẽ nàng đã từng làm y tá trong thời gian chiến tranh.
Mùa thu năm 1980 Anh lại mang thai, tôi vốn mong có một gia đình lớn.
Vào tháng năm năm 1981 mẹ tôi khá hơn, người ta cho bà ra viện. Chúng
tôi chuyển ra đatra. Tôi thuê một cô y tá, cô ấy ngủ bên cạnh người ốm
và giúp bà đi lại và nói năng. Trẻ con thì có bảo mẫu, được đưa từ Việt
Nam sang theo yêu cầu của Anh, để lũ trẻ có thể nói chuyện với chị bằng
tiếng mẹ đẻ. Lê Duẩn chuyển cho nàng một món quà – một con đồi mồi. Anh
rất hoảng hốt khi nhìn thấy món quà cha tặng:
– Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là điềm xấu. Làm sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.
– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.
– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …
– Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là điềm xấu. Làm sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.
– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.
– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …
Kết
quả siêu âm cho biết lần này chúng tôi sẽ có con trai. Anh cảm thấy
người không khỏe, tôi đặt trước chỗ cho nàng ở nhà hộ sinh “Kremlin” của
Cục 4 trên phố Vesnina. Anh đã sinh Tania ở đó và nói chung thấy hài
lòng chỗ này. Hồi ấy Anh có phòng bệnh riêng, có TV và điện thoại, nàng
có thể bình tĩnh viết báo khoa học. Bác sĩ hồi ấy đã sửng sốt: “Một phụ
nữ tuyệt làm sao! Nằm nhà hộ sinh còn làm khoa học!”
Nhưng nàng không muốn nằm tại bệnh viện này, sợ hãi điều gì đó. Một lần nàng nói sẽ chết khi sinh nở:
– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.
– “Họ” là ai?
– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.
– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.
– “Họ” là ai?
– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.
Tôi không tin vào linh cảm, cho rằng đó là những lo lắng của các phụ nữ mang thai.
Đêm
mùng sáu sang ngày mùng bảy tháng sáu Anh bắt đầu đau. Để an tâm tôi
gọi liền hai xe cấp cứu, từ Troitsk và từ Moskva – phòng khi bỗng nhiên
có việc gì trục trặc. Xe từ Troitsk lao đến trước, nhưng nó chỉ chở được
Anh đến Podolsk. Tôi đề nghị họ chở nàng vào Moskva, đến nhà hộ sinh số
25, gần nhà chúng tôi trên phố Dmitri Ulianov. Khi đến nơi mới rõ ra
một nửa tòa nhà đang phải sửa chữa.
Người
trực nhận giấy tờ của Anh, nhìn thấy nàng đăng ký ở Cục 4, liền gọi
ngay xe cấp cứu từ đó. Vậy là người ta vẫn chở Anh đến phố Vesnina. Ở
đấy, các bác sĩ lập tức khám và nói, tất cả đều ổn, quá trình sinh nở
bình thường. Tôi chuẩn bị ngồi chờ ở phòng tiếp nhận thì sực nhớ mẹ tôi
hầu như đang ở ngoài đatra có một mình. Cô y tá chúng tôi đã cho nghỉ
hè, còn chị bảo mẫu người Việt không nói được tiếng Nga. Tôi liền lao về
đó. Tại đatra mọi việc đều bình thường, nhưng mẹ nói rằng xe cấp cứu từ
Moskva không tới. Thật lạ lùng.
Vào
7 giờ sáng Anh sinh bé trai. Người ta gọi điện cho tôi từ nhà hộ sinh
thông báo điều đó, tôi hỏi tình trạng của người mẹ ra sao, đầu dây bên
kia im lặng. Sau một khoảng im lặng dài, họ đề nghị tôi tới và nói
chuyện với bác sĩ. Ở Moskva tôi được biết rằng Anh bị chảy máu rất
nhiều, chưa cầm được. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể – Bác sĩ nói
– Sắp tới họ sẽ chuyển máu tới. Ông tốt nhất nên quay về nhà. Đợi ở đây
là vô nghĩa”.
Tôi
chạy đến các bác sĩ quen để hỏi ý kiến. Họ không vui, nói rằng trong
những trường hợp như vậy phải lập tức cắt bỏ tử cung. Nhưng các bác sĩ
Kremlin có lẽ sợ lãnh về mình trách nhiệm đó, bệnh nhân không phải nhân
vật bình thường.
Tôi
quay trở về nhà hộ sinh. Lúc ấy người ta đã phẫu thuật cho Anh. Bác sĩ
phẫu thuật chính của Cục 4 được mời đến xử lý cho nàng. Khi ông vừa ra
khỏi phòng mổ, tôi lao đến:
– Cô ấy sẽ không chết?
– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …
– Cô ấy sẽ không chết?
– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …
Vài
tiếng sau đó Anh qua đời. Người ta cho phép tôi vào phòng bệnh. Anh nằm
trên giường, phủ tấm ra – trông nàng xinh đẹp làm sao, như đang ngủ.
Một cục gì chẹn lấy cuống họng tôi, tôi quỳ xuống hôn tay người tôi yêu
dấu. Tấm ra phủ di chuyển, hé lộ thân thể vợ tôi, phủ đầy các vết xanh –
đỏ. Tôi kêu lên vì sợ hãi. Mọi người chạy đến bên, đỡ lấy tôi và đưa ra
hành lang …
Lần
cuối cùng tôi nhìn thấy Anh là ở chỗ hỏa táng – mười ngày sau đó. Quyết
định hỏa táng không phải do tôi đưa ra. Nói chung không ai hỏi ý kiến
tôi muốn an táng vợ mình ra sao. Tại sao phải đợi lâu thế vẫn mãi là câu
hỏi. Có thể Lê Duẩn đã bí mật đến Moskva. Tôi không gặp ông, còn bà mẹ
thì bay sang ngay. Tro cốt của Anh được đưa về Việt Nam, bình tro được
giữ ở nhà bà Bảy Vân, trong một căn phòng riêng.
Sau
cái chết của Anh các cháu được bà cụ mẹ của Bulat, bà Askhen Stepanova
yêu quý, đã rất già yếu chăm sóc. Bà cụ ở lại cùng chúng tôi ba tuần.
Còn tôi trong thời gian đầu rơi vào một trạng thái quên lãng, mù mờ sao
đó. Trí nhớ của tôi từ chối tin vào những gì vừa xẩy ra. Một lần tôi
tỉnh dậy giữa đêm trong hoảng hốt. Trái tim bóp nghẹt trong lồng ngực.
Trong mơ tôi thấy lóe lên một luồng sáng: người ta đã đầu độc Anh. Tôi
chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng
cho rằng các vết xanh-đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy
máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh
viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparin cho các bênh
nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng
như thế. Đã xuất hiện thêm một phương án khả tín theo quan điểm của tôi:
việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không
phải tự nhiên Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn …
Trong
đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Anh đã giết
con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam. “Không đời nào!” –
tôi trả lời. Tôi biếu bà chuỗi hạt đã từng giữ hơi ấm cơ thể của Anh. Bà
ấy nhận nó, để sau này sẽ trao cho vợ của cháu trai, khi nó lớn lên và
cưới vợ.
Tôi
che dấu cái chết của Anh không nói cho những người thân biết. Mẹ tôi
rất đau ốm, còn các cháu gái thì quá bé. Mẹ tôi có lẽ cảm thấy điều gì
đó, bà bị đột quỵ lần hai, và lần này thì điều trị không khá lên được.
Tôi nói với Lena là Anh ở trong bệnh viện, và sau đó – rằng mẹ đã đi có
việc, nhưng con bé cũng hiểu hết. Một lần nó kéo tôi ra bên và thì thầm
hỏi tôi: “Bố ơi, người ta chôn mẹ rồi phải không?”. Lena luôn than thở
về nỗi buồn vắng mẹ, nó khóc: “Bố, hãy đi Việt Nam, mua mẹ cho con!”
Bảy
Vân quyết định ở lại Moskva ít lâu. Bà ấy yêu cầu dẫn Tania đến thăm,
nói rằng sẽ đưa trả con bé và cô bảo mẫu về nhà vào hôm sau. Nhưng đã
không cho về. Hai ngày liền tôi gọi cho mẹ vợ, nhưng người ta không gọi
bà ấy nghe điện, viện cớ có công việc quốc gia quan trọng nào đó. Ban
đầu tôi không cảm thấy lo lắng đặc biệt, nhưng sau đó hiểu ra rằng bà
đang cố thực hiện ý định của mình – lấy lũ trẻ khỏi tay tôi. Tôi tìm
được địa chỉ của bà với không ít khó khăn, đem theo một đồng nghiệp biết
tiếng Pháp để hỗ trợ và làm phiên dịch, lên đường đòi lại con gái. Bảy
Vân không muốn trả lại Tania, ngay cả khi tôi nói rằng mẹ tôi sắp mất và
bà cụ muốn vĩnh biệt cháu gái. Tôi buộc phải hứa rằng bà cháu sẽ gặp
lại nhau trong lúc chuẩn bị cho tang lễ.
Mẹ
tôi mất ngay ngày hôm sau. Mẹ vợ chạy đến ngay: “Các cháu sẽ ở với
tôi!”. Tôi phải giải thích rằng các cháu còn đang ốm. Tania thực sự đang
bị sốt. Bảy Vân đề nghị thu xếp chữa cho cháu tại căn hộ của mình,
nhưng tôi không đồng ý.
Tôi
biết rằng bà ta sẽ lại xuất hiện ở đatra vào ngày cử hành tang lễ, lúc
tôi không ở nhà, do vậy đã gửi Lena đến chỗ người quen, còn Tania tôi
khóa cùng với người cháu của tôi trong căn phòng có các lỗ châu mai, và
dặn không được mở cửa cho bất cứ ai, đặc biệt cho bà ngoại nó. Bà bảo
mẫu được dặn phải nói là cả hai cháu đang ở nhà các bạn của tôi. Ngay
khi tôi vừa rời đến chỗ hỏa táng, Bảy Vân đã xuất hiện ở đatra. Không
tìm thấy lũ trẻ, bà ta ra về trong sự tức giận khủng khiếp.
Với
đứa con trai, tôi đặt tên nó là Anton, tình hình phức tạp hơn nhiều. Ở
nhà hộ sinh họ không trao cháu cho tôi. Họ thông báo rằng do tình trạng
sức khỏe của cháu bé, cháu cần ở lại bệnh viện để các bác sĩ chăm sóc.
Tôi chỉ làm được giấy chứng sinh cho cháu, và lập tức tiến hành các biện
pháp. Tại bệnh viện của BCH TƯ, nơi cháu được chuyển đến từ nhà hộ
sinh, cháu đã nhập viện với tên là Anton Maslov: các bạn của tôi đã giám
sát tại lối vào bệnh viện để cháu được đăng ký đúng như đã định. Đây là
một thắng lợi, không lớn nhưng dầu sao cũng là thắng lợi. Bây giờ đưa
con trai tôi ra khỏi biên giới sẽ khó khăn hơn nhiều.
Họ
cho phép tôi vào bệnh viện, đi dạo cùng con trai, nhưng bên cạnh luôn
có người của BCH TƯ. Một thời gian tôi đã muốn lấy cắp Anton và dấu cháu
trong gia đình chị bạn người Triều Tiên, giả như đó là con của chị. Còn
tôi sẽ đưa về nhà một cháu bé có bề ngoài đông phương khác trong trường
hợp Lê Duẩn quyết định đưa cháu trai ra mà không có sự đồng ý của tôi.
Nghĩ ra đủ phương án, nhưng không thực hiện được. Và lạy Chúa – tôi sợ
trò phiêu lưu này sẽ làm tôi nguy đến tính mạng.
Cán
bộ từ BCH TƯ, người đảm nhận liên lạc giữa tôi và gia đình Anh, đề xuất
một giải pháp thỏa hiệp – tôi giữ các cháu gái cho mình, còn trao đứa
cháu trai cho ông nó: “Cứ để nó sống ở Việt Nam vài năm, khi cháu lớn
lên, họ sẽ trả cháu về. Ông lúc nào cũng có thể đến thăm người thân của
vợ và gặp Anton”. Cuộc bầu cử mà Anh lo sợ đang sắp diễn ra. Xem ra nhóm
thân Trung Quốc loan tin rằng không nên tin tưởng vào Lê Duẩn. Ông ấy
không thể theo đường lối độc lập nếu cháu trai ông ấy đang bị Kremli giữ
làm con tin. Trong cơn sóng gió trước bầu cử người của ta có thể bắt đi
tất cả các đứa con của tôi, chỉ để giúp Lê Duẩn còn giữ được quyền lực.
Tôi hứa sẽ suy nghĩ, cố kéo dài thời gian. Nhưng áp lực ngày một gia
tăng. Họ đe dọa tôi bằng những điều bất tiện trong công tác. Người cán
bộ nói anh ta đã biết “phương án Triều Tiên” – tức phương án bắt cóc con
trai tôi với sự giúp đỡ của chị bạn người Triều Tiên. Tình thế trở nên
nghiêm trọng. Bà ngoại Bảy Vân một lần đã nói thẳng: “Không muốn tốt –
cũng chẳng cần”.
Chống
đối tiếp tục đã thành vô nghĩa, và tôi quyết định phải có sự đảm bảo –
soạn một tuyên bố chính thức về việc cho phép đưa con đi trong hai năm. Ở
sân bay tôi đã khôn khéo lấy hộ chiếu của Anton từ nhân viên an ninh
cửa khẩu, chụp ảnh tất cả các trang và đút trả lại. Bạn của tôi chụp ảnh
ghi lại cuộc ra đi của thằng bé. Vào đúng ngày hôm ấy Lê Duẩn đến
Moskva. Ông đã gặp Brejnev. Vì cuộc hội kiến này (có vẻ rất quan trọng)
nên mới có sự vội vã như vậy.
Chẳng
bao lâu tôi lăn ra ốm. Ban đầu là viêm phổi, sau đó phát hiện có một
khối u. Nghi ngờ đến khả năng xấu nhất, nhưng rồi mọi việc cũng qua –
khối u hóa ra lành tính. Tôi nằm viện khá lâu, Muội có đến thăm tôi. Chị
chắc có nói chuyện với bác sĩ, biết về các chẩn đoán của tôi và kể cho
những người thân biết. Những người này lập tức chạy vạy – nhờ cậy những
người bạn xô viết nhờ nhận lại các cháu gái từ người cha “đang sắp
chết”.
Nghĩ
lại thấy thật đáng sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu nếu tôi không
xuất viện đúng một ngày trước khi các thanh tra về công việc với vị
thành niên đến nhà tôi. Một bà trong sắc phục đại úy cảnh sát đến nhà
với yêu cầu chính thức từ Ủy ban vùng – xem xét khả năng xác nhận đưa
Elena và Tatiana Maslovye vào cơ sở nuôi dạy trẻ. Tôi không thể nói với
bà ta toàn bộ sự thật, nhưng cho bà ta hiểu rằng trong câu chuyện này
mọi việc không đơn giản, khuyên bà ta đừng vội vã.
***
Sau
hai năm người ta vẫn không đưa Anton trở lại. Tối đấu tranh thêm hai
năm nữa để họ cuối cùng đưa cháu trở lại Moskva. Tôi yêu cầu việc này
với tất cả người thân của Anh. Cuối cùng Thành, em trai nàng bay sang
Moskva. Chúng tôi gặp nhau và đã tìm được tiếng nói chung. Thành nói
chuyện với Lê Duẩn, và ông ta quyết định đưa cháu trai về với cha nó và
các chị. Nhưng con trai tôi trở về đã không phải với tên là Anton
Maslov, mà là công dân Việt Nam Nguyễn An Hoàn và hộ chiếu VIệt Nam. Lê
Duẩn không có ý định trao cháu cho tôi. Ngược lại – ông hy vọng sẽ mang
luôn cả các cháu gái về.
