Truyện Ngắn & Phóng Sự
HÀNH TRÌNH ĐẾN TỰ DO *
Tháng ngày bây giờ đã sang tháng Năm. Ngày 30 tháng Tư đã qua, nhưng không bao giờ bị quên lãng trong tâm tư của người Việt trong nước và các quốc gia trên thế giới.
Từ năm 1975, hàng năm tháng Tư đến và nhắc nhở đến Tháng Tư Đen!
Hơn 40 năm qua, cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn cộng sản khắp nơi trên thế giới mỗi năm đều đồng tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư; ngày được chọn để ghi dấu tang thương đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Trang sử tang thương của dân tộc, đầy ấp nước mắt và máu uất hận của đồng bào miền Bắc trốn chạy chế độ man rợ ấy, đã khởi từ năm 1954.
Theo The State of the World’s Refugees 2000: 50 Years of Humanitarian Action đã gi nhận về hành trình tìm đến Tự Do năm 1975 đầy bi thảm như sau: "Họ ra đi mà không biết mình đi đâu, sẽ đến đâu; đa số không biết gì về đại dương cùng những nguy hiểm của những chuyến hải hành cũng như không biết gì về những khó khăn khác đang chờ đợi họ. Ðó là lý do mà có lúc người ta đã nói: nếu có ba người vượt biên thì chỉ có một người đến bến an toàn, một người chết trên biển vì bảo tố, đói khát và hải tặc và một người sẽ bị bắt lại và đi tù”.
Lắm người vượt trốn sau khi miền Nam tự do đã bị cộng quân cưỡng chiếm năm 1975 đã ít nhất một lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mã ông bà, tổ tiên để di cư vào miền Nam tự do vào năm 1954. Có những người đã may mắn sống sót khi vượt qua Đại Lộ Máu hay Đại Lộ Kinh Hoàng, trong mưa pháo và loạt đạn căm hờn của quân cộng phỉ trực xạ vào đồng bào đang kinh hoàng trốn chạy. Họ là những người đã có kinh nghiệm thương đau, cương quyết không sống dưới gông cùm của cộng sản.
Nhạc sĩ Phạm Duy, tác giả của hùng ca “Việt Nam, Việt Nam”, đã dùng giòng nhạc ghi lại những mất mát của ông và cha mình trong hai đoạn đời bi thảm đen tối dưới chế độ cộng sản bạo tàn trong bài “1954-1975”:
"Một ngày bảy lăm, con bỏ nước ra đi
Hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ
Giờ cha lưu đày, ở ngay trên đất ta
Mà giờ con lưu đày, ở đây nơi xứ lạ
Một ngày năm bốn, cha lìa quê hương
Lánh Bắc vô Nam, cha muốn xa bạo cường
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỉ dữ xua con ra đại dương"
Hành trình tìm tự do bất chấp mạng sống của chính mình đã làm rúng
động lương tâm nhân loại, đồng thời vạch trần bản chất độc ác của
chế độ cộng sản Việt Nam trước công luận thế giới. Mỗi người vượt
trốn để tìm tự do là một lá phiếu bất tín nhiệm chống lại chế độ bất
nhân.
Ginetta Sagan, ký giả người Ý, nổi tiếng với các hoạt động tranh đấu cho Nhân Quyền, cho Amnesty International, Prisoner of conscience (POC) đã viết là "Dưới chính sách khắc nghiệt của cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên".
Nhận định tuy dí dõm của bà đã diễn tả một thực trạng rất bi thảm của dân dộc Việt Nam suốt hơn hai mươi năm, kể từ tháng Tư năm 1975 cho đến năm 1996.
Người dân miền Nam và cả miền Bắc đã liều mình vượt biên bằng đường bộ qua Cambodia để đến Thailand hay vượt đại dương để đến bất cứ quốc gia tự do nào. Họ chấp nhận cái chết trong rừng sâu hay biển rộng, miễn sao chính họ hay gia đình thoát khỏi địa ngục và loài quỉ dữ cộng sản ở Việt Nam.
Hành trình tìm đến tự do không chỉ an dung dừng lại ở bến bờ tự do, nơi các trại tỵ nạn!
