Tham Khảo
CHƠI CHỮ TRONG TIẾNG ANH
Chơi chữ, từ kiểu thông thường, như “Bí mật đã được bật mí” đến cao siêu, như “Da trắng vỗ bì bạch” luôn được xem là bất khả dịch. Mọi cố gắng dịch chỉ hoài công vô ích. Thật ra trong những trường hợp đó, ta chỉ có thể chuyển ngữ và giải nghĩa trong ngôn ngữ chính. Mà như vậy thì chẳng còn “ép-phê” như trong ngôn ngữ chính (nguồn).
Có dạo tạp chí The Economist (ở Anh) quảng cáo cho chính báo mình với câu như sau: “We don’t bill Gates the full cover charge, because he is our subscriber.” (Chúng tôi không tính Gates trọn giá bìa, vì ông ta là khách đặt báo dài hạn của chúng tôi). Quả thật câu này dễ hiểu và không khó dịch, nhưng báo này đã khôn khéo ở hai điểm: a) thay vì dùng tên của một độc giả đặt báo lâu dài khác, họ chọn Bill Gates, trùm điện toán thế giới; b) tên riêng (first name) Bill không được viết hoa mà lại viết thường để trở thành động từ bill (tính tiền).
Các phương tiện truyền-thông thường tận dụng lối chơi chữ để tạo hiệu quả đặc biệt, nhất là những mẩu quảng cáo. Ta thử xét một vài trường hợp chơi chữ như sau (mà chắc hẳn người dịch nào gặp cũng phải đầu hàng).
- When you decide to give her a ring, give us a ring. (Quảng cáo cho tiệm kim hoàn). Trong mệnh đề thứ nhất, từ ring được dùng theo nghĩa đen, nên give her a ring có nghĩa là tặng / trao nhẫn cho nàng; nhưng give us a ring lại được dùng theo nghĩa call/ phone us.
- Have you thought about buying our new bed? Sleep on it. (Quảng cáo một loại giường mới). Trước hết, động từ to sleep on something có nghĩa là suy nghĩ lại hoặc cân nhắc kỹ càng. Ngoài ra, người viết đã tận dụng sự liên tưởng giữa bed và sleep. Do đó, đại từ it có thể hiểu là chiếc giường và việc mua giường. Do vậy, câu Sleep on it vừa có thể hiểu là Hãy mua loại giường mới của chúng tôi, vừa như muốn nhắc nhở Nếu chưa thì quý vị nên suy nghĩ lại và mua đi.
- It’s not worth dying for a drink. (Khuyến cáo về mối nguy hiểm của việc nghiện rượu). Động từ to die được dùng theo nghĩa đen là chết; ngoài ra be dying for có nghĩa là khao khát/ thèm muốn.
- Your views are reflected in The Mirror. (Quảng cáo cho báo The Mirror). Tên của tờ báo (Tấm gương) được phối hợp với động từ reflect (phản ánh/ phản chiếu) để tạo một sắc thái nghĩa độc đáo cho phát ngôn.
- Christmas is a time to think of family ties. Buy ours. (Quảng cáo cà vạt). Trong câu thứ nhất, từ tie được dùng với nghĩa mối quan hệ. Trong câu thứ hai, ours thay thế cho nhóm chữ our ties, và ở đây từ tie lại có nghĩa đen là cà vạt. Dường như thông điệp mà người bán muốn nói, là: mua cà vạt của chúng tôi để làm quà Giáng sinh là một cách tuyệt vời để biểu lộ hoặc thắt chặt hơn những tình cảm gia đình.
- Money matters. Đây là chuyên mục của một tờ báo; có thể hiểu nôm na là "Những vấn đề tài chính". Mặt khác, chữ matters có thể hiểu là động từ to matter (có ý nghĩa/ có tầm quan trọng) được chia ở dạng số ít. Ngoài ra, câu này gợi nhớ thành ngữ Money talks (Miệng nhà giàu nói đâu ra đấy/ Có tiền mua tiên cũng được/Miệng nhà quan có gang có thép... trong thành ngữ Việt).