Con
trai không nói được tiếng Nga, nó lạ tôi và không rời bà bảo mẫu người
Việt đã nuôi cháu từ trứng nước. Ở Việt Nam Anton thực sự là hoàng tử:
nó được ở cả một tầng nhà.
Tôi
hi vọng sẽ thu xếp được với con trai, nhưng người bà Việt Nam bay sang,
sau khi quyết định đi nghỉ tại Krưm tuyên bố rằng ở Moskva không tốt
cho thằng bé. Sau kỳ nghỉ bà ta sẽ đưa cháu trở lại Việt Nam, còn tạm
thời cần đưa cháu vào một nhà trẻ tốt trong suốt mùa hè. Bà ta sẽ cho
phép tôi và các cháu gái tới đó. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi có
mặt một cán bộ khá cao cấp của Ban quốc tế BCH TƯ, làm nhiệm vụ phiên
dịch. Ông đã thấy tôi giận dữ như thế nào, và khuyên tôi đừng nổi cáu,
cố gắng đạt được thỏa thuận với người bà quyền lực. Bắt cóc Anton thật
vô nghĩa: cháu là công dân Việt Nam và họ sẽ ngay lập tức đưa cháu đi
khỏi nhà tôi.
Nhưng
tôi không có ý định đầu hàng. Bây giờ đã là thời khác, lãnh đạo đất
nước Liên Xô không còn là Brejnev, mà là Gorbachev. Hơn nữa sau những
năm tháng ấy tôi đã kịp trở thành Viện sỹ hàn lâm và được trao Giải
thưởng Lenin. Tôi viết đơn yêu cầu trả lại con trai và đi khắp các cửa,
còn thiếu đâu nữa: Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, BCH TƯ ĐCS LX. Khắp nơi
người ta thông cảm với tôi, nhưng giúp đỡ thì đều từ chối. Họ nói rằng
việc đó ngoài khả năng của mình. Một lần tôi chia sẻ với một chị bạn tốt
– thư ký của Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học. Chị ấy khuyên tôi nên cầu
cứu Anatolia Gromưco – con trai Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Andrei
Andreievich Gromưco, một người thân cận với Gorbachev, và chị ấy sẽ giúp
thu xếp cuộc gặp này.
Gromưco-con
là giám đốc Viện Phi châu thuộc Viện HL KH LX. Tôi kể cho anh nghe về
câu chuyện của tôi và Anh, đưa cho anh xem các bức ảnh chụp cùng vợ con.
Anatolia Andreevich tỏ ra cảm động. Anh nói: “Anh hãy viết đơn gửi cho
chính Gorbachev. Tôi hứa rằng ông ấy sẽ nhận được và sẽ đọc. Nhớ kèm
theo cả những bức ảnh, đặc biệt bức chụp cùng bọn trẻ này. Nó mạnh hơn
bất kỳ bức thư nào”. Tôi làm theo những gì anh chỉ dẫn, và cùng với các
bức ảnh tôi còn để cả bản tuyên bố của Anh viết năm 1978. Vài hôm sau
không chờ đươc, tôi gọi điện cho Gromưco. Anh nói: “Họ đã biết quan điểm
của anh”. Tất cả chỉ có thế. Tôi không biết sẽ phải nghĩ gì và hành
động ra sao.
Để
bà ngoại yên tâm, tôi thu xếp gửi Anton vào nhà trẻ của Cục bốn, khá xa
đatra của tôi. Tôi thỏa thuận với bà giám đốc rằng bà không được giao
đứa bé cho ai, trừ tôi. Những người bảo vệ hứa sẽ gọi điện nếu thấy xuất
hiện những “kẻ đột nhập” vào khu vực nhà trẻ. Tôi dúi cho họ 4 chai
vodka Smirnov, hồi đó chỉ bán theo giấy của nhà thờ, và họ nóng lòng chờ
sự xuất hiện của “kẻ đột nhập Việt Nam”. Chẳng bao lâu sau kẻ đột nhập
xuất hiện thật. Bảy Vân nhận được sự từ chối thẳng thừng và buộc phải
rút lui. Nhưng giám đốc nhà trẻ nài nỉ tôi phải đưa Anton đi: “Tôi sẽ
không chịu đựng được cuộc tấn công sau đâu. Anh không tưởng tượng được
là chúng tôi đã căng thẳng đến thế nào”.
Tôi
nói chuyên với bạn bè, và họ tìm được cho chúng tôi một ngôi nhà ở
Belorussia – ở tít tận xó rừng sâu Belovejskaia Pusia. Trong vòng bán
kính 5 km quanh đó không một bóng người. Chúng tôi ở đó chừng vài tháng –
Lena, Tania, Anton, bà bảo mẫu của chúng, và tôi. Pusia quả thật là một
chốn thiên đường. Bọn trẻ đến giờ còn nhớ khu rừng nguyên thủy, những
bãi cỏ đầy nấm và quả rừng, có thể sờ tay vào lũ thú rừng và chim chóc.
Lũ hươu kéo đến tận nhà, làm bà bảo mẫu sợ chết khiếp. Đàn bò rừng nhởn
nhơ đi lại đằng xa. Anton trở thành một đứa trẻ khác hẳn ở Belorussia,
chơi với các chị và bắt đầu nói một ít tiếng Nga.
Tôi
không nhận được tin tức gì từ Moskva, nhưng hi vọng vào những điều tốt.
Tôi nghĩ rằng Gorbachev không muốn có một Sakharov – viện sĩ – nhà bất
đồng chính kiến thứ hai. Để giành lại các con, tôi sẵn sàng làm tất cả,
kể cả một scandal quốc tế. Mấy tháng trôi qua tôi biết được từ một người
bạn Việt Nam, gần gũi với gia đình của Anh, rằng Lê Duẩn đã từ bỏ ý
định bắt cháu về. Ông nói: “Nếu cha chúng nó yêu chúng như vậy, thì cứ
để chúng sống với anh ta”. Có vẻ hai nước đã đi đến một nhận thức chung
về chuyện này, Gorbachev và Lê Duẩn đã thỏa thuận để gia đình chúng tôi
được yên. Sự đau khổ của tôi kết thúc. Mấy năm sau Lê Duẩn từ trần.
***
Vào
cuối những năm 80 – 90 tôi có dịp đi khắp thế giới. Với tư cách là giáo
sư mời tôi đã giảng bài ở Mỹ, Anh, Pháp. Đất nước tôi hồi đó ở trong
giai đoạn không dễ dàng gì. Khoa học thoi thóp, các nhà bác học được trả
lương bằng xu, mà trong tay tôi – ba đứa trẻ. Cần phải kiếm tiền bằng
cách nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ ở lại sống ở nước ngoài. Bọn
trẻ luôn đi cùng với tôi, cũng như người vợ sau Irina. Chúng tôi cưới
nhau năm 1991. Tôi quen Ira đã lâu, từ khi Anh còn sống. Cô ấy cùng tuổi
với Anh. Ira là nhà ngôn ngữ, phó tiến sỹ khoa học. Sau khi Anh mất,
giống như nhiều bạn bè và người thân của tôi, cô ấy đã giúp tôi trông
nom bọn trẻ. Đối với tôi mối quan hệ của cô với chúng cũng quan trọng
không kém tình cảm giữa chúng tôi. Ira là một phụ nữ đáng kinh ngạc. Sau
khi cưới, cô ấy quyết định không sinh thêm một đứa con nữa, đứa con
chung của chúng tôi, để không phải làm dì ghẻ, mà hoàn toàn thay Anh làm
mẹ của Lena, Tania và Anton.
Các
con tôi hiện sống ở nước ngoài, dù khi còn trẻ không dự định việc này
và chúng đều vào học tại MGU mà không phải một trường đại học tây phương
nào đó. Nhưng về sau những dòng người có vẻ ngoài châu Á tràn vào
Moskva. Và bắt đầu nảy sinh các vấn đề. Thí dụ đã xảy ra một chuyện
không dễ chịu với Tania ở đatra. Một nhân viên cảnh sát, đến vì một
chuyện hoàn toàn khác, tình cờ nhìn thấy cháu và cho rằng đấy là một
người di cư bất hợp pháp từ Trung Á, và suýt nữa tôi bị cáo buộc vào tội
“che dấu”.
Những
tình huống như vậy khá nhiều, và không hề dễ chịu. Chúng tôi họp gia
đình và quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đưa lũ trẻ sang châu Âu, ở đó đã
quen với việc có nhiều sắc tộc. Kết quả là Tania và Anton sang sống ở
Anh, còn chị cả Lena – ở Hà Lan. Cháu lấy chồng là người Hà Lan xuất
thân từ một gia đình quý tộc tỉnh lẻ lâu đời. Chồng cháu là một người
làm phân tích nghiệp vụ và có thời gian là khách hàng của một hãng máy
tính của Anh, nơi Lena làm việc. Mối tình bắt đầu ở nước Anh.
Sau
khi cưới đôi trẻ chuyển sang sống ở Hà Lan, trong một thị trấn nhỏ cách
Amsterdam chừng một giờ đi xe. Lena là kiến trúc sư phần mềm, đã đạt
được đỉnh cao trong nghề. Cháu là một chuyên gia độc nhất, được đánh gía
cao ở hãng, được tạo cho các điều kiện làm việc thuận lợi nhất. Lena có
một con nhỏ – cháu sinh con gái Anna năm ngoái. Còn Tania năm nay sinh
được cậu con trai Oskar. Tania tốt nghiệp MGU ở Moskva chuyên ngành
“ngôn ngữ”, khi sang Anh thì chuyển nghề và, giống như Lena, làm về lập
trình. Sống với chồng là người Anh ở thị trấn ngoại ô Bristol. Tania từ
bé đã yêu súc vật và đem theo cùng mình đến Anh hai con chó và một con
mèo. Anton tốt nghiệp MVK tại Khoa Toán học tính toán và Điều khiển học.
Cháu cũng làm việc liên quan đến máy tính và ở không xa chị gái. Cậu
chàng chưa cưới vợ, và tôi sợ sẽ còn lâu. Có vẻ cháu giống tính tôi.
Tất
nhiên tôi sẽ vui mừng nếu có các con ở bên, chứ không phải cách xa hàng
ngàn cây số. Nhưng cuộc sống là như vậy. Tôi vẫn trò chuyên với các con
hàng tuần, qua Skype. Mùa hè nào chúng cũng trở về Nga và về ở
Selinger, nơi chúng tôi có một căn nhà ngoại ô. Tôi và Ira sống phần lớn
thời gian ở đatra. Ở đấy nghỉ ngơi và làm việc đều tốt. Tôi tiếp tục
làm khoa học, điều đem lại cho tôi niềm vui lớn, tôi còn có nhiều công
trình dở dang. Tôi vẫn là nhân viên toàn thời gian của MIEM.
Học
viện đã được củng cố đáng kể, trở thành một phần của Trường đại học –
nghiên cứu, “Trường kinh tế cao cấp”. Điều này hoàn toàn trùng hợp với
các kế hoạch khoa học của tôi và cổ vũ trong tôi niềm say mê sáng tạo.
Ngoài ra tôi còn là cộng tác viên khoa học của Viện các vấn đề cơ học –
RAN và chủ nhiệm bộ môn thống kê lượng tử và lý thuyết trường tại Khoa
Lý của trường MGU ruột thịt. Năm 2013 tôi nhận giải thưởng nhà nước lần
thứ 3 do những đóng góp vào việc xây dựng cơ sở toán học cho ngành nhiệt
động học hiện đại.
Khi
làm việc, tôi cảm thấy ánh nhìn của Anh lên mình. Trong phòng làm việc
đã nhiều năm vẫn treo bức ảnh chân dung lớn của nàng. Tôi cảm thấy Anh
hài lòng về cuộc sống của các con chúng tôi. Tuy rằng cái nhìn của nàng
có nghiêm nghị, nhưng theo tôi, nhân hậu. Tôi thường mơ thấy nàng, trẻ
trung và hạnh phúc.
Đôi
khi tôi có cảm tưởng rằng Anh không chết, nàng chỉ đang đi đâu đó. Có
thời gian tôi đã nghĩ đến việc làm gì đó để vinh danh vợ: đến “với nàng”
tại Việt Nam. Vào cuối những năm 90 tôi được mời dạy ở Hong Kong.
Khoảng cách từ đó đến TP Hồ Chí Minh, nơi bà Bảy Vân sống, không quá xa.
Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã từ chối. Đối với bọn trẻ, việc di chuyển
đến Hong Kong có thể tạo nên stress lớn, cần phải thích nghi với khí
hậu, nước uống, đồ ăn hoàn toàn khác biệt. Tôi sợ chúng sẽ bị ốm.
Về
sau, khi đã trưởng thành, Lena, Tania và Anton đã hai lần về Việt Nam
để gặp những người ruột thịt. Chúng được đón tiếp như các vương tôn công
tử. Ở đất nước này người ta vẫn còn lưu giữ ký ức thiêng liêng về Lê
Duẩn, giống như trong thời xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhớ về Lenin.
Trong mỗi thành phố đều có các con phố hay quảng trường mang tên ông. Và
các cháu của lãnh tụ được đối xử một cách vinh dự. Bảy Vân, bà vợ góa
của ông vẫn còn sống. Bà nay đã gần chín mươi tuổi.
Anh
giao phó các con của chúng tôi cho tôi. Nàng mong muốn các cháu sống ở
Liên Xô và được giáo dục theo các truyền thống văn hóa Nga. Không có Ira
tôi không thể thực hiện được sự ủy thác của nàng. Cái chính là bọn trẻ
không lúc nào cảm thấy chúng là trẻ mồ côi. Và nếu không có Ira chúng
không thể thấm nhuần văn hóa và tâm hồn của chúng ta. Do vậy chúng vẫn
là những người Nga, cho dù sống ở đâu.
Ghi chú:
- ZAGS – Cơ quan phụ trách các công việc liên quan đến hôn nhân, nhân khẩu, v.v.
- Thuật ngữ hay dùng ở Liên Xô để chỉ thời kỳ lãnh đạo của Brejnev, nhất là những năm cuối, trước “cải tổ”.
- Nhạc sĩ, nhà thơ, ca sĩ người Gruzia, rất nổi tiếng như một tác giả mở đầu cho phong cách sáng tác những ca khúc tự sự có giọng điệu tác giả riêng. Với cây ghi-ta ông có điều gì đó làm liên tưởng đến Trịnh Công Sơn. Các ca khúc tôi rất thích: Tình ca Arbat, Bài ca Gruzia, Nguyện cầu …
- Chương trình bắt buộc đối với các NCS ở Liên Xô, phải thi xong “minimum” mới được nhận làm luận án.
- Ủy viên BCT, Trưởng Ban TC TW Đảng CSLX thời Brejnev.
- Ca sĩ nổi tiếng với các bài hát cấp tiến, thần tượng của giới trẻ xô-viết những năm 70
Bàn ra tán vào (0)
Bản dịch hoàn chỉnh, bài “Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?”
Sau khi đăng bài Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc? ngày 16-8-2016, phát hiện gần 1 trang tiếng Nga đã không được dịch, nên trang Ba Sàm đã nhờ người quen kiểm tra lại.