Người dân tìm tự do lắm khi đã phải chọn cái chết, đã phải tự sát khi bị cưỡng bức trở về với cộng sản Việt Nam:
- Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó anh đã chết vì phỏng nặng.
- Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994.
- Ngày 12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không Vận của Nam Việt Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tỵ nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại vợ và ba đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.
- Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tỵ nạn chính trị.
- Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt Nam. Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã chết trong trại tù gọi là "cải tạo" của cộng sản. Gia đình cô bị bạo quyền trục xuất khỏi nhà mình để đưa tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân cô Cúc cũng bị đuổi khỏi trường vì “lý lịch gia đình xấu”. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tỵ nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thailand.
- Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã lao mình từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tỵ nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.
- Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tỵ nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt “thanh lọc” và đơn kháng cáo của Khôi sau đó cũng bị bác.
- Tháng 2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, 16 tuổi, không thân quyến ở trại, đã tự thiêu sau khi Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc rút lại quy chế tỵ nạn của em.
- Anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hongkong, ngày 16/2/1990. như sau: “Chị thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tỵ nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”
- Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao ủy tỵ nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.
- Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tỵ nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Malaysia. Anh để lại đôi hàng tuyệt mệnh: “Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.”
Thảm cảnh người dân ồ ạt trốn chạy đoàn quân tự xưng là "giải phóng" và can đảm chọn cái chết vì tự do hơn là phải sống trong chế độ man rợ, thật sự đã lột trần tất cả các mặt nạ xảo trá của đảng cộng sản Việt Nam. Đảng và nhà nước cộng sản vô cùng bối rối kinh hoảng trước dư luận thế giới. Phạm Văn Đồng, thời làm thủ tướng chính phủ của cái nhà nước gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã quá độ bực tức mà mất khôn ngoan, xấc xược lấp liếm tuyên bố với truyền thông thế giới rằng: “những người vượt biên, vượt biển là bọn chạy trốn tổ quốc, là bọn đĩ điếm, trộm cướp”
Đồng và đảng muốn nói gì thì cứ nói, nhưng rõ ràng là đảng và nhà nước cộng sản đã không thể dấu diếm che đậy được nỗi sợ hải tột cùng trước hành trình tìm đến Tự Do của dân chúng trong nước!
Họ quá sợ hải mà sinh ra điên cuồng đập phá bia tưởng niệm thuyền nhân ở trại tỵ nạn Galang và Bidong, cho dù lời ghi khắc trên mặt bia chỉ là:
"Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt Nam đã
thiệt mạng trên đường tìm tự do (1975-1996). Dù họ đã chết vì đói,
khát, bị hãm hiếp, bị kiệt sức hoặc vì một nguyên nhân nào khác,
chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được hưởng yên bình vĩnh cữu. Sự hy
sinh của họ không bao giờ bị quên lãng. Các cộng đồng người Việt hải
ngoại, 2005."
Thì ra, bọn cộng sản sợ hải những chữ "trên đường tìm tự do" khắc
trên bia tưởng niệm!
Và thật vậy, sự hy sinh của hàng trăm ngàn người Việt Nam thiệt mạng trên đường tìm tự do không bao giờ bị quên lãng!
Riêng ở Canada, hành trình tìm đến tự do của hơn tám trăm ngàn người Việt Nam đã được ghi nhận vào lịch sử với Đạo Luật S-219: "Journey To Freedom Day Act" bằng cả hai ngôn ngữ chính trong văn kiện quốc tế là Anh ngữ và Pháp ngữ:
(An Act respecting a national day of commemoration of the exodus of Vietnamese refugees and their acceptance in Canada after the fall of Saigon and the end of the Vietnam War. Throughout Canada, in each and every year, the thirtieth day of April shall be known as “Journey to Freedom Day”)
(Loi instituant une journée nationale de
commémoration de l’exode des réfugiés vietnamiens et de leur accueil
au Canada après la chute de Saïgon et la fin de la guerre du Vietnam
[Sanctionnée le 23 avril 2015].
Le 30 avril est, dans tout le Canada, désigné comme « Journée du
Parcours vers la liberté »)
Đạo luật S-219 của Canada đã ghi nhận ngày 30 tháng 4 hằng năm là một ngày lễ của Canada để tưởng niệm những nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam đã vượt biên ra đi tìm tự do.
