Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Khái niệm ‘cánh tả’ và ‘cánh hữu’ bắt nguồn từ đâu?
Nguồn: “How did the political labels “left wing” and “right wing” originate?“, History, 06/10/2016
Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Ngày nay, các thuật ngữ “cánh tả” và “cánh hữu” được sử dụng như các từ tượng trưng cho những người tự do và bảo thủ, nhưng ban đầu chúng được đặt ra để chỉ việc sắp xếp chỗ ngồi thực tế của các chính trị gia trong cuộc Cách mạng Pháp. Việc phân chia được bắt đầu từ mùa hè năm 1789, khi các thành viên của Quốc hội Pháp gặp gỡ để bắt đầu soạn thảo hiến pháp. Các đại biểu đã chia rẽ sâu sắc về vấn đề Vua Louis XVI nên có bao nhiêu quyền lực, và khi cuộc tranh luận nổ ra, mỗi bên trong hai phe phái chính đã chọn ra “lãnh địa” của mình trong hội trường. Các nhà cách mạng chống bảo hoàng ngồi về phía bên trái của chủ toạ, trong khi những người thuộc dòng dõi quý tộc, bảo thủ hơn và thể hiện thái độ ủng hộ chế độ quân chủ lại tập trung về phía bên phải.
“Tôi đã cố gắng ngồi ở các vị trí khác nhau trong hội trường và không ngồi tại bất kì vị trí được đánh dấu nào, nhằm làm chủ quan điểm ban đầu của mình,” một vị nam tước cánh hữu viết, “nhưng tôi đã bị buộc phải hoàn toàn từ bỏ cánh tả, nếu không sẽ bị lên án vì luôn luôn phải lên bỏ phiếu một mình và do đó sẽ phải chịu những lời nhạo báng từ hội trường.”
Sự chia rẽ này được tiếp tục vào những năm 1790, khi báo chí bắt đầu nhắc đến những người “cánh tả” tiến bộ và những người “cánh hữu” bảo thủ của Quốc hội Pháp. Sự phân biệt này sau đó biến mất trong nhiều năm dưới thời trị vì của Napoleon Bonaparte, nhưng với sự kiện Bourbon Phục hoàng (Bourbon Restoration – khôi phục lại sự cai trị của nhà Bourbon) và sự bắt đầu một chế độ quân chủ lập hiến vào năm 1814, những người đại diện của các phe tự do và bảo thủ một lần nữa chiếm lấy vị trí của mình ở bên trái và bên phải của hội trường cơ quan lập pháp. Tới giữa thế kỷ 19, “cánh tả” và “cánh hữu” đã đi vào tiếng Pháp như là từ viết tắt cho những tư tưởng chính trị đối nghịch. Các đảng phái chính trị thậm chí đã bắt đầu tự nhận mình là “trung tả”, “trung hữu”, “cực tả” và “cực hữu”.
Tư tưởng “cánh tả” và “cánh hữu” của Pháp đã ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới trong những năm 1800, nhưng những khái niệm này chưa trở nên phổ biến ở các nước nói tiếng Anh mãi cho đến đầu thế kỷ 20. Các thuật ngữ này hiện được sử dụng để mô tả các phe đối nghịch trên trường chính trị, nhưng nguồn gốc của chúng vẫn còn được thể hiện rõ trong việc sắp xếp chỗ ngồi của nhiều cơ quan lập pháp. Ví dụ, trong Quốc hội Hoa Kỳ, đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa có truyền thống ngồi ở các bên đối diện nhau trong các phòng họp của Hạ viện và Thượng viện.
http://nghiencuuquocte.org
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Khái niệm ‘cánh tả’ và ‘cánh hữu’ bắt nguồn từ đâu?
Nguồn: “How did the political labels “left wing” and “right wing” originate?“, History, 06/10/2016
Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Ngày nay, các thuật ngữ “cánh tả” và “cánh hữu” được sử dụng như các từ tượng trưng cho những người tự do và bảo thủ, nhưng ban đầu chúng được đặt ra để chỉ việc sắp xếp chỗ ngồi thực tế của các chính trị gia trong cuộc Cách mạng Pháp. Việc phân chia được bắt đầu từ mùa hè năm 1789, khi các thành viên của Quốc hội Pháp gặp gỡ để bắt đầu soạn thảo hiến pháp. Các đại biểu đã chia rẽ sâu sắc về vấn đề Vua Louis XVI nên có bao nhiêu quyền lực, và khi cuộc tranh luận nổ ra, mỗi bên trong hai phe phái chính đã chọn ra “lãnh địa” của mình trong hội trường. Các nhà cách mạng chống bảo hoàng ngồi về phía bên trái của chủ toạ, trong khi những người thuộc dòng dõi quý tộc, bảo thủ hơn và thể hiện thái độ ủng hộ chế độ quân chủ lại tập trung về phía bên phải.
“Tôi đã cố gắng ngồi ở các vị trí khác nhau trong hội trường và không ngồi tại bất kì vị trí được đánh dấu nào, nhằm làm chủ quan điểm ban đầu của mình,” một vị nam tước cánh hữu viết, “nhưng tôi đã bị buộc phải hoàn toàn từ bỏ cánh tả, nếu không sẽ bị lên án vì luôn luôn phải lên bỏ phiếu một mình và do đó sẽ phải chịu những lời nhạo báng từ hội trường.”
Sự chia rẽ này được tiếp tục vào những năm 1790, khi báo chí bắt đầu nhắc đến những người “cánh tả” tiến bộ và những người “cánh hữu” bảo thủ của Quốc hội Pháp. Sự phân biệt này sau đó biến mất trong nhiều năm dưới thời trị vì của Napoleon Bonaparte, nhưng với sự kiện Bourbon Phục hoàng (Bourbon Restoration – khôi phục lại sự cai trị của nhà Bourbon) và sự bắt đầu một chế độ quân chủ lập hiến vào năm 1814, những người đại diện của các phe tự do và bảo thủ một lần nữa chiếm lấy vị trí của mình ở bên trái và bên phải của hội trường cơ quan lập pháp. Tới giữa thế kỷ 19, “cánh tả” và “cánh hữu” đã đi vào tiếng Pháp như là từ viết tắt cho những tư tưởng chính trị đối nghịch. Các đảng phái chính trị thậm chí đã bắt đầu tự nhận mình là “trung tả”, “trung hữu”, “cực tả” và “cực hữu”.
Tư tưởng “cánh tả” và “cánh hữu” của Pháp đã ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới trong những năm 1800, nhưng những khái niệm này chưa trở nên phổ biến ở các nước nói tiếng Anh mãi cho đến đầu thế kỷ 20. Các thuật ngữ này hiện được sử dụng để mô tả các phe đối nghịch trên trường chính trị, nhưng nguồn gốc của chúng vẫn còn được thể hiện rõ trong việc sắp xếp chỗ ngồi của nhiều cơ quan lập pháp. Ví dụ, trong Quốc hội Hoa Kỳ, đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa có truyền thống ngồi ở các bên đối diện nhau trong các phòng họp của Hạ viện và Thượng viện.
http://nghiencuuquocte.org