Đôi lời: Sau khi đăng bài Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc? ngày 16-8-2016, phát hiện gần 1 trang tiếng Nga đã không được dịch, nên trang Ba Sàm đã nhờ người quen kiểm tra lại. Hiện đã có bản dịch mới của dịch giả Cao Kim Ánh, thấy trang 11 bản tiếng Nga bị dịch thiếu trước đây, đã được dịch đầy đủ, cũng như các phần khác trong bài đã được dịch lại. Xin được đăng lại bản dịch mới này để hầu bà con.
____
Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga Viktor Maslov
Tác giả: Viktor Maslov
Dịch giả: Cao Kim Ánh, 2015
Sửa chữa: tháng 8-2016
Cõ
lẽ tất cả đã khác đi, nếu như tôi biết được từ đầu Lê Vũ Anh là con gái
của ai. Khi sự thật được khám phá thì đã quá muộn. Tôi đã yêu mê muội,
và không thể dứt khỏi nàng được nữa.
Chúng
tôi gặp nhau ở Khoa Lý MGU, nơi Anh học tập. Trước lúc gặp Anh tôi đã
là giáo sư, tiến sĩ khoa học toán – lý và là tác giả của lý thuyết được
biết đến ở nước ngoài dưới tên gọi “Maslov-type index theory” (lý thuyết
chỉ số kiểu – Maslov). Lý thuyết này được ứng dụng rộng rãi trong toán
học trừu tượng, và cả trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và quang
học. Chỗ làm chính của tôi là Viện chế tạo máy điện Moskva – MIEM, nhưng
Khoa Lý vẫn là nơi ruột thịt: tôi đã có thời học tập và giảng dạy ở đó.
Bao
nhiêu năm đã trôi qua … Cả một đời người. Nhiều sự kiện và ấn tượng bật
ra từ ký ức, và nàng công chúa lộng lẫy thoáng hiện ra ở cuối hành lang
hôm ấy cho đến lúc này vẫn như đang hiển hiện trước mắt. Một cô gái
không quen biết có dáng đi kiều diễm đặc biệt làm tôi sửng sốt và say mê
bước theo. Nàng dừng lại một chút ở cửa phòng thí nghiệm và quay lại.
Nhìn tôi với ánh mắt đen trong một giây, nàng mỉm cười rồi lẩn vào bên
trong. “Một cô gái ngoại quốc” – tôi hiểu ra, và đoán chắc là một cô gái
Ấn Độ.
Vấn
đề là giữa hai nước có mối quan hệ khá đặc thù, cho dù cả hai phía đều
đưa ra cam kết về một tình hữu nghị lâu dài. Liên Xô quan tâm đến việc
mở rộng ảnh hưởng ở Châu Á, đặc biệt trong điều kiện các mâu thuẫn gia
tăng với Trung Quốc, và do vậy đã tỏ ra hào hiệp giúp đỡ “người anh em”
Việt Nam. Còn Việt Nam thì hài lòng kết thân với Ông anh cả, nhưng không
chịu hi sinh các lợi ích riêng và trở thành kẻ lệ thuộc. Các nhà lãnh
đạo lợi dụng các cơ hội để con cái họ được hưởng nền giáo dục có chất
lượng khá cao của Liên Xô, nhưng lại sợ rằng chúng bị tống tiền hoặc bắt
cóc để gây áp lực lên bố mẹ, và đòi hỏi chúng phải ngụy trang. Có lẽ đó
là nguyên nhân mà các lãnh tụ Việt Nam, theo tôi, đã quá cẩn trọng. KGB
không cần phải bám theo con cái họ, nhưng biết rõ ai là ai.Tôi
không dấu diếm là luôn thích phụ nữ đông phương. Một nhà vật lý là bạn
tôi đã nói đùa: “Maslov của chúng ta là một tay “thám hiểm phương đông”
lớn!” Khá nhiều sinh viên từ các nước châu Á học tập tại MGU, trong số
đó có cả các công dân đến từ Việt Nam đang trong lửa đạn. Mọi người đều
cảm thông và có cảm tình với các sinh viên này. Tại Khoa Lý cũng có
những người Việt, và tôi lập tức kêt bạn với họ, đặc biệt với hai cô gái
– Phúc và Tình. Phúc là con gái nhà chính trị nổi tiếng Võ Nguyên Giáp,
lúc đó đang là Bộ trưởng Quốc phòng. Tình là con gái Thị trưởng Hà Nội.
Cả hai đều giấu cha họ là ai, cũng như các sinh viên khác mà gia đình
thuộc hàng ngũ lãnh đạo, do lo ngại các ý đồ chính trị và sự khiêu khích
từ phía chính quyền xô viết.
Tôi
thích Phúc, giúp cô học toán, mời đến nhà không chỉ một lần – cả một
mình lẫn cùng bạn bè – nhưng giữa chúng tôi không hề có dù chỉ là dấu
hiệu về một mối tình. Cô gái Việt Nam đáng yêu tránh xa tôi trước mặt
mọi người như tránh lửa.
Một
lần chúng tôi cùng trở về từ chỗ người đánh máy công trình khoa học của
Phúc, tôi là người giới thiệu họ với nhau. Trên con phố nhộn nhịp của
Moskva mà cô gái hành xử như một cô du kích trong lòng địch: trông rất
hốt hoảng và luôn ngó nghiêng xung quanh. Phúc đặc biệt căng thẳng với
giao thông công cộng. Thoáng thấy ô-tô bus hay trolleybus là cô ấy loay
hoay định trốn.
– Cô làm sao thế? – Tôi hỏi – Cô sợ cái gì?
– Sợ trong đấy có người Việt Nam!
– Có gì mà sợ vậy?
– Nêu họ thấy em đi với người Nga, họ sẽ không hoan nghênh em đâu.
– Cô làm sao thế? – Tôi hỏi – Cô sợ cái gì?
– Sợ trong đấy có người Việt Nam!
– Có gì mà sợ vậy?
– Nêu họ thấy em đi với người Nga, họ sẽ không hoan nghênh em đâu.
Tôi
bắt đầu lục vấn. Hóa ra người Việt Nam bị cấm giao thiệp với người Âu,
“bọn mũi lõ” như họ nói. Từ hàng thế kỷ mối quan hệ đó bị lên án và
những người có quan hệ bị xem là phản bội. Cô gái nào đi với “bọn mũi
lõ” trên phố sẽ bị nguyền rủa, và đôi khi còn bị ném đá. Những người
cộng sản, sau khi nắm quyền ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thật lạ
lùng là vẫn giữ cái nếp phong kiến đó. Vi phạm các cấm kỵ trong giao
tiếp với người nước ngoài sẽ kéo theo sự lên án của xã hội, bị kiểm điểm
trong các cuộc họp đảng và đoàn thể, thậm chí còn bị bỏ tù. Ra nước
ngoài công dân Việt Nam cũng phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức trong
nước. Theo họ, thậm chí vũ ba-lê cổ điển cũng ngang với chuyện khiêu
dâm. Về sau Anh kể chuyện rằng các nhà ngoại giao khi xem ba-lê ở Nhà
hát Lớn còn ngồi nhắm mắt để khỏi phải nhìn các vũ điệu “không đứng đắn”
của các vũ nữ ăn mặc hở hang.
Các
bạn Việt Nam đã giới thiệu tôi với cô gái xinh đẹp đó, nàng hóa ra là
đồng hương với họ. Lê Vũ Anh thích toán và muốn học sâu về môn này. Tất
nhiên tôi đồng ý giúp nàng. Anh làm tôi sửng sốt ngay lập tức, nàng thực
sự là một quý cô trẻ tuổi, không giống với các phụ nữ Việt Nam điển
hình khác: khá cao, trắng trẻo, với đôi mắt hoàn toàn không xếch. Và cư
xử như một quý cô cành vàng lá ngọc – rất giản dị, nhưng với một sự tôn
quý khác thường. Trong nước Anh được xem là một trong các mỹ nữ hàng
đầu. Và ở đây nàng luôn được các chàng trai trẻ để ý tới.
Về
sau tôi được biết rằng trong huyết quản của Anh ngoài dòng máu Việt còn
có cả dòng máu Trung Hoa. Mẹ của nàng, Bảy Vân, một phần tư là người
Trung Hoa. Ở Việt Nam người ta không biết điều này, gia đình che dấu
“mối liên hệ với Trung Quốc”. Sự thật là khi còn thơ ấu Anh đã có một
thời gian sống ở đó. Bạn gái của nàng là con gái Đặng Tiểu Bình – bạn
của cha và là nhân vật thứ hai thiên hạ sau Mao. Với Người cầm lái vĩ
đại cô bé cũng quen biết. Anh đã cho xem tấm ảnh nàng ngồi quỳ gối bên
Mao Trạch Đông.
Thời
trẻ Bảy Vân là người xinh đẹp. Lê Duẩn vì bà mà chia tay với người vợ
đầu do bố mẹ cưới cho. Ông thuộc về một gia đình có truyền thống gia
trưởng mạnh mẽ. Người vợ thứ hai xuất thân từ một gia đình trí thức,
nhưng như tôi đã nhắc tới, bà không thể tự hào về một nguồn gốc “trong
sạch”. Anh là đứa con đầu tiên. Ngoài nàng ra Lê Duẩn còn có các con gái
từ cuộc hôn nhân đầu, và hai người con trai với bà Bảy Vân. Hai trong
số các con của ông –Thành, con trai và Muội, con gái – trong thời gian
đó cũng sống tại Moskva. Muội lớn tuổi hơn Anh nhiều và có nhiệm vụ
trông coi em gái. Chị ấy tốt nghiệp đại học ở Liên Xô và là nhà sinh
học. Chị sống cùng chồng và con gái một số năm ở Moskva. Nhưng tôi biết
về tất cả những điều này khá muộn về sau …
Vì
Anh tôi nhận dạy một chuyên đề không bắt buộc về toán ở Khoa Lý. Ban
đầu rất đông người dự, dần dần họ bắt đầu chán và bỏ học, cuối cùng chỉ
còn hai chúng tôi. Anh cố gắng, nàng rất có năng lực và cần cù. Hai
chúng tôi bị hút vào nhau không cưỡng lại được. Bắt đầu gặp gỡ – tại nhà
tôi và tại ngôi nhà ngoại ô (đatra) ở Krasnaya Pakhra. Cùng học, cùng
nghe nhạc, nói chuyện với nhau về đủ thứ. Anh giữ phong thái tự do hơn
các bạn gái của mình nhiều và không sợ điều gì cả.
Mẹ
tôi ngay lập tức thích nàng. Nói chung, bà thích tất cả những thú đam
mê của tôi. Bà mẹ đã từ lâu mong mỏi cưới vợ cho người con trai duy
nhất.
Tôi
có cuộc sống riêng tư khá phóng túng và thậm chí có cả những đứa con
ngoài giá thú. Một trong số đó – Sergey Majarov – đã gặp tai nạn, và tôi
phải chịu đựng điều đó một cách nặng nề. Serioja di cư sang phương Tây
vào đầu những năm 80 cùng cha mẹ. Sống ở Paris, thu nhận học vấn, mở
hãng và làm về tin học. Lúc đầu công việc diễn ra không thật tích cực,
nhưng khi Liên Xô bắt đầu cải tổ, Sergey hiểu các vấn đề kinh tế của đất
nước và tỏ ra là một nhà quản trị tốt. Sau một vài phi vụ lớn thì trở
thành triệu phú, sở hữu một bất động sản rất hoành tráng và thậm chí có
cả salon về mode riêng. Sống thoải mái, giàu sang, không ở cùng với vợ –
con gái nhà văn Anatoli Gladinin, người đã sinh cho Sergey hai đứa con.
Nó đối xử dịu dàng với đám con của tôi. Trước khi chết ít lâu Serioja
trở thành nhà sản xuất của bộ phim “Limita” của Denis Evstingneev.
Sergey bị giết hôm 22 tháng 11 năm 1994 tại căn hộ của mình ở trung tâm
Paris: bị bắn bằng súng tự động qua cánh cửa ra vào bọc thép. Cảnh sát
Pháp xem đây là vụ có dính đến maphia Nga. Như tôi biết được thì vụ phạm
tội này vẫn còn chưa được phanh phui …
Trước
khi gặp Anh tôi không có ý hướng tới các mối quan hệ nghiêm túc, dường
như còn muốn đợi điều gì. Và tôi đã đợi được – tôi không có được với bất
kỳ người phụ nữ nào những tình cảm như có với nàng. Về tuổi, nàng chỉ
như con gái tôi – ít hơn tôi đúng hai mươi tuổi – nhưng chúng tôi không
cảm thấy khoảng cách tuổi tác ấy. Nàng ít kể về mình: đến từ Nam Việt
Nam (Anh đã đăng ký ở sứ quán của quốc gia này để ngụy trang, khi ấy đất
nước chưa thống nhất), sống ở nông thôn trong vùng du kích. Vào Đảng
cộng sản năm 17 tuổi. Về sau tôi nói đùa: “Tôi có vợ là nữ đảng viên
cộng sản từ năm 17 tuổi”. Trên thực tế điều đó thật đáng ngạc nhiên. Ở
Việt Nam, được kết nạp vào đảng ở tuổi ấy rất hiếm, chỉ có những người
có công trạng đặc biệt.
Không
loại trừ trường hợp Anh đã giúp đỡ du kích và lập được chiến công nào
đó. Nàng im lặng về việc này. Cũng như im lặng về một số thành viên của
gia đình mình. Chỉ có một lần, khi chúng tôi đã sống cùng nhau và nàng
đã cởi mở hơn rất nhiều, nàng mới buột miệng: “Ông nội em làm quan”.
Tiếng Nga của Anh khá ngộ nghĩnh. Nàng cười: ”Em nói tiếng Nga càng kém,
ở Liên Xô người ta càng đối tốt với em!”. Khó khăn nhất với nàng không
hiểu tại sao lại là cách gọi tên họ của người Nga. Tôi còn nhớ khi cô ý
tá hỏi Anh họ, tên và tên bố của các con gái chúng tôi, nàng đã trả lời
một cách rất nghiêm túc là “Tôi còn chưa học được điều này!”. Nhưng tôi
lại chạy trước mất rồi …
Khi
một mình ở bên tôi, Anh tỏ ra khiêm tốn và rất kiềm chế, nhưng tôi cảm
thấy như nàng đang vật lộn với tình cảm của mình. Một lần trong cuộc gặp
ở nhà nghỉ ngoại ô, nàng đã suýt để lạc mất lý trí. Tôi không biết cái
ôm và nụ hôn sẽ kết thúc ra sao, nếu bỗng nhiên không có tiếng chuông
cửa. Người hàng xóm ghé sang, và chúng tôi nói chuyện chừng năm phút
ngoài sảnh, không hơn. Khi tôi quay lại, trong phòng không còn ai. Anh
đã nhảy qua cửa sổ – sực tỉnh khỏi cơn mê đắm và bỏ chạy.
Tôi
hiểu đối với Anh tình yêu với một người Âu là một thử thách như thế
nào. Nhưng không nhận thức được kích cỡ của các vấn đề đang đặt ra với
nàng, trong đó không chỉ có các truyền thống hàng trăm năm và các chuẩn
mực về đạo đức, mà còn có các âm mưu trong nội bộ đảng, và các quan hệ
quốc tế rắc rối. Tôi hồi đó không có ngay cả chút nghi ngờ về việc Anh
là con gái của Tổng bí thư BCH trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê
Duẩn. Không thể biết được điều đó theo tên và họ của nàng. Như về sau
biết được, ở Khoa Lý ngoài một vài đồng hương chỉ có một người biết gốc
gác gia đình lãnh tụ Việt Nam của Anh – đó là Phó khoa phụ trách công
tác với người nước ngoài.
