Kinh Khổ
Giàn khoan Tàu: Vì sao đến? Vì sao đi? Sắp tới sẽ thế nào?
Để nhận định khá chuẩn về nguyên nhân nó đến và nó đi, có lẽ cần hàng năm, sau khi có những diễn biến khác nữa. Hiện bây giờ thì chính Tập Cận Bình có lẽ cũng không biết hết việc đến, việc đi của cái giàn khoan đó c
Nguyễn Trần Sâm
Nguyễn Trần Sâm
Chỉ mấy giờ sau khi cái giàn khoan
chết tiệt của Tàu Cộng rút đi “tránh bão”, đã xuất hiện bao nhiêu bài
viết nhận định về nguyên nhân của việc rút đi và những “kịch bản” cho
quan hệ Việt-Trung và biển Đông trong những năm tháng tới.
Để nhận định khá chuẩn về nguyên nhân nó đến và nó đi, có lẽ cần hàng
năm, sau khi có những diễn biến khác nữa. Hiện bây giờ thì chính Tập Cận
Bình có lẽ cũng không biết hết việc đến, việc đi của cái giàn khoan đó
có những hệ quả và hệ lụy gì. Thậm chí có nhiều khả năng là nhân vật này
cũng chưa nhận thức được hết mình muốn gì nữa! (Khi con người ở trong
cơn điên hoặc có quá nhiều lòng tham, việc hiểu chính mình hầu như là
bất khả.)
Tuy vậy, đối với chúng ta, việc bàn bạc để hiểu, hay ít ra là phỏng đoán, cũng cần thiết.
Để hiểu được những ý đồ của tập đoàn Trung Nam Hải, việc so sánh sự kiện
giàn khoan với cuộc chiến biên giới 1979 có lẽ sẽ soi sáng được khá
nhiều điều. Cũng một khoảng thời gian một vài tháng. Đến – gây hại và
làm om xòm – rồi rút.
Dù có rất nhiều mục đích khác nhau, song cả hai lần om xòm này đều có mục đích chung là làm một PHÉP THỬ.
Khi tiến hành chiến tranh biên giới 1979, Đặng Tiểu Bình muốn thực hiện những ý đồ sau:
1) “trừng phạt” (vì chiến dịch tuyên truyền và thái độ “bài Hoa” của Hà
Nội và vì việc đánh đàn em Pol Pot của Bắc Kinh) và “dạy cho VN một bài
học” (vì “vô ơn” và “ngông nghênh” – tuyên bố đã thắng Mỹ thì VN là vô
địch);
2) hai là lấy lòng cựu thù của VN là Hoa Kỳ để làm thân nhằm nhiều mục đích lâu dài khác nhau;
3) tập dượt quân đội trong việc tham chiến;
4) làm yếu VN và quân đội của nước này;
5) làm một phép thử. Bản thân phép thử này cũng là “đa diện”: (i) thử
hiệu lực của Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký kết vào tháng
11 năm 1978, trong đó có điều khoản về liên minh quân sự (nhưng chỉ ở
mức chung chung); (ii) thử uy thế quyền lực của bản thân Đặng và phát
hiện các đối thủ chính trị trong nội bộ đảng, khi ông ta mới lên cầm
quyền được hơn 2 năm ở một nước Trung Hoa có nhiều phe phái và hiểm họa
ngầm; (iii) khảo sát thực lực của đội quân mà ông ta thống lĩnh và tương
quan lực lượng giữa hai quân đội Trung và Việt.
Sau khi thử được một tháng, thấy Liên Xô không muốn động binh, chỉ đánh
võ mồm là chính, nhưng cũng thấy rằng nếu TQ làm mất mặt LX quá đáng thì
vẫn có thể xảy ra chiến tranh Trung-Xô (vì đã từng có tiền lệ), đồng
thời thấy tổn hại không nhỏ của việc duy trì cuộc chiến, trong khi một
vài mục đích đặt ra cũng đã thực hiện được, Tiểu (Nhân) Bình đã cho rút
quân. Nếu kéo dài quá lâu thì cái giá phải trả là quá lớn.