Không thể dùng những thủ đoạn lưu manh côn dồ như đã từng đập phá bia tưởng niệm thuyền nhân ở Galang và Bidong, bạo quyền Việt Nam đành hằn học tuyên bố trong phương tiện truyền thông!
Báo Nhân Dân Điện Tử là tờ báo được đảng và nhà nước tự hào công nhận là "Cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt Nam - Tiếng nói của đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam". Số ngày thứ Hai, 04/05/2015, vào lúc 21:05:33 trong phần Bình luận - Phê phán có đăng bài mang tựa đề:
"Hành trình đến tự do", một đạo luật hoàn toàn sai trái.
Qua tác giả Hồng Quang, Cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt Nam đã lúng túng, lũng cũng nguỵ biện chối tội và hằn học tuyên bố rằng:
"Ngày 22-4, Quốc hội Canada thông qua Ðạo luật S-219 lấy ngày 30-4 hàng năm là ngày lễ quốc gia để nhớ việc di cư của người dân tị nạn Việt Nam và sự chọn lựa sinh sống và được sống tại Canada sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, chấm dứt chiến tranh Việt Nam"! Biện hộ cho sự lựa chọn, những người soạn thảo, thông qua Ðạo luật S-219 cố tình xuyên tạc lịch sử, vu cáo Việt Nam để tạo nên logic quái gỡ: vì "Chính phủ Việt Nam vi phạm Hiệp định Paris 1973" và "Mặt trận Giải phóng miền nam Việt Nam xâm lược miền nam" nên "chính quyền Sài Gòn" sụp đổ, đó là nguyên nhân dẫn đến vấn đề "thuyền nhân Việt Nam"!
Đạo Luật S-219 Journey To Freedom Day Act của nước Canada đã làm cho đảng cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam vô cùng phẫn nộ. “Người phát ngôn” Bộ Ngoại giao Việt Nam tên Lê Hải Bình còn gay gắt tiết lộ thêm rằng: “vào ngày 24/04/2015, Bộ Ngoại giao đã triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối và nêu rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này”
Không cay cú bực tức sao được!
S-219 "Journey To Freedom Day Act" là một đạo
luật cấp quốc gia, có tính cưỡng hành của luật pháp, chớ không phải
một quyết nghị (resolution) hay tuyên ngôn (proclamation) chí có giá
trị như là một khuyến nghị mà thôi. Và đây là một văn kiện pháp luật
cao nhứt, do một siêu cường như Canada lần đầu tiên thực hiện và
công bố. Bởi thế cho nên, đảng và nhà nước cộng sản phải chống đối
quyết liệt. Ngay khi luật này còn là dự luật, Thủ tướng của Việt Nam
cộng sản Nguyễn Tấn Dũng cũng đã viết văn thư trực tiếp cho Thủ
tướng Canada Stephen Harper để bày tỏ bất bình.
Sau hơn 40 năm rần rộ cờ xí ăn mừng "đại thắng mùa xuân 30-4", tội
bán nước hại dân đã bị phơi bày trước dân tộc Việt Nam và cộng đồng
các quốc gia tự do trên thế giới. Đảng và nhà nước cộng sản càng
ngày càng hốt hoảng trước hành trình tìm đến tự do của người dân
trong và ngoài nước. Kẻ tự xưng là "đại thắng" hôm nay ấm ớ lạc
giọng hô hò hoan nghênh "đại thắng" và bước nhảy nhót ăn mừng trở
thành chệnh choạng siêu vẹo vì tâm trí luôn luôn khủng hoảng. Họ sợ
lời hát chân tình "Anh Là Ai?" và "Việt Nam Tôi Đâu?" của anh Việt
Khang. Họ sợ cả bộ y phục mang màu cờ sắc áo Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà của tuổi trẻ bất khuất Nguyễn Viết Dũng,...
Khi bạo quyền cộng sản đã hoang mang khiếp sợ mỗi khi phải đối diện với người dân thì ngày tàn của đảng và chế độ sắp đến!