Tình
yêu của chúng tôi có thể làm hại cha của Anh và trở thành một con bài
mặc cả của các đối thủ. Đứng ngay sau lưng ông là đối thủ cạnh tranh
trong nhiều năm – Trường Chinh, tổng bí thư đảng cộng sản trước Lê Duẩn.
Lê Duẩn hướng về mô hình phát triển đất nước kiểu xô-viết. Trường Chinh
– mô hình Trung Quốc. Anh cho rằng Việt Nam sẽ chết nếu đối thủ của cha
nắm được chính quyền. Đối với Liên Xô, đó cũng là điều hết sức không
mong muốn. Sau cái chết của Lê Duẩn, Trường Chinh trở thành Tổng bí thư
BCH trung ương ĐCS Việt Nam, và đã chẳng xẩy ra điều gì đáng sợ.
Cô
gái tội nghiệp không biết làm thế nào. Nàng thậm chí còn bắt đầu hẹn hò
với một người Việt học tại khoa Toán – Cơ (tôi sẽ gọi anh ấy là Vân) để
quên tôi đi, mà không hiểu rằng những khó khăn cản trở chỉ càng làm cho
tình cảm bây giờ mãnh liệt thêm.
Một lần dầu sao chúng tôi cũng được ở gần nhau. Tôi lập tức đề nghị Anh lấy tôi làm chồng.
– Chuyện này không thể được, – nàng trả lời, rất buồn bã – Giữa hai nước có một thỏa thuận không nói ra cấm việc hôn nhân giữa các công dân Việt Nam và Liên Xô.
– Anh sẽ suy nghĩ cách để vượt qua điều này.
– Không, không thể được!
– Tại sao ?!
– Em không yêu ông!
– Chuyện này không thể được, – nàng trả lời, rất buồn bã – Giữa hai nước có một thỏa thuận không nói ra cấm việc hôn nhân giữa các công dân Việt Nam và Liên Xô.
– Anh sẽ suy nghĩ cách để vượt qua điều này.
– Không, không thể được!
– Tại sao ?!
– Em không yêu ông!
Nhưng
qua mắt nàng, thì không phải thế. Tôi quyết định không vội vã đẩy nhanh
sự việc, để cho Anh có thì giờ suy nghĩ và lắng nghe tình cảm của mình.
Và nàng biến mất. Trước đây vẫn thường xảy ra chuyện như vậy, những khi
Anh tự cho phép mình một điều gì đó “riêng”, và rồi ăn năn về việc này.
Sau đó mọi việc lại quay lại như trước. Nhưng bây giờ tôi không thể tìm
thấy nàng. Sắp đến kỳ nghỉ hè. Sinh viên tản đi mọi nơi. Tôi khó nhọc
đợi đến khi bắt đầu năm học mới, nhưng Anh cũng không xuất hiện ở MGU
sau ngày mồng một tháng Chín.
Tôi không chịu đựng được nữa và gọi cho Phó khoa phụ trách sinh viên nước ngoài:
– Bà có thể cho tôi biết cô sinh viên Lê Vũ Anh đã học chuyên đề của tôi đi đâu không? Cô ấy đã đạt được thành tích khá như thế.
– Cô ấy đã đi lấy chồng, lấy một người đồng hương, cũng là sinh viên của chúng ta, và đã về nước. Chàng trai tên là Vân. Họ sẽ quay lại vào cuối tháng cùng với cha của Anh. Ông ta có cuộc gặp với Brejnev – bà ta khẽ nói.
– Bà có thể cho tôi biết cô sinh viên Lê Vũ Anh đã học chuyên đề của tôi đi đâu không? Cô ấy đã đạt được thành tích khá như thế.
– Cô ấy đã đi lấy chồng, lấy một người đồng hương, cũng là sinh viên của chúng ta, và đã về nước. Chàng trai tên là Vân. Họ sẽ quay lại vào cuối tháng cùng với cha của Anh. Ông ta có cuộc gặp với Brejnev – bà ta khẽ nói.
Tôi
suýt khuỵu xuống khi nghe điều này. Gặp Brejnev vào cuối tháng chín sẽ
phải là Lê Duẩn. Các miếng ghép hình được xếp xong một cách bất ngờ, và
tôi chợt hiểu ra rất nhiều điều lạ lùng trong các câu chuyện và trong
cách cư xử của người yêu. Anh của tôi là con gái của lãnh tụ cộng sản
Việt Nam! Nhưng làm sao mà nàng có thể phản bội tình yêu của chúng tôi
?!
Về
sau Anh đã giải thích mọi chuyện. Khi chúng tôi đã trở nên gần gũi và
tôi đề nghị trao cho nàng “cả cánh tay và trái tim”, nàng đã chịu một cú
stress nặng nề và than vãn với bạn mình là Vân. Nàng nói rằng chỉ ràng
buộc với tôi về tình bạn: vâng, chuyện đã là như vậy, ngoài ý muốn của
nàng và Anh lấy làm tiếc về điều đó. Vân yêu nàng và xin cưới ngay. Nàng
bị ràng buộc vào anh ta và đồng ý, bảo rằng sẽ cố yêu anh ấy hơn. (Anh
nói đúng như vậy: “Em sẽ cố yêu anh hơn”.)
Cuộc
hôn nhân này là một cú đánh vào Lê Duẩn. Vị lãnh tụ có lẽ đã dự tính
cho con gái yêu một nơi phù hợp hơn, trong số các “hoàng tử” của các
nước láng giềng cũng có những người để ý đến nàng. Vân là một cậu chàng
trí thức trẻ, một tài năng toán học, nhưng không môn đăng hộ đối với
Anh. Lê Duẩn tha thứ cho cuộc hôn nhân không xứng này của con gái, nhưng
dứt khoát không đồng ý mong muốn ở lại Việt Nam của nàng. Anh cần phải
tốt nghiệp MGU. Chỉ còn một năm nữa nàng sẽ kết thúc việc học tại Khoa
Lý. Vân cũng muốn làm nghiên cứu sinh ở Moskva. Anh buộc phải phục tùng,
với hi vọng việc nàng lấy chồng sẽ làm thay đổi mọi sự và ngăn trở việc
tiếp tục cuộc tình của chúng tôi.
Khi
nàng quay lại Moskva tôi thuyết phục nàng đến đatra – cùng với Phúc.
Anh không thể từ chối, nhưng cư xử một cách kiềm chế. Tôi cố gắng để
khung cảnh được thoải mái. Nói đùa, kể chuyện tiếu lâm, và sau đó đề
nghị các cô cùng đi bơi thuyền, cho dù bấy giờ đã là cuối thu, thời tiết
không được tốt. Khi chúng tôi đến gần bờ, Phúc quay thuyền một cách
vụng về và ngã xuống nước. Tôi lôi cô ấy lên và chạy vội đến ngôi nhà
gần nhất mượn quần áo ấm. Chủ nhà đưa cho mấy bộ đồ sưởi để chúng tôi ủ
ấm cho Phúc. Tôi bế cô ấy về đatra, xoa cồn, cho uống rượu ngọt. Phúc ấm
lên và chìm vào giấc ngủ. Còn tôi và Anh, chúng tôi không còn sức để
xem nhau chỉ là bạn thêm nữa. Nàng thú nhận rằng muốn sống cùng tôi,
nhưng không tin là điều này có thể được.
–
Mấy năm trước chính quyền đã không cho phép con gái một vị bộ trưởng
cưới con trai thủ tướng một nước châu Âu. Đôi trẻ đã tự tử. Những chuyện
như vậy từng xảy ra nhiều. Anh không tưởng tượng được là có bao nhiêu
người đã thiệt thân vì cái truyền thống này đâu!
– Mọi việc của chúng ta sẽ tốt! Chúng ta sẽ cưới nhau! – tôi an ủi Anh.
– Mọi việc của chúng ta sẽ tốt! Chúng ta sẽ cưới nhau! – tôi an ủi Anh.
Tất
nhiên chúng tôi không phô trương quan hệ của mình để người ta không xử
lý Anh, hoặc tệ hại hơn – bắt nàng về nước. Thông thường các mối tình
Xô-Việt được Sứ quán biết một cách nhanh chóng. Các đôi uyên ương bị các
đồng bào “gõ cửa” cảnh báo. Chúng tôi giữ kín chuyện được gần một năm.
Bằng chứng là không thấy có ai theo dõi “các trẻ” Việt Nam, ít nhất là
không thường xuyên có chuyện đó. Về sau Anh có thai và không hiểu sao
giấu tôi. Nàng đã sơ xuất, chắc vậy, dẫn đến việc sẩy thai. Tôi đi cùng
nàng đến bệnh viện và vô cùng hoảng sợ rằng mọi chuyện sẽ vỡ lở và người
ta sẽ bắt Anh đi. Tôi còn lo sợ hơn cho sức khỏe của nàng. Mặc họ đưa
nàng đi, miễn là mọi chuyện đối với nàng được tốt đẹp. Lần ấy mọi chuyện
trót lọt.
***
Sau
khi ra viện người ta chuyển Anh về Pushkino, đến an dưỡng đường đặt
trong một nhà thờ. Ở đấy nàng có một địa vị đặc biệt, tất nhiên rồi,
người ta xếp nàng ăn tại phòng ăn dành cho những nhân vật danh giá. Các
cô phục vụ nâng cao khay của nàng khi đi qua phòng lớn, còn những cư dân
đang nghỉ dưỡng cố liếc mắt để xem người ta chăm sóc công chúa Việt Nam
thế nào. Anh đau khổ với các quy cách xô-viết này, nhưng buộc phải sống
hòa thuận với chúng.
Ở
Pushkino Anh cảm thấy buồn chán, nàng bắt đầu đề nghị tôi đến thăm. Tôi
từ chối mãi, bảo rằng sợ họ bắt được, nhưng rồi cũng đầu hàng và khuất
phục. Tôi đến thăm nàng, mang theo con chó fox, và thu xếp để ở bên cạnh
an dưỡng đường. Trong một lần hẹn hò trong rừng chúng tôi đã chạm mặt
một nhân viên an ninh. Anh ta ngồi trong bụi cây, và bị con chó của tôi
phát hiện.
– Anh theo dõi tất cả hay chỉ chúng tôi?
– Theo dõi tất cả, – anh ta an ủi. – Chỗ này là Gestapo đấy.
– Theo dõi tất cả, – anh ta an ủi. – Chỗ này là Gestapo đấy.
Thế
là mọi chuyện bại lộ, hoàn toàn ngẫu nhiên. Các cơ quan tìm hiểu xem
tôi là ai, và báo cáo với Lê Duẩn rằng con gái ông đang yêu một nhà vật
lý xô-viết. Một cuộc họp gia đình được triệu tập để phán xét hành tung
của Anh. Nhưng những người ruột thịt e ngại nàng, vì nàng tỏ ra rất dũng
cảm và độc lập. Thậm chí phê bình cả cha. Theo tôi thì Anh là người
cộng sản lớn, lớn hơn chính Lê Duẩn.
Ban
đầu họ quyết định hạn chế việc xử lý trong phạm vi hẹp – các bạn bè của
gia đình đang ở Moskva. Họ mời Anh đến Nhà hát Lớn xem vở ba-lê “Anna
Karenina”. Điều đó không phải ngẫu nhiên. Họ muốn nhắc nhở Anh nghĩa vụ
đối với gia đình, lấy nữ nhân vật của Tolstoi làm “đại sứ thiện nguyện”:
“Thấy cuộc đời người đàn bà phụ bạc chồng mình kết thúc thế nào chứ?”.
Anh cố nén cười.
Lê
Duẩn không thể sử dụng bạo lực và chuyển cô con gái yêu đi nơi khác.
Cuối cùng nàng vẫn giữ cuộc hôn nhân và cần phải sống cùng chồng ở
Moskva. Mọi chuyện yên ắng dần sau một thời gian, nhưng không được phép
mềm yếu, cần phải đăng ký cuộc hôn nhân của chúng tôi càng nhanh càng
tốt.
Vân
không muốn ly hôn. Có thể câu chuyện không chỉ phụ thuộc vào tình cảm
của anh ấy, mà còn vì quyền lợi của người cha, mà sự nghiệp của ông ta
sau đám cưới của con trai lên như diều gặp gió. Tôi đề nghi Anh thể hiện
sự thông minh và tỏ ra ngoại giao, cố gắng thương lượng với chồng,
nhưng nàng không muốn làm chuyện khôn khéo. Kết quả là quan hệ của nàng
với Vân trở nên căng thẳng. Nhưng khi Anh lại mang thai, thì mọi chuyện
đã đến hạn. Nàng buộc phải hành động để khỏi bị rơi vào tình cảnh nhập
nhằng: nếu khi sinh đứa con của chúng tôi nàng vẫn còn là vợ Vân, phía
Việt Nam có thể áp đặt quyền của họ đối với cháu.
Nàng
hứa với Vân là ở Việt Nam sẽ không ai biết về việc họ ly hôn: “Em sẽ
giữ bí mật chuyện này, và chúng ta vẫn sẽ là bạn. Chính anh đã nói rằng
anh yêu em. Không lẽ anh muốn em sẽ phải căm thù anh?”. Chàng trai đầu
hàng. Anh ấy vẫn yêu Anh như trước. Họ làm thủ tục ly hôn tại Văn phòng
ZAGS1 cho người nước ngoài ở Moskva, nhưng như một vụ ly hôn của những
người Việt Nam bình thường và không thông báo gì cho Lê Duẩn. Cũng không
ai nghĩ đến việc thông báo cho Sứ quán Việt Nam. Vân chịu đựng vụ chia
ly rất nặng nề, thậm chí phải vào viện tâm thần.
Phần 2
Chúng
tôi giấu việc Anh mang thai để không ai ngăn cản nàng sinh nở và đăng
ký cho đứa bé tại Liên Xô. Trường đại học thu xếp cử nàng đi công tác
vài tháng đến một trường đại học ở Kiev và giúp đỡ gọi cho chị Muội “từ
Kiev” (Anh giữ liên lạc với gia đình thông qua chị), và gửi thư từ cho
gia đình với các dấu bưu điện ở Kiev, để đánh lạc hướng mọi người. Suốt
thời gian mang thai Anh sống với tôi ở đatra, và lánh mặt khi có ai đó
ghé thăm.
Trong
thời kỳ trì trệ2 các cuộc hôn nhân của công dân Moskva và vùng Moskva
với các công dân nước ngoài chỉ được tiến hành ở hai Văn phòng ZAGS –
một ở Moskva, một ở Zagorsk – có lẽ để thuân tiện cho cho việc kiểm soát
của KGB. Chúng tôi không có việc gì phải làm với hai cơ quan này. Theo
luật pháp hồi ấy khi ở một điểm dân cư nào đó không có Văn phòng ZAGS
thì có thể làm đăng ký hôn nhân tại Xô viết đại biểu địa phương. Tôi
quyết định lợi dụng việc này và đăng ký kết hôn ở Troitsk. Ở thị trấn
Viện hàn lâm này tôi có nhiều bạn bè trong tất cả các viện. Tất nhiên
nếu họ biết được ai là cô dâu thì chưa chắc đã dám giúp cho đám cưới của
chúng tôi. Đành phải láu cá, đánh lừa, thậm chí làm giả cả giấy phép
đồng ý cho kết hôn của Sứ quán Việt Nam. Điều quan trọng nhất là tôi
phải có giấy chứng nhận cư trú tin cậy ở Troitsk. Cho dù theo luật về
hôn nhân thì điều này không bắt buộc.