Lần này, với cái giàn khoan, như phát súng khai mào cho giai đoạn 1 của
quá trình áp đặt dần đường lưỡi bò, (Thiển) Cận Bình nhắm tới những mục
đích sau:
1) dò tìm những bãi cạn, nơi có thể xây thành đảo nhân tạo để đưa người
đến định cư hoặc biến thành căn cứ quân sự, từ đó tạo cơ sở để tính hải
phận;
2) gây ồn ào để dư luận VN và quốc tế bớt chú ý vào việc xây căn cứ trên đảo Gạc Ma;
3) khoan tìm dầu khí và khảo sát tài nguyên ở biển Đông;
4) ép giới cầm quyền VN loại bỏ hết những phần tử không thân Tàu ra khỏi
hệ thống quyền lực và đè bẹp ý đồ chống TQ của dân chúng (khi lấy cớ
giàn khoan để thể hiện thái độ);
5) tiến hành phép thử (cũng đa diện): (i) thử xem giới cầm quyền VN đã
thuần phục đến đâu để xác định lại mối quan hệ, và uy hiếp hòng buộc
phía VN quy phục hơn nữa; (ii) thử tiềm lực của hải quân VN; (iii) thử
khả năng “đâm va” và uy hiếp của các tàu giả dân sự; (iv) thử xem Mỹ và
các nước khác quan tâm đến biển Đông đến mức độ nào và phản ứng kiểu gì,
nhân đó xác định những bước đi đầu tiên trong quá trình hiện thực hóa
“giấc mơ Trung Hoa”; (v) khảo sát chi phí để duy trì giàn khoan ở những
nơi như vậy trên biển;…
Sau hơn 2 tháng cho giàn khoan cắm chốt và di chuyển ít nhiều, cho lực
lượng tàu hộ tống gây hấn, uy hiếp, và nhận thấy những điều đạt được
trong thời gian gần kề là chưa đáng kể, trong khi các nước ít nhiều đều
thể hiện sự cảnh giác với TQ, một điều có thể gây phương hại cho các mối
quan hệ làm ăn trong tương lai, đồng thời nhận thấy chi phí cho những
việc đã làm trong thời gian qua là quá cao, và nhân cơn bão Rammasun, TQ
tạm thời cho rút giàn khoan Haiyang Shiyou 981 về đảo Hải Nam.
Vậy việc đưa giàn khoan đến gần đảo Tri Tôn và cắm chốt 2 tháng quanh đó đã đạt những mục đích nào?
Trong 4 mục đích đầu, có lẽ chỉ có mục đích thứ 2 là thực hiện được ở
mức độ nào đó. Các nước đã tập trung chú ý vào cái giàn khoan mà rất ít
chú ý đến Gạc Ma (trừ Philippines chính thức yêu cầu “các bên” dừng mọi
hoạt động xây cất trên các đảo tranh chấp). Tuy nhiên, mục đích thứ 5,
mục đích THỬ, thì đã đạt được khá hoàn tất.
Về giai đoạn sắp tới, có lẽ TQ sẽ quay lại cách hành xử gần giống như
trước ngày 1 tháng 5 năm 2014, nhưng mức độ hung hăng có tăng lên. Trong
các cuộc gặp với các quan chức VN, họ sẽ tiếp tục khẳng định duy trì
“tình hữu nghị”, nhưng thái độ sẽ ra vẻ kẻ cả hơn. Họ sẽ đe VN không
được liên minh với Mỹ và các nước khác, nếu không, họ sẽ “cứng rắn” hơn
nữa. Họ sẽ tiếp tục hãm hại, uy hiếp và cản trở ngư dân ta hành nghề
trên biển. Họ sẽ lớn tiếng hơn nữa đòi Mỹ không can thiệp vào quan hệ
giữa các nước quanh biển Đông; đồng thời, trong các cuộc gặp với quan
chức Mỹ, họ sẽ “nói nhỏ” rằng hai nước có thể “chia” quyền kiểm soát
biển Đông (và các vùng khác của Thái Bình Dương). Họ sẽ im lặng biến Gạc
Ma và vài nơi khác thành căn cứ của họ trên biển.
Còn chính quyền VN vẫn sẽ tiếp tục cho báo chí và những người phát ngôn
phản đối những việc làm sai trái mới của TQ, còn bên trong thì vẫn tỏ
dấu cho thấy muốn duy trì hòa bình và hữu nghị. Ngư dân ta tiếp tục là
lá chắn trên biển. Các cuộc biểu tình không định hướng tiếp tục bị cấm
đoán. ODA và tín dụng TQ tiếp tục được rót nhỏ giọt vào VN để duy trì
tình hữu nghị. Các công ty TQ tiếp tục trúng thầu ở VN,… Hệ thống tuyên
giáo tiếp tục khẳng định sự lèo lái thiên tài của ban lãnh đạo trong
việc đưa dân tộc vượt qua những hiểm họa.
Về thái độ của Mỹ đối với TQ thì có thể nói Mỹ vẫn sẽ “đe” TQ không được
làm quá. Và TQ sẽ không làm quá lộ liễu trên biển Đông nữa, cũng để
giúp chính quyền Mỹ ít bị quốc hội chỉ trích là thiếu quyết đoán.