Hành trình đến Tự Do của dân tộc Việt Nam là tất yếu và bến bờ Tự Do của Việt Nam đã gần kề!Lão Mai
HÀNH TRÌNH ĐẾN TỰ DO *
Tháng ngày bây giờ đã sang tháng Năm. Ngày 30 tháng Tư đã qua, nhưng không bao giờ bị quên lãng trong tâm tư của người Việt trong nước và các quốc gia trên thế giới.
Từ năm 1975, hàng năm tháng Tư đến và nhắc nhở đến Tháng Tư Đen!
Hơn 40 năm qua, cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn cộng sản khắp nơi trên thế giới mỗi năm đều đồng tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư; ngày được chọn để ghi dấu tang thương đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Trang sử tang thương của dân tộc, đầy ấp nước mắt và máu uất hận của đồng bào miền Bắc trốn chạy chế độ man rợ ấy, đã khởi từ năm 1954.
Theo The State of the World’s Refugees 2000: 50 Years of Humanitarian Action đã gi nhận về hành trình tìm đến Tự Do năm 1975 đầy bi thảm như sau: "Họ ra đi mà không biết mình đi đâu, sẽ đến đâu; đa số không biết gì về đại dương cùng những nguy hiểm của những chuyến hải hành cũng như không biết gì về những khó khăn khác đang chờ đợi họ. Ðó là lý do mà có lúc người ta đã nói: nếu có ba người vượt biên thì chỉ có một người đến bến an toàn, một người chết trên biển vì bảo tố, đói khát và hải tặc và một người sẽ bị bắt lại và đi tù”.
Lắm người vượt trốn sau khi miền Nam tự do đã bị cộng quân cưỡng chiếm năm 1975 đã ít nhất một lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mã ông bà, tổ tiên để di cư vào miền Nam tự do vào năm 1954. Có những người đã may mắn sống sót khi vượt qua Đại Lộ Máu hay Đại Lộ Kinh Hoàng, trong mưa pháo và loạt đạn căm hờn của quân cộng phỉ trực xạ vào đồng bào đang kinh hoàng trốn chạy. Họ là những người đã có kinh nghiệm thương đau, cương quyết không sống dưới gông cùm của cộng sản.
Nhạc sĩ Phạm Duy, tác giả của hùng ca “Việt Nam, Việt Nam”, đã dùng giòng nhạc ghi lại những mất mát của ông và cha mình trong hai đoạn đời bi thảm đen tối dưới chế độ cộng sản bạo tàn trong bài “1954-1975”:
"Một ngày bảy lăm, con bỏ nước ra đi
Hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ
Giờ cha lưu đày, ở ngay trên đất ta
Mà giờ con lưu đày, ở đây nơi xứ lạ
Một ngày năm bốn, cha lìa quê hương
Lánh Bắc vô Nam, cha muốn xa bạo cường
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỉ dữ xua con ra đại dương"
Hành trình tìm tự do bất chấp mạng sống của chính mình đã làm rúng
động lương tâm nhân loại, đồng thời vạch trần bản chất độc ác của
chế độ cộng sản Việt Nam trước công luận thế giới. Mỗi người vượt
trốn để tìm tự do là một lá phiếu bất tín nhiệm chống lại chế độ bất
nhân.
Ginetta Sagan, ký giả người Ý, nổi tiếng với các hoạt động tranh đấu cho Nhân Quyền, cho Amnesty International, Prisoner of conscience (POC) đã viết là "Dưới chính sách khắc nghiệt của cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên".
Nhận định tuy dí dõm của bà đã diễn tả một thực trạng rất bi thảm của dân dộc Việt Nam suốt hơn hai mươi năm, kể từ tháng Tư năm 1975 cho đến năm 1996.
Người dân miền Nam và cả miền Bắc đã liều mình vượt biên bằng đường bộ qua Cambodia để đến Thailand hay vượt đại dương để đến bất cứ quốc gia tự do nào. Họ chấp nhận cái chết trong rừng sâu hay biển rộng, miễn sao chính họ hay gia đình thoát khỏi địa ngục và loài quỉ dữ cộng sản ở Việt Nam.
Hành trình tìm đến tự do không chỉ an dung dừng lại ở bến bờ tự do, nơi các trại tỵ nạn!