Vào
những ngày này tôi xây dựng tại đatra một cái gara, rất hoành tráng,
như phần nối dài của ngôi nhà. Một trong các bức tường của nó có hình
bán nguyệt.
Các
cửa sổ phải làm khá hẹp và kéo dài, trông như các lỗ châu mai, tôi còn
nẹp thêm các thanh thép. Cửa vào căn phòng này bọc thép. Thành thử trông
cứ như một pháo đài. Và nó về sau đã hoàn thành cái chức năng này của
mình.
Theo luật Liên Xô, muốn xây gara thì phải là công dân địa phương. Tôi đến gặp trưởng công an Troitsk.
– Tôi muốn đăng ký (hộ khẩu) ở đatra để xây cái gara, có được không?
– Hoàn toàn được, anh đến chỗ mình ở trong Moskva xin chuyển đăng ký về đây, rồi nạp cho phòng hộ chiếu của chúng tôi.
– Tôi muốn đăng ký (hộ khẩu) ở đatra để xây cái gara, có được không?
– Hoàn toàn được, anh đến chỗ mình ở trong Moskva xin chuyển đăng ký về đây, rồi nạp cho phòng hộ chiếu của chúng tôi.
Tôi
làm giấy chuyển đăng ký, nhưng phụ trách phòng hộ chiếu yêu cầu phải có
giấy phép của chủ tịch Ủy ban hành chính của Troitsk, một người mà tôi
có quan hệ rất tốt. Bà này đang sửa soạn đi nghỉ, do vậy bỏ qua nhiều
chi tiết trong đơn của tôi. Tôi bèn lập tức đề nghị được phép đăng ký
kết hôn ngay sau khi đăng ký (hộ khẩu). “Chúng tôi không thể đợi được.
Cô dâu có bầu rồi, tôi có giấy xác nhận khám thai đây”. Bà Chủ tịch bèn
ghi: “Cho phép đăng ký hôn nhân ngay sau khi Ủy ban có quyết định đăng
ký hộ khẩu”. Và lên đường đi nghỉ.
Với
các giấy tờ đó tôi đến gặp vị đại biểu phụ trách đăng ký kết hôn, là
“người của mình”, thú thật rằng sẽ cưới một cô gái ngoại quốc, nhưng
buộc phải giấu chuyện này, nếu không sẽ bị đuổi khỏi Viện NC mật đang
làm. Anh này hứa sẽ thu xếp, giữ bí mật và nói bà thư ký ủy ban, một phụ
nữ tốt bụng đẫy đà, xử lý cho. Tôi mừng rỡ, nhưng đã xảy ra một chuyện
không lường trước. Trước hôm đăng ký vài ngày, họ chuyển bà thư ký đi,
đưa về thay là một cô bé làm ở Quận đoàn komsomolsk Podolsk, một nhân
vật cực kỳ tích cực. Tôi hoảng sợ rằng cô ta sẽ làm hỏng cuộc hôn nhân
của mình.
Tôi
cầu cứu bạn bè: cần vô hiệu hóa một cô gái, làm quen, quyến rũ, và đưa
cô ta đi một ngày, để cô ấy phải bàn giao việc lại cho người phó. Tại
sao phải làm vậy, tất nhiên tôi không nói. Một nhà khoa học trẻ – đẹp
trai và dại gái, nhận lời giúp. Hôm sau chàng gọi điện đến: “Thứ bảy cô
ấy sẽ vắng mặt. Đã xin nghỉ. Chỉ có điều phải kiếm cho chúng tôi vé xem
buổi hòa nhạc nào thật hấp dẫn”. Chúng tôi kiếm cho họ vé buổi biểu diễn
jazz Đức.
Người
phó không gây thất vọng, làm đám cưới cho chúng tôi đúng như đã hứa,
“không một tiếng ồn, không một hạt bụi”. Nhưng tôi, cho đến giây phút
cuối cùng, vẫn sợ nhỡ có điều gì không hay xảy ra. Bulat Okudjava3 đề
nghị: “Nếu có gì cản trở, gọi cho mình. Mình sẽ huy động các phóng viên
ngoại quốc đến, và gây ầm ĩ đến mức họ không tưởng tượng ra được đâu”.
Tôi biết Okudjava từ những năm thơ ấu, các bà mẹ của chúng tôi như hai
chị em. Tôi đã sống hồi nhỏ tại gia đình Bulat, cả nửa năm tại căn hộ
của anh trên Arbat. Vì sao thì không nhớ rõ.
Đó
là năm 1937, một thời kỳ u ám. Nhiều người phải thay đổi chỗ ở, ẩn náu
để tránh bị bắt bớ. Người ta vừa bắt đi cha của Bulat – ông Saliko. Mẹ
tôi li dị với cha và lấy Boris Phedorovich Porsnev, một nhà sử học và
triết học xuất chúng. Cha dượng đóng một vai trò rất lớn trong đời tôi.
Tôi rất yêu quý ông. Có một thời gian tôi được mẹ của Bulat – Askhen
Stepanova và bà tôi, Maria Bartanova, nuôi dưỡng. Askhen sau này luôn
giúp đỡ chúng tôi, bà cũng dự đám cưới của tôi với Anh.
Tiệc
mừng được tổ chức ở đatra. Chỉ mời những bạn bè thân nhất và người nhà.
Mẹ tôi tặng cô dâu chiếc vòng đính kim cương của mình. Một chiếc vòng
rất tinh xảo, “trí thức”, nhưng Anh ngại mang nó. Nàng là một cô gái
khiêm tốn. Còn một món quà nữa của mẹ – một chuỗi hạt trai lớn có hình
thù không đều đặn – mà Anh thường đeo dấu dưới áo.
Hôn
thú được hoàn thành nhanh chóng đến ngạc nhiên, nhưng giấy đăng ký thì
là cả một câu chuyện dài. Đầu tiên bà phụ trách hộ chiếu ngần ngại. Bà
này thông báo rằng không có quyền cấp đăng ký, đó là quyết định của chủ
tịch ủy ban, và chuyển hồ sơ về Moskva, đến Ban Nội vụ vùng. Ở đó họ dồn
tôi chạy vòng quanh. Tôi phải đợi rất lâu tại cửa của các văn phòng đủ
loại, nhưng tất cả đều vô ích. Cô em họ của Okudjava đã giúp tôi. Người
phụ nữ kỳ diệu này, mà tôi chưa hề gặp, học cùng với phó chủ tịch Ban
Nội vụ vùng Moskva. Ông ta cuối cùng ký giấy phép cho tôi đăng ký ở
ngoại ô Moskva.
Trong
thời xô-viết mọi việc được làm theo các mối quen biết. Tôi và Anh được
đưa vào một nhà hộ sinh mới mở ở Moskva theo sự giới thiệu của những
người quen của tôi, chẳng cần giấy tờ gì hết. Bác sĩ đỡ đẻ, là một nhà
phẫu thuật nổi tiếng, không biết nàng là ai. Tôi nói rằng chúng tôi là
tình nhân và muốn đánh lừa người chồng ghen tuông, Anh đã phản bội anh
ta trong lúc anh này đi công tác dài ngày. Bảy tháng trước anh chồng
nghỉ phép về Moskva, sau đó lại ra đi. Vì vậy chúng tôi cần một giấy
chứng sinh rằng em bé được sinh ra mới bảy tháng tuổi.
Trên
thực tế tờ giấy này là một bảo chứng để tránh những khiếu nại có thể từ
phía Việt Nam. Anh làm thủ tục ly hôn sau khi có thai được hai tháng,
và nếu muốn có thể công bố Vân là cha đứa bé. Hồi đó còn chưa biết đến
các xét nghiệm ADN. Bác sĩ sản làm các thứ giấy tờ một cách vô tư. Ông
ta bị Anh quyến rũ. Và tôi rất biết ơn ông ấy, có lẽ vậy.
Anh
sinh con gái ngày 31 tháng Mười năm 1977, chúng tôi đặt tên cho bé là
Elena để ghi nhớ Liên – bạn gái thân thiết của Anh, là con gái vị bộ
trưởng tư pháp, người đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, nói riêng trong
việc quyết định đám cưới “chui”. Chúng tôi làm giấy khai sinh ngay cho
cháu ở Troitsk, và chỉ sau đó mới xem là hoàn thành “chương trình
minimum”4.
Trước
cuộc sinh nở ít lâu Lê Duẩn đến Moskva. Ông không thể gặp Anh ngay.
Điều này làm ông giận dữ. Con gái ở đâu? Thường thì các nhân viên Vụ
Quốc tế BCH Trung ương (TƯ) ĐCSLX đưa Anh đến vào ngày cha cô đến nơi.
Nhưng lần này họ không thể tìm thấy cô – không ở Kiev, nơi cô đến công
tác chính thức, không ở Moskva. Người quản lý giải thích là cô ấy ở với
Maslov đâu đó. Một tuần sau, khi Anh và con gái ra khỏi nhà hộ sinh,
nàng ngay lập tức tự đi gặp Lê Duẩn để kể hết mọi chuyện. Tôi đã cố ngăn
cản, nhưng nàng không nghe.
Anh
gặp cha tại nhà khách của chính phủ trên Đồi Lenin. Lê Duẩn bắt đầu
thuyết phục con gái trở về nhà để làm thủ tục ly dị với Vân, điều mà
nàng đã yêu cầu trước kia. Nhưng nàng nói đã chia tay anh từ lâu và đã
đi lấy chồng. Lê Duẩn đỏ mặt lên vì giận dữ và bắt đầu la hét, rằng cái
dòng máu Trung Hoa tệ hại mà mẹ nàng truyền cho có lỗi trong mọi chuyện.
Anh vô cùng phẫn nộ về chuyện này, nàng không chịu đựng được sự phân
biệt chủng tộc. Nhưng nàng không ngăn cha lại, chỉ quay ra và bỏ đi.
Khi
đã ở ngoài phố nàng đi đến bến xe công cộng, phía sau một chiếc “Vonga”
đen chạy theo, cách một khoảng không xa. Anh bước gấp. Lái xe ngay lập
tức nhấn ga. Nàng bỏ chạy – và “Vonga” tăng tốc. Không biết câu chuyện
sẽ ra sao nếu Anh không kịp nhảy lên chiếc trolleybus vừa đi tới. Nàng
về đến nhà nước mắt đầm đìa. Nàng kể đã hoảng sợ ra sao khi thấy chiếc
xe bắt đầu đuổi theo mình:
– Em nghĩ họ sẽ bắt mình bây giờ!
– Em đã nói là cha em không làm việc này mà.
– Nhưng hôm nay em hiểu ra rằng ông đặt quyền lợi chung cao hơn quyền lợi riêng. Nghĩa là số phận em đã định.
– Em nghĩ họ sẽ bắt mình bây giờ!
– Em đã nói là cha em không làm việc này mà.
– Nhưng hôm nay em hiểu ra rằng ông đặt quyền lợi chung cao hơn quyền lợi riêng. Nghĩa là số phận em đã định.
Tôi an ủi nàng, còn nàng bật khóc và khẳng định: “Em sẽ chết! Sẽ chết!”
Hôm
sau Anh gọi điện cho chị Muội. Chị ấy kể rằng cha rất đau khổ vì chuyện
này, nên đã nổi đóa. Ông suốt đêm không ngủ được và muốn làm lành. Anh
trả lời: “Tốt nhất hãy chúc mừng chúng em. Chúng em vừa sinh con gái”.
Chị không tin, cho rằng Anh bịa ra chuyện này để cha thừa nhận cuộc hôn
nhân của nàng. Hai chị em thỏa thuận sẽ gặp nhau tại nhà tôi và cùng đến
gặp cha. Khi nhìn thấy Lena, Muội bật khóc và bảo Anh ở nhà. Tự chị ấy
sẽ đi và kể mọi chuyện. Người cha đã bị chấn động khi biết tin về đứa
cháu.
Lê
Duẩn trong một thời gian dài không thể yên được với việc con gái ông đã
không nghe lời, vi phạm luật lệ và lấy chồng nước ngoài. Ông gọi cho
Suslov5, là người ông quen biết gần gũi, đề nghị giải thích giùm xem cái
gì đã gắn bó Anh với tôi – sự say mê giây lát hay tình yêu thực sự. KGB
sau đó đã xếp đặt một “chuyên gia tình yêu” theo dõi chúng tôi. Anh này
bí mật đi vòng quanh đatra nơi chúng tôi đang sống, quan sát, nghe
ngóng và buộc phải đưa ra kết luận: đó là tình yêu.
Người
cha không tha thứ cho con gái. Người ta kể cho tôi rằng ở nhà Lê Duẩn
đã cấm nói đến Anh, ngay cả đến tên cũng không được nhắc đến. Nhưng các
món quà thời trẻ con của nàng vẫn nằm trên bàn viết của ông. Khi một món
đồ nào bị mất, Lê Duẩn liền gây sự. Nghĩa là ông vẫn chưa hết yêu con
gái …
Anh
thay đổi rất nhiều sau khi sinh Lena. Trước đấy nàng là một người dũng
cảm, độc lập, còn bây giờ lúc nào cũng run rẩy vì sợ hãi. Lúc nào cũng
chờ đợi có người tấn công, bắt cóc, sợ những chiếc xe màu đen và những
người đồng bào của mình. Nàng nói tốt nhất không gặp họ, họ sẽ lôi đến
cuộc họp và kiểm điểm. Những người ruột thịt dè bỉu nàng, gọi nàng là đồ
phản bội. Họ thường xuyên gọi điện và gửi đến những bức thư đầy giận
dữ. Anh bị đè bẹp, cho rằng nàng sẽ bị trừng phạt vì tội lỗi đáng sợ
mình gây ra.
Trước
đây Anh không thích ngồi lắm trong căn phòng có các lỗ châu mai, còn
bây giờ nàng suốt ngày ngồi lì trong đó với Lena, mỗi khi tôi có việc
phải trở về Moskva. Nàng cầm theo mình khẩu súng săn của tôi. Anh nói
căn phòng này là nơi an toàn nhất ở đatra. Nó không bị bắn từ hướng
ngoài phố, nhưng nổ súng từ bên trong rất thuận tiện. Xem ra nàng đang
nhớ lại tuổi trẻ du kích của mình.
Một
lần nàng làm tôi sợ gần chết. Nàng đi trốn, cùng với Lena. Tôi trở về
đatra, ở đó không thấy một ai. Tôi chút nữa thì lên cơn đau tim, nghĩ họ
đã bắt hai mẹ con đi rồi. Nàng đi ra và phá lên cười.
Không
biết từ đâu có cuộc nói chuyện với một anh lính trong đội xây dựng. Anh
ta muốn bán cho tôi một khẩu súng lục dùng bắn các chốt vào bê-tông.
Tôi hỏi, với khoảng cách nào. Anh lính tỏ ra quan tâm: “Ông muốn bắn từ
xa à? Tôi có thể bán súng tự động, cả đạn nữa”. Tất nhiên tôi từ chối.
Khi tôi vừa cười vừa kể lại cho Anh nghe, nàng bất ngờ nhận xét:
– Thì sao, lý ra phải mua.
– Em điên à? Có thể vào tù đấy.
– Nhưng em sẽ yên tâm hơn. Anh không hiểu chứ, cha có thể làm tất cả. Hôn nhân của chúng ta đã phá hủy uy tín của ông ấy trong đảng và các đối thủ của Lê Duẩn có lợi. Nếu ông ấy phải rời chức vụ, đất nước sẽ chết.