Tác giả gửi Quê Choa
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Vài Chuyện Buồn 30 Tháng 4" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Sinh Nhật Buồn" - by Khuất Đẩu / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Sự thật về “Nước mắm Việt Hương” của Tàu (?) - by Kỳ Đỗ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Mỹ và người Việt khác nhau ở chỗ này !" - by Nguyễn Đắc Phúc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Lịch sử và hoài nghi _ Trần Thế Kỷ
Giàn khoan Tàu: Vì sao đến? Vì sao đi? Sắp tới sẽ thế nào?
Để nhận định khá chuẩn về nguyên nhân nó đến và nó đi, có lẽ cần hàng năm, sau khi có những diễn biến khác nữa. Hiện bây giờ thì chính Tập Cận Bình có lẽ cũng không biết hết việc đến, việc đi của cái giàn khoan đó c
Nguyễn Trần Sâm
Chỉ mấy giờ sau khi cái giàn khoan
chết tiệt của Tàu Cộng rút đi “tránh bão”, đã xuất hiện bao nhiêu bài
viết nhận định về nguyên nhân của việc rút đi và những “kịch bản” cho
quan hệ Việt-Trung và biển Đông trong những năm tháng tới.
Để nhận định khá chuẩn về nguyên nhân nó đến và nó đi, có lẽ cần hàng
năm, sau khi có những diễn biến khác nữa. Hiện bây giờ thì chính Tập Cận
Bình có lẽ cũng không biết hết việc đến, việc đi của cái giàn khoan đó
có những hệ quả và hệ lụy gì. Thậm chí có nhiều khả năng là nhân vật này
cũng chưa nhận thức được hết mình muốn gì nữa! (Khi con người ở trong
cơn điên hoặc có quá nhiều lòng tham, việc hiểu chính mình hầu như là
bất khả.)
Tuy vậy, đối với chúng ta, việc bàn bạc để hiểu, hay ít ra là phỏng đoán, cũng cần thiết.
Để hiểu được những ý đồ của tập đoàn Trung Nam Hải, việc so sánh sự kiện
giàn khoan với cuộc chiến biên giới 1979 có lẽ sẽ soi sáng được khá
nhiều điều. Cũng một khoảng thời gian một vài tháng. Đến – gây hại và
làm om xòm – rồi rút.
Dù có rất nhiều mục đích khác nhau, song cả hai lần om xòm này đều có mục đích chung là làm một PHÉP THỬ.
Khi tiến hành chiến tranh biên giới 1979, Đặng Tiểu Bình muốn thực hiện những ý đồ sau:
1) “trừng phạt” (vì chiến dịch tuyên truyền và thái độ “bài Hoa” của Hà
Nội và vì việc đánh đàn em Pol Pot của Bắc Kinh) và “dạy cho VN một bài
học” (vì “vô ơn” và “ngông nghênh” – tuyên bố đã thắng Mỹ thì VN là vô
địch);
2) hai là lấy lòng cựu thù của VN là Hoa Kỳ để làm thân nhằm nhiều mục đích lâu dài khác nhau;
3) tập dượt quân đội trong việc tham chiến;
4) làm yếu VN và quân đội của nước này;
5) làm một phép thử. Bản thân phép thử này cũng là “đa diện”: (i) thử
hiệu lực của Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký kết vào tháng
11 năm 1978, trong đó có điều khoản về liên minh quân sự (nhưng chỉ ở
mức chung chung); (ii) thử uy thế quyền lực của bản thân Đặng và phát
hiện các đối thủ chính trị trong nội bộ đảng, khi ông ta mới lên cầm
quyền được hơn 2 năm ở một nước Trung Hoa có nhiều phe phái và hiểm họa
ngầm; (iii) khảo sát thực lực của đội quân mà ông ta thống lĩnh và tương
quan lực lượng giữa hai quân đội Trung và Việt.
Sau khi thử được một tháng, thấy Liên Xô không muốn động binh, chỉ đánh
võ mồm là chính, nhưng cũng thấy rằng nếu TQ làm mất mặt LX quá đáng thì
vẫn có thể xảy ra chiến tranh Trung-Xô (vì đã từng có tiền lệ), đồng
thời thấy tổn hại không nhỏ của việc duy trì cuộc chiến, trong khi một
vài mục đích đặt ra cũng đã thực hiện được, Tiểu (Nhân) Bình đã cho rút
quân. Nếu kéo dài quá lâu thì cái giá phải trả là quá lớn.
