Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Nguyễn Tú
Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ
Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng
Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng
Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng,
phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972.
Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên
đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù
Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng
là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng
và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại "như một nén hương
chiêu niệm chung."
Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song
Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không
được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố,
cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi,
chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27
Tháng Tư 1979.
Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và
phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh
phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên
Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế - nếu biết đến
cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam - có thể ngó tới
tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất
ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái
chết trong tù của ông - bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí
thức văn nghệ sĩ khác - của nhà cầm quyền Hà Nội.
Chí Hòa, Sài Gòn - Một ngày cuối Tháng Tư 1979
Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm,
giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày
rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội
quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh
phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không "vui
vẻ, hồ hởi, phấn khởi" dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy
định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.
Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ
gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong
buồng. Tôi có mục đích riêng.
Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người
đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên
cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ
dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang
oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân
mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước
mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!
Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một
cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song
sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba
thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán
bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù
tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một
cảm giác thoáng khí hơn.
Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa
đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân
tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được
chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ
miều là "trại viên" Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng,
hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt
nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc
men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu
trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy,
thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc
chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần,
chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là
chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã
trên 70 tuổi.
Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn
không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng
gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát
bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ
ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông
bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng
tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo
trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất
nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần -
một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận
nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư
thế - mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như
toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh
giữa thân phận con người và hoàn cảnh.
Tôi khẽ lên tiếng: "Anh Quát! Anh Quát!"
Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân,
hơi cao giọng: "Anh Quát! Anh Quát!" Vẫn không một phản ứng, tôi đưa
ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối
nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn
mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích
thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng "phản động"
nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng,
3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự "đầu chai
đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy." Một buồng "ngụy nặng"
nên được Việt Cộng tận tình "chiếu cố" trong sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên "ăng ten" tức chỉ điểm được
cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất
chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao
giọng thêm: "Anh Quát! Anh Quát!"
Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ
tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ:
"Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?" Lần này đôi mi bệnh nhân
hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt
vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ
Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: "Anh Tú!" Tôi hơi
yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: "Anh mệt lắm phải
không?" Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào
xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: "Anh có
nhắn gì về gia đình không?" Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm.
Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục
anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn
một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: "Ai
đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi!
Nói đi!" Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.
Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở
khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ
một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: "Thôi! Anh Tú ạ."
Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang.
Tôi chưa chịu buông: "Nói đi! Anh Quát! Nói đi!" Một hơi thở một
chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! "Thôi! Thôi! Bỏ đi!"
Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi
vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên
trán.
Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt.
Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc
được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá
nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa
thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu
tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây
giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu.
Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: "Anh
Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?"
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu
chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía
Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ
vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái
gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý
chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn
muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa - trước cảnh huống bên
ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không
phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và
gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.
Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng
trưởng: "Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá
chứ!" Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy
còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì "xấu máu." Anh em bèn dán
cho cái nhãn hiệu "Phương đầu bạc." Phương lặng thinh, coi bộ ngần
ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương
đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ
chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: "Anh Châm! Nói cho Phương biết
bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!" Ông Châm bèn bảo: "Anh Phương! Báo
cáo cán bộ ngay đi!" Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong
phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: "Báo cáo đi!
Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ
người ta chết à?" Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.
Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần,
Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu
thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh
chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi
vọng: "Ðâu?" Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ
Quát: "Ðây, cán bộ!" Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng
lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng
chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết
sinh tử của trại.
Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn
tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và
một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi
người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.
Phương "đầu bạc" dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh
nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh
trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó
Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ
Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ,
đũa, muỗng, chén... Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt
nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! "Lấy cơm!"
Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc
đó khoảng 10 giờ rưỡi.
Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: "Bác
Sĩ Quát chết rồi!" Cả phòng nhao nhao: "Hồi nào? Hồi nào? Chết mau
quá vậy?" Một anh đáp: "Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải."
Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền
khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong
phòng thốt một câu: "Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá,
không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!" Một điếu văn ngắn, gọn,
hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên
án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng
đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu
dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: "Nhớ
làm bản kê khai, nghe không!" Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận
chính thức cái chết của bất cứ "trại viên" nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông
xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã
xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng
lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế
tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác
biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ
Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn
nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang
nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của
nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ "nghi vấn." Nhiều
người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà
được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể
Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là "rất căng."
Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì
về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi
đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô
cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu
cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy
một năm sau "đại thắng Mùa Xuân" của Việt Cộng đã làm chúng thất
điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh
Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và
thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới
1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở
miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó
Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có
bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác "ăng ten,"
tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.
Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt.
Việt Cộng "dư" lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân
hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con
trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng
Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát
bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần
một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có
muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao
giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt
quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà
với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ
luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời,
riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân
nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà
còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau
chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn
bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh
nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới
phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó
tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song
sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ
Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc
cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép
đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho
Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường
trị bệnh gan. Lần "nhìn thăm" thầm lặng được phép công khai đó dài
không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức
nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ
của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép
ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp
trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được
trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ
có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác
Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã
trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi
Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ
đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu "thật tâm
cải tạo tốt." Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên
quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh
đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian
được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất "siêu" về thủ đoạn dọa
nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt.
Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với
Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe
dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979,
Huy Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà
Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp,
rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất
cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia
đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời
ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau
mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt
của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi
cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert
của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia
Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với
tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm
vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình
hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ.
Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho
Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở
vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh
ngày 20 Tháng Bảy 1954.
Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng.
Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo
Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc
Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu
Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không
tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm
việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm
nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra
bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự
do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số
tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm
theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô
Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng
Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn
Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64.
Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này
tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa
Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập
nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao
quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết
giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều
khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt
động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á
Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày
Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.
Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt
hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một
hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã
quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối "chính quy," trong
"đường lối chính quy." Và con người thận trọng trong ông đã lao vào
một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên
cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất
ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của
riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác,
một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí
mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa
được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những
điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ
hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông
từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước
hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn
thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con
người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết
định dễ dàng.
Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát
không đáp "lời mời" ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên
đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả "ngụy
quân, ngụy quyền". Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ
hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư
thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời "du mục" trong Saigon,
quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay
phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn
tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn
"trụ" hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm
khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên
cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn
của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối
hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh
đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ
chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào
tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn?
Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối
âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống "tự
nhiên cái đã". Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam
bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì
tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm
dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ
nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.
Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường
xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn
đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên.
Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi
cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát
không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không
muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14
người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng
kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu,
rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên.
Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.
Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư
1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ
của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc
trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát
chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía
Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã
liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời
không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14
người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý
muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị
lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ,
chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái
toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ
trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ
Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn
không có Bác Sĩ Quát và gia đình.
Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong
vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn.
Ðồng thời ông cũng không muốn làm "kẻ bỏ chạy" vì ông cũng rất nặng
tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở
lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình,
Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình
và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể
chọn một. Và ông đã chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do
một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một
người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan
trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác
Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia
đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên.
Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi
gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận.
Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được
dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi
tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã
bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà
Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều
kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt
Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam
để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu
đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn
một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và
khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng
người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười
năm sau mới được thả.
Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên
Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau,
theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon.
Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có
một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã
quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi
tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa.
Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh,
Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách
chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất
cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách
mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau
khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần
ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là
mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go
về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm
và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết
thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm
Saigon thất thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám
tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)
Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu
BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có "khách hàng".
Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật
nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác
khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1.
Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt
nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy
ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện,
khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. "Ăng ten" cũng phải ăn Tết
chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc "phiêu lưu" của ông
và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh
sát, đường Võ Tánh. Ông kể:
"Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ
chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết
vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo
việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp
thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân,
chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi
trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như
trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn
chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách
nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng
thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi
loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy
chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một
số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc
gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là
Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi
xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng
cũng nhận tập viết của tôi."
