Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Đồn Dak Seang
Đồn Dak Seang
Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị
"Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa
Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang"
"Đường ra trận mùa này đẹp lắm" Đại úy Ngọc thòng một câu đùa
trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ
Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó
là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi
đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.
Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát,
ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 3 số 5. Chiều
đại yến với la de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra
đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận,
tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền
biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng mình... rớt máy bay
chết rồi bèn đi cặp thằng khác thì hết một đời trai. Cứ tưởng tượng
cái cảnh Thủy cặp tay một thằng chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi
nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy ... hết muốn bay bổng. Đời phi
công sao khổ thế nầy, tôi than thở. Có lẽ thấy được những cái vẻ đau
khổ khó chịu trên khuôn mặt thằng Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.
Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở
huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ.
Tôi phản đối "ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao
giờ lớn được". Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì
anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì
mà huy hoàng,.
Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xát thân ở nơi
tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ... mất đào ở nhà.
Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.
Hậu sinh.... chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái
gía trị của những ngày biệt phái. Này nhé, ở nhà với vợ, có thằng
chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải "báo
cáo"đầy đủ.
Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có
nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. Thằng nào cũng
muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt phái,
nói một cách văn chương, đó là "những ngày nghỉ mát" vì thứ nhất
mình thoát khỏi vòng cương tỏa... bà tư lệnh , muốn làm gì thì làm,
gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen,
muốn khoe mình chưa vợ hay vợ... mới chết thì đó là quyền của mình.
Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay
thắc mắt lôi thôi. Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như
ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao
đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có
nhiều cái thú.
Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng
hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có "Action" phải có
đánh bomb, có ăn pháo kích v..v.
Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu
biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì
ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm
ý, nên kết luận.
- Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế
hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi.
Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có
tính chất...văn học chút nào hết.
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề
Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men
rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi,
làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
- Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.
Anh Ngọc dễ dãi:
- Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này
có nhiều chuyện lắm.
Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành....
Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ
Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kon-tum như một trại lính khổng lồ,
đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính
bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt
Kích.....,ai nấy võ khí trang bị tới răng trông phát khiếp. Lâu lâu,
phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài
tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh
xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới
đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én
không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm
mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.
Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều
cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.
Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ
bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500
thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang
ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im.
Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát
làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường:
- " Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C...gì mà bắn độc thế? Sao không về
nhà mà bắn... bà xã cho được việc", một giọng càu nhàu cất lên.
Lại có giọng khác hăm dọa " ngày mai tao phải "phản đấu" mới được.
Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người
dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy "phản đấu" ai một lần thì
ông ăn cơm mới ngon.
Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt
thì lại "ầm" một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi
ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được
nữa, chửi thề um sùm "Đ.." mọa nó, bén chi mà bén miết..".
Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi... Tôi không hiểu các anh
em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày
biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.
Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh
em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác
biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời
là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là
một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy
tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em
vừa ăn, ỡ ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình
thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ
chết. Mãnh lực nào, sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình
ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người lính bộ
binh để "chết thay dùm dân tộc" để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm
nguy, Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ
mua bao gạo. Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu
ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bỡi vài cái bích chương kêu
gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của
Hùng Cường , Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu
nước. Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững
người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ "Yêu" yêu
Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần
tính toán, không đo lường gía cả.
Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất
ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất
thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi
leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế
là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.
Có thằng... Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành
quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà
người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi
dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại
nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc
không ngủ được, tôi thắc mắc:
- Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?
Nó đáp tỉnh queo :
- Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.
Tôi suýt bật cười. Đúng là thằng lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ
nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một
câu :
- Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ
tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ
trống để nghe VC pháo kích.
Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, thằng On
chửi thề:
- Đ.. M.. thằng mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có
ngu.
Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người quả
thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy... sơ
sơ thôi chứ không còn "nồng nàn da diết" như những ngày mới đến đây
nữa.
Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê
đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng
tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi
xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi
bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi... lì
đến tới tối.
Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể gì kiếm được một cành hoa. Tôi
để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với
ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được
mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này
nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái
điều như là... màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào
quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá
nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị
nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó... chưa sờ đít ai bao giờ.
Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không
để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất
định dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối
cái mục này. Tôi biết thằng khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê
cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương
hết. Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một cau "everybody
loves the lover". Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật. Tôi
ước giá phi đoàn có chừng chục thằng như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ
tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy
xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười
khỉnh " Vừa phải thôi... tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày".
Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB
không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn " giặc cỏ"
đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ
ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết
ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc
đi " duy trì khả năng" bắn rocket. "duy trì khả năng" là một danh từ
không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá
không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm
chỗ nào nên phải bay "duy trì khả năng" cho khỏi quên.
Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như 'Dăng gô" bắn súng.
Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng
chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, Tôi cắt ga cho tàu rơi
cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn
thì dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. "G" đâu mà lắm thế ,
mặt mũi cứ dài ra cả thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào
cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh còn nhìn "tác phẩm" của tôi phê bình
"Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là
con nhà vô phúc".
Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai
vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc
:
- Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng
nào đó "duy trì khả năng" rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.
Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:
- Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần
chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.
Có cái gì thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
- Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm
nay yên lặng một cách quá đáng không?
Tôi chả biết gì, trả lời:
- Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?
- Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
- Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn
Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo
một vòng.
- Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
- Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy
và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân
xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho
thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với
đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm
cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào
chúng tôi
nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài
tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: " 15 ngày biệt phái không sao, ngày
cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xui quảy.." vô không nổi,
tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:
- Trên trời mà phòng không "kèm cứng một rừng" như vậy là dưới đất
nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất
tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái
gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư
Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc
liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng
khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây
"broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên
trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì
phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi
thề:
- "Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao
la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây."
Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị
hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên "súng
đâu mà chúng nó lắm thế" Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây...VC này.
Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một
cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện
cứ tà tà nã từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng
những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác
rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo "phụ diễn".
Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát
cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc
gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được
tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
- Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới... Têt cũng huề.
- Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó
cũng được.
- Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ
- Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn....
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:
- Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
- Nghe 5 bạn
- Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái
rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông
một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào. Anh Ngọc
bổng nẩy ra một kế...chết người.
- Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì
hết. Mình phải "chiến tranh chính trị" mới được.
- Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi...chiến
tranh chính trị anh?
Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
- Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là...có là
không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như
có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như
phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.
- Xong rồi.
Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh
này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu
rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung
quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
- Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà
né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người
đó còn ai khác hơn tôi.
Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:
- Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo
nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi.
Nhưng anh nói ngay:
- Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em.
Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm
đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì
phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay
dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh
cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa
rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại
úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được
mấy tiếng "everywhere". Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền.
Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn.
Như vậy con cháu họ Hồ đang "tùng thiết" đi vô chăng? Dĩ nhiên phòng
không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận
thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5
phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính
trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây
pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:
- Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó...bỏ bomb thấy mẹ
mày.
Tức quá mà không làm gì được thì...chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có
4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo
sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm
việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
- Thạnh Trị, đây Bạch Ưng
- Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó
bạn.
- Có sao không bạn?
- Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh
giặc còn "tới" lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác
nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.
- Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
- Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
- Tôi hiểu bạn.
Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo
anh Ngọc.
- Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra....
- Ờ, may ra....
Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái
Rocket nổ...gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi,
nhưng có chết thằng chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im
tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi
nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên.
Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên
tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà
nó...đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin,
của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi
tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
- Thạnh Trị, đây Bạch ưng
- Nghe bạn 5.
- Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?
- Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
- OK! Roll
Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển
lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng
dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những
viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần
đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo
phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây...phản quốc, khốn nạn vẫn
chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống,
bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm
rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 "để"
vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang
lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội.
Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì
tôi nghe tiếng gọi:
- Bạch ưng, đây Thạnh Trị
- Nghe 5 bạn
- Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với
mấy đứa con.
- Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.
- Bạn...
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "ra giao thông hào với mấy
đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp
cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp
là tụi nó sẽ "over run" Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái thì cha con nó mới
chịu chạy dùm.
Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai
bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi.
Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông
báo có một
phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm
vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
- Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó
đang "à lát xô" lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn
mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung
quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
- Còn phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những
tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung
phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ
và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân
"TTHQ" thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo
tôi:
- Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm
Dakseang đó. Phải cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gã trên trời
và dưới đất nghe loạn cào cào.. Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có
tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận
răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng
chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông
"Roger" và "Sir" lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam
đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn,
mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác.
Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc
F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.
Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe...lộn.
Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất
xác nhận lại:
- Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?
- Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết
chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỹ chưa?
- Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:
- Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may
mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà bạn...
Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang "Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ
thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một
lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không
còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn
quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải... cẩn thận.
- "Cẩn thận con C... ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy
thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công
hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối
không kém:
- Roger! Sir, Did you say...right on it? Over
- Yes sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.
- Roger, sir, I understood, sir, Over.
Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt
bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh
mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc
này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả
những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng
bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn
bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp
của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai
sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương,
những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi
xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất.
Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người
vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh
đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa " Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn
trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí
Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc...
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên
đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu
bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của
người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? Hình ảnh nào có thể
thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời
còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc
tôi đã
làm gì nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học trò
bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương.
Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi
tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy
gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan
khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng
lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp
nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc
thương.
Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên
tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp
đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu
tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan
dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt,
trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng
quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh
Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
- Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to
tell you this: Those people down there have fought like men and have
gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means,
sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our
country.
- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút
giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân
tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện.
Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là
một ngôi nhà thờ "Y pha nho" mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã
tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến
giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát.
Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả
thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành
Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm
chinh chiến.
Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn
giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu
tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số
cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho
Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió
thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó,
tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương
khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia.
Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt.
Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi
cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi".
Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.
Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi.
Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như
bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính...âm thầm
nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri,
không có những huyền thoại khủng khiệp, không "truyền thống, binh
chủng" không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa
Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tỉnh xin "cho nó nổ trên
đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi". Xin vĩnh biệt và
cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng
sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được
những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa
thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những
mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong
nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những
người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả....
Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng
tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé :
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
Tuy tên họ không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và linh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.
Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các
anh.
Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh". Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc
Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.
Trường Sơn LÊ XUÂN NHỊ
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Đồn Dak Seang
Đồn Dak Seang
Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị
"Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa
Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang"
"Đường ra trận mùa này đẹp lắm" Đại úy Ngọc thòng một câu đùa
trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ
Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó
là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi
đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.
Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát,
ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 3 số 5. Chiều
đại yến với la de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra
đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận,
tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền
biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng mình... rớt máy bay
chết rồi bèn đi cặp thằng khác thì hết một đời trai. Cứ tưởng tượng
cái cảnh Thủy cặp tay một thằng chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi
nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy ... hết muốn bay bổng. Đời phi
công sao khổ thế nầy, tôi than thở. Có lẽ thấy được những cái vẻ đau
khổ khó chịu trên khuôn mặt thằng Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.
Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở
huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ.
Tôi phản đối "ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao
giờ lớn được". Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì
anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì
mà huy hoàng,.
Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xát thân ở nơi
tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ... mất đào ở nhà.
Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.
Hậu sinh.... chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái
gía trị của những ngày biệt phái. Này nhé, ở nhà với vợ, có thằng
chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải "báo
cáo"đầy đủ.
Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có
nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. Thằng nào cũng
muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt phái,
nói một cách văn chương, đó là "những ngày nghỉ mát" vì thứ nhất
mình thoát khỏi vòng cương tỏa... bà tư lệnh , muốn làm gì thì làm,
gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen,
muốn khoe mình chưa vợ hay vợ... mới chết thì đó là quyền của mình.
Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay
thắc mắt lôi thôi. Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như
ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao
đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có
nhiều cái thú.
Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng
hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có "Action" phải có
đánh bomb, có ăn pháo kích v..v.
Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu
biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì
ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm
ý, nên kết luận.
- Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế
hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi.
Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có
tính chất...văn học chút nào hết.
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề
Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men
rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi,
làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
- Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.
Anh Ngọc dễ dãi:
- Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này
có nhiều chuyện lắm.
Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành....
Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ
Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kon-tum như một trại lính khổng lồ,
đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính
bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt
Kích.....,ai nấy võ khí trang bị tới răng trông phát khiếp. Lâu lâu,
phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài
tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh
xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới
đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én
không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm
mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.
Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều
cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.
Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ
bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500
thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang
ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im.
Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát
làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường:
- " Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C...gì mà bắn độc thế? Sao không về
nhà mà bắn... bà xã cho được việc", một giọng càu nhàu cất lên.
Lại có giọng khác hăm dọa " ngày mai tao phải "phản đấu" mới được.
Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người
dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy "phản đấu" ai một lần thì
ông ăn cơm mới ngon.
Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt
thì lại "ầm" một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi
ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được
nữa, chửi thề um sùm "Đ.." mọa nó, bén chi mà bén miết..".
Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi... Tôi không hiểu các anh
em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày
biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.
Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh
em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác
biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời
là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là
một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy
tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em
vừa ăn, ỡ ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình
thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ
chết. Mãnh lực nào, sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình
ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người lính bộ
binh để "chết thay dùm dân tộc" để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm
nguy, Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ
mua bao gạo. Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu
ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bỡi vài cái bích chương kêu
gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của
Hùng Cường , Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu
nước. Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững
người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ "Yêu" yêu
Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần
tính toán, không đo lường gía cả.
Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất
ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất
thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi
leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế
là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.
Có thằng... Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành
quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà
người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi
dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại
nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc
không ngủ được, tôi thắc mắc:
- Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?
Nó đáp tỉnh queo :
- Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.
Tôi suýt bật cười. Đúng là thằng lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ
nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một
câu :
- Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ
tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ
trống để nghe VC pháo kích.
Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, thằng On
chửi thề:
- Đ.. M.. thằng mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có
ngu.
Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người quả
thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy... sơ
sơ thôi chứ không còn "nồng nàn da diết" như những ngày mới đến đây
nữa.
Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê
đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng
tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi
xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi
bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi... lì
đến tới tối.
Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể gì kiếm được một cành hoa. Tôi
để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với
ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được
mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này
nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái
điều như là... màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào
quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá
nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị
nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó... chưa sờ đít ai bao giờ.
Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không
để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất
định dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối
cái mục này. Tôi biết thằng khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê
cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương
hết. Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một cau "everybody
loves the lover". Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật. Tôi
ước giá phi đoàn có chừng chục thằng như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ
tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy
xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười
khỉnh " Vừa phải thôi... tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày".
Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB
không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn " giặc cỏ"
đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ
ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết
ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc
đi " duy trì khả năng" bắn rocket. "duy trì khả năng" là một danh từ
không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá
không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm
chỗ nào nên phải bay "duy trì khả năng" cho khỏi quên.
Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như 'Dăng gô" bắn súng.
Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng
chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, Tôi cắt ga cho tàu rơi
cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn
thì dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. "G" đâu mà lắm thế ,
mặt mũi cứ dài ra cả thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào
cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh còn nhìn "tác phẩm" của tôi phê bình
"Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là
con nhà vô phúc".
Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai
vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc
:
- Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng
nào đó "duy trì khả năng" rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.
Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:
- Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần
chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.
Có cái gì thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
- Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm
nay yên lặng một cách quá đáng không?
Tôi chả biết gì, trả lời:
- Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?
- Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
- Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn
Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo
một vòng.
- Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
- Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy
và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân
xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho
thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với
đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm
cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào
chúng tôi
nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài
tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: " 15 ngày biệt phái không sao, ngày
cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xui quảy.." vô không nổi,
tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:
- Trên trời mà phòng không "kèm cứng một rừng" như vậy là dưới đất
nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất
tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái
gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư
Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc
liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng
khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây
"broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên
trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì
phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi
thề:
- "Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao
la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây."
Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị
hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên "súng
đâu mà chúng nó lắm thế" Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây...VC này.
Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một
cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện
cứ tà tà nã từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng
những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác
rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo "phụ diễn".
Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát
cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc
gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được
tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
- Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới... Têt cũng huề.
- Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó
cũng được.
- Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ
- Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn....
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:
- Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
- Nghe 5 bạn
- Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái
rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông
một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào. Anh Ngọc
bổng nẩy ra một kế...chết người.
- Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì
hết. Mình phải "chiến tranh chính trị" mới được.
- Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi...chiến
tranh chính trị anh?
Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
- Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là...có là
không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như
có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như
phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.
- Xong rồi.
Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh
này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu
rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung
quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
- Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà
né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người
đó còn ai khác hơn tôi.
Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:
- Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo
nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi.
Nhưng anh nói ngay:
- Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em.
Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm
đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì
phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay
dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh
cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa
rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại
úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được
mấy tiếng "everywhere". Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền.
Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn.
Như vậy con cháu họ Hồ đang "tùng thiết" đi vô chăng? Dĩ nhiên phòng
không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận
thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5
phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính
trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây
pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:
- Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó...bỏ bomb thấy mẹ
mày.
Tức quá mà không làm gì được thì...chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có
4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo
sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm
việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
- Thạnh Trị, đây Bạch Ưng
- Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó
bạn.
- Có sao không bạn?
- Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh
giặc còn "tới" lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác
nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.
- Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
- Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
- Tôi hiểu bạn.
Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo
anh Ngọc.
- Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra....
- Ờ, may ra....
Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái
Rocket nổ...gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi,
nhưng có chết thằng chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im
tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi
nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên.
Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên
tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà
nó...đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin,
của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi
tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
- Thạnh Trị, đây Bạch ưng
- Nghe bạn 5.
- Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?
- Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
- OK! Roll
Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển
lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng
dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những
viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần
đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo
phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây...phản quốc, khốn nạn vẫn
chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống,
bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm
rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 "để"
vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang
lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội.
Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì
tôi nghe tiếng gọi:
- Bạch ưng, đây Thạnh Trị
- Nghe 5 bạn
- Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với
mấy đứa con.
- Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.
- Bạn...
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "ra giao thông hào với mấy
đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp
cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp
là tụi nó sẽ "over run" Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái thì cha con nó mới
chịu chạy dùm.
Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai
bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi.
Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông
báo có một
phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm
vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
- Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó
đang "à lát xô" lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn
mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung
quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
- Còn phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những
tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung
phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ
và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân
"TTHQ" thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo
tôi:
- Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm
Dakseang đó. Phải cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gã trên trời
và dưới đất nghe loạn cào cào.. Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có
tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận
răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng
chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông
"Roger" và "Sir" lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam
đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn,
mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác.
Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc
F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.
Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe...lộn.
Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất
xác nhận lại:
- Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?
- Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết
chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỹ chưa?
- Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:
- Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may
mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà bạn...
Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang "Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ
thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một
lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không
còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn
quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải... cẩn thận.
- "Cẩn thận con C... ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy
thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công
hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối
không kém:
- Roger! Sir, Did you say...right on it? Over
- Yes sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.
- Roger, sir, I understood, sir, Over.
Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt
bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh
mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc
này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả
những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng
bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn
bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp
của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai
sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương,
những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi
xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất.
Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người
vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh
đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa " Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn
trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí
Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc...
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên
đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu
bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của
người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? Hình ảnh nào có thể
thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời
còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc
tôi đã
làm gì nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học trò
bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương.
Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi
tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy
gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan
khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng
lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp
nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc
thương.
Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên
tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp
đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu
tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan
dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt,
trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng
quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh
Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
- Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to
tell you this: Those people down there have fought like men and have
gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means,
sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our
country.
- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút
giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân
tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện.
Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là
một ngôi nhà thờ "Y pha nho" mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã
tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến
giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát.
Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả
thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành
Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm
chinh chiến.
Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn
giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu
tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số
cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho
Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió
thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó,
tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương
khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia.
Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt.
Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi
cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi".
Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.
Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi.
Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như
bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính...âm thầm
nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri,
không có những huyền thoại khủng khiệp, không "truyền thống, binh
chủng" không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa
Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tỉnh xin "cho nó nổ trên
đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi". Xin vĩnh biệt và
cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng
sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được
những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa
thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những
mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong
nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những
người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả....
Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng
tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé :
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
Tuy tên họ không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và linh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.
Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các
anh.
Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh". Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc
Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.
Trường Sơn LÊ XUÂN NHỊ
Sinh Tồn chuyển