– Ông ấy yêu em và sẽ không phá hạnh phúc của em.
– Yêu, và em cũng rất yêu cha. Nhưng lợi ích quốc gia quan trọng hơn. Em luôn biết mình đi đâu. Khi chưa có Lena, em không sợ, còn bây giờ em thấy sợ lắm. Một mình anh không xoay sở nổi với con.
– Thì sao, lý ra phải mua.
– Em điên à? Có thể vào tù đấy.
– Nhưng em sẽ yên tâm hơn. Anh không hiểu chứ, cha có thể làm tất cả. Hôn nhân của chúng ta đã phá hủy uy tín của ông ấy trong đảng và các đối thủ của Lê Duẩn có lợi. Nếu ông ấy phải rời chức vụ, đất nước sẽ chết.
– Ông ấy yêu em và sẽ không phá hạnh phúc của em.
– Yêu, và em cũng rất yêu cha. Nhưng lợi ích quốc gia quan trọng hơn. Em luôn biết mình đi đâu. Khi chưa có Lena, em không sợ, còn bây giờ em thấy sợ lắm. Một mình anh không xoay sở nổi với con.
Chẳng
bao lâu cô bé bị ốm, cần phải đi viện. Trước khi vào viện với con, Anh
chuyển cho tôi bản tuyên bố chính thức: “Nếu người ta đem tôi đi, một
mình hay cùng con gái, và đưa về Sứ quán Việt Nam, xin biết rằng đó là
một hành động bạo lực, chống lại ý chí của tôi, cho dù những người thân
hay sứ quán có nói gì. Tôi muốn sống với chồng tôi là Victor Maslov ở
Liên Xô và muốn rằng ông sẽ là người nuôi dạy con gái chúng tôi và
truyền dạy cho cháu văn hóa Nga”. Tôi đã cất tờ giấy vào nơi an toàn.
Phần
lớn thời gian chúng tôi sống với nhau ở đatra và gần như không rời
nhau. Tôi dạy ít hơn, cố gắng làm việc tại nhà. Hàng đêm, đôi lúc nhìn
vợ ngủ tôi nghĩ: “Trời ơi, làm sao tôi được hạnh phúc thế này? Tôi đâu
có xứng”. Tôi dường như cảm thấy thời gian dành cho chúng tôi thật ít …
Lúc
đầu tôi sợ rằng Anh sẽ buồn nhớ gia đình và quê hương. Một lần bạn tôi,
viện sỹ hàn lâm Mishenko hỏi nàng về điều đó. “Tôi buồn chỉ khi nhà có
khách” – Anh trả lời với sự thẳng thắn vốn có của nàng. Nàng không thích
hội hè ầm ĩ, các cuộc rượu phè phỡn. Tôi nhận thấy Anh khó chịu với sự
vui sướng của những đám say rượu, cho dù nàng không thể hiện sự không
hài lòng của mình, và dần dần bỏ rượu. Còn nàng nhìn chung không uống
rượu.
Sống
với Anh tôi đã thay đổi, trẻ ra có lẽ đến mười lăm tuổi. Chưa bao giờ
tôi làm việc hiệu quả đến như vậy. Chúng tôi hầu như không đi đâu (nhân
viên Vụ Quốc tế của BCH TƯ ĐCS LX không khuyên chúng tôi xuất hiện ở
những chỗ công cộng), nhưng chúng tôi không cảm thấy mình bị xa cách.
Các bạn và chị gái vẫn đến thăm Anh. Nàng cũng vào Moskva, đến trường
đại học, kết thúc NCS một cách khôn khéo. Anh có năng lực làm việc hơn
tôi nhiều, và có lẽ sẽ làm khoa học nếu mọi việc đã không diễn ra khác
đi. Nàng đã kịp bảo vệ luận án và trở thành PTS khoa học toán – lý.
Tôi
còn nhớ có một lần đi nghe Vưsotsky6 biểu diễn tại trường MIEM. Chúng
tôi ngồi khá xa ở hàng sau, nhưng sau khi biểu diễn nghệ sỹ lập tức đến
gặp Anh. Anh ấy đã chú ý đến nàng khi đang hát, và luôn ngoái nhìn nàng.
Anh ngạc nhiên, nghĩ rằng nghệ sỹ nhầm nàng với ai đó. Còn Vưsotsky thì
sôi nổi khen ngợi, đề nghị tiếp tục gặp gỡ với nàng, nói chung cư xử cứ
như không có tôi ngồi cạnh. Tôi cố gắng kéo anh ngồi xuống. Khi anh hỏi
Anh có hiểu hết anh hát gì không, tôi đã trả lời thay:
– Này, có chồng cô ấy đây kia mà. Tôi có thể giải thích. Nói chung chúng ta gần như là hàng xóm với nhau ở đatra mà. Anh ghé chơi nhé, chúng tôi rất vui được đón.
– Tôi ở ngoài đó không thường xuyên – Vưsotsky chợt buồn – đấy là Maria thích đatra, tôi thì không thích lắm. Với lại không có thì giờ.
– Này, có chồng cô ấy đây kia mà. Tôi có thể giải thích. Nói chung chúng ta gần như là hàng xóm với nhau ở đatra mà. Anh ghé chơi nhé, chúng tôi rất vui được đón.
– Tôi ở ngoài đó không thường xuyên – Vưsotsky chợt buồn – đấy là Maria thích đatra, tôi thì không thích lắm. Với lại không có thì giờ.
Cuộc
gặp gỡ của chúng tôi với Vưsotsky xảy ra trước khi anh ấy mất không
lâu. Anh ấy trông mệt mỏi và không được khỏe. Nhưng cố tỏ ra trẻ trung
trước người đẹp Việt Nam. Nàng không hiểu lý do sự chú ý của anh. Khi
rời buổi biểu diễn, nàng hỏi:
– Anh ấy muốn gì thế?
– Anh ấy thích em – tôi trả lời. – Nhìn thấy người đẹp và xù lông xù cánh!
– Anh ấy muốn gì thế?
– Anh ấy thích em – tôi trả lời. – Nhìn thấy người đẹp và xù lông xù cánh!
Tôi
tự hào vì Vưsotski để ý đến Anh. Tôi thấy thật dễ chịu khi thấy những
ánh nhìn thán phục hướng về phía nàng. Nàng không thích lôi kéo sự chú
ý, nhưng có thể làm việc đó một cách rất hiệu quả. Nàng biết ăn mặc,
tiếp khách. Đôi lúc tôi cảm thấy tiếc rằng đã không thể cho nàng những
điều nàng xứng đáng được hưởng. Trước khi đến Liên Xô Anh đã sống một
cuộc sống hoàn toàn khác, nàng thường đi cùng cha ra nước ngoài, ở đó họ
được đón tiếp ở cấp cao nhất.
Và
ngay ở Việt Nam, chỗ Lê Duẩn cũng có nơi ở rộng lớn với bao nhiêu người
phục vụ. Nhưng Anh không than phiền và, theo tôi, không đau khổ vì
thiếu đi những tiện nghi quen thuộc, nàng tự thu dọn, tự nấu ăn. Tôi vẫn
dùng một cái máy giặt ZVM do nhà máy mang tên Vladimir Ilich sản xuất.
Nó ồn khủng khiếp và thường xuyên chảy nước, có đến cả chục lần chúng
tôi làm ướt nhà hàng xóm tại căn hộ Moskva. Khi có đứa con gái thứ hai
Anh phải xoay xở vất vả hơn, chúng tôi đã thuê một người giúp việc nhà
và bảo mẫu.
Ba
mươi tuổi, mẹ của hai đứa trẻ, Anh trông như gái mười tám. Một lần tôi
chịu đựng một cơn ghen vô cớ. Chúng tôi đứng xếp hàng trong cửa hiệu.
Trước mặt chúng tôi là một chàng trai trẻ khá cao. Một trang nam tử.
Liếc nhìn anh ta, tôi cảm thấy nhói trong tim: Anh bây giờ sẽ nhìn anh
ta, so sánh với tôi, và rút ra kết luận … Nhưng nàng không mảy may để ý
đến chàng đẹp trai. Lúc ra ngoài phố, tôi hỏi:
– Em có thấy anh chàng đẹp trai đứng trước chúng mình không? Đúng là một Alain Delon.
– Thế ư? – Anh ngạc nhiên. – Em không để ý.
– Em có thấy anh chàng đẹp trai đứng trước chúng mình không? Đúng là một Alain Delon.
– Thế ư? – Anh ngạc nhiên. – Em không để ý.
Muội nói với nàng:
– Sao em lại lấy Maslov? Ông ấy già rồi! Xem kìa, xung quanh bao nhiêu là đàn ông trẻ trung thú vị!
– Với em chẳng có ai khác tồn tại cả. – Anh trả lời.
– Sao em lại lấy Maslov? Ông ấy già rồi! Xem kìa, xung quanh bao nhiêu là đàn ông trẻ trung thú vị!
– Với em chẳng có ai khác tồn tại cả. – Anh trả lời.
Tatiana,
con gái thứ hai của chúng tôi, sinh vào năm 1979. Sau lần này quan hệ
của Anh với cha mẹ tốt lên. Có vẻ họ đã hiểu rằng mọi việc đối với con
gái họ rất nghiêm túc, và ngừng các cuộc tấn công. Thậm chí họ còn xin
Anh tha thứ, tất cả, trừ người cha. Mẹ nàng, bà Bảy Vân, đến Moskva và
vẫn đến thăm chúng tôi – cả ở đatra, cả ở căn hộ Moskva trên phố Dmitri
Ulianov.
Nhờ
mối tình của chúng tôi đã xảy ra những thay đổi quan trọng không chỉ
trong cuộc sống của gia đình Lê Duẩn, mà còn trong cả nước. Ở Việt Nam
đã thông qua luật cho phép kết hôn với người nước ngoài. Một bạn gái,
người đã yêu một chàng trai Đông Đức, ngay lập tức gọi điện cho Anh:
“Mày thật đúng là anh hùng! Hàng nghìn người sẽ cầu nguyện cho mày! Lạy
trời cho mày được hạnh phúc!”
***
Sau
khi hòa giải với gia đình Anh quyết định giới thiệu với cha cháu gái
lớn. Khi Lê Duẩn đến Moskva lần sau đó, nàng đem theo Lena đến gặp ông.
Ông ngay lập tức yêu mến cháu. Ông đề nghị để Anh và cháu ở lại cùng ông
cho đến khi ông về nước. Lúc đầu cháu bé còn lạ, nhưng dần dần quyến
luyến với ông ngoại. Ông chủ ý dấu tất cả chuối trong nhà để tự mình đãi
Lena – mong chiếm được cảm tình của đứa cháu.
Lê
Duẩn luôn yêu cầu đưa Lena đến gặp ông mỗi lần đến Moskva. Còn gặp tôi
thì dứt khoát không muốn. Còn nhớ tôi đưa Anh và con gái đến thăm mẹ vợ ở
cái đatra cũ của Khrusov ở Rublebka và phải đợi trong xe, trong khi các
cháu đang ở bên ông. Lê Duẩn đưa Lena và Anh đi xem xiếc rồi đưa họ đi
theo dự lễ khai mạc Olympic Moskva. Con bé lên cơn đỏng đảnh đúng lúc
long trọng nhất, kêu to: “Mẹ ơi, con muốn đi đái!”
Lần
khác, trong lúc ăn trưa ngồi cạnh Lê Duẩn, đúng lúc đang nói chuyện về
bắt đầu chiến tranh chống chế độ Khmer đỏ ở Campuchia, Lena bỗng nhiên
hỏi: “Ông ơi, thế ông không làm gãy răng mình chứ?”
Không
biết có sự liên tưởng nào xuất hiện trong đầu con bé, để đúng lúc nói
chuyện gay cấn nhất lại hỏi như vậy? Ở nhà chúng tôi cũng trao đổi về
cuộc chiến tranh với chế độ Polpot – Ieng Sari. Có thể Lena nhớ lại câu
mà tôi đã nói khi nào đó? Anh có ý nghĩ khá tốt về Ieng Sary, nhân vật
thứ hai của chế độ ở Campuchia. Có thể trong cuộc nói chuyện ở buổi tiếp
khách Việt Nam đó đã vang lên cái tên này, và gợi lại sự liên tưởng nơi
con bé? Người phiên dịch hiểu câu hỏi theo nghĩa bóng, lờ đi, nhưng cố
gắng truyền đạt tối đa ý nghĩa của câu hỏi. Lê Duẩn không hề bối rối.
Ông cắn chặt hàm răng chắc khỏe của mình và nhe ra với Lena. Tình huống
được giải tỏa.
Anh
cũng rất trực tính và tiết lộ các “bí mật” xô-viết cho cha một cách đơn
giản. Hơn nữa, ông ấy cũng biết cách để hỏi. Một hôm người cha nói rằng
theo lời Brejnev đất nước vừa thu hoạch một vụ bông kỷ lục. “Vậy mà vải
trải giường nhà con thủng hết rồi”, Anh nhận xét. Ngay ngày hôm sau cán
bộ phân ban Việt Nam trong Ban quốc tế của BCH TƯ ĐCSLX dẫn Anh đến
gian hàng số 200 nổi tiếng của GUM, nơi chỉ bán cho các khách hàng chọn
lọc. Thế là chúng tôi có đồ trải giường mới.
Anh
không muốn lợi dụng sự ưu đãi, nhưng dù sao vẫn mua đồ ở gian hàng cấm
này của GUM, và tôi thường nhận được các đơn hàng mà nàng đặt. Nàng
không nhận của cha dù một xu nhỏ, ngay cả khi học ở MGU. Chính quyền
chúng ta đề nghị cấp cho nàng một căn hộ rộng rãi ngay trung tâm Moskva,
nhưng nàng từ chối. Chỉ nhận một căn hộ ba phòng bình thường trong một
tòa nhà lắp ghép ở Beliaevo. Để phòng khi nhỡ có việc chúng tôi đột ngột
phải chia tay, thì vẫn có chỗ ở và làm việc.
Nhưng
chúng tôi sống hòa thuận cùng nhau. Trong suốt thời gian chung sống chỉ
cãi nhau vài lần, đấy là Anh cho rằng thế. Lần đầu tiên là khi Anh giận
dữ vì tôi chở trên xe hai cô gái, cho dù trong xóm chúng tôi ở việc cho
đi nhờ vẫn hay xảy ra. Nhưng Anh lại tức giận.
Lần
thứ hai thì xảy ra một chuyện nói chung là ngớ ngẩn. Buổi chiều tôi
nghe “đài địch”. Anh ngồi cùng tôi, nhưng nàng không hiểu tiếng Anh, do
vậy nhanh chóng đứng dậy và đi vào phòng trẻ con. Tôi nghĩ lũ trẻ đã đi
ngủ, và khép cửa thật chặt để khỏi đánh thức chúng. Sau đó tôi cũng
thiếp đi. Anh ra khỏi phòng trẻ, kéo cửa, nhưng không mở được. Nàng cho
rằng tôi không muốn gặp nàng, lấy làm khó chịu và sáng hôm sau bỏ đi đến
nhà chị Muội. Đến chiều Anh trở về, và chúng tôi làm lành. Nàng không
thể sống trong tình trạng xung đột với tôi.
Mẹ
nàng, bà Bảy Vân, cố gắng làm cho con gái chống lại tôi, có lần nói ra
sự không hài lòng với việc chúng tôi sống tằn tiện. Anh giải thích cho
mẹ: “Bao nhiêu tiền anh ấy gần như dành cho đatra. Luôn cứ phải mua hay
sửa cái gì đó. Con không thể từ chối anh ấy trong chuyện này. Những
người đàn ông khác họ uống rượu hết tiền, còn anh ấy thì xây dựng”.