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: "Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh
tới Nguyễn Hữu Thọ không? - Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao.
Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không
biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ
và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội
thừa biết điều đó hơn ai hết."
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong
buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng
thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết
Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành
lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi
Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông
thật tâm tác thành cho: "Có thật hay không, tiếng đồn có người đá
ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?" Bác Sĩ Quát mỉm
cười, trả lời, giọng bình thản: "Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần
Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời
phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà
nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng." Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả
lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết
thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.
Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài
hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi
nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ
đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để
rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và
tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác
Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng
nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện
của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu
của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ
nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát
tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn
tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ
Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ
im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu
kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính
quyền cũ.
Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái
đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng
một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên
Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn
hiệu "tên phản bội, tên lừa bịp", ông vẫn giữ được cách lịch sự bao
dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với
ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: "Thôi! Bỏ
đi!" để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết
vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu
thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái
đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã "được" Việt cộng bỏ tù vì bố
mẹ và đang thiếu sữa.
Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm
lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là
những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa,
đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông,
buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng
được đầu gió.
Vì ông đã cứng.
***
Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác
Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất,
do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất
đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo
dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm
Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt
Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái
độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo
rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà
một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà
Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền
của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt
ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải
cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học
và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản
và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp
ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng
dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm
lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến
hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và
mệnh danh một cách rất xứng đáng là "Kế hoạch giáo dục Phan Huy
Quát." Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ
nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa
của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân
tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong
sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
***
Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí
Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ
hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi
thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm
đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng
với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất
của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người.
Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ
Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn
có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải
chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra
mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon:
cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra
nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ
luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây "Anh hùng nhất
mực" và "ra ngõ là gặp anh hùng" lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho
chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết "thần giao
cách cảm" với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị
hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng,
quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu
Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là "nhồi máu
cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng".
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
***
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
"Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây..."
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú
Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính
Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã
bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong
Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa
Thịnh Ðốn.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Nguyễn Tú
Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ
Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng
Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng
Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng,
phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972.
Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên
đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù
Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng
là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng
và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại "như một nén hương
chiêu niệm chung."
Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song
Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không
được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố,
cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi,
chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27
Tháng Tư 1979.
Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và
phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh
phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên
Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế - nếu biết đến
cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam - có thể ngó tới
tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất
ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái
chết trong tù của ông - bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí
thức văn nghệ sĩ khác - của nhà cầm quyền Hà Nội.
Chí Hòa, Sài Gòn - Một ngày cuối Tháng Tư 1979
Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm,
giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày
rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội
quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh
phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không "vui
vẻ, hồ hởi, phấn khởi" dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy
định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.
Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ
gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong
buồng. Tôi có mục đích riêng.
Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người
đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên
cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ
dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang
oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân
mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước
mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!
Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một
cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song
sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba
thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán
bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù
tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một
cảm giác thoáng khí hơn.
Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa
đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân
tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được
chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ
miều là "trại viên" Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng,
hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt
nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc
men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu
trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy,
thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc
chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần,
chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là
chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã
trên 70 tuổi.
Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn
không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng
gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát
bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ
ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông
bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng
tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo
trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất
nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần -
một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận
nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư
thế - mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như
toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh
giữa thân phận con người và hoàn cảnh.
Tôi khẽ lên tiếng: "Anh Quát! Anh Quát!"
Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân,
hơi cao giọng: "Anh Quát! Anh Quát!" Vẫn không một phản ứng, tôi đưa
ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối
nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn
mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích
thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng "phản động"
nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng,
3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự "đầu chai
đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy." Một buồng "ngụy nặng"
nên được Việt Cộng tận tình "chiếu cố" trong sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên "ăng ten" tức chỉ điểm được
cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất
chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao
giọng thêm: "Anh Quát! Anh Quát!"
Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ
tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ:
"Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?" Lần này đôi mi bệnh nhân
hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt
vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ
Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: "Anh Tú!" Tôi hơi
yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: "Anh mệt lắm phải
không?" Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào
xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: "Anh có
nhắn gì về gia đình không?" Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm.
Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục
anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn
một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: "Ai
đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi!
Nói đi!" Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.
Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở
khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ
một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: "Thôi! Anh Tú ạ."
Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang.
Tôi chưa chịu buông: "Nói đi! Anh Quát! Nói đi!" Một hơi thở một
chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! "Thôi! Thôi! Bỏ đi!"
Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi
vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên
trán.
Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt.
Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc
được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá
nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa
thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu
tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây
giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu.
Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: "Anh
Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?"
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu
chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía
Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ
vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái
gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý
chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn
muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa - trước cảnh huống bên
ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không
phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và
gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.
Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng
trưởng: "Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá
chứ!" Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy
còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì "xấu máu." Anh em bèn dán
cho cái nhãn hiệu "Phương đầu bạc." Phương lặng thinh, coi bộ ngần
ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương
đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ
chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: "Anh Châm! Nói cho Phương biết
bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!" Ông Châm bèn bảo: "Anh Phương! Báo
cáo cán bộ ngay đi!" Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong
phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: "Báo cáo đi!
Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ
người ta chết à?" Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.
Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần,
Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu
thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh
chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi
vọng: "Ðâu?" Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ
Quát: "Ðây, cán bộ!" Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng
lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng
chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết
sinh tử của trại.
Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn
tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và
một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi
người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.
Phương "đầu bạc" dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh
nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh
trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó
Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ
Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ,
đũa, muỗng, chén... Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt
nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! "Lấy cơm!"
Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc
đó khoảng 10 giờ rưỡi.
Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: "Bác
Sĩ Quát chết rồi!" Cả phòng nhao nhao: "Hồi nào? Hồi nào? Chết mau
quá vậy?" Một anh đáp: "Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải."
Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền
khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong
phòng thốt một câu: "Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá,
không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!" Một điếu văn ngắn, gọn,
hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên
án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng
đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu
dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: "Nhớ
làm bản kê khai, nghe không!" Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận
chính thức cái chết của bất cứ "trại viên" nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông
xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã
xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng
lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế
tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác
biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ
Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn
nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang
nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của
nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ "nghi vấn." Nhiều
người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà
được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể
Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là "rất căng."
Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì
về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi
đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô
cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu
cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy
một năm sau "đại thắng Mùa Xuân" của Việt Cộng đã làm chúng thất
điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh
Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và
thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới
1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở
miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó
Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có
bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác "ăng ten,"
tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.
Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt.
Việt Cộng "dư" lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân
hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con
trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng
Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát
bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần
một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có
muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao
giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt
quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà
với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ
luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời,
riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân
nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà
còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau
chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn
bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh
nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới
phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó
tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song
sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ
Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc
cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép
đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho
Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường
trị bệnh gan. Lần "nhìn thăm" thầm lặng được phép công khai đó dài
không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức
nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ
của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép
ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp
trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được
trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ
có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác
Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã
trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi
Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ
đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu "thật tâm
cải tạo tốt." Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên
quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh
đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian
được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất "siêu" về thủ đoạn dọa
nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt.
Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với
Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe
dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979,
Huy Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà
Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp,
rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất
cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia
đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời
ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau
mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt
của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi
cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert
của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia
Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với
tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm
vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình
hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ.
Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho
Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở
vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh
ngày 20 Tháng Bảy 1954.
Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng.
Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo
Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc
Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu
Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không
tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm
việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm
nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra
bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự
do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số
tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm
theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô
Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng
Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn
Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64.
Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này
tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa
Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập
nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao
quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết
giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều
khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt
động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á
Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày
Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.
Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt
hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một
hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã
quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối "chính quy," trong
"đường lối chính quy." Và con người thận trọng trong ông đã lao vào
một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên
cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất
ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của
riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác,
một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí
mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa
được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những
điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ
hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông
từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước
hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn
thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con
người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết
định dễ dàng.
Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát
không đáp "lời mời" ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên
đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả "ngụy
quân, ngụy quyền". Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ
hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư
thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời "du mục" trong Saigon,
quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay
phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn
tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn
"trụ" hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm
khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên
cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn
của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối
hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh
đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ
chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào
tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn?
Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối
âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống "tự
nhiên cái đã". Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam
bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì
tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm
dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ
nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.
Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường
xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn
đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên.
Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi
cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát
không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không
muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14
người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng
kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu,
rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên.
Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.
Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư
1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ
của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc
trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát
chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía
Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã
liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời
không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14
người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý
muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị
lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ,
chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái
toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ
trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ
Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn
không có Bác Sĩ Quát và gia đình.
Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong
vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn.
Ðồng thời ông cũng không muốn làm "kẻ bỏ chạy" vì ông cũng rất nặng
tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở
lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình,
Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình
và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể
chọn một. Và ông đã chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do
một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một
người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan
trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác
Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia
đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên.
Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi
gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận.
Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được
dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi
tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã
bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà
Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều
kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt
Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam
để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu
đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn
một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và
khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng
người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười
năm sau mới được thả.
Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên
Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau,
theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon.
Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có
một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã
quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi
tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa.
Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh,
Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách
chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất
cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách
mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau
khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần
ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là
mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go
về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm
và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết
thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm
Saigon thất thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám
tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)
Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu
BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có "khách hàng".
Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật
nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác
khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1.
Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt
nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy
ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện,
khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. "Ăng ten" cũng phải ăn Tết
chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc "phiêu lưu" của ông
và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh
sát, đường Võ Tánh. Ông kể:
"Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ
chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết
vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo
việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp
thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân,
chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi
trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như
trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn
chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách
nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng
thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi
loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy
chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một
số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc
gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là
Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi
xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng
cũng nhận tập viết của tôi."
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: "Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh
tới Nguyễn Hữu Thọ không? - Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao.
Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không
biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ
và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội
thừa biết điều đó hơn ai hết."
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong
buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng
thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết
Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành
lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi
Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông
thật tâm tác thành cho: "Có thật hay không, tiếng đồn có người đá
ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?" Bác Sĩ Quát mỉm
cười, trả lời, giọng bình thản: "Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần
Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời
phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà
nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng." Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả
lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết
thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.
Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài
hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi
nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ
đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để
rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và
tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác
Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng
nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện
của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu
của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ
nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát
tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn
tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ
Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ
im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu
kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính
quyền cũ.
Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái
đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng
một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên
Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn
hiệu "tên phản bội, tên lừa bịp", ông vẫn giữ được cách lịch sự bao
dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với
ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: "Thôi! Bỏ
đi!" để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết
vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu
thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái
đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã "được" Việt cộng bỏ tù vì bố
mẹ và đang thiếu sữa.
Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm
lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là
những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa,
đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông,
buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng
được đầu gió.
Vì ông đã cứng.
***
Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác
Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất,
do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất
đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo
dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm
Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt
Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái
độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo
rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà
một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà
Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền
của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt
ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải
cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học
và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản
và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp
ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng
dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm
lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến
hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và
mệnh danh một cách rất xứng đáng là "Kế hoạch giáo dục Phan Huy
Quát." Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ
nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa
của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân
tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong
sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
***
Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí
Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ
hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi
thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm
đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng
với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất
của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người.
Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ
Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn
có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải
chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra
mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon:
cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra
nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ
luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây "Anh hùng nhất
mực" và "ra ngõ là gặp anh hùng" lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho
chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết "thần giao
cách cảm" với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị
hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng,
quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu
Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là "nhồi máu
cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng".
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
***
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
"Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây..."
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú
Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính
Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã
bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong
Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa
Thịnh Ðốn.