Người dân tìm tự do lắm khi đã phải chọn cái chết, đã phải tự sát khi bị cưỡng bức trở về với cộng sản Việt Nam:
- Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó anh đã chết vì phỏng nặng.
- Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994.
- Ngày 12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không Vận của Nam Việt Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tỵ nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại vợ và ba đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.
- Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tỵ nạn chính trị.
- Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt Nam. Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã chết trong trại tù gọi là "cải tạo" của cộng sản. Gia đình cô bị bạo quyền trục xuất khỏi nhà mình để đưa tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân cô Cúc cũng bị đuổi khỏi trường vì “lý lịch gia đình xấu”. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tỵ nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thailand.
- Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã lao mình từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tỵ nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.
- Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tỵ nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt “thanh lọc” và đơn kháng cáo của Khôi sau đó cũng bị bác.
- Tháng 2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, 16 tuổi, không thân quyến ở trại, đã tự thiêu sau khi Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc rút lại quy chế tỵ nạn của em.
- Anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hongkong, ngày 16/2/1990. như sau: “Chị thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tỵ nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”
- Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao ủy tỵ nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.
- Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tỵ nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Malaysia. Anh để lại đôi hàng tuyệt mệnh: “Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.”
Thảm cảnh người dân ồ ạt trốn chạy đoàn quân tự xưng là "giải phóng" và can đảm chọn cái chết vì tự do hơn là phải sống trong chế độ man rợ, thật sự đã lột trần tất cả các mặt nạ xảo trá của đảng cộng sản Việt Nam. Đảng và nhà nước cộng sản vô cùng bối rối kinh hoảng trước dư luận thế giới. Phạm Văn Đồng, thời làm thủ tướng chính phủ của cái nhà nước gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã quá độ bực tức mà mất khôn ngoan, xấc xược lấp liếm tuyên bố với truyền thông thế giới rằng: “những người vượt biên, vượt biển là bọn chạy trốn tổ quốc, là bọn đĩ điếm, trộm cướp”
Đồng và đảng muốn nói gì thì cứ nói, nhưng rõ ràng là đảng và nhà nước cộng sản đã không thể dấu diếm che đậy được nỗi sợ hải tột cùng trước hành trình tìm đến Tự Do của dân chúng trong nước!
Họ quá sợ hải mà sinh ra điên cuồng đập phá bia tưởng niệm thuyền nhân ở trại tỵ nạn Galang và Bidong, cho dù lời ghi khắc trên mặt bia chỉ là:
"Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt Nam đã
thiệt mạng trên đường tìm tự do (1975-1996). Dù họ đã chết vì đói,
khát, bị hãm hiếp, bị kiệt sức hoặc vì một nguyên nhân nào khác,
chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được hưởng yên bình vĩnh cữu. Sự hy
sinh của họ không bao giờ bị quên lãng. Các cộng đồng người Việt hải
ngoại, 2005."
Thì ra, bọn cộng sản sợ hải những chữ "trên đường tìm tự do" khắc
trên bia tưởng niệm!
Và thật vậy, sự hy sinh của hàng trăm ngàn người Việt Nam thiệt mạng trên đường tìm tự do không bao giờ bị quên lãng!
Riêng ở Canada, hành trình tìm đến tự do của hơn tám trăm ngàn người Việt Nam đã được ghi nhận vào lịch sử với Đạo Luật S-219: "Journey To Freedom Day Act" bằng cả hai ngôn ngữ chính trong văn kiện quốc tế là Anh ngữ và Pháp ngữ:
(An Act respecting a national day of commemoration of the exodus of Vietnamese refugees and their acceptance in Canada after the fall of Saigon and the end of the Vietnam War. Throughout Canada, in each and every year, the thirtieth day of April shall be known as “Journey to Freedom Day”)
(Loi instituant une journée nationale de
commémoration de l’exode des réfugiés vietnamiens et de leur accueil
au Canada après la chute de Saïgon et la fin de la guerre du Vietnam
[Sanctionnée le 23 avril 2015].
Le 30 avril est, dans tout le Canada, désigné comme « Journée du
Parcours vers la liberté »)
Đạo luật S-219 của Canada đã ghi nhận ngày 30 tháng 4 hằng năm là một ngày lễ của Canada để tưởng niệm những nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam đã vượt biên ra đi tìm tự do.