Anh
dành lấy việc chăm sóc cho mẹ tôi, khi bà bị đột quỵ, và nàng rất biết
cách chăm sóc. Có lẽ nàng đã từng làm y tá trong thời gian chiến tranh.
Mùa thu năm 1980 Anh lại mang thai, tôi vốn mong có một gia đình lớn.
Vào tháng năm năm 1981 mẹ tôi khá hơn, người ta cho bà ra viện. Chúng
tôi chuyển ra đatra. Tôi thuê một cô y tá, cô ấy ngủ bên cạnh người ốm
và giúp bà đi lại và nói năng. Trẻ con thì có bảo mẫu, được đưa từ Việt
Nam sang theo yêu cầu của Anh, để lũ trẻ có thể nói chuyện với chị bằng
tiếng mẹ đẻ. Lê Duẩn chuyển cho nàng một món quà – một con đồi mồi. Anh
rất hoảng hốt khi nhìn thấy món quà cha tặng:
– Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là điềm xấu. Làm sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.
– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.
– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …
– Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là điềm xấu. Làm sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.
– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.
– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …
Kết
quả siêu âm cho biết lần này chúng tôi sẽ có con trai. Anh cảm thấy
người không khỏe, tôi đặt trước chỗ cho nàng ở nhà hộ sinh “Kremlin” của
Cục 4 trên phố Vesnina. Anh đã sinh Tania ở đó và nói chung thấy hài
lòng chỗ này. Hồi ấy Anh có phòng bệnh riêng, có TV và điện thoại, nàng
có thể bình tĩnh viết báo khoa học. Bác sĩ hồi ấy đã sửng sốt: “Một phụ
nữ tuyệt làm sao! Nằm nhà hộ sinh còn làm khoa học!”
Nhưng nàng không muốn nằm tại bệnh viện này, sợ hãi điều gì đó. Một lần nàng nói sẽ chết khi sinh nở:
– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.
– “Họ” là ai?
– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.
– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.
– “Họ” là ai?
– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.
Tôi không tin vào linh cảm, cho rằng đó là những lo lắng của các phụ nữ mang thai.
Đêm
mùng sáu sang ngày mùng bảy tháng sáu Anh bắt đầu đau. Để an tâm tôi
gọi liền hai xe cấp cứu, từ Troitsk và từ Moskva – phòng khi bỗng nhiên
có việc gì trục trặc. Xe từ Troitsk lao đến trước, nhưng nó chỉ chở được
Anh đến Podolsk. Tôi đề nghị họ chở nàng vào Moskva, đến nhà hộ sinh số
25, gần nhà chúng tôi trên phố Dmitri Ulianov. Khi đến nơi mới rõ ra
một nửa tòa nhà đang phải sửa chữa.
Người
trực nhận giấy tờ của Anh, nhìn thấy nàng đăng ký ở Cục 4, liền gọi
ngay xe cấp cứu từ đó. Vậy là người ta vẫn chở Anh đến phố Vesnina. Ở
đấy, các bác sĩ lập tức khám và nói, tất cả đều ổn, quá trình sinh nở
bình thường. Tôi chuẩn bị ngồi chờ ở phòng tiếp nhận thì sực nhớ mẹ tôi
hầu như đang ở ngoài đatra có một mình. Cô y tá chúng tôi đã cho nghỉ
hè, còn chị bảo mẫu người Việt không nói được tiếng Nga. Tôi liền lao về
đó. Tại đatra mọi việc đều bình thường, nhưng mẹ nói rằng xe cấp cứu từ
Moskva không tới. Thật lạ lùng.
Vào
7 giờ sáng Anh sinh bé trai. Người ta gọi điện cho tôi từ nhà hộ sinh
thông báo điều đó, tôi hỏi tình trạng của người mẹ ra sao, đầu dây bên
kia im lặng. Sau một khoảng im lặng dài, họ đề nghị tôi tới và nói
chuyện với bác sĩ. Ở Moskva tôi được biết rằng Anh bị chảy máu rất
nhiều, chưa cầm được. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể – Bác sĩ nói
– Sắp tới họ sẽ chuyển máu tới. Ông tốt nhất nên quay về nhà. Đợi ở đây
là vô nghĩa”.
Tôi
chạy đến các bác sĩ quen để hỏi ý kiến. Họ không vui, nói rằng trong
những trường hợp như vậy phải lập tức cắt bỏ tử cung. Nhưng các bác sĩ
Kremlin có lẽ sợ lãnh về mình trách nhiệm đó, bệnh nhân không phải nhân
vật bình thường.
Tôi
quay trở về nhà hộ sinh. Lúc ấy người ta đã phẫu thuật cho Anh. Bác sĩ
phẫu thuật chính của Cục 4 được mời đến xử lý cho nàng. Khi ông vừa ra
khỏi phòng mổ, tôi lao đến:
– Cô ấy sẽ không chết?
– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …
– Cô ấy sẽ không chết?
– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …
Vài
tiếng sau đó Anh qua đời. Người ta cho phép tôi vào phòng bệnh. Anh nằm
trên giường, phủ tấm ra – trông nàng xinh đẹp làm sao, như đang ngủ.
Một cục gì chẹn lấy cuống họng tôi, tôi quỳ xuống hôn tay người tôi yêu
dấu. Tấm ra phủ di chuyển, hé lộ thân thể vợ tôi, phủ đầy các vết xanh –
đỏ. Tôi kêu lên vì sợ hãi. Mọi người chạy đến bên, đỡ lấy tôi và đưa ra
hành lang …
Lần
cuối cùng tôi nhìn thấy Anh là ở chỗ hỏa táng – mười ngày sau đó. Quyết
định hỏa táng không phải do tôi đưa ra. Nói chung không ai hỏi ý kiến
tôi muốn an táng vợ mình ra sao. Tại sao phải đợi lâu thế vẫn mãi là câu
hỏi. Có thể Lê Duẩn đã bí mật đến Moskva. Tôi không gặp ông, còn bà mẹ
thì bay sang ngay. Tro cốt của Anh được đưa về Việt Nam, bình tro được
giữ ở nhà bà Bảy Vân, trong một căn phòng riêng.
Sau
cái chết của Anh các cháu được bà cụ mẹ của Bulat, bà Askhen Stepanova
yêu quý, đã rất già yếu chăm sóc. Bà cụ ở lại cùng chúng tôi ba tuần.
Còn tôi trong thời gian đầu rơi vào một trạng thái quên lãng, mù mờ sao
đó. Trí nhớ của tôi từ chối tin vào những gì vừa xẩy ra. Một lần tôi
tỉnh dậy giữa đêm trong hoảng hốt. Trái tim bóp nghẹt trong lồng ngực.
Trong mơ tôi thấy lóe lên một luồng sáng: người ta đã đầu độc Anh. Tôi
chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng
cho rằng các vết xanh-đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy
máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh
viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparin cho các bênh
nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng
như thế. Đã xuất hiện thêm một phương án khả tín theo quan điểm của tôi:
việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không
phải tự nhiên Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn …
Trong
đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Anh đã giết
con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam. “Không đời nào!” –
tôi trả lời. Tôi biếu bà chuỗi hạt đã từng giữ hơi ấm cơ thể của Anh. Bà
ấy nhận nó, để sau này sẽ trao cho vợ của cháu trai, khi nó lớn lên và
cưới vợ.
Tôi
che dấu cái chết của Anh không nói cho những người thân biết. Mẹ tôi
rất đau ốm, còn các cháu gái thì quá bé. Mẹ tôi có lẽ cảm thấy điều gì
đó, bà bị đột quỵ lần hai, và lần này thì điều trị không khá lên được.
Tôi nói với Lena là Anh ở trong bệnh viện, và sau đó – rằng mẹ đã đi có
việc, nhưng con bé cũng hiểu hết. Một lần nó kéo tôi ra bên và thì thầm
hỏi tôi: “Bố ơi, người ta chôn mẹ rồi phải không?”. Lena luôn than thở
về nỗi buồn vắng mẹ, nó khóc: “Bố, hãy đi Việt Nam, mua mẹ cho con!”
Bảy
Vân quyết định ở lại Moskva ít lâu. Bà ấy yêu cầu dẫn Tania đến thăm,
nói rằng sẽ đưa trả con bé và cô bảo mẫu về nhà vào hôm sau. Nhưng đã
không cho về. Hai ngày liền tôi gọi cho mẹ vợ, nhưng người ta không gọi
bà ấy nghe điện, viện cớ có công việc quốc gia quan trọng nào đó. Ban
đầu tôi không cảm thấy lo lắng đặc biệt, nhưng sau đó hiểu ra rằng bà
đang cố thực hiện ý định của mình – lấy lũ trẻ khỏi tay tôi. Tôi tìm
được địa chỉ của bà với không ít khó khăn, đem theo một đồng nghiệp biết
tiếng Pháp để hỗ trợ và làm phiên dịch, lên đường đòi lại con gái. Bảy
Vân không muốn trả lại Tania, ngay cả khi tôi nói rằng mẹ tôi sắp mất và
bà cụ muốn vĩnh biệt cháu gái. Tôi buộc phải hứa rằng bà cháu sẽ gặp
lại nhau trong lúc chuẩn bị cho tang lễ.
Mẹ
tôi mất ngay ngày hôm sau. Mẹ vợ chạy đến ngay: “Các cháu sẽ ở với
tôi!”. Tôi phải giải thích rằng các cháu còn đang ốm. Tania thực sự đang
bị sốt. Bảy Vân đề nghị thu xếp chữa cho cháu tại căn hộ của mình,
nhưng tôi không đồng ý.
Tôi
biết rằng bà ta sẽ lại xuất hiện ở đatra vào ngày cử hành tang lễ, lúc
tôi không ở nhà, do vậy đã gửi Lena đến chỗ người quen, còn Tania tôi
khóa cùng với người cháu của tôi trong căn phòng có các lỗ châu mai, và
dặn không được mở cửa cho bất cứ ai, đặc biệt cho bà ngoại nó. Bà bảo
mẫu được dặn phải nói là cả hai cháu đang ở nhà các bạn của tôi. Ngay
khi tôi vừa rời đến chỗ hỏa táng, Bảy Vân đã xuất hiện ở đatra. Không
tìm thấy lũ trẻ, bà ta ra về trong sự tức giận khủng khiếp.
Với
đứa con trai, tôi đặt tên nó là Anton, tình hình phức tạp hơn nhiều. Ở
nhà hộ sinh họ không trao cháu cho tôi. Họ thông báo rằng do tình trạng
sức khỏe của cháu bé, cháu cần ở lại bệnh viện để các bác sĩ chăm sóc.
Tôi chỉ làm được giấy chứng sinh cho cháu, và lập tức tiến hành các biện
pháp. Tại bệnh viện của BCH TƯ, nơi cháu được chuyển đến từ nhà hộ
sinh, cháu đã nhập viện với tên là Anton Maslov: các bạn của tôi đã giám
sát tại lối vào bệnh viện để cháu được đăng ký đúng như đã định. Đây là
một thắng lợi, không lớn nhưng dầu sao cũng là thắng lợi. Bây giờ đưa
con trai tôi ra khỏi biên giới sẽ khó khăn hơn nhiều.
Họ
cho phép tôi vào bệnh viện, đi dạo cùng con trai, nhưng bên cạnh luôn
có người của BCH TƯ. Một thời gian tôi đã muốn lấy cắp Anton và dấu cháu
trong gia đình chị bạn người Triều Tiên, giả như đó là con của chị. Còn
tôi sẽ đưa về nhà một cháu bé có bề ngoài đông phương khác trong trường
hợp Lê Duẩn quyết định đưa cháu trai ra mà không có sự đồng ý của tôi.
Nghĩ ra đủ phương án, nhưng không thực hiện được. Và lạy Chúa – tôi sợ
trò phiêu lưu này sẽ làm tôi nguy đến tính mạng.
Cán
bộ từ BCH TƯ, người đảm nhận liên lạc giữa tôi và gia đình Anh, đề xuất
một giải pháp thỏa hiệp – tôi giữ các cháu gái cho mình, còn trao đứa
cháu trai cho ông nó: “Cứ để nó sống ở Việt Nam vài năm, khi cháu lớn
lên, họ sẽ trả cháu về. Ông lúc nào cũng có thể đến thăm người thân của
vợ và gặp Anton”. Cuộc bầu cử mà Anh lo sợ đang sắp diễn ra. Xem ra nhóm
thân Trung Quốc loan tin rằng không nên tin tưởng vào Lê Duẩn. Ông ấy
không thể theo đường lối độc lập nếu cháu trai ông ấy đang bị Kremli giữ
làm con tin. Trong cơn sóng gió trước bầu cử người của ta có thể bắt đi
tất cả các đứa con của tôi, chỉ để giúp Lê Duẩn còn giữ được quyền lực.
Tôi hứa sẽ suy nghĩ, cố kéo dài thời gian. Nhưng áp lực ngày một gia
tăng. Họ đe dọa tôi bằng những điều bất tiện trong công tác. Người cán
bộ nói anh ta đã biết “phương án Triều Tiên” – tức phương án bắt cóc con
trai tôi với sự giúp đỡ của chị bạn người Triều Tiên. Tình thế trở nên
nghiêm trọng. Bà ngoại Bảy Vân một lần đã nói thẳng: “Không muốn tốt –
cũng chẳng cần”.
Chống
đối tiếp tục đã thành vô nghĩa, và tôi quyết định phải có sự đảm bảo –
soạn một tuyên bố chính thức về việc cho phép đưa con đi trong hai năm. Ở
sân bay tôi đã khôn khéo lấy hộ chiếu của Anton từ nhân viên an ninh
cửa khẩu, chụp ảnh tất cả các trang và đút trả lại. Bạn của tôi chụp ảnh
ghi lại cuộc ra đi của thằng bé. Vào đúng ngày hôm ấy Lê Duẩn đến
Moskva. Ông đã gặp Brejnev. Vì cuộc hội kiến này (có vẻ rất quan trọng)
nên mới có sự vội vã như vậy.
Chẳng
bao lâu tôi lăn ra ốm. Ban đầu là viêm phổi, sau đó phát hiện có một
khối u. Nghi ngờ đến khả năng xấu nhất, nhưng rồi mọi việc cũng qua –
khối u hóa ra lành tính. Tôi nằm viện khá lâu, Muội có đến thăm tôi. Chị
chắc có nói chuyện với bác sĩ, biết về các chẩn đoán của tôi và kể cho
những người thân biết. Những người này lập tức chạy vạy – nhờ cậy những
người bạn xô viết nhờ nhận lại các cháu gái từ người cha “đang sắp
chết”.
Nghĩ
lại thấy thật đáng sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu nếu tôi không
xuất viện đúng một ngày trước khi các thanh tra về công việc với vị
thành niên đến nhà tôi. Một bà trong sắc phục đại úy cảnh sát đến nhà
với yêu cầu chính thức từ Ủy ban vùng – xem xét khả năng xác nhận đưa
Elena và Tatiana Maslovye vào cơ sở nuôi dạy trẻ. Tôi không thể nói với
bà ta toàn bộ sự thật, nhưng cho bà ta hiểu rằng trong câu chuyện này
mọi việc không đơn giản, khuyên bà ta đừng vội vã.
***
Sau
hai năm người ta vẫn không đưa Anton trở lại. Tối đấu tranh thêm hai
năm nữa để họ cuối cùng đưa cháu trở lại Moskva. Tôi yêu cầu việc này
với tất cả người thân của Anh. Cuối cùng Thành, em trai nàng bay sang
Moskva. Chúng tôi gặp nhau và đã tìm được tiếng nói chung. Thành nói
chuyện với Lê Duẩn, và ông ta quyết định đưa cháu trai về với cha nó và
các chị. Nhưng con trai tôi trở về đã không phải với tên là Anton
Maslov, mà là công dân Việt Nam Nguyễn An Hoàn và hộ chiếu VIệt Nam. Lê
Duẩn không có ý định trao cháu cho tôi. Ngược lại – ông hy vọng sẽ mang
luôn cả các cháu gái về.
Con
trai không nói được tiếng Nga, nó lạ tôi và không rời bà bảo mẫu người
Việt đã nuôi cháu từ trứng nước. Ở Việt Nam Anton thực sự là hoàng tử:
nó được ở cả một tầng nhà.
Tôi
hi vọng sẽ thu xếp được với con trai, nhưng người bà Việt Nam bay sang,
sau khi quyết định đi nghỉ tại Krưm tuyên bố rằng ở Moskva không tốt
cho thằng bé. Sau kỳ nghỉ bà ta sẽ đưa cháu trở lại Việt Nam, còn tạm
thời cần đưa cháu vào một nhà trẻ tốt trong suốt mùa hè. Bà ta sẽ cho
phép tôi và các cháu gái tới đó. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi có
mặt một cán bộ khá cao cấp của Ban quốc tế BCH TƯ, làm nhiệm vụ phiên
dịch. Ông đã thấy tôi giận dữ như thế nào, và khuyên tôi đừng nổi cáu,
cố gắng đạt được thỏa thuận với người bà quyền lực. Bắt cóc Anton thật
vô nghĩa: cháu là công dân Việt Nam và họ sẽ ngay lập tức đưa cháu đi
khỏi nhà tôi.
Nhưng
tôi không có ý định đầu hàng. Bây giờ đã là thời khác, lãnh đạo đất
nước Liên Xô không còn là Brejnev, mà là Gorbachev. Hơn nữa sau những
năm tháng ấy tôi đã kịp trở thành Viện sỹ hàn lâm và được trao Giải
thưởng Lenin. Tôi viết đơn yêu cầu trả lại con trai và đi khắp các cửa,
còn thiếu đâu nữa: Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, BCH TƯ ĐCS LX. Khắp nơi
người ta thông cảm với tôi, nhưng giúp đỡ thì đều từ chối. Họ nói rằng
việc đó ngoài khả năng của mình. Một lần tôi chia sẻ với một chị bạn tốt
– thư ký của Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học. Chị ấy khuyên tôi nên cầu
cứu Anatolia Gromưco – con trai Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Andrei
Andreievich Gromưco, một người thân cận với Gorbachev, và chị ấy sẽ giúp
thu xếp cuộc gặp này.
Gromưco-con
là giám đốc Viện Phi châu thuộc Viện HL KH LX. Tôi kể cho anh nghe về
câu chuyện của tôi và Anh, đưa cho anh xem các bức ảnh chụp cùng vợ con.
Anatolia Andreevich tỏ ra cảm động. Anh nói: “Anh hãy viết đơn gửi cho
chính Gorbachev. Tôi hứa rằng ông ấy sẽ nhận được và sẽ đọc. Nhớ kèm
theo cả những bức ảnh, đặc biệt bức chụp cùng bọn trẻ này. Nó mạnh hơn
bất kỳ bức thư nào”. Tôi làm theo những gì anh chỉ dẫn, và cùng với các
bức ảnh tôi còn để cả bản tuyên bố của Anh viết năm 1978. Vài hôm sau
không chờ đươc, tôi gọi điện cho Gromưco. Anh nói: “Họ đã biết quan điểm
của anh”. Tất cả chỉ có thế. Tôi không biết sẽ phải nghĩ gì và hành
động ra sao.
Để
bà ngoại yên tâm, tôi thu xếp gửi Anton vào nhà trẻ của Cục bốn, khá xa
đatra của tôi. Tôi thỏa thuận với bà giám đốc rằng bà không được giao
đứa bé cho ai, trừ tôi. Những người bảo vệ hứa sẽ gọi điện nếu thấy xuất
hiện những “kẻ đột nhập” vào khu vực nhà trẻ. Tôi dúi cho họ 4 chai
vodka Smirnov, hồi đó chỉ bán theo giấy của nhà thờ, và họ nóng lòng chờ
sự xuất hiện của “kẻ đột nhập Việt Nam”. Chẳng bao lâu sau kẻ đột nhập
xuất hiện thật. Bảy Vân nhận được sự từ chối thẳng thừng và buộc phải
rút lui. Nhưng giám đốc nhà trẻ nài nỉ tôi phải đưa Anton đi: “Tôi sẽ
không chịu đựng được cuộc tấn công sau đâu. Anh không tưởng tượng được
là chúng tôi đã căng thẳng đến thế nào”.
Tôi
nói chuyên với bạn bè, và họ tìm được cho chúng tôi một ngôi nhà ở
Belorussia – ở tít tận xó rừng sâu Belovejskaia Pusia. Trong vòng bán
kính 5 km quanh đó không một bóng người. Chúng tôi ở đó chừng vài tháng –
Lena, Tania, Anton, bà bảo mẫu của chúng, và tôi. Pusia quả thật là một
chốn thiên đường. Bọn trẻ đến giờ còn nhớ khu rừng nguyên thủy, những
bãi cỏ đầy nấm và quả rừng, có thể sờ tay vào lũ thú rừng và chim chóc.
Lũ hươu kéo đến tận nhà, làm bà bảo mẫu sợ chết khiếp. Đàn bò rừng nhởn
nhơ đi lại đằng xa. Anton trở thành một đứa trẻ khác hẳn ở Belorussia,
chơi với các chị và bắt đầu nói một ít tiếng Nga.
Tôi
không nhận được tin tức gì từ Moskva, nhưng hi vọng vào những điều tốt.
Tôi nghĩ rằng Gorbachev không muốn có một Sakharov – viện sĩ – nhà bất
đồng chính kiến thứ hai. Để giành lại các con, tôi sẵn sàng làm tất cả,
kể cả một scandal quốc tế. Mấy tháng trôi qua tôi biết được từ một người
bạn Việt Nam, gần gũi với gia đình của Anh, rằng Lê Duẩn đã từ bỏ ý
định bắt cháu về. Ông nói: “Nếu cha chúng nó yêu chúng như vậy, thì cứ
để chúng sống với anh ta”. Có vẻ hai nước đã đi đến một nhận thức chung
về chuyện này, Gorbachev và Lê Duẩn đã thỏa thuận để gia đình chúng tôi
được yên. Sự đau khổ của tôi kết thúc. Mấy năm sau Lê Duẩn từ trần.
***
Vào
cuối những năm 80 – 90 tôi có dịp đi khắp thế giới. Với tư cách là giáo
sư mời tôi đã giảng bài ở Mỹ, Anh, Pháp. Đất nước tôi hồi đó ở trong
giai đoạn không dễ dàng gì. Khoa học thoi thóp, các nhà bác học được trả
lương bằng xu, mà trong tay tôi – ba đứa trẻ. Cần phải kiếm tiền bằng
cách nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ ở lại sống ở nước ngoài. Bọn
trẻ luôn đi cùng với tôi, cũng như người vợ sau Irina. Chúng tôi cưới
nhau năm 1991. Tôi quen Ira đã lâu, từ khi Anh còn sống. Cô ấy cùng tuổi
với Anh. Ira là nhà ngôn ngữ, phó tiến sỹ khoa học. Sau khi Anh mất,
giống như nhiều bạn bè và người thân của tôi, cô ấy đã giúp tôi trông
nom bọn trẻ. Đối với tôi mối quan hệ của cô với chúng cũng quan trọng
không kém tình cảm giữa chúng tôi. Ira là một phụ nữ đáng kinh ngạc. Sau
khi cưới, cô ấy quyết định không sinh thêm một đứa con nữa, đứa con
chung của chúng tôi, để không phải làm dì ghẻ, mà hoàn toàn thay Anh làm
mẹ của Lena, Tania và Anton.
Các
con tôi hiện sống ở nước ngoài, dù khi còn trẻ không dự định việc này
và chúng đều vào học tại MGU mà không phải một trường đại học tây phương
nào đó. Nhưng về sau những dòng người có vẻ ngoài châu Á tràn vào
Moskva. Và bắt đầu nảy sinh các vấn đề. Thí dụ đã xảy ra một chuyện
không dễ chịu với Tania ở đatra. Một nhân viên cảnh sát, đến vì một
chuyện hoàn toàn khác, tình cờ nhìn thấy cháu và cho rằng đấy là một
người di cư bất hợp pháp từ Trung Á, và suýt nữa tôi bị cáo buộc vào tội
“che dấu”.
Những
tình huống như vậy khá nhiều, và không hề dễ chịu. Chúng tôi họp gia
đình và quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đưa lũ trẻ sang châu Âu, ở đó đã
quen với việc có nhiều sắc tộc. Kết quả là Tania và Anton sang sống ở
Anh, còn chị cả Lena – ở Hà Lan. Cháu lấy chồng là người Hà Lan xuất
thân từ một gia đình quý tộc tỉnh lẻ lâu đời. Chồng cháu là một người
làm phân tích nghiệp vụ và có thời gian là khách hàng của một hãng máy
tính của Anh, nơi Lena làm việc. Mối tình bắt đầu ở nước Anh.
Sau
khi cưới đôi trẻ chuyển sang sống ở Hà Lan, trong một thị trấn nhỏ cách
Amsterdam chừng một giờ đi xe. Lena là kiến trúc sư phần mềm, đã đạt
được đỉnh cao trong nghề. Cháu là một chuyên gia độc nhất, được đánh gía
cao ở hãng, được tạo cho các điều kiện làm việc thuận lợi nhất. Lena có
một con nhỏ – cháu sinh con gái Anna năm ngoái. Còn Tania năm nay sinh
được cậu con trai Oskar. Tania tốt nghiệp MGU ở Moskva chuyên ngành
“ngôn ngữ”, khi sang Anh thì chuyển nghề và, giống như Lena, làm về lập
trình. Sống với chồng là người Anh ở thị trấn ngoại ô Bristol. Tania từ
bé đã yêu súc vật và đem theo cùng mình đến Anh hai con chó và một con
mèo. Anton tốt nghiệp MVK tại Khoa Toán học tính toán và Điều khiển học.
Cháu cũng làm việc liên quan đến máy tính và ở không xa chị gái. Cậu
chàng chưa cưới vợ, và tôi sợ sẽ còn lâu. Có vẻ cháu giống tính tôi.
Tất
nhiên tôi sẽ vui mừng nếu có các con ở bên, chứ không phải cách xa hàng
ngàn cây số. Nhưng cuộc sống là như vậy. Tôi vẫn trò chuyên với các con
hàng tuần, qua Skype. Mùa hè nào chúng cũng trở về Nga và về ở
Selinger, nơi chúng tôi có một căn nhà ngoại ô. Tôi và Ira sống phần lớn
thời gian ở đatra. Ở đấy nghỉ ngơi và làm việc đều tốt. Tôi tiếp tục
làm khoa học, điều đem lại cho tôi niềm vui lớn, tôi còn có nhiều công
trình dở dang. Tôi vẫn là nhân viên toàn thời gian của MIEM.
Học
viện đã được củng cố đáng kể, trở thành một phần của Trường đại học –
nghiên cứu, “Trường kinh tế cao cấp”. Điều này hoàn toàn trùng hợp với
các kế hoạch khoa học của tôi và cổ vũ trong tôi niềm say mê sáng tạo.
Ngoài ra tôi còn là cộng tác viên khoa học của Viện các vấn đề cơ học –
RAN và chủ nhiệm bộ môn thống kê lượng tử và lý thuyết trường tại Khoa
Lý của trường MGU ruột thịt. Năm 2013 tôi nhận giải thưởng nhà nước lần
thứ 3 do những đóng góp vào việc xây dựng cơ sở toán học cho ngành nhiệt
động học hiện đại.
Khi
làm việc, tôi cảm thấy ánh nhìn của Anh lên mình. Trong phòng làm việc
đã nhiều năm vẫn treo bức ảnh chân dung lớn của nàng. Tôi cảm thấy Anh
hài lòng về cuộc sống của các con chúng tôi. Tuy rằng cái nhìn của nàng
có nghiêm nghị, nhưng theo tôi, nhân hậu. Tôi thường mơ thấy nàng, trẻ
trung và hạnh phúc.
Đôi
khi tôi có cảm tưởng rằng Anh không chết, nàng chỉ đang đi đâu đó. Có
thời gian tôi đã nghĩ đến việc làm gì đó để vinh danh vợ: đến “với nàng”
tại Việt Nam. Vào cuối những năm 90 tôi được mời dạy ở Hong Kong.
Khoảng cách từ đó đến TP Hồ Chí Minh, nơi bà Bảy Vân sống, không quá xa.
Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã từ chối. Đối với bọn trẻ, việc di chuyển
đến Hong Kong có thể tạo nên stress lớn, cần phải thích nghi với khí
hậu, nước uống, đồ ăn hoàn toàn khác biệt. Tôi sợ chúng sẽ bị ốm.
Về
sau, khi đã trưởng thành, Lena, Tania và Anton đã hai lần về Việt Nam
để gặp những người ruột thịt. Chúng được đón tiếp như các vương tôn công
tử. Ở đất nước này người ta vẫn còn lưu giữ ký ức thiêng liêng về Lê
Duẩn, giống như trong thời xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhớ về Lenin.
Trong mỗi thành phố đều có các con phố hay quảng trường mang tên ông. Và
các cháu của lãnh tụ được đối xử một cách vinh dự. Bảy Vân, bà vợ góa
của ông vẫn còn sống. Bà nay đã gần chín mươi tuổi.
Anh
giao phó các con của chúng tôi cho tôi. Nàng mong muốn các cháu sống ở
Liên Xô và được giáo dục theo các truyền thống văn hóa Nga. Không có Ira
tôi không thể thực hiện được sự ủy thác của nàng. Cái chính là bọn trẻ
không lúc nào cảm thấy chúng là trẻ mồ côi. Và nếu không có Ira chúng
không thể thấm nhuần văn hóa và tâm hồn của chúng ta. Do vậy chúng vẫn
là những người Nga, cho dù sống ở đâu.
Ghi chú:
- ZAGS – Cơ quan phụ trách các công việc liên quan đến hôn nhân, nhân khẩu, v.v.
- Thuật ngữ hay dùng ở Liên Xô để chỉ thời kỳ lãnh đạo của Brejnev, nhất là những năm cuối, trước “cải tổ”.
- Nhạc sĩ, nhà thơ, ca sĩ người Gruzia, rất nổi tiếng như một tác giả mở đầu cho phong cách sáng tác những ca khúc tự sự có giọng điệu tác giả riêng. Với cây ghi-ta ông có điều gì đó làm liên tưởng đến Trịnh Công Sơn. Các ca khúc tôi rất thích: Tình ca Arbat, Bài ca Gruzia, Nguyện cầu …
- Chương trình bắt buộc đối với các NCS ở Liên Xô, phải thi xong “minimum” mới được nhận làm luận án.
- Ủy viên BCT, Trưởng Ban TC TW Đảng CSLX thời Brejnev.
- Ca sĩ nổi tiếng với các bài hát cấp tiến, thần tượng của giới trẻ xô-viết những năm 70