TL chuyen
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
CHƠI CHỮ TRONG TIẾNG ANH
Chơi chữ, từ kiểu thông thường, như “Bí mật đã được bật mí” đến cao siêu, như “Da trắng vỗ bì bạch” luôn được xem là bất khả dịch. Mọi cố gắng dịch chỉ hoài công vô ích. Thật ra trong những trường hợp đó, ta chỉ có thể chuyển ngữ và giải nghĩa trong ngôn ngữ chính. Mà như vậy thì chẳng còn “ép-phê” như trong ngôn ngữ chính (nguồn).
Có dạo tạp chí The Economist (ở Anh) quảng cáo cho chính báo mình với câu như sau: “We don’t bill Gates the full cover charge, because he is our subscriber.” (Chúng tôi không tính Gates trọn giá bìa, vì ông ta là khách đặt báo dài hạn của chúng tôi). Quả thật câu này dễ hiểu và không khó dịch, nhưng báo này đã khôn khéo ở hai điểm: a) thay vì dùng tên của một độc giả đặt báo lâu dài khác, họ chọn Bill Gates, trùm điện toán thế giới; b) tên riêng (first name) Bill không được viết hoa mà lại viết thường để trở thành động từ bill (tính tiền).
Các phương tiện truyền-thông thường tận dụng lối chơi chữ để tạo hiệu quả đặc biệt, nhất là những mẩu quảng cáo. Ta thử xét một vài trường hợp chơi chữ như sau (mà chắc hẳn người dịch nào gặp cũng phải đầu hàng).
- When you decide to give her a ring, give us a ring. (Quảng cáo cho tiệm kim hoàn). Trong mệnh đề thứ nhất, từ ring được dùng theo nghĩa đen, nên give her a ring có nghĩa là tặng / trao nhẫn cho nàng; nhưng give us a ring lại được dùng theo nghĩa call/ phone us.
- Have you thought about buying our new bed? Sleep on it. (Quảng cáo một loại giường mới). Trước hết, động từ to sleep on something có nghĩa là suy nghĩ lại hoặc cân nhắc kỹ càng. Ngoài ra, người viết đã tận dụng sự liên tưởng giữa bed và sleep. Do đó, đại từ it có thể hiểu là chiếc giường và việc mua giường. Do vậy, câu Sleep on it vừa có thể hiểu là Hãy mua loại giường mới của chúng tôi, vừa như muốn nhắc nhở Nếu chưa thì quý vị nên suy nghĩ lại và mua đi.
- It’s not worth dying for a drink. (Khuyến cáo về mối nguy hiểm của việc nghiện rượu). Động từ to die được dùng theo nghĩa đen là chết; ngoài ra be dying for có nghĩa là khao khát/ thèm muốn.
- Your views are reflected in The Mirror. (Quảng cáo cho báo The Mirror). Tên của tờ báo (Tấm gương) được phối hợp với động từ reflect (phản ánh/ phản chiếu) để tạo một sắc thái nghĩa độc đáo cho phát ngôn.
- Christmas is a time to think of family ties. Buy ours. (Quảng cáo cà vạt). Trong câu thứ nhất, từ tie được dùng với nghĩa mối quan hệ. Trong câu thứ hai, ours thay thế cho nhóm chữ our ties, và ở đây từ tie lại có nghĩa đen là cà vạt. Dường như thông điệp mà người bán muốn nói, là: mua cà vạt của chúng tôi để làm quà Giáng sinh là một cách tuyệt vời để biểu lộ hoặc thắt chặt hơn những tình cảm gia đình.
- Money matters. Đây là chuyên mục của một tờ báo; có thể hiểu nôm na là "Những vấn đề tài chính". Mặt khác, chữ matters có thể hiểu là động từ to matter (có ý nghĩa/ có tầm quan trọng) được chia ở dạng số ít. Ngoài ra, câu này gợi nhớ thành ngữ Money talks (Miệng nhà giàu nói đâu ra đấy/ Có tiền mua tiên cũng được/Miệng nhà quan có gang có thép... trong thành ngữ Việt).
TL chuyen