Không thể dùng những thủ đoạn lưu manh côn dồ như đã từng đập phá bia tưởng niệm thuyền nhân ở Galang và Bidong, bạo quyền Việt Nam đành hằn học tuyên bố trong phương tiện truyền thông!
Báo Nhân Dân Điện Tử là tờ báo được đảng và nhà nước tự hào công nhận là "Cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt Nam - Tiếng nói của đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam". Số ngày thứ Hai, 04/05/2015, vào lúc 21:05:33 trong phần Bình luận - Phê phán có đăng bài mang tựa đề:
"Hành trình đến tự do", một đạo luật hoàn toàn sai trái.
Qua tác giả Hồng Quang, Cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt Nam đã lúng túng, lũng cũng nguỵ biện chối tội và hằn học tuyên bố rằng:
"Ngày 22-4, Quốc hội Canada thông qua Ðạo luật S-219 lấy ngày 30-4 hàng năm là ngày lễ quốc gia để nhớ việc di cư của người dân tị nạn Việt Nam và sự chọn lựa sinh sống và được sống tại Canada sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, chấm dứt chiến tranh Việt Nam"! Biện hộ cho sự lựa chọn, những người soạn thảo, thông qua Ðạo luật S-219 cố tình xuyên tạc lịch sử, vu cáo Việt Nam để tạo nên logic quái gỡ: vì "Chính phủ Việt Nam vi phạm Hiệp định Paris 1973" và "Mặt trận Giải phóng miền nam Việt Nam xâm lược miền nam" nên "chính quyền Sài Gòn" sụp đổ, đó là nguyên nhân dẫn đến vấn đề "thuyền nhân Việt Nam"!
Đạo Luật S-219 Journey To Freedom Day Act của nước Canada đã làm cho đảng cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam vô cùng phẫn nộ. “Người phát ngôn” Bộ Ngoại giao Việt Nam tên Lê Hải Bình còn gay gắt tiết lộ thêm rằng: “vào ngày 24/04/2015, Bộ Ngoại giao đã triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối và nêu rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này”
Không cay cú bực tức sao được!
S-219 "Journey To Freedom Day Act" là một đạo
luật cấp quốc gia, có tính cưỡng hành của luật pháp, chớ không phải
một quyết nghị (resolution) hay tuyên ngôn (proclamation) chí có giá
trị như là một khuyến nghị mà thôi. Và đây là một văn kiện pháp luật
cao nhứt, do một siêu cường như Canada lần đầu tiên thực hiện và
công bố. Bởi thế cho nên, đảng và nhà nước cộng sản phải chống đối
quyết liệt. Ngay khi luật này còn là dự luật, Thủ tướng của Việt Nam
cộng sản Nguyễn Tấn Dũng cũng đã viết văn thư trực tiếp cho Thủ
tướng Canada Stephen Harper để bày tỏ bất bình.
Sau hơn 40 năm rần rộ cờ xí ăn mừng "đại thắng mùa xuân 30-4", tội
bán nước hại dân đã bị phơi bày trước dân tộc Việt Nam và cộng đồng
các quốc gia tự do trên thế giới. Đảng và nhà nước cộng sản càng
ngày càng hốt hoảng trước hành trình tìm đến tự do của người dân
trong và ngoài nước. Kẻ tự xưng là "đại thắng" hôm nay ấm ớ lạc
giọng hô hò hoan nghênh "đại thắng" và bước nhảy nhót ăn mừng trở
thành chệnh choạng siêu vẹo vì tâm trí luôn luôn khủng hoảng. Họ sợ
lời hát chân tình "Anh Là Ai?" và "Việt Nam Tôi Đâu?" của anh Việt
Khang. Họ sợ cả bộ y phục mang màu cờ sắc áo Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà của tuổi trẻ bất khuất Nguyễn Viết Dũng,...
Khi bạo quyền cộng sản đã hoang mang khiếp sợ mỗi khi phải đối diện với người dân thì ngày tàn của đảng và chế độ sắp đến!
Hành trình đến Tự Do của dân tộc Việt Nam là tất yếu và bến bờ Tự Do của Việt Nam đã gần kề!Lão Mai