Lần này, với cái giàn khoan, như phát súng khai mào cho giai đoạn 1 của
quá trình áp đặt dần đường lưỡi bò, (Thiển) Cận Bình nhắm tới những mục
đích sau:
1) dò tìm những bãi cạn, nơi có thể xây thành đảo nhân tạo để đưa người
đến định cư hoặc biến thành căn cứ quân sự, từ đó tạo cơ sở để tính hải
phận;
2) gây ồn ào để dư luận VN và quốc tế bớt chú ý vào việc xây căn cứ trên đảo Gạc Ma;
3) khoan tìm dầu khí và khảo sát tài nguyên ở biển Đông;
4) ép giới cầm quyền VN loại bỏ hết những phần tử không thân Tàu ra khỏi
hệ thống quyền lực và đè bẹp ý đồ chống TQ của dân chúng (khi lấy cớ
giàn khoan để thể hiện thái độ);
5) tiến hành phép thử (cũng đa diện): (i) thử xem giới cầm quyền VN đã
thuần phục đến đâu để xác định lại mối quan hệ, và uy hiếp hòng buộc
phía VN quy phục hơn nữa; (ii) thử tiềm lực của hải quân VN; (iii) thử
khả năng “đâm va” và uy hiếp của các tàu giả dân sự; (iv) thử xem Mỹ và
các nước khác quan tâm đến biển Đông đến mức độ nào và phản ứng kiểu gì,
nhân đó xác định những bước đi đầu tiên trong quá trình hiện thực hóa
“giấc mơ Trung Hoa”; (v) khảo sát chi phí để duy trì giàn khoan ở những
nơi như vậy trên biển;…
Sau hơn 2 tháng cho giàn khoan cắm chốt và di chuyển ít nhiều, cho lực
lượng tàu hộ tống gây hấn, uy hiếp, và nhận thấy những điều đạt được
trong thời gian gần kề là chưa đáng kể, trong khi các nước ít nhiều đều
thể hiện sự cảnh giác với TQ, một điều có thể gây phương hại cho các mối
quan hệ làm ăn trong tương lai, đồng thời nhận thấy chi phí cho những
việc đã làm trong thời gian qua là quá cao, và nhân cơn bão Rammasun, TQ
tạm thời cho rút giàn khoan Haiyang Shiyou 981 về đảo Hải Nam.
Vậy việc đưa giàn khoan đến gần đảo Tri Tôn và cắm chốt 2 tháng quanh đó đã đạt những mục đích nào?
Trong 4 mục đích đầu, có lẽ chỉ có mục đích thứ 2 là thực hiện được ở
mức độ nào đó. Các nước đã tập trung chú ý vào cái giàn khoan mà rất ít
chú ý đến Gạc Ma (trừ Philippines chính thức yêu cầu “các bên” dừng mọi
hoạt động xây cất trên các đảo tranh chấp). Tuy nhiên, mục đích thứ 5,
mục đích THỬ, thì đã đạt được khá hoàn tất.
Về giai đoạn sắp tới, có lẽ TQ sẽ quay lại cách hành xử gần giống như
trước ngày 1 tháng 5 năm 2014, nhưng mức độ hung hăng có tăng lên. Trong
các cuộc gặp với các quan chức VN, họ sẽ tiếp tục khẳng định duy trì
“tình hữu nghị”, nhưng thái độ sẽ ra vẻ kẻ cả hơn. Họ sẽ đe VN không
được liên minh với Mỹ và các nước khác, nếu không, họ sẽ “cứng rắn” hơn
nữa. Họ sẽ tiếp tục hãm hại, uy hiếp và cản trở ngư dân ta hành nghề
trên biển. Họ sẽ lớn tiếng hơn nữa đòi Mỹ không can thiệp vào quan hệ
giữa các nước quanh biển Đông; đồng thời, trong các cuộc gặp với quan
chức Mỹ, họ sẽ “nói nhỏ” rằng hai nước có thể “chia” quyền kiểm soát
biển Đông (và các vùng khác của Thái Bình Dương). Họ sẽ im lặng biến Gạc
Ma và vài nơi khác thành căn cứ của họ trên biển.
Còn chính quyền VN vẫn sẽ tiếp tục cho báo chí và những người phát ngôn
phản đối những việc làm sai trái mới của TQ, còn bên trong thì vẫn tỏ
dấu cho thấy muốn duy trì hòa bình và hữu nghị. Ngư dân ta tiếp tục là
lá chắn trên biển. Các cuộc biểu tình không định hướng tiếp tục bị cấm
đoán. ODA và tín dụng TQ tiếp tục được rót nhỏ giọt vào VN để duy trì
tình hữu nghị. Các công ty TQ tiếp tục trúng thầu ở VN,… Hệ thống tuyên
giáo tiếp tục khẳng định sự lèo lái thiên tài của ban lãnh đạo trong
việc đưa dân tộc vượt qua những hiểm họa.
Về thái độ của Mỹ đối với TQ thì có thể nói Mỹ vẫn sẽ “đe” TQ không được
làm quá. Và TQ sẽ không làm quá lộ liễu trên biển Đông nữa, cũng để
giúp chính quyền Mỹ ít bị quốc hội chỉ trích là thiếu quyết đoán.
Tác giả gửi